CHƯƠNG XII. CÂU CHUYỆN KỲ LẠ CỦA JONATHAN SMALL
Vị thanh tra ngồi trên xe ngựa là một người kiên nhẫn đáng kinh ngạc, bởi tôi đã khiến ông phải chờ đợi khá lâu trước khi quay lại. Khuôn mặt ông đột nhiên xám xịt khi tôi đưa ra chiếc hộp trống rỗng.
“Phần thưởng tiêu tan rồi!” ông buồn bã thốt lên. “Không có báu vật thì cũng chẳng có tiền thưởng. Vụ việc đêm nay đáng giá mười bảng mỗi người cho Sam Brown và tôi nếu kho báu vẫn còn nguyên.”
“Ông Thaddeus Sholto là một người giàu có,” tôi nói. “Dù có tìm thấy kho báu hay không, ông ấy cũng sẽ đảm bảo các ông nhận được phần thưởng xứng đáng.”
Nhưng vị thanh tra vẫn lắc đầu trong thất vọng. “Thật là một đêm tồi tệ,” ông lặp lại, “và ông Athelney Jones chắc chắn cũng sẽ nghĩ như vậy.”
Dự đoán của ông ấy quả không sai, bởi khi tôi trở về phố Baker và đưa chiếc hộp trống rỗng ra, vị thanh tra tỏ ra vô cùng sửng sốt. Holmes và tên tù nhân vừa mới tới nơi, vì họ đã đổi ý ghé vào một đồn cảnh sát trên đường để khai báo. Người bạn tôi ngả lưng trên ghế bành với vẻ mặt thản nhiên thường thấy, còn Small thì ngồi đối diện với vẻ ương ngạnh, chân gỗ của hắn đặt chồng lên chân lành. Khi tôi giơ chiếc hộp rỗng lên, hắn ngửa người ra sau và bật cười khoái trá.
“Chính ngươi đã làm chuyện này, Small!” Athelney Jones quát lên giận dữ.
“Đúng thế, tôi đã giấu nó ở nơi các ông không bao giờ với tới được,” hắn reo lên đầy chiến thắng. “Đó là kho báu của tôi, và nếu tôi không thể có được, thì cũng đừng hòng ai khác sở hữu nó. Tôi nói cho các ông biết, không một kẻ sống nào xứng đáng có nó, ngoại trừ ba người đang ở trại giam Andaman và tôi. Giờ tôi biết tôi không thể dùng nó, thì họ cũng thế. Tôi hành động thế là vì họ cũng như vì chính mình. Đó luôn là dấu hiệu của bốn người chúng tôi. Tôi biết chắc họ sẽ muốn tôi làm đúng như những gì tôi đã làm – ném kho báu xuống sông Thames còn hơn để nó lọt vào tay bọn thân thích của Sholto hay Morstan. Chúng tôi không giết Achmet để làm giàu cho lũ chúng. Các ông sẽ tìm thấy kho báu nơi có chìa khóa, và nơi có Tonga bé nhỏ. Khi thấy thuyền các ông sắp đuổi kịp, tôi đã giấu chiến lợi phẩm ở nơi an toàn. Chuyến này các ông chẳng vớ được đồng rupee nào đâu!”
“Anh đang lừa dối chúng tôi đấy, Small,” Athelney Jones nghiêm giọng nói. “Nếu anh thực sự muốn ném kho báu xuống sông Thames, anh đã có thể ném cả cái hộp và tất cả mọi thứ luôn rồi.”
“Dễ cho tôi ném đi, và cũng dễ cho các ông tìm lại,” hắn đáp, ánh mắt ranh mãnh liếc ngang. “Người đủ thông minh để truy lùng tôi thì cũng đủ khôn ngoan để vớt lên một chiếc hộp sắt từ đáy sông. Nhưng giờ đây chúng đã tan tác khắp năm dặm hoặc hơn, việc đó sẽ khó khăn hơn nhiều. Dù vậy, lòng tôi cũng đau đớn khi phải làm chuyện ấy. Tôi gần như phát điên khi các ông đuổi kịp chúng tôi. Nhưng than vãn cũng chẳng ích gì. Đời tôi đã trải qua bao thăng trầm, và tôi học được cách không khóc than cho những gì đã mất.”
“Đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, Small,” vị thanh tra nói. “Nếu anh chịu hợp tác với công lý thay vì chống lại nó như thế này, có lẽ anh đã có cơ hội xử án thuận lợi hơn.”
“Công lý!” gã cựu tù gầm gừ. “Một thứ công lý mỹ miều ư! Kho báu này vốn thuộc về ai, nếu không phải là của chúng tôi? Công lý ở chỗ nào khi tôi phải trao nó cho những kẻ chẳng bao giờ đổ mồ hôi để có được nó? Hãy nhìn xem tôi đã đánh đổi thế nào để giành lấy nó! Hai mươi năm dài đằng đẵng trong đầm lầy sốt rét, ngày làm việc quần quật dưới những tán đước, đêm lại bị xiềng trong những trại giam nhơ nhớp, muỗi đốt, sốt rét hành hạ, bị bọn cai ngục da đen độc ác chuyên hành hạ người da trắng đàn áp. Đó là cách tôi giành được kho báu Agra; và giờ các người dạy tôi về công lý chỉ vì tôi không cam lòng thấy thành quả mình đánh đổi bằng máu lại rơi vào tay kẻ khác! Thà tôi bị treo cổ hai mươi lần, hay bị mũi tên độc của Tonga đâm thủng da thịt, còn hơn sống cảnh tù đày mà chứng kiến kẻ khác sống sung sướng trong cung điện bằng số của cải đáng lẽ thuộc về tôi!”
Vẻ mặt dày dạn của Small giờ đã biến mất, tất cả tuôn ra trong một tràng giận dữ, đôi mắt hắn rực lửa căm hờn, chiếc còng tay va đập theo từng cử chỉ cuồng nộ của bàn tay. Khi chứng kiến cơn thịnh nộ và lòng hận thù điên cuồng của gã đàn ông này, tôi có thể hiểu được nỗi khiếp sợ mà Thiếu tá Sholto từng trải qua khi biết tên tù nhân khập khiễng đang săn lùng mình – điều đó hoàn toàn không phải vô lý hay bất thường.
“Anh quên rằng chúng tôi chẳng biết gì về những chuyện này,” Holmes nhẹ nhàng nói. “Chúng tôi chưa từng nghe câu chuyện của anh, và không thể biết liệu công lý ban đầu có nghiêng về phía anh hay không.”
“Vâng, thưa ngài, ngài đã đối xử rất công bằng với tôi, dù tôi biết mình phải cảm ơn ngài vì những chiếc còng đang đeo trên cổ tay này. Nhưng tôi không hề oán hận vì điều đó. Tất cả đều công minh rõ ràng. Nếu các ngài muốn nghe câu chuyện của tôi, tôi chẳng có ý định che giấu điều gì. Những lời tôi sắp kể đều là sự thật trước Chúa, từng chữ một. Xin cảm ơn; ngài có thể đặt ly nước cạnh tôi đây, tôi sẽ uống khi nào khát.
Tôi là người xứ Worcestershire, sinh ra gần vùng Pershore. Tôi dám cá rằng nếu các ngài tìm kiếm, sẽ thấy vô số người họ Small vẫn sống ở đó đến giờ. Đã nhiều lần tôi nghĩ tới chuyện trở về thăm quê, nhưng thực lòng mà nói, tôi chưa từng là niềm kiêu hãnh của gia tộc, và tôi ngờ rằng họ chẳng mấy vui mừng khi thấy tôi đâu. Họ đều là những con người chính chuyên, siêng năng dự lễ nhà thờ, những tiểu nông danh giá được cả vùng quê kính nể, còn tôi thì suốt đời chỉ là kẻ nay đây mai đó. Rốt cuộc, khi tôi độ mười tám xuân xanh, tôi chẳng làm phiền họ nữa, vì dính vào chuyện rắc rối với một cô gái, và chỉ còn cách nhận đồng shilling của Nữ hoàng, gia nhập Trung đoàn Buffs số 3 – đơn vị vừa nhổ neo sang Ấn Độ.
Thế nhưng, số phận đã không định cho tôi làm lính lâu dài. Vừa mới học xong cách đi đều và cầm súng hỏa mai, tôi đã dại dột đi bơi trên sông Hằng. May mắn thay, trung sĩ đại đội John Holder cũng đang bơi dưới sông lúc ấy – một tay bơi cừ khôi nhất trong quân ngũ. Khi tôi bơi được nửa dòng, một con cá sấu đã chộp lấy tôi, cắn đứt chân phải ngay trên đầu gối gọn ghẽ như dao mổ của bác sĩ. Cơn sốc cùng máu chảy ồ ạt khiến tôi ngất lịm, chắc đã chết đuối nếu Holder không kịp túm lấy và đưa tôi vào bờ. Tôi nằm viện suốt năm tháng trời, đến khi có thể chống nạng bước ra với cái chân gỗ buộc vào phần cụt, thì nhận lệnh giải ngũ vì thương tật, không còn đủ sức đảm đương bất cứ công việc nặng nhọc nào nữa.
Các ông có thể tưởng tượng, lúc ấy tôi thật là bất hạnh, vì tôi trở thành một kẻ tàn tật vô dụng khi chưa đầy hai mươi tuổi. Thế nhưng, chính cái bất hạnh ấy chẳng bao lâu sau lại hóa ra là một điều may mắn ngụy trang.
Có một người tên Abel White đến đó làm chủ đồn điền chàm, cần tìm một quản đốc để giám sát công nhân và đốc thúc họ làm việc. Ông ta tình cờ lại là bạn thân của vị đại tá chỉ huy chúng tôi – người đã đặc biệt quan tâm đến tôi sau vụ tai nạn. Tóm lại, đại tá đã nhiệt tình tiến cử tôi vào vị trí ấy, và vì công việc chủ yếu là cưỡi ngựa, cái chân tật nguyền của tôi không thành vấn đề lớn, bởi tôi vẫn còn đủ đầu gối vững vàng để bám chắc vào yên ngựa. Nhiệm vụ của tôi là phi ngựa đi khắp đồn điền, giám sát những người thợ đang làm việc, và báo cáo những kẻ lười nhác. Lương bổng khá hậu, chỗ ở tiện nghi, và nói chung tôi đã sẵn sàng an phận trồng chàm suốt quãng đời còn lại. Ông Abel White là người tốt bụng, thường ghé qua túp lều của tôi cùng hút thuốc trò chuyện, bởi ở xứ lạ quê người, những người da trắng chúng tôi luôn dành cho nhau tình cảm ấm áp hơn cả khi còn ở quê nhà.
Chà, tôi chưa từng được hưởng vận may lâu dài. Thình lình, không một lời báo trước, cuộc đại loạn ập xuống đầu chúng tôi. Một tháng trước, Ấn Độ vẫn yên bình tĩnh lặng, bề ngoài yên ổn như Surrey hay Kent; thế mà chỉ một tháng sau, hai trăm nghìn lũ quỷ đen đã nổi loạn, biến cả xứ sở thành chốn địa ngục trần gian. Các ông hẳn đã rõ chuyện này – có lẽ còn biết tường tận hơn tôi, bởi tôi vốn không mấy khi đọc sách. Tôi chỉ kể lại những gì mắt thấy tai nghe.
Đồn điền của chúng tôi tọa lạc ở vùng Muttra, gần biên giới các tỉnh Tây Bắc. Đêm này qua đêm khác, bầu trời rực đỏ trong ánh lửa những ngôi nhà gỗ bị thiêu rụi; ngày lại ngày, từng đoàn người châu Âu lũ lượt kéo qua đồn điền, vợ con tay xách nách mang, hướng về Agra – nơi có đơn vị quân đội gần nhất. Ông Abel White là kẻ ngoan cố. Ông ta cho rằng sự việc bị thổi phồng quá mức, rồi mọi chuyện sẽ lắng xuống nhanh như khi nó bùng phát. Trong khi cả vùng quanh ông ngập tràn khói lửa, ông vẫn thản nhiên ngồi trên hiên nhà nhâm nhi rượu whisky và phì phèo điếu xì gà. Dĩ nhiên, chúng tôi – tôi và Dawson cùng vợ anh ta, những người phụ trách sổ sách và quản lý – vẫn trung thành ở lại với ông chủ. Thế rồi một ngày kia, thảm họa ập xuống.
Hôm ấy tôi đi công tác xa ở một đồn điền khác, đang thong thả cưỡi ngựa trở về khi trời nhá nhem tối thì chợt trông thấy một vật gì nằm co quắp dưới lòng mương sâu. Tôi thúc ngựa xuống xem, và một nỗi lạnh toát chạy dọc sống lưng khi nhận ra đó là xác vợ Dawson, bị chặt thành từng khúc, một nửa thân thể đã bị lũ chó hoang và chó nhà gặm nhấm. Xa hơn một quãng trên con đường mòn, Dawson nằm sấp mặt, đã tắt thở, tay còn ghì chặt khẩu súng lục đạn đã bắn hết, trước mặt là bốn tên lính Sepoy xác chồng chất. Tôi ghìm cương ngựa, phân vân không biết nên chạy về hướng nào, thì chợt thấy làn khói đen cuồn cuộn bốc lên từ ngôi nhà gỗ của Abel White, những ngọn lửa đã bắt đầu lách qua mái nhà. Lúc ấy tôi hiểu mình chẳng thể cứu được ông chủ, mà chỉ chuốc lấy cái chết nếu lao vào đó. Từ chỗ đứng, tôi có thể thấy hàng trăm tên quỷ đen mặc áo khoác đỏ đang nhảy múa điên cuồng, gào thét quanh ngôi nhà bốc cháy. Vài tên chỉ tay về phía tôi, vài viên đạn vèo qua sát đầu – thế là tôi phóng ngựa băng qua cánh đồng lúa, và khi đêm xuống thì may mắn tìm được nơi ẩn náu an toàn sau những bức tường thành Agra.
Tuy nhiên, hóa ra nơi ấy cũng chẳng an toàn gì. Cả xứ sở bỗng bùng lên như một tổ ong vỡ. Bất cứ nơi nào người Anh có thể tập hợp thành nhóm nhỏ, họ chỉ còn cách cố thủ trong phạm vi tầm bắn của súng trường. Những nơi khác, họ trở thành những kẻ chạy trốn tuyệt vọng. Đó là cuộc chiến của hàng triệu con người chống lại vài trăm kẻ xâm lược; và điều tàn khốc nhất chính là những kẻ thù chúng tôi đối mặt – bộ binh, kỵ binh và pháo thủ – đều từng là những đội quân tinh nhuệ của chính chúng tôi, những người chúng tôi đã huấn luyện, sử dụng vũ khí của chúng tôi, và thổi những điệu kèn hiệu lệnh của chúng tôi.
Ở Agra khi ấy có Trung đoàn Bengal Fusiliers số 3, một số lính Sikh, hai đại đội kỵ binh cùng một khẩu đội pháo binh. Một đội dân quân tình nguyện gồm các thư ký và thương nhân được thành lập, và tôi cũng gia nhập với cái chân gỗ của mình. Đầu tháng Bảy, chúng tôi kéo ra Shahgunge nghênh chiến quân nổi dậy, ban đầu đẩy lui được chúng, nhưng khi thuốc súng cạn kiệt, buộc lòng phải rút về thành phố.
Chúng tôi chỉ nhận được những tin tức kinh hoàng từ khắp mọi nơi – điều này chẳng có gì lạ, bởi nếu các ngài nhìn vào bản đồ, sẽ thấy chúng tôi đang ở ngay trung tâm của cơn bão. Lucknow cách đó hơn trăm dặm về phía đông, còn Cawnpore cũng xa ngần ấy về phía nam. Từ mọi hướng, chẳng có gì ngoài sự tra tấn, chém giết và bạo loạn.
Agra là một đô thành rộng lớn, nơi tụ tập đủ hạng người cuồng tín và những kẻ thờ phụng ác thần hung bạo. Nhóm quân nhỏ bé của chúng tôi lạc lõng giữa những con phố chật hẹp, quanh co. Vì thế, vị chỉ huy đã quyết định đưa quân vượt sông, chiếm giữ vị trí trong pháo đài cổ Agra. Chẳng biết ở đây liệu có ngài nào từng đọc hay nghe nói về tòa thành cổ ấy chưa? Đó là nơi kỳ dị nhất – kỳ dị hơn bất cứ nơi nào tôi từng đặt chân đến, mà tôi cũng đã đi qua không ít vùng đất lạ lùng. Trước hết, nó có quy mô khổng lồ. Tôi ước chừng khuôn viên phải rộng tới hàng mẫu. Phần thành hiện đại đủ chỗ cho toàn bộ quân đồn trú, đàn bà, trẻ con, kho lương thực cùng mọi thứ khác, mà vẫn còn dư đất. Thế nhưng phần hiện đại ấy vẫn chẳng thấm vào đâu so với khu thành cổ hoang phế, nơi chẳng mấy ai dám bén mảng – lãnh địa của bọ cạp và rết độc. Ở đó chất chứa những đại sảnh trống không mênh mông, những lối đi ngoằn ngoèo và hành lang dài hun hút khiến người ta dễ dàng lạc bước. Chính vì thế, hiếm khi có kẻ nào dám vào đó, trừ những đoàn thám hiểm thi thoảng cầm đuốc đi dò xét.
Dòng sông chảy dọc mặt tiền của pháo đài cổ, tạo thành một hào nước tự nhiên bảo vệ công trình. Thế nhưng ở hai bên hông và phía sau lại có vô số cổng ra vào, và dĩ nhiên mỗi cổng ấy đều phải được canh phòng cẩn mật, cả ở khu phố cổ lẫn khu vực do quân đội chúng tôi kiểm soát. Lực lượng của chúng tôi quá mỏng, gần như không đủ binh lính để vừa tuần tra các góc pháo đài vừa vận hành khẩu đội pháo. Bởi thế, chúng tôi không thể bố trí một đội canh gác hùng hậu tại từng cổng trong số vô vàn lối vào. Giải pháp của chúng tôi là thiết lập một trạm canh trung tâm ngay giữa pháo đài, giao mỗi cổng cho một sĩ quan da trắng cùng hai hoặc ba binh lính bản địa phụ trách. Tôi được phân công trực ca đêm tại một cổng nhỏ hẻo lánh ở góc tây nam pháo đài, dưới quyền có hai người lính Sikh. Tôi nhận chỉ thị rằng nếu xảy ra bất trắc, chỉ cần bắn phát súng hỏa mai là sẽ có viện binh từ trạm canh trung tâm lập tức ứng cứu. Tuy nhiên, khoảng cách từ vị trí của tôi đến trạm canh trung tâm xa tới hai trăm bước chân, lại ngăn cách bởi một mê cung hành lang và lối đi chằng chịt, khiến tôi không khỏi nghi ngờ liệu họ có kịp thời tiếp ứng khi chúng tôi thực sự bị tấn công hay không.
Chà, tôi khá hãnh diện khi được giao nhiệm vụ chỉ huy toán lính nhỏ này, bởi tôi vốn là một tên lính mới, lại còn mang tật ở chân. Suốt hai đêm liền, tôi cùng những người lính Punjab của mình canh gác. Họ là những gã to cao, vẻ mặt dữ tợn, tên là Mahomet Singh và Abdullah Khan, cả hai đều là những chiến binh dày dạn từng cầm vũ khí chống lại chúng tôi ở Chilian-wallah. Họ nói tiếng Anh khá trôi chảy, nhưng tôi chẳng thể trò chuyện thân mật với họ được. Họ thích đứng sát bên nhau và thì thầm suốt đêm bằng thứ tiếng Sikh kỳ lạ. Còn tôi, thường đứng ngoài cổng thành, phóng tầm mắt nhìn xuống dòng sông rộng lớn uốn khúc cùng những ánh đèn thành phố lấp lánh. Tiếng trống dồn dập, tiếng trống tom-tom, cùng những tiếng la hét, hú gào của bọn phiến loạn say xỉn thuốc phiện và bang, cứ văng vẳng suốt đêm nhắc nhở chúng tôi về lũ hàng xóm nguy hiểm bên kia sông. Cứ mỗi hai tiếng, viên sĩ quan trực đêm lại đi kiểm tra các vị trí, đảm bảo mọi thứ đều yên ổn.
Đêm thứ ba tôi canh gác, trời tối đen như mực và ẩm ướt khó chịu, với những hạt mưa nhỏ li ti rơi không ngớt. Thật là một nhiệm vụ buồn tẻ khi phải đứng chôn chân hàng tiếng đồng hồ nơi cổng thành trong thời tiết ảm đạm như thế. Tôi cố gắng hết lần này đến lần khác bắt chuyện với mấy tên lính Sikh của mình, nhưng chẳng được tích sự gì. Khoảng hai giờ sáng, có đội tuần tra đi qua, cái khoảnh khắc ấy tạm thời xua tan đi sự uể oải của đêm dài. Thấy đồng đội chẳng buồn trò chuyện, tôi rút cái tẩu thuốc ra, đặt khẩu súng hỏa mai xuống đất để châm diêm. Chỉ trong chớp mắt, hai tên lính Sikh đã xông vào tôi. Một tên giật phắt lấy khẩu súng rồi chĩa thẳng vào đầu tôi, trong khi tên kia áp sát lưỡi dao dài vào cổ tôi, nghiến răng thề sẽ đâm chết tôi ngay lập tức nếu tôi dám cử động.
Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu tôi là bọn chúng đã thông đồng với quân phiến loạn, và đây chính là khởi đầu của một cuộc tấn công. Nếu cửa ải của chúng tôi rơi vào tay lính Sepoy, thì chắc chắn nơi này sẽ thất thủ, và những người phụ nữ, trẻ em sẽ phải chịu cảnh tàn sát như ở Cawnpore. Có lẽ các ngài sẽ nghĩ tôi đang tìm cách biện minh cho mình, nhưng tôi xin thề rằng khi nghĩ đến điều đó, dù lưỡi dao đang kề sát cổ, tôi vẫn há miệng định hét lên một tiếng – dù đó là tiếng hét cuối cùng của đời mình – để cảnh báo đội lính gác. Kẻ đang khống chế tôi dường như đọc được suy nghĩ ấy; bởi ngay khi tôi chuẩn bị hành động, hắn liền thì thào vào tai: “Đừng kêu la. Pháo đài vẫn an toàn. Lũ chó phản loạn nào dám vượt sang bên này sông.” Lời nói của hắn mang một phần sự thật, và tôi biết nếu mình lên tiếng bây giờ, cái chết sẽ đến ngay lập tức. Tôi có thể nhìn thấy điều đó trong ánh mắt nâu sẫm đầy sát khí của gã. Vì thế, tôi im lặng chờ đợi, xem bọn chúng muốn gì ở mình.
Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu tôi là bọn chúng đã thông đồng với quân phiến loạn, và đây chính là khởi đầu của một cuộc tấn công. Nếu cửa ải của chúng tôi rơi vào tay lính Sepoy, thì chắc chắn nơi này sẽ thất thủ, và những người phụ nữ, trẻ em sẽ phải chịu cảnh tàn sát như ở Cawnpore. Có lẽ các ngài sẽ nghĩ tôi đang tìm cách biện minh cho mình, nhưng tôi xin thề rằng khi nghĩ đến điều đó, dù lưỡi dao đang kề sát cổ, tôi vẫn há miệng định hét lên một tiếng – dù đó là tiếng hét cuối cùng của đời mình – để cảnh báo đội lính gác. Kẻ đang khống chế tôi dường như đọc được suy nghĩ ấy; bởi ngay khi tôi chuẩn bị hành động, hắn liền thì thào vào tai: “Đừng kêu la. Pháo đài vẫn an toàn. Lũ chó phản loạn nào dám vượt sang bên này sông.” Lời nói của hắn mang một phần sự thật, và tôi biết nếu mình lên tiếng bây giờ, cái chết sẽ đến ngay lập tức. Tôi có thể nhìn thấy điều đó trong ánh mắt nâu sẫm đầy sát khí của gã. Vì thế, tôi im lặng chờ đợi, xem bọn chúng muốn gì ở mình.
“Nghe đây, Sahib,” Abdullah Khan, kẻ cao lớn và dữ tợn hơn trong hai người lên tiếng. “Giờ đây ngài phải chọn: hoặc gia nhập cùng chúng tôi, hoặc vĩnh viễn câm lặng. Việc này quá hệ trọng nên chúng ta không thể do dự. Ngài phải hoàn toàn thuận theo chúng tôi với lời thề trên cây thập tự của đạo Thiên Chúa, hoặc đêm nay thi thể ngài sẽ bị quẳng xuống hào nước, còn chúng tôi sẽ vượt qua để đoàn tụ với đồng đội trong hàng ngũ phiến quân. Không có lựa chọn trung dung nào. Ngài muốn chết hay muốn sống? Chúng tôi chỉ cho ngài ba phút để quyết định, bởi thời gian không chờ đợi, và mọi việc phải hoàn tất trước khi toán tuần tra quay trở lại.”
“Làm sao tôi có thể quyết định được?” tôi nói. “Các người chưa nói cho tôi biết các người muốn gì ở tôi. Nhưng tôi nói thẳng với các người ngay đây, nếu đó là bất cứ điều gì đe dọa đến an ninh của pháo đài, tôi sẽ không nhúng tay vào, vậy nên các người cứ việc đâm dao đi, tôi sẵn sàng chấp nhận.”
“Chẳng có gì đe dọa pháo đài cả,” hắn đáp. “Chúng tôi chỉ yêu cầu anh làm điều mà những người đồng hương của anh đến xứ này để làm. Chúng tôi muốn anh trở nên giàu có. Nếu anh đồng ý gia nhập bọn tôi đêm nay, chúng tôi sẽ thề với anh trên lưỡi dao trần, bằng lời thề ba lần mà chưa từng có người Sikh nào dám phá vỡ, rằng anh sẽ được hưởng phần công bằng trong chiến lợi phẩm. Một phần tư kho báu sẽ thuộc về anh. Không thể nào công bằng hơn thế được nữa.”
“Nhưng kho báu ấy là gì?” tôi hỏi. “Tôi sẵn sàng làm giàu như các anh, nếu các anh chỉ cho tôi cách.”
“Vậy anh phải thề,” hắn nói, “bằng hài cốt cha anh, bằng danh dự mẹ anh, bằng cây thánh giá tín ngưỡng của anh, rằng sẽ không ra tay hay thốt lời chống lại chúng tôi, dù bây giờ hay sau này.”
“Tôi xin thề,” tôi đáp, “miễn là pháo đài không bị đe dọa.”
“Thế thì tôi và đồng bọn cũng thề rằng anh sẽ được hưởng một phần tư kho báu, chia đều cho bốn chúng ta.”
“Nhưng chỉ có ba người thôi mà,” tôi nói.
“Không, Dost Akbar cũng phải có phần. Trong lúc chờ hắn tới, tôi sẽ kể cho anh nghe. Này Mahomet Singh, anh ra đứng cổng báo hiệu khi chúng tới. Chuyện là thế này, thưa Sahib, tôi kể cho anh vì biết lời thề là thiêng liêng với người phương Tây, nên chúng tôi có thể tin anh. Nếu anh là tên Hindu dối trá, dù có thề bằng cả trăm vị thần trong những ngôi đền giả tạo của chúng, thì giờ này máu anh đã đổ dưới lưỡi dao, xác anh đã chìm sâu dưới sông rồi. Nhưng người Sikh hiểu người Anh, và người Anh cũng hiểu người Sikh. Giờ thì hãy nghe kỹ điều tôi sắp nói.
Ở các tỉnh phía bắc có một vị rajah [1] sở hữu khối tài sản khổng lồ dù lãnh địa của hắn nhỏ bé. Phần lớn của cải thừa hưởng từ tổ tiên, phần khác do chính hắn tích cóp, bởi bản tính hèn mọn ưa trữ vàng hơn là tiêu xài. Khi cuộc nổi dậy bùng phát, hắn muốn giữ mối quan hệ tốt với cả phe sư tử lẫn hổ – với binh lính Sepoy lẫn chính quyền Công ty Đông Ấn. Chẳng bao lâu, hắn nhận ra những kẻ da trắng đang tới ngày tàn khi khắp nơi chỉ nghe tin tức về thất bại và cái chết của họ. Dù vậy, là kẻ cẩn trọng, hắn đã tính toán kỹ để dù tình thế nào, ít nhất nửa phần kho báu vẫn được bảo toàn. Vàng bạc thì hắn cất giữ trong hầm cung điện, còn những viên ngọc quý giá nhất, những hạt trai lộng lẫy nhất được đựng trong chiếc rương sắt, giao cho tên gia nhân trung thành đóng giả thương nhân mang tới pháo đài Agra cất giữ, chờ ngày đất nước yên bình. Như thế, nếu quân phiến loạn thắng thế, hắn vẫn giữ được tiền bạc; còn nếu Công ty Đông Ấn chiến thắng, châu báu vẫn nguyên vẹn. Sau khi phân chia kho báu xong xuôi, hắn đứng hẳn về phe lính Sepoy – những kẻ đang chiếm ưu thế ở vùng biên giới của hắn. Hỡi Sahib, xin nhớ kỹ, bằng hành động này, toàn bộ tài sản của hắn đương nhiên thuộc về những kẻ trung thành với chủ nhân của chúng.
Tên thương nhân giả mạo này, kẻ đang lưu lạc dưới cái tên Achmet, hiện đang ở thành phố Agra và tìm cách đột nhập vào pháo đài. Hắn có một tên đồng bọn là Dost Akbar – anh em kết nghĩa của tôi, kẻ đã biết rõ bí mật của hắn. Dost Akbar đã thề rằng đêm nay sẽ dẫn hắn tới một cổng phụ của pháo đài, và đã chọn chính cổng này làm nơi hẹn. Hắn sắp đến đây, và tại nơi này, hắn sẽ thấy Mahomet Singh cùng tôi đang chờ sẵn. Chốn này hoang vắng, không một ai hay biết về sự xuất hiện của hắn. Thế giới sẽ vĩnh viễn mất dấu tên thương nhân Achmet, nhưng kho báu khổng lồ của vị rajah kia sẽ được chia đều cho chúng ta. Ngài nghĩ thế nào về chuyện này, thưa Sahib?”
Ở Worcestershire, mạng người dường như là thứ gì đó vô cùng trọng đại và thiêng liêng; nhưng mọi chuyện hoàn toàn khác khi bạn đắm chìm trong biển lửa và máu, khi cái chết đã trở thành người bạn đồng hành quen thuộc ở mỗi bước đường. Chuyện tên thương nhân Achmet sống hay chết đối với tôi nhẹ tựa lông hồng, nhưng khi nghĩ về kho báu, trái tim tôi lại hướng về nó, và tôi mường tượng ra những gì mình có thể làm ở quê nhà với số của cải ấy, cùng vẻ mặt kinh ngạc của gia đình khi thấy đứa con hư hỏng bỗng trở về với túi đầy ắp những đồng tiền vàng moidores. Thế là tôi đã quyết định. Nhưng Abdullah Khan, tưởng rằng tôi còn đang phân vân, lại càng thúc giục mạnh mẽ hơn.
“Hãy nghĩ kỹ đi, Sahib,” hắn nói, “nếu tên này bị chỉ huy bắt, hắn sẽ bị treo cổ hoặc xử bắn, còn đống châu báu sẽ bị chính phủ tịch thu. Thế thì chẳng ai được hưởng lấy một đồng rupee nào. Nhưng giờ chúng ta đã tóm được hắn rồi, sao không làm nốt việc còn lại luôn? Châu báu ở trong tay chúng ta cũng tốt như nằm trong kho bạc của Công ty. Số của ấy đủ biến mỗi người chúng ta thành đại gia, thành những tay thủ lĩnh quyền thế. Chẳng ai hay biết chuyện này đâu, vì chốn này hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài. Còn phương án nào hoàn hảo hơn thế nữa? Này Sahib, hãy nói rõ xem ngài có đứng về phe chúng tôi không, hay chúng tôi buộc phải coi ngài như kẻ thù.”
“Tôi toàn tâm toàn ý với các ông,” tôi nói.
“Tốt lắm,” hắn đáp, trả lại khẩu súng cho tôi. “Anh thấy đấy, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng anh, bởi lời nói của anh cũng như của chúng tôi đều là thứ không thể phản bội. Giờ chỉ còn chờ anh trai tôi và gã thương nhân kia thôi.”
“Thế anh trai các ông đã biết kế hoạch này chưa?” tôi hỏi.
“Chính hắn là người nghĩ ra mưu kế này. Chúng ta sẽ ra cổng thành và cùng canh gác với Mahomet Singh.”
Trời vẫn mưa tầm tã, bởi đó mới chỉ là đầu mùa mưa. Những tầng mây nâu sẫm, nặng trịch lững lờ trôi trên nền trời, tầm nhìn bị thu hẹp đến mức khó có thể thấy xa quá tầm ném đá. Trước mặt chúng tôi là một con hào sâu, nhưng nước ở nhiều đoạn đã cạn khô, có thể dễ dàng vượt qua. Thật kỳ lạ khi đứng đó cùng hai gã người Punjab hung dữ kia, chờ đợi người đàn ông đang bước đến cái chết của chính mình.
Bỗng nhiên, tôi trông thấy ánh đèn lồng lấp ló phía bên kia con hào. Ánh sáng ấy thoắt ẩn giữa những gò đất, thoắt hiện, rồi từ từ hướng về phía chúng tôi.
“Chúng tới rồi!” tôi thốt lên.
“Ngài cứ thử thách hắn như mọi khi,” Abdullah thì thào. “Đừng tỏ ra khiến hắn nghi ngờ. Cứ đưa bọn tôi vào cùng hắn, phần việc còn lại cứ để chúng tôi lo trong khi ngài đứng canh ở đây. Hãy chuẩn bị sẵn đèn lồng để phát hiệu, nhỡ đâu đó không phải là hắn.”
Ánh đèn vẫn nhấp nháy tiến tới, khi dừng khi đi, cho đến khi tôi có thể trông thấy hai bóng người phía bên kia hào. Tôi để mặc họ trèo xuống bờ dốc, lội qua vũng bùn, và leo lên được nửa đường tới cổng, rồi mới cất lời truy vấn.
“Ai đó?” tôi hỏi, giọng khẽ như gió thoảng.
“Bạn bè,” tiếng đáp vọng lại. Tôi bật chiếc đèn lồng, dòng ánh sáng rực rỡ tràn ngập hai bóng người. Người thứ nhất là gã Sikh cao lớn dị thường, chòm râu đen dài gần chạm tới thắt lưng. Trừ những gánh xiếc, tôi chưa từng thấy ai vạm vỡ đến thế. Kẻ thứ hai là gã lùn mập mạp, đầu vấn khăn xếp vàng chói, tay ôm khư khư gói đồ bọc trong tấm khăn choàng. Hắn run lẩy bẩy như kẻ mắc sốt rét, bàn tay co giật không ngừng, cái đầu nhỏ liên tục ngó nghiêng với đôi mắt ti hí lấp lánh tựa chuột nhắt dòm ngó từ hang. Nghĩ tới việc giết hắn, lòng tôi se lại, nhưng hình ảnh kho báu hiện lên khiến trái tim hóa sắt đá. Thấy khuôn mặt tái mét của tôi, hắn rít lên sung sướng rồi phóng thẳng về phía tôi.
“Xin ngài che chở, thưa Sahib,” hắn thở gấp gáp – “xin ngài bảo vệ cho kẻ thương nhân Achmet khốn khổ này. Tôi đã lang thang khắp vùng Rajpootana để tìm nơi nương náu trong pháo đài Agra. Tôi đã bị cướp bóc, đánh đập và ngược đãi chỉ vì là bạn của Công ty. Đêm nay quả là đêm may mắn khi tôi lại được an toàn – cả tôi và chút tài sản ít ỏi này.”
“Trong gói đồ đó anh có gì vậy?” tôi hỏi.
“Một chiếc rương sắt,” hắn đáp, “đựng vài món đồ gia truyền nhỏ bé, chẳng có giá trị gì với người khác, nhưng tôi sẽ rất đau lòng nếu mất chúng. Dù vậy, tôi không phải kẻ ăn mày; tôi sẽ hậu tạ ngài, thưa Sahib trẻ tuổi, và cả ngài thống đốc nữa, nếu ngài cho tôi chỗ trú thân như tôi mong muốn.”
Tôi không thể tin vào bản thân mình để tiếp tục đối thoại lâu hơn với gã đàn ông ấy. Càng nhìn vào khuôn mặt béo phị, đầy sợ hãi của hắn, tôi càng cảm thấy khó khăn hơn khi phải giết hắn một cách tàn nhẫn. Chỉ có cách kết thúc thật nhanh mới ổn thỏa.
“Dẫn hắn đến trạm gác chính,” tôi ra lệnh. Hai người Sikh lập tức áp sát hai bên hắn, trong khi gã khổng lồ đi phía sau, cả nhóm tiến vào trong bóng tối của cánh cổng. Chưa từng có kẻ nào bị cái chết bao vây dày đặc đến thế. Tôi đứng lại nơi cổng, tay cầm chiếc đèn lồng.
Tiếng bước chân đều đặn của họ vang vọng qua những hành lang vắng lặng. Bỗng nhiên, mọi âm thanh dừng lại, thay vào đó là tiếng xô đẩy, những cú đấm đá. Chỉ một lát sau, khiến tôi kinh hãi, có tiếng chân chạy vội vã về phía tôi, kèm theo hơi thở hổn hển của kẻ đang cố mạng chạy trốn. Tôi vội hướng ánh đèn xuống hành lang dài thẳng tắp, và thấy gã đàn ông béo phị ấy đang chạy như bay, mặt đầy máu me, cùng với gã Sikh râu đen lực lưỡng đang rượt sát gót, tay lăm lăm con dao sáng loáng. Chưa bao giờ tôi thấy ai chạy nhanh như tên thương nhân nhỏ bé đó. Hắn đang bỏ xa gã Sikh, và tôi biết rằng nếu hắn vượt qua được tôi để ra ngoài, hắn sẽ thoát chết. Lòng tôi chợt mềm yếu trước hắn, nhưng ý nghĩ về kho báu lại khiến tôi trở nên sắt đá. Tôi ném khẩu súng vào giữa hai chân hắn khi hắn chạy ngang, khiến hắn lăn hai vòng như thỏ bị trúng đạn. Trước khi hắn kịp chống tay đứng dậy, gã Sikh đã xông tới, đâm hai nhát dao vào sườn. Gã đàn ông không một tiếng rên, không một cử động, nằm bất động ngay chỗ ngã. Tôi nghĩ có lẽ hắn đã gãy cổ vì cú ngã.
Thưa các ông, các ông thấy đấy, tôi đang giữ đúng lời hứa. Tôi kể lại mọi chi tiết y như nó đã xảy ra, dù có lợi cho tôi hay không.”
Hắn dừng lại, đưa đôi bàn tay bị xiềng xích ra để nhận ly whisky pha nước mà Holmes đã chuẩn bị cho hắn. Riêng tôi, giờ đây tôi phải thú nhận rằng mình đã cảm thấy một nỗi kinh hoàng tột độ trước con người này – không chỉ vì tội ác lạnh lùng mà hắn đã gây ra, mà còn bởi cách hắn kể lại câu chuyện ấy với một thái độ hời hợt đến vô tâm. Dù hình phạt nào đang chờ đón hắn, tôi cũng không thể nào dành cho hắn chút thông cảm nào. Sherlock Holmes và Jones ngồi đó, hai tay đặt trên đầu gối, chăm chú lắng nghe câu chuyện nhưng nét mặt vẫn lộ rõ vẻ ghê tởm. Có lẽ hắn đã nhận ra điều ấy, bởi trong giọng nói và thái độ tiếp theo của hắn đã thoáng hiện một chút thách thức.
“Thật là một chuyện kinh khủng, không thể chối cãi,” hắn nói. “Tôi tự hỏi có bao nhiêu người trong hoàn cảnh của tôi sẽ từ chối phần chia chiến lợi phẩm khi biết rằng mình sẽ bị cắt cổ nếu không làm thế. Hơn nữa, đó là mạng sống của tôi hoặc của hắn khi hắn đã lọt vào trong pháo đài. Nếu hắn trốn thoát được, mọi chuyện sẽ bị phơi bày, và tôi chắc chắn sẽ bị tòa án quân sự xử tử bằng hình thức xử bắn; bởi vào thời điểm ấy, người ta chẳng có chút khoan hồng nào.”
“Cứ tiếp tục câu chuyện đi,” Holmes ngắt lời một cách khô khan.
“Vâng, –
Chúng tôi khiêng hắn vào, Abdullah, Akbar và tôi. Hắn tuy thấp bé nhưng nặng không tưởng. Mahomet Singh được phân công ở lại canh gác cổng. Chúng tôi đưa xác hắn tới nơi mà những người Sikh đã chuẩn bị sẵn. Đó là một chỗ hơi xa, nơi có một lối đi quanh co dẫn vào một đại sảnh rộng lớn trống trơn, với những bức tường gạch đổ nát. Một khoảng sàn đất bị sụt lún tạo thành một ngôi mộ tự nhiên, thế là chúng tôi đặt xác tên thương nhân Achmet vào đó rồi phủ lên bằng những viên gạch vụn. Sau khi xong xuôi, tất cả bọn tôi quay trở lại chỗ chứa kho báu.
Chiếc hộp ấy nằm ngay chỗ hắn đánh rơi khi bị tấn công lần đầu – Chính là chiếc hộp đang mở ra trên bàn các ông đây – Một chiếc chìa khóa buộc bằng dây lụa treo lủng lẳng ở quai hộp chạm trổ tinh xảo. Chúng tôi mở nắp, ánh đèn lồng bập bùng phản chiếu vào kho báu lấp lánh khiến tôi chợt nhớ những câu chuyện thần tiên thuở nhỏ ở Pershore. Ánh kim cương chói lóa mắt. Sau khi thỏa thuê ngắm nghía, chúng tôi lần lượt lấy từng viên đá quý ra kiểm kê. Tổng cộng có một trăm bốn mươi ba viên kim cương hảo hạng, trong đó có viên được mệnh danh Đại Mogul – viên đá lớn thứ hai thế giới. Tiếp đến là chín mươi bảy viên ngọc lục bảo tuyệt đẹp, một trăm bảy mươi viên hồng ngọc (dù vài viên khá nhỏ). Bốn mươi viên hồng ngọc lửa, hai trăm mười viên ngọc lam, sáu mươi mốt viên mã não, cùng vô số ngọc lục bảo, mã não đen, đá mắt mèo, ngọc lam và nhiều loại đá quý khác mà lúc ấy tôi chưa thể gọi tên, dù sau này đã thành thục. Đặc biệt còn có gần ba trăm viên ngọc trai long lanh, trong đó mười hai viên gắn trên chiếc vương miện vàng bé xíu.
Nhưng tiếc thay, những viên ngọc ấy đã bị lấy mất khi tôi tìm lại chiếc rương.
Khi đã kiểm đếm xong kho báu, chúng tôi cẩn thận đặt chúng trở lại chiếc rương rồi khiêng ra cổng cho Mahomet Singh xem. Sau đó, chúng tôi trang nghiêm tuyên thệ lần nữa lời hứa sẽ luôn đoàn kết và giữ kín bí mật. Chúng tôi nhất trí tạm cất giấu chiến lợi phẩm ở nơi an toàn cho đến khi đất nước trở lại yên bình, rồi mới chia đều cho nhau. Lúc này chia chác là vô ích, bởi nếu những viên ngọc quý giá ấy bị phát hiện trên người, chắc chắn sẽ gây nghi ngờ, mà trong pháo đài này cũng chẳng có chỗ riêng tư nào để cất giữ. Thế là chúng tôi mang chiếc rương vào đại sảnh – nơi đã chôn cất thi thể – rồi đào một hốc tường dưới mấy viên gạch của bức tường kiên cố nhất để giấu kho báu. Chúng tôi ghi chép tỉ mỉ địa điểm ấy, rồi ngày hôm sau, tôi vẽ bốn bản đồ, mỗi người giữ một bản, có đủ chữ ký của cả bốn chúng tôi ở dưới. Bởi chúng tôi đã thề rằng mỗi hành động đều phải vì lợi ích chung, không ai được phép vụ lợi riêng. Đó là lời thề mà tôi có thể đặt tay lên ngực thề rằng chưa từng vi phạm.
Chà, tôi chẳng cần phải kể lại cho các ông nghe cái kết của cuộc khởi nghĩa Ấn Độ.
Sau khi Wilson chiếm được Delhi và Sir Colin giải vây Lucknow, cái xương sống của cuộc nổi dậy đã bị bẻ gãy. Quân tiếp viện tràn vào ào ạt, còn Nana Sahib thì đã biến mất qua biên giới. Một đội quân cơ động dưới quyền Đại tá Greathed tiến vào Agra, quét sạch bọn Pandies khỏi nơi đó. Hòa bình dường như đang trở lại trên đất nước, và bốn chúng tôi bắt đầu hy vọng rằng đã đến lúc chúng tôi có thể rời đi an toàn với phần chiến lợi phẩm của mình. Thế nhưng, chỉ trong chớp mắt, hy vọng ấy đã tan thành mây khói khi chúng tôi bị bắt vì tội giết Achmet.
Sự việc diễn ra như sau. Khi vị rajah giao kho báu cho Achmet, ngài làm thế bởi biết Achmet là kẻ đáng tin. Song người phương Đông vốn hay ngờ vực, thế nên ngoài việc ủy thác cho Achmet, rajah còn phái thêm một tên đầy tớ thứ hai còn trung thành hơn để giám sát tên thứ nhất. Gã này được lệnh không bao giờ để Achmet thoát khỏi tầm mắt, nên đã bám theo Achmet như hình với bóng. Đêm định mệnh ấy, gã đã theo chân Achmet và chứng kiến hắn bước qua cổng thành. Đương nhiên gã tưởng Achmet đã trốn trong pháo đài, nên hôm sau liền xin vào kiểm tra, nhưng chẳng tìm thấy dấu vết nào. Thấy chuyện quá kỳ lạ, gã bèn báo với viên trung sĩ canh gác, người này lại trình lên chỉ huy. Một cuộc lục soát gấp rút được tiến hành, và xác chết bị phát hiện. Thế là ngay lúc chúng tôi tưởng đã an toàn, cả bốn chúng tôi đều bị bắt giữ và đưa ra tòa với cáo buộc giết người – ba người vì canh giữ cổng thành đêm ấy, còn tên thứ tư vì bị chứng kiến đã đi cùng nạn nhân. Tại phiên tòa, không một lời nào về số châu báu bị tiết lộ, bởi lúc ấy vị rajah đã bị phế truất và trục xuất khỏi Ấn Độ, nên chẳng ai còn mảy may quan tâm đến chúng. Thế nhưng tội giết người thì đã rõ như ban ngày, và tất cả chúng tôi đều bị quy kết có liên quan. Ba người Sikh lĩnh án tù chung thân, còn tôi bị tuyên án tử hình, sau này may mắn được giảm xuống tương tự những kẻ đồng phạm.
Chúng tôi lúc ấy rơi vào một tình thế thật kỳ lạ. Bốn chúng tôi đều bị trói chặt chân tay, gần như không còn hy vọng thoát thân, thế mà mỗi người lại nắm giữ một bí mật có thể đưa thẳng chúng tôi vào dinh thự của nhà vua nếu biết cách vận dụng. Thật đau đớn xiết bao khi phải cam chịu những trận đòn roi từ lũ quan lại hạ đẳng, chỉ được ăn cơm hẩm uống nước lã, trong khi ngoài kia, cả một gia tài khổng lồ đang chờ mình tới nhận, chỉ việc cúi xuống là lượm lấy. Đủ để khiến người ta phát điên lên được! Nhưng tôi vốn là kẻ cứng đầu cứng cổ, nên chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi thời cơ mà thôi.
Cuối cùng, tôi cảm thấy thời cơ đã đến. Tôi được chuyển từ Agra đến Madras, rồi từ đó tới đảo Blair thuộc quần đảo Andaman. Ở khu định cư này, tù nhân da trắng rất hiếm, và vì tôi đã cư xử tốt ngay từ đầu, chẳng mấy chốc tôi trở thành một hạng người được hưởng đặc quyền. Tôi được cấp một túp lều ở Hope Town – một khu nhỏ nằm trên sườn núi Harriet – và gần như được tự do sinh hoạt. Đó là một nơi ảm đạm, đầy rẫy bệnh sốt rét, còn bên ngoài khu đất nhỏ bé của chúng tôi thì bị những thổ dân ăn thịt người hung dữ chiếm giữ, chúng sẵn sàng bắn những mũi tên tẩm độc vào chúng tôi bất cứ lúc nào có cơ hội. Công việc thì nhiều vô kể: đào đất, xẻ mương, trồng khoai mỡ và hàng tá thứ khác khiến chúng tôi bận rộn suốt ngày, chỉ buổi tối mới có chút thời gian riêng. Trong lúc rảnh rỗi, tôi học cách pha chế thuốc cho bác sĩ phẫu thuật và tiếp thu được đôi chút kiến thức y khoa của ông ta. Suốt thời gian đó, tôi không ngừng tìm kiếm cơ hội đào tẩu, nhưng hòn đảo cách đất liền hàng trăm dặm, vùng biển quanh đây lại thường lặng gió hoặc gió rất yếu – khiến việc trốn chạy trở nên vô cùng khó khăn.
Bác sĩ phẫu thuật, Tiến sĩ Somerton, là một thanh niên trẻ trung, hoạt bát, ưa thể thao, và các sĩ quan trẻ thường tụ tập tại phòng ông vào những buổi tối để đánh bài. Phòng phẫu thuật – nơi tôi thường pha chế dược phẩm – nằm liền kề phòng khách của ông, chỉ ngăn cách bởi một ô cửa sổ nhỏ. Mỗi khi cảm thấy cô độc, tôi thường tắt đèn trong phòng phẫu thuật rồi đứng đó, vừa lắng nghe câu chuyện của họ vừa xem họ chơi bài. Bản thân tôi cũng rất thích đánh bài, nên được ngắm nhìn người khác chơi cũng thú vị chẳng kém gì tự mình tham gia. Trong số đó có Thiếu tá Sholto, Đại úy Morstan và Trung úy Bromley Brown – những vị chỉ huy quân đội bản địa – cùng với chính vị bác sĩ phẫu thuật và hai ba viên chức nhà tù, những tay bài lão luyện luôn chơi những ván bài thận trọng, đầy mưu mẹo. Họ thường tụ họp thành một nhóm nhỏ rất đầm ấm, thân tình.
Chà, có một điều khiến tôi chú ý ngay lập tức, đó là bọn lính luôn thua còn dân thường thì luôn thắng. Này, tôi không nói có sự gian lận gì đâu, nhưng sự thật là vậy đấy. Lũ cai ngục này chẳng làm gì khác ngoài đánh bài từ ngày đặt chân tới quần đảo Andaman, chúng thuộc lòng bài của nhau như lòng bàn tay, trong khi những người khác chỉ chơi cho qua thời gian và đánh bài một cách cẩu thả. Đêm này qua đêm khác, bọn lính càng trở nên trắng tay, và càng nghèo kiết xác chúng lại càng ham chơi hơn. Thiếu tá Sholto là kẻ sa cơ thảm bại nhất. Ban đầu hắn còn trả bằng tiền mặt và vàng, nhưng chẳng bao lâu sau đã chuyển sang kỳ phiếu với những khoản tiền lớn. Đôi khi hắn thắng vài ván, đủ để lấy lại chút tinh thần, nhưng rồi vận may lại quay lưng với hắn một cách tàn nhẫn hơn bao giờ hết. Suốt ngày hắn lang thang với khuôn mặt ủ rũ như trời sắp đổ mưa, và bắt đầu uống rượu nhiều đến mức nguy hại.
Một đêm nọ, ông ta thua bạc nặng hơn mọi khi. Tôi đang ngồi trong căn lều của mình thì thấy ông ta cùng Đại úy Morstan lảo đảo đi về phía khu nhà của họ. Hai người vốn là bạn thân, chẳng bao giờ rời xa nhau. Thiếu tá đang gào lên về những khoản tiền đã mất.
“Hết rồi, Morstan ạ,” ông ta nói khi đi ngang qua lều tôi. “Tôi sẽ phải xin từ chức thôi. Tôi đã thành một kẻ tàn tạ rồi.”
“Nói nhảm gì thế, lão già!” người kia đáp, vỗ vai ông ta. “Tôi cũng vừa bị một đòn đau điếng đây, nhưng—” Chỉ nghe được đến đó, nhưng cũng đủ khiến tôi trăn trở.
Mấy ngày sau, Thiếu tá Sholto đang đi dạo trên bãi biển, thế là tôi liền chộp ngay cơ hội để nói chuyện với ông ta.
“Tôi muốn xin ý kiến của ngài, thưa Thiếu tá,” tôi thưa.
“Ồ, Small, có chuyện gì thế?” ông ta hỏi, nhấc điếu xì gà ra khỏi môi.
“Tôi muốn hỏi ý ngài, thưa ngài,” tôi nói, “nên giao kho báu bị giấu kín này cho ai thì phải. Tôi biết chỗ chôn giấu một món trị giá nửa triệu bảng, và vì bản thân tôi không thể sử dụng nó, tôi nghĩ tốt nhất là nên trao lại cho nhà chức trách có thẩm quyền, biết đâu họ sẽ giảm án cho tôi.”
“Nửa triệu á, Small?” ông ta há hốc mồm, trợn mắt nhìn tôi như muốn kiểm tra xem tôi có nói thật không.
“Đúng vậy, thưa ngài – bằng châu báu và ngọc trai. Nó nằm đó sẵn sàng cho bất kỳ ai đến lấy. Và điều kỳ lạ là chủ nhân thực sự của nó đã bị tước quyền công dân, không thể đòi lại tài sản, nên nó thuộc về kẻ nào tới trước.”
“Cho chính phủ, Small ạ,” ông ta ấp úng nói – “cho chính phủ.” Nhưng giọng ông ta ngập ngừng, và tôi biết trong thâm tâm rằng mình đã nắm chắc được ông ta rồi.
“Vậy ngài nghĩ tôi nên trình báo mọi chuyện lên Toàn quyền sao?” tôi hỏi một cách nhẹ nhàng.
“Khoan đã, anh chớ nên hành động vội vàng, hoặc làm điều gì khiến sau này phải hối tiếc. Hãy để tôi nghe hết câu chuyện đã, Small. Hãy kể cho tôi nghe sự thật.”
Tôi thuật lại cho ông ấy toàn bộ câu chuyện, chỉ thay đổi đôi chút chi tiết để ông không thể nhận ra những địa điểm cụ thể. Khi tôi dứt lời, ông đứng im như tượng đá, trầm ngâm suy nghĩ. Tôi có thể nhận thấy qua những cơn co giật nơi khóe môi ông rằng một cuộc giằng xé nội tâm đang diễn ra trong lòng ông.
“Đây là chuyện hệ trọng lắm đấy, Small,” cuối cùng ông lên tiếng. “Anh tuyệt đối không được tiết lộ với bất kỳ ai, rồi ta sẽ gặp lại anh sớm thôi.”
Hai đêm sau đó, ông cùng người bạn là Đại úy Morstan tìm đến túp lều của tôi giữa đêm khuya, tay cầm chiếc đèn lồng.
“Tôi muốn anh kể lại câu chuyện ấy cho Đại úy Morstan nghe trực tiếp từ miệng anh, Small,” ông nói.
Tôi lặp lại như đã kể trước đó.
“Nghe có vẻ thực tế đấy, phải không?” ông ấy nói. “Đủ tốt để hành động chứ?”
Đại úy Morstan gật đầu.
“Nghe đây, Small,” vị thiếu tá nói. “Tôi và người bạn của tôi đã thảo luận rất kỹ, và chúng tôi đi đến kết luận rằng bí mật của anh rốt cuộc không phải là việc của chính phủ, mà là chuyện riêng của anh, dĩ nhiên anh có toàn quyền quyết định theo cách anh cho là tốt nhất. Bây giờ, vấn đề là, anh sẽ đòi bao nhiêu cho nó? Chúng tôi có thể sẵn sàng nhận lấy, và ít nhất là xem xét, nếu chúng ta có thể thống nhất về các điều khoản.” Ông ta cố nói bằng giọng điềm tĩnh, thờ ơ, nhưng đôi mắt lại sáng lên vì phấn khích và lòng tham.
“À, về chuyện đó, thưa các ông,” tôi đáp, cố giữ vẻ điềm tĩnh nhưng trong lòng cũng hồi hộp chẳng kém gì ông ta, “chỉ có một điều kiện duy nhất mà kẻ ở cảnh ngộ như tôi có thể đề nghị. Tôi muốn các ông giúp tôi và ba người bạn tù của tôi giành lại tự do. Sau đó chúng tôi sẽ hợp tác với các ông, và chia cho các ông một phần năm kho báu để các ông tự phân chia.”
“Hừm!” ông ta gằn giọng. “Một phần năm ư? Chẳng hấp dẫn gì cho lắm.”
“Mỗi người các ông sẽ được nhận năm mươi ngàn bảng,” tôi nói.
“Nhưng làm sao chúng tôi có thể giúp anh tự do được? Chính anh cũng hiểu rõ mình đang đòi hỏi điều không tưởng mà.”
“Không đâu,” tôi trả lời. “Tôi đã tính toán mọi thứ tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ nhất. Chỉ có một trở ngại duy nhất cho kế hoạch đào thoát của chúng tôi, đó là việc không thể tìm được một con thuyền thích hợp cho hành trình, cùng với nguồn lương thực không đủ cung cấp trong thời gian dài như vậy. Ở Calcutta hay Madras có rất nhiều thuyền buồm nhỏ và du thuyền có thể đáp ứng hoàn hảo nhu cầu của chúng tôi. Các ông hãy chuẩn bị sẵn một chiếc. Chúng tôi sẽ đảm bảo lên thuyền vào lúc đêm khuya, và nếu các ông đưa chúng tôi tới bất kỳ bờ biển nào của Ấn Độ, thế là các ông đã hoàn thành trọn vẹn phần thỏa thuận của mình rồi.”
“Nếu chỉ có một mình anh thôi,” ông ta nói.
“Không thì thôi, hoặc là cả bọn,” tôi đáp. “Chúng tôi đã thề với nhau rồi. Bốn chúng tôi phải luôn đồng lòng hành động.”
“Anh thấy chưa, Morstan,” ông ta bảo, “Small này là kẻ giữ chữ tín. Hắn không bao giờ phản bội bạn bè. Tôi nghĩ chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng hắn.”
“Vụ này thật bẩn thỉu,” người kia đáp. “Nhưng như ông nói, số tiền đó sẽ cứu vớt tình thế của chúng ta đáng kể.”
“Này Small,” viên thiếu tá nói, “tôi nghĩ chúng tôi sẽ cố đáp ứng yêu cầu của anh. Dĩ nhiên trước tiên chúng tôi phải xác minh câu chuyện của anh có thật không. Hãy cho tôi biết cái hộp được giấu ở đâu, tôi sẽ xin nghỉ phép và đón chuyến tàu cứu trợ hàng tháng về Ấn Độ để điều tra vụ này.”
“Khoan đã,” tôi nói, giọng càng lạnh lùng hơn khi hắn càng hăng máu. “Tôi phải có sự đồng ý của ba người bạn đồng hành. Tôi nói rõ với anh, hoặc là bốn chúng tôi cùng đi, hoặc chẳng ai đi cả.”
“Vớ vẩn!” hắn quát ngắt lời. “Ba gã da đen ấy thì liên quan gì đến thỏa thuận của chúng ta?”
“Dù da đen hay da trắng,” tôi đáp, “họ là bạn tôi, và tất cả chúng tôi sẽ cùng nhau ra đi.”
Thế rồi chúng tôi phải tổ chức một cuộc gặp mặt thứ hai, với sự hiện diện của Mahomet Singh, Abdullah Khan và Dost Akbar. Chúng tôi lại bàn bạc kỹ lưỡng vấn đề, cuối cùng đi đến thống nhất. Chúng tôi sẽ trao cho hai sĩ quan bản đồ pháo đài Agra, đánh dấu chính xác vị trí bức tường nơi giấu kho báu. Thiếu tá Sholto sẽ sang Ấn Độ xác minh câu chuyện. Nếu tìm thấy chiếc rương, ông ta phải để nguyên tại chỗ, chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ đầy đủ trang bị neo ngoài khơi đảo Rutland để chúng tôi trốn đi, sau đó ông ta sẽ trở về nhiệm sở. Đại úy Morstan sẽ xin nghỉ phép, gặp chúng tôi tại Agra, nơi chúng tôi thực hiện lần chia chác cuối cùng – ông đại úy nhận phần của thiếu tá cùng phần mình. Tất cả những điều ấy được đảm bảo bằng những lời thề thiêng liêng nhất mà trí óc có thể nghĩ ra hay môi miệng có thể thốt thành lời. Tôi thức trắng đêm với giấy mực, đến sáng đã hoàn thành hai bản đồ có chữ ký và dấu hiệu nhận biết của bốn chúng tôi – Abdullah, Akbar, Mahomet và tôi.
Thưa các quý ông, tôi e rằng mình đã làm các vị mệt mỏi với câu chuyện dài dòng này, và tôi biết người bạn Jones của các ông đang nóng lòng muốn tống gọn tôi vào ngục cho yên chuyện. Tôi sẽ cố thuật lại thật ngắn gọn.
Tên khốn Sholto đã sang Ấn Độ, nhưng hắn chẳng bao giờ trở về nữa. Đại úy Morstan đã chỉ cho tôi thấy tên hắn trong danh sách hành khách của một chuyến tàu thư tốc hành sau đó. Người chú hắn qua đời, để lại cho hắn cả gia tài kếch xù, thế mà hắn vẫn hèn hạ đối xử với năm đồng đội chúng tôi như vậy. Morstan đến Agra ngay sau đó và phát hiện ra, đúng như chúng tôi dự đoán, kho báu đã biến mất sạch. Tên vô lại ấy đã cuỗm hết tất cả mà chẳng thèm thực hiện bất cứ điều kiện nào chúng tôi đã thỏa thuận khi bán bí mật cho hắn. Từ ngày ấy, tôi chỉ sống để trả thù. Ngày nghĩ đến nó, đêm ấp ủ nó. Nỗi căm hờn trở thành thứ dục vọng thiêu đốt, chiếm trọn tâm can tôi. Tôi chẳng coi luật pháp ra gì – cũng chẳng sợ cái giá treo cổ. Trốn thoát, truy lùng Sholto, bóp cổ hắn – đó là ý nghĩ duy nhất ám ảnh tôi. Ngay cả kho báu Agra giờ đây cũng chỉ là thứ thứ yếu trong tâm trí tôi so với việc giết chết Sholto.
Chà, tôi đã dốc lòng theo đuổi nhiều thứ trong đời, và chưa từng có việc gì tôi không hoàn thành. Nhưng phải trải qua bao năm tháng nhọc nhằn chờ đợi, cơ hội mới thực sự đến với tôi. – Như đã nói, tôi có chút kiến thức y thuật.
Một hôm, khi bác sĩ Somerton ngã bệnh vì cơn sốt, bọn tù nhân bắt được một gã người Andaman lùn trong rừng. Hắn ta ốm thập tử nhất sinh, tìm đến nơi hoang vắng để chờ chết. Tôi ra tay cứu chữa, dù hắn độc ác như rắn độc mới nở, và sau vài tháng, hắn đã bình phục hoàn toàn, có thể đi lại bình thường. Từ đó, hắn sinh lòng quyến luyến tôi, chẳng muốn trở về rừng sâu nữa, mà cứ quanh quẩn bên túp lều của tôi. Tôi học được ít nhiều tiếng nói của hắn, điều này càng khiến hắn thêm mến tôi.
Tonga – đó là tên hắn – một tay chèo thuyền lão luyện, sở hữu chiếc thuyền độc mộc rộng rãi của riêng mình. Khi nhận thấy hắn hết mực trung thành và sẵn sàng làm mọi việc để phục vụ tôi, tôi nhận ra đây chính là cơ hội vượt ngục. Tôi bàn bạc kế hoạch với hắn. Vào một đêm định trước, hắn sẽ đưa thuyền tới bến cũ vắng lính canh để đón tôi. Tôi dặn hắn chuẩn bị sẵn bầu nước cùng các thứ lương thực như khoai mỡ, dừa và khoai lang.
Tonga nhỏ bé nhưng kiên định và trung thành vô song. Chưa từng có ai may mắn có được người bạn đồng hành trung kiên đến thế. Đúng hẹn, hắn đã đưa thuyền tới bến. Nhưng số phận trớ trêu khi có tên cai ngục – một gã Pathan hèn hạ luôn nhân cơ hội sỉ nhục và hành hạ tôi – cũng có mặt nơi ấy. Mối hận thù trong tôi bừng cháy, và đây chính là dịp trả thù. Như thể định mệnh xếp đặt để tôi thanh toán món nợ trước khi rời đảo. Hắn đứng quay lưng về phía tôi, khẩu carbine đeo lỏng lẻo trên vai. Tôi mắt tìm hòn đá để đập vỡ sọ hắn nhưng không thấy. Bỗng một ý nghĩ lóe lên, mách bảo tôi nơi tìm vũ khí. Trong bóng tối, tôi ngồi xuống, tháo chiếc chân gỗ ra. Chỉ với ba bước nhảy vọt, tôi đã áp sát lưng hắn. Hắn vội với tay lấy súng, nhưng tôi đã kịp thời vung chân gỗ quật mạnh, làm vỡ toang trán hắn. Vết nứt trên khúc gỗ chính là bằng chứng cho nhát đánh định mệnh ấy. Cả hai chúng tôi ngã nhào xuống đất vì tôi không giữ được thăng bằng, nhưng khi đứng dậy, hắn đã nằm bất động. Tôi lập tức lên thuyền, và chưa đầy một giờ sau, chúng tôi đã lênh đênh ngoài khơi.
Tonga mang theo toàn bộ tài sản: vũ khí, tượng thần linh cùng cây giáo tre dài vài tấm chiếu dừa Andaman mà tôi dùng làm buồm tạm. Mười ngày lênh đênh giữa biển khơi, đến ngày thứ mười một, một thương thuyền từ Singapore tới Jiddah chở đoàn hành hương người Mã Lai đã vớt chúng tôi. Họ là nhóm người kỳ dị, nhưng Tonga và tôi nhanh chóng hòa nhập. Điều đáng quý nhất ở họ là sự tôn trọng – họ chẳng bao giờ tò mò dò hỏi.
À, nếu tôi kể hết cho các ngài nghe về những cuộc phiêu lưu mà tôi cùng người bạn nhỏ bé của mình đã trải qua, chắc các ngài sẽ không cảm ơn tôi đâu, vì tôi sẽ giữ chân các ngài ở đây cho tới tận bình minh.
Chúng tôi đã lang thang khắp thế gian, lúc nào cũng có chuyện xảy ra ngăn cản chúng tôi tới London. Thế nhưng, suốt thời gian ấy, tôi chưa từng một phút quên đi mục đích của mình. Đêm đêm, hình ảnh Sholto vẫn ám ảnh giấc mơ tôi. Hàng trăm lần tôi đã giết hắn trong cơn mộng. Cuối cùng, vào khoảng ba bốn năm trước, chúng tôi đã đặt chân tới nước Anh. Việc tìm ra nơi Sholto sống chẳng khó khăn gì với tôi, rồi tôi bắt đầu dò xét xem hắn đã biến số châu báu thành tiền mặt hay vẫn còn giữ chúng. Tôi làm quen với một người có thể giúp đỡ – tôi sẽ không nêu tên, bởi không muốn gây phiền phức cho ai – và chẳng bao lâu sau đã phát hiện ra hắn vẫn cất giữ những món trang sức ấy. Thế rồi tôi tìm mọi cách tiếp cận hắn, nhưng hắn quả thực ranh mãnh, luôn có hai tay đấm quyền Anh cùng các con trai và đám gia nhân canh giữ bên mình.
Thế nhưng, rồi một ngày kia, tôi nhận được tin hắn sắp lìa đời. Tôi cuống cuồng chạy đến khu vườn ngay tức khắc, điên tiết vì hắn sắp thoát khỏi tay tôi một cách dễ dàng như thế. Khi nhìn qua khung cửa sổ, tôi thấy hắn nằm bất động trên giường, hai đứa con trai đứng hầu hai bên. Tôi suýt nữa thì xông vào, liều mình đối đầu với cả ba cha con họ, nhưng ngay khoảnh khắc tôi nhìn thấy hắn, cái hàm hắn đã rũ xuống, và tôi biết hắn đã tắt thở. Dẫu vậy, đêm hôm ấy tôi vẫn lẻn vào phòng hắn, lục lọi khắp các giấy tờ của hắn, hy vọng tìm thấy manh mối nào đó về nơi hắn giấu số châu báu của chúng tôi. Nhưng chẳng có một dòng ghi chép nào. Tôi bỏ đi với lòng đầy phẫn uất và căm hờn đến tột độ. Trước khi rời khỏi, bỗng tôi nghĩ: nếu sau này có gặp lại những người bạn Sikh của mình, thật thỏa lòng khi họ biết rằng ta đã để lại dấu tích của mối hận thù này. Thế là tôi vội vẽ nguệch ngoạc cái dấu hiệu của bốn chúng tôi – y như hình vẽ trên tấm bản đồ ngày xưa – rồi ghim nó lên ngực hắn. Thật không thể chấp nhận được nếu để hắn yên lành xuống mồ mà không mang theo một dấu tích nào từ những kẻ mà hắn đã cướp bóc và lừa dối.
Lúc này, chúng tôi kiếm sống bằng cách để Tonga tội nghiệp biểu diễn ở các hội chợ và nơi tương tự, đóng vai gã da đen ăn thịt người. Hắn sẽ nhai thịt sống và nhảy điệu vũ chiến của mình, nhờ thế chúng tôi luôn có cả mũ đầy tiền xu sau mỗi ngày làm việc. Tôi vẫn dò la tin tức từ Pondicherry Lodge, nhưng suốt mấy năm trời chẳng có gì đáng kể, ngoài việc họ vẫn đang truy tìm kho báu.
Rồi cuối cùng, điều chúng tôi chờ đợi bấy lâu cũng đến. Kho báu đã được tìm thấy – nằm ở tầng cao nhất ngôi nhà, trong phòng thí nghiệm hóa học của ông Bartholomew Sholto. Tôi lập tức đến xem xét hiện trường, nhưng với cái chân gỗ của mình, tôi chẳng thể nào leo lên nổi. Dù vậy, tôi phát hiện ra có cửa sập trên mái nhà và nắm được giờ ăn tối của Sholto. Tôi nhận thấy có thể dễ dàng xử lý việc này nhờ Tonga. Tôi dẫn hắn đi cùng, buộc sẵn sợi dây dài quanh eo hắn. Hắn leo trèo nhanh nhẹn như mèo, thoắt cái đã vượt qua mái nhà.
Nhưng không may, Bartholomew Sholto vẫn còn trong phòng và phải trả giá bằng mạng sống. Tonga tưởng mình rất khôn ngoan khi giết ông ta, nên khi tôi trèo lên bằng dây, thấy hắn đang đi đi lại lại vênh váo như con công. Hắn hết sức ngạc nhiên khi tôi xông tới, quất dây vào người và chửi hắn là đồ quỷ nhỏ khát máu. Tôi lấy chiếc hộp kho báu thả xuống, rồi tự mình tuột theo, sau khi kịp để lại dấu hiệu Bộ Tứ trên bàn – minh chứng rằng châu báu cuối cùng đã về tay những người có quyền sở hữu chính đáng. Tonga sau đó kéo dây lên, đóng cửa sổ lại, và theo đường cũ mà rút lui.
Tôi chẳng biết còn điều gì để kể với các ngài nữa. Tôi từng nghe một người lái thuyền nhắc đến tốc độ của chiếc thuyền máy Aurora do Smith điều khiển, nên nghĩ ngay đó sẽ là phương tiện lý tưởng cho cuộc đào tẩu của chúng tôi. Tôi đã thương lượng với tên Smith già, hứa trả hắn một món tiền lớn nếu hắn đưa chúng tôi an toàn đến con tàu. Hắn ta hẳn đã nghi ngờ có điều bất ổn, nhưng tuyệt nhiên không biết được bí mật của chúng tôi. Mọi lời tôi kể đều là sự thật, và tôi thuật lại với các ngài – thưa quý vị – không phải để mua vui, bởi các ngài chẳng giúp tôi điều gì tử tế, mà bởi tôi tin rằng cách biện hộ tốt nhất chính là không giấu diếm điều gì, để cả thế giới biết Thiếu tá Sholto đã đối xử tệ bạc với tôi ra sao, và tôi hoàn toàn vô tội trong cái chết của đứa con trai hắn.”
“Một câu chuyện thật đáng chú ý,” Sherlock Holmes nhận xét. “Một kết cục xứng đáng cho vụ án vô cùng ly kỳ này. Phần cuối câu chuyện của anh chẳng có gì mới mẻ với tôi, ngoại trừ chi tiết anh mang theo sợi dây. Điều đó thì tôi không hề hay biết. Nhân tiện, tôi cứ ngỡ Tonga đã dùng hết phi tiêu của hắn rồi; thế mà trên thuyền hắn vẫn kịp bắn chúng tôi một phát.”
“Hắn đã dùng hết thật rồi, thưa ngài, chỉ trừ cái đang nạp trong ống thổi lúc ấy thôi.”
“À, đương nhiên rồi,” Holmes gật đầu. “Tôi đã không nghĩ tới chi tiết đó.”
“Còn điều gì khác các ngài muốn hỏi nữa không?” gã tù nhân thân mật hỏi.
“Tôi nghĩ là không, cảm ơn anh,” người bạn tôi đáp lại.
“Chà, Holmes,” Athelney Jones nói, “anh là một người đòi hỏi phải được chiều chuộng, và tất cả chúng ta đều biết anh là bậc thầy trong lĩnh vực tội phạm, nhưng nhiệm vụ vẫn là nhiệm vụ. Tôi đã đi quá xa khi chiều theo những yêu cầu của anh và người bạn này. Giờ tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm khi đưa được tên tội phạm này vào ngục an toàn. Xe ngựa vẫn đang chờ sẵn, và có hai thanh tra đứng dưới nhà. Tôi rất cảm kích sự hỗ trợ của hai ngài. Dĩ nhiên, các vị sẽ được triệu tập làm nhân chứng tại phiên tòa. Chúc ngủ ngon.”
“Chúc ngài ngủ ngon,” Jonathan Small nói.
“Anh đi trước đi, Small,” Jones thận trọng nói khi họ rời khỏi phòng. “Tôi sẽ đặc biệt cẩn thận để anh không dùng cái chân gỗ của mình đập tôi, bất kể anh đã làm gì với quý ngài ở quần đảo Andaman đi chăng nữa.”
“Thế là xong vở kịch nhỏ của chúng ta rồi,” tôi nhận xét sau khi chúng tôi ngồi hút thuốc trong im lặng một lúc. “Tôi e rằng đây có lẽ là vụ điều tra cuối cùng tôi có dịp nghiên cứu phương pháp của anh. Cô Morstan đã ban cho tôi vinh dự làm hôn thê của tôi.”
Anh thở dài não nề. “Tôi đã sợ điều này,” anh nói. “Tôi thực sự không thể chúc mừng anh được.”
Tôi cảm thấy hơi tổn thương. “Anh có lý do gì để phản đối lựa chọn của tôi sao?” – tôi chất vấn.
“Không có gì cả. Tôi thừa nhận cô ấy là một trong những tiểu thư trẻ quyến rũ nhất từng gặp, và có thể rất hữu dụng trong công việc chúng ta đang theo đuổi. Cô ấy có năng khiếu bẩm sinh về mặt này: bằng chứng là cách cô ấy đã cất giữ bản đồ Agra tách biệt khỏi các giấy tờ khác của phụ thân. Nhưng ái tình là thứ tình cảm, mà bất cứ gì thuộc về tình cảm đều trái ngược với lý trí lạnh lùng chính xác mà tôi đặt lên trên hết thảy. Tôi sẽ chẳng bao giờ kết hôn, để khỏi làm rối loạn khả năng phán đoán của mình.”
“Tôi tin,” tôi cười nói, “rằng phán đoán của mình có thể vượt qua được thử thách này. Nhưng trông anh mệt mỏi quá.”
“Đúng vậy,” anh đáp, “tôi đang cảm thấy kiệt sức. Chắc chắn tôi sẽ mềm nhũn như miếng giẻ lau suốt cả tuần.”
“Thật kỳ lạ,” tôi nhận xét, “khi thấy ở anh những đợt bùng nổ năng lượng và sức sống mãnh liệt xen kẽ với sự lười biếng mà nếu ở người khác, tôi đã gọi như vậy.”
“Phải,” anh gật đầu, “trong tôi tồn tại cả bản chất của một kẻ lười biếng tài tình lẫn một con người nhanh nhẹn đáng kể. Tôi thường nghĩ đến câu thơ của Goethe – ‘Schade dass die Natur nur einen Mensch aus Dir schuf’, – Vì một người đàn ông có thể vừa là bậc đáng kính trọng, vừa là tên lưu manh.”
“Nhân tiện nói về vụ Norwood này, anh thấy đấy, đúng như tôi đã dự đoán, họ có một kẻ đồng lõa trong nhà, không ai khác chính là Lal Rao, tên quản gia. Vì thế, Jones thực sự có được niềm vinh dự không thể chia sẻ khi bắt được một con cá trong mẻ lưới lớn của hắn.”
“Sự phân chia này có vẻ không công bằng lắm,” tôi nhận xét. “Anh đã làm tất cả công việc trong vụ này. Tôi có được người vợ, Jones có được vinh quang, vậy xin hỏi còn lại gì cho anh?”
“Với tôi,” Sherlock Holmes nói, “vẫn còn lại lọ cocaine.” Và anh vươn bàn tay dài trắng muốt của mình ra lấy nó.
***
- Rajah, hoặc Raja: lãnh chúa. ↵