CHƯƠNG II
Rồi khi tôi đã lớn, tôi bị bán đi và phải xa mẹ. Từ đó về sau, tôi chẳng bao giờ được gặp lại mẹ nữa. Mẹ tôi đau khổ vô cùng, tôi cũng thế, cả hai mẹ con đều khóc nức nở. Nhưng mẹ đã cố hết sức để an ủi tôi. Mẹ bảo rằng chúng ta được đưa đến thế gian này với một mục đích cao cả và khôn ngoan, nên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình mà không oán than. Hãy đón nhận số phận như nó đến, sống vì điều tốt đẹp nhất cho người khác, và đừng bận tâm đến hậu quả; đó không phải việc của chúng ta.
Mẹ nói những ai sống như thế sẽ nhận được phần thưởng vinh quang và tươi đẹp ở thế giới bên kia. Dù loài vật như chúng ta chẳng thể tới nơi ấy, nhưng việc làm điều thiện và đúng đắn mà không mong đền đáp sẽ khiến cuộc đời ngắn ngủi của ta trở nên quý giá, đáng trọng, và bản thân điều đó đã là phần thưởng rồi. Mẹ đã học được những điều này dần dần mỗi khi theo lũ trẻ đến trường ngày Chủ Nhật.
Mẹ khắc ghi chúng kỹ hơn bất cứ lời hay chữ nào khác. Mẹ suy ngẫm thật sâu về chúng, vì lợi ích của mẹ và cả của chúng tôi nữa. Điều này chứng tỏ mẹ tôi có cái đầu minh mẫn và biết nghĩ sâu xa, dù đôi khi mẹ có vẻ hơi bồng bột và thích làm duyên.
Chúng tôi chia tay nhau, lần cuối cùng nhìn nhau qua màn nước mắt. Lời cuối cùng mẹ nói – tôi tin mẹ cố tình để nó ở cuối cùng, để tôi khắc sâu hơn – là: “Khi con thấy ai đó gặp nguy hiểm, đừng nghĩ đến bản thân mình. Hãy nghĩ đến mẹ, và làm điều mẹ sẽ làm, đó là cách con nhớ về mẹ.”
Liệu tôi có thể quên lời dặn dò ấy chăng? Không bao giờ.
*