"

4 Khúc Thứ Tư

HỒN MA CUỐI CÙNG TRONG BA VỊ

Vị khách ma quái từ từ tiến đến, trang nghiêm, lặng lẽ. Khi hồn ma tới gần, Scrooge quỳ sụp xuống; bởi chính không khí bao quanh hồn ma này tựa hồ đã toát ra thứ u uẩn thần bí khiến người ta phải khiếp sợ.

Hồn ma khoác lên mình tấm áo choàng đen huyền, trùm kín từ đầu đến chân, chỉ để lộ một bàn tay duỗi thẳng. Nếu không có bàn tay ấy, thật khó mà nhận ra hình hài của hồn ma giữa màn đêm, càng không thể tách nó khỏi vùng tối tăm dày đặc bao quanh.

Scrooge cảm nhận được dáng vẻ cao lớn uy nghi của hồn ma khi nó đứng bên cạnh mình, và sự hiện diện âm thầm ấy khiến ông run lên vì khiếp đảm. Ông chẳng thể biết thêm điều gì, bởi hồn ma chẳng nói năng cũng chẳng nhúc nhích.

“Tôi đang đứng trước Hồn ma của Giáng Sinh Tương Lai phải không?” Scrooge hỏi.

Hồn ma không đáp lời, chỉ đưa tay chỉ về phía trước.

“Ngươi sắp cho ta thấy những hình ảnh của những điều chưa xảy ra, nhưng sẽ đến trong tương lai gần,” Scrooge nói tiếp. “Có đúng thế không, Hồn ma?”

Phần trên chiếc áo choàng của Hồn ma khẽ chùng xuống, như thể nó vừa gật đầu. Đó là tất cả câu trả lời ông nhận được.

Dù đã làm quen với những bóng ma, Scrooge vẫn khiếp sợ trước sự im lặng của vị khách này đến nỗi chân ông run rẩy, và ông thấy mình khó mà đứng vững khi chuẩn bị bước theo. Hồn ma dừng lại một lát, như thể đang quan sát tình trạng của ông và cho ông thời gian để lấy lại bình tĩnh.

Nhưng điều này càng khiến Scrooge khiếp sợ hơn nữa. Một nỗi kinh hoàng mơ hồ không tả xiết trùm lấy ông khi nhận ra rằng đằng sau tấm rèm tối đen kia, có một cặp mắt ma quái đang chăm chú nhìn ông, trong khi bản thân ông, dù có cố gắng đến đâu, cũng chỉ thấy được một bàn tay ma quỷ và một khối đen sừng sững.

“Hồn ma Tương Lai!” ông thốt lên, “Ta sợ ngươi hơn bất cứ hồn ma nào ta từng gặp. Nhưng bởi ta biết mục đích của ngươi là mang lại điều tốt đẹp cho ta, và bởi ta hi vọng sẽ sống để trở thành một con người khác, ta sẵn lòng đi cùng ngươi, với tấm lòng biết ơn. Chẳng lẽ ngươi không nói với ta một lời nào sao?”

Hồn ma không đáp lời ông. Cánh tay vẫn giữ nguyên tư thế chỉ thẳng về phía trước.

“Đi nào!” Scrooge thúc giục. “Đi nào! Đêm sắp tàn, và thời gian lúc này với ta vô cùng quý giá. Đi thôi, Hồn ma!”

Hồn ma lướt đi theo cách nó đã đến. Scrooge bám theo cái bóng của tấm áo choàng, mà ông cảm tưởng như đang nâng bổng mình lên và dẫn ông đi.

Họ gần như chẳng nhận ra mình đã bước vào thành phố; bởi thành phố dường như tự động hiện ra xung quanh và bao trùm lấy họ. Nhưng rồi cả hai đã ở đó, giữa lòng phố thị, giữa khu chợ đông đúc các thương nhân; họ tất bật đi lại, tiền xu lẻng kẻng trong túi, tụm năm tụm ba trò chuyện, liếc nhìn đồng hồ, ngắm nghía những con dấu vàng to tướng một cách đăm chiêu – tất cả những cảnh tượng ấy Scrooge đã từng chứng kiến vô số lần.

Hồn ma dừng lại bên một nhóm thương nhân đang trò chuyện. Thấy bàn tay vô hình chỉ về phía họ, Scrooge bước lại gần để nghe rõ cuộc đối thoại.

“Không,” một gã đàn ông béo tốt với cái cằm đồ sộ lên tiếng, “tôi chẳng rõ chi tiết lắm. Chỉ biết là ông ta đã chết thôi.”

“Chết hồi nào vậy?” một người khác hỏi.

“Hình như là tối qua.”

“Trời ạ, sao lại thế?” người thứ ba hỏi, trong lúc lấy một nhúm thuốc hít khổng lồ từ chiếc hộp đồ sộ của mình. “Tôi cứ tưởng ông ta bất tử cơ đấy.”

“Chỉ có Chúa mới biết,” người đầu tiên đáp, vừa nói vừa ngáp dài.

“Ông ấy làm gì với tiền của mình?” một quý ông mặt đỏ họng sưng tấy giống như mào gà tây hỏi.

“Tôi chẳng biết,” người đàn ông có cái cằm bạnh đáp, lại ngáp dài. “Chắc để lại cho hãng buôn của ông ta. Chứ ông ta chẳng để lại gì cho tôi. Tôi chỉ biết có thế.”

Lời nói đùa ấy khiến mọi người cùng cười ồ lên.

“Đám tang này chắc rẻ lắm,” chính người ấy lại nói thêm; “vì thực lòng mà nói, tôi chẳng biết có ai sẽ đến dự. Hay là chúng ta kéo nhau đi cho vui?”

“Tôi sẵn sàng đi nếu được đãi bữa trưa,” vị quý ông có cục thịt dư ở mũi nói. “Nhưng phải có đồ ăn thì tôi mới đi.”

Một tràng cười vang lên nữa.

“Nói cho cùng, có lẽ tôi mới là kẻ vô tư nhất trong số chúng ta đấy,” gã đầu tiên cười nói, “bởi tôi chẳng bao giờ đeo găng tay đen, cũng chẳng bao giờ dùng bữa trưa. Nhưng tôi sẵ sàng đi viếng nếu có ai cùng đi. Giờ nghĩ lại, tôi chẳng dám chắc mình có phải là bạn thân nhất của lão ấy không; dù mỗi lần gặp nhau, chúng tôi vẫn thường dừng lại trò chuyện. Thôi nhé, chào anh!”

Kẻ nói lẫn người nghe tản đi, hòa vào những nhóm người khác. Scrooge nhận ra những gương mặt quen thuộc ấy, hướng mắt về Hồn ma mong tìm lời giải đáp.

Hồn ma lướt nhẹ vào một con phố. Ngón tay nó chỉ về phía hai người đàn ông đang chào hỏi nhau. Scrooge lại chăm chú lắng nghe, hy vọng tìm thấy câu trả lời trong cuộc đối thoại này.

Ông cũng biết rõ những người này lắm. Họ là những tay buôn bán lớn – giàu có và có địa vị quan trọng. Ông luôn đặc biệt chú trọng việc duy trì mối quan hệ tốt với họ: dĩ nhiên là chỉ trong phạm vi công việc làm ăn; hoàn toàn vì mục đích thương mại mà thôi.

“Khỏe không?” một người hỏi.

“Khỏe không?” người kia đáp lại.

“À!” người thứ nhất nói. “Thằng Quỷ già cuối cùng cũng đòi được nợ rồi, phải không nhỉ?”

“Nghe đồn thế,” người thứ hai trả lời. “Trời lạnh nhỉ?”

“Giáng sinh mà. Chắc ông không đi trượt băng chứ?”

“Không. Không. Còn nhiều chuyện khác phải lo. Chào buổi sáng!”

Không thêm lời nào nữa. Đó là toàn bộ cuộc gặp gỡ, cuộc trò chuyện và lời chia tay của họ.

Scrooge ban đầu hơi ngạc nhiên khi thấy Hồn ma lại quan tâm đến những cuộc trò chuyện tưởng chừng vô nghĩa như vậy; nhưng tin chắc rằng ắt hẳn phải có mục đích ẩn giấu nào đó, ông bắt đầu suy xét xem điều đó là gì. Chúng khó lòng liên quan đến cái chết của Jacob, người cộng sự cũ của ông, vì đó là chuyện đã qua, mà lĩnh vực của Hồn ma này là Tương lai. Ông cũng chẳng nghĩ ra ai có liên hệ trực tiếp với mình mà ông có thể gắn những cuộc trò chuyện ấy vào.

Nhưng không nghi ngờ gì nữa, dù những lời ấy ám chỉ ai đi chăng nữa, chúng đều ẩn chứa bài học đạo đức nào đó để ông tự hoàn thiện, nên ông quyết tâm ghi nhớ từng lời nghe được, từng cảnh tượng chứng kiến; và đặc biệt chú ý quan sát hình bóng của chính mình khi nó hiện ra. Bởi ông hy vọng rằng hành vi tương lai của bản thân sẽ cho ông manh mối còn thiếu, giúp ông giải đáp những bí ẩn này dễ dàng hơn.

Ông lục tìm quanh chính nơi ấy để nhìn thấy hình bóng mình; nhưng một người đàn ông khác đang đứng ở góc đường quen thuộc của ông, và dù đồng hồ điểm đúng giờ ông vẫn thường xuất hiện, ông chẳng thấy bóng dáng mình trong dòng người đổ về từ Cổng vòm. Song ông cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên; bởi ông đã trăn trở về sự thay đổi trong cuộc đời mình, và ông nghĩ cùng hy vọng rằng những quyết tâm mới đang được thực hiện nơi đây.

Trong tĩnh lặng và bóng tối, Hồn ma vẫn đứng bên ông với bàn tay giơ ra. Khi tỉnh khỏi dòng suy tư sâu thẳm, từ cử động bàn tay và vị trí của nó so với mình, ông tưởng tượng ra Đôi Mắt Vô Hình đang chăm chú nhìn mình. Điều ấy khiến ông rùng mình và thấy lạnh buốt xương.

Họ rời khỏi nơi ồn ào náo nhiệt ấy, bước vào một khu phố tối tăm của thị trấn – nơi Scrooge chưa từng đặt chân tới, dù ông vẫn nhận ra địa thế và tiếng xấu của nó. Đường phố chật hẹp, nhơ nhớp; nhà cửa tiêu điều, cửa hàng ọp ẹp; người dân nửa trần truồng, say xỉn, bẩn thỉu, xấu xí. Những ngõ hẻm và cổng vòm như những hố rác, phun ra mùi hôi thối, bụi bặm và cảnh sống nhếch nhác lên những con đường chằng chịt; cả khu vực bốc lên mùi tội lỗi, dơ dáy và cùng cực.

Ẩn sâu trong hang ổ tội lỗi ấy có một tiệm đồ cũ mái thấp lụp xụp, nơi người ta mua bán sắt vụn, giẻ rách, chai lọ, xương và các thứ phế thải nhờn mỡ. Trên nền nhà chất đống chìa khóa han gỉ, đinh ốc, xích sắt, bản lề, giũa, cân và quả cân cùng đủ thứ phế liệu. Những bí mật chẳng mấy ai muốn dò la nằm chôn vùi giữa đống giẻ rách nhớp nhúa, những khối mỡ thối rữa và những nấm mồ bằng xương. Ngồi giữa đống hàng hóa mua bán, bên chiếc lò than cũ kỹ xây bằng gạch vỡ, là một lão già tóc bạc gần bảy mươi tuổi; hắn dùng tấm rèm rách bươu làm từ đủ thứ vải vụn, treo lủng lẳng trên sợi dây, để ngăn gió lạnh; và ngồi hút tẩu thong thả, tận hưởng sự yên tĩnh.

Scrooge và Hồn ma tiến đến chỗ người đàn ông kia, vừa kịp lúc một người đàn bà ôm bọc đồ nặng lén lút bước vào cửa hàng. Nhưng chưa kịp đặt chân vào trong, thì một người đàn bà khác cũng xách bọc đồ tương tự bước theo; sau lưng cô ta là một gã đàn ông mặc bộ đồ đen bạc phếch, hắn cũng tròn mắt kinh ngạc khi thấy họ, y như cách họ sửng sốt nhận ra nhau vậy. Sau khoảnh khắc im lặng ngỡ ngàng, mà ngay cả ông lão với chiếc tẩu thuốc cũng góp phần vào, cả ba bỗng bật cười phá lên.

“Cho bà quản gia đi trước đi nào!” người đàn bà vào trước hét lên. “Cho bà giặt đồ đi thứ nhì; còn ông đám ma thì xếp hàng thứ ba. Này lão Joe, đúng là trời run rủi! Không ngờ chúng ta lại tình cờ gặp nhau ở đây thế này!”

“Không thể tìm được nơi nào tốt hơn đây đâu,” lão Joe vừa nói vừa nhả khói thuốc từ miệng. “Mời vào phòng khách. Mấy người đã được tự do ra vào chỗ này từ lâu rồi, các người biết mà; hai vị kia cũng chẳng phải người lạ gì. Để tôi đóng cửa hiệu đã. Ôi chao! Cái cửa kêu cót két! Tôi dám chắc trong cả cái nhà này, không có mảnh sắt nào gỉ sét bằng cái bản lề cửa; và tôi cũng chắc chắn rằng không có bộ xương nào già hơn bộ xương của lão Joe ở đây cả. Ha ha! Tất cả chúng ta đều hợp với nghề của mình, hợp cạ lắm. Vào phòng khách nào. Mời vào phòng khách.”

Phòng khách là một khoảng trống nằm sau tấm màn rách nát. Ông lão dùng cái thang gỗ cũ kỹ xới đống than lên, rồi sau khi điều chỉnh ngọn đèn bốc khói (vì lúc ấy đã khuya khoắt) bằng cái tẩu thuốc của mình, lại ngậm tẩu vào miệng.

Trong khi ông ta làm việc đó, người đàn bà đã nói trước đó quẳng cái bọc của mình xuống nền nhà, ngồi phịch xuống chiếc ghế đẩu một cách ngạo nghễ; hai tay khoanh lại đặt trên đầu gối, nhìn hai người kia với ánh mắt thách thức.

“Thì đã sao nào? Đã sao nào, bà Dilber?” người đàn bà lên tiếng. “Ai cũng có quyền lo cho bản thân mình chứ. Ông ấy lúc nào chả thế.”

“Đúng thế, thật đấy!” bà giặt đồ nói. “Không ai bủn xỉn bằng lão ấy.”

“Thế thì đừng có đứng đó nhìn như thể bà sợ hãi, này bà nọ; ai khôn hơn chứ? Chúng ta đâu có ý soi mói từng món đồ của nhau, tôi nghĩ thế?”

“Không, thật mà!” Bà Dilber và người đàn ông đồng thanh đáp. “Chúng tôi cũng mong là không.”

“Tốt lắm, thế thì!” người đàn bà reo lên. “Thế là đủ rồi. Ai là người chịu thiệt khi mất mấy thứ lặt vặt thế này? Chắc chắn không phải một kẻ đã chết rồi, tôi nghĩ vậy.”

“Không, đương nhiên rồi,” bà Dilber vừa cười vừa nói.

“Nếu lão ta muốn giữ khư khư mấy thứ này sau khi chết, một tên keo kiệt đến độc ác,” người đàn bà tiếp tục, “thì sao lão không sống cho tử tế lúc còn sống? Giá mà lão sống tốt, đã có người chăm sóc khi tử thần đến gõ cửa, thay vì nằm đó một mình, thoi thóp từng hơi thở cuối cùng.”

“Đó là lời nói thật nhất từng thốt ra,” bà Dilber nói. “Chính cái chết ấy là hình phạt dành cho hắn.”

“Giá mà hình phạt ấy nghiệt ngã hơn một chút thì tốt,” người đàn bà đáp; “và đáng lẽ phải thế, tôi dám chắc thế, nếu tôi có kiếm được thêm thứ gì khác. Mở gói đồ ấy ra đi, lão Joe, và bảo tôi giá trị của nó. Nói to lên. Tôi chẳng ngại là người đầu tiên, cũng chẳng sợ họ thấy đâu. Tất cả chúng ta đều hiểu rõ là mình đang tìm cách vơ vét trước khi gặp nhau ở đây, tôi tin thế. Chẳng có tội tình gì đâu. Mở gói đồ ra đi, Joe.”

Nhưng lòng tử tế của bạn bè đã ngăn bà làm điều đó; và gã đàn ông mặc bộ đồ đen bạc màu, bước ra trước, trưng bày chiến lợi phẩm của mình. Chẳng được bao nhiêu. Một hai con dấu, một hộp bút chì, một đôi khuy măng sét, và một cái trâm gài chẳng đáng giá bao nhiêu, chỉ có thế thôi. Lão Joe lần lượt kiểm tra và định giá từng món, dùng phấn ghi lên tường số tiền ông ta sẵn sàng trả cho mỗi thứ, rồi cộng tất cả lại khi thấy không còn gì nữa.

“Đó là phần của anh,” Joe nói, “và tôi sẽ không thêm một xu nào nữa đâu, dù có bị nấu chín vì không làm thế. Ai tiếp theo đây?”

Bà Dilber bước lên. Mấy tấm ga giường và khăn tắm, ít quần áo, đôi thìa bạc kiểu cũ, cái kẹp đường, cùng vài đôi ủng. Số tiền của bà cũng được ghi lên tường y như trước.

“Tôi luôn trả hậu cho đàn bà. Ấy là cái tật của tôi, và cũng là cách tôi tự chuốc lấy thất bại,” lão Joe càu nhàu. “Đây là phần của bà. Nếu bà dám đòi thêm dù chỉ một xu nữa, coi như chuyện còn bỏ ngỏ, tôi sẽ hối hận vì đã quá rộng rãi mà trừ lại nửa crown.”

“Giờ thì mở gói hàng của tôi ra đi, Joe,” người đàn bà lên tiếng trước.

Joe quỳ gối xuống cho tiện tay tháo gói, sau khi gỡ mãi mới xong đám khuy cài, ông lôi ra một cuộn vải dày màu sẫm nặng trịch.

“Đây là cái giống gì thế?” Joe bảo. “Rèm giường à!”

“Ừ!” Cô gái đáp, vừa cười vừa chồm người tới trước, hai tay khoanh lại. “Rèm giường đấy!”

“Chẳng lẽ cô định bảo là cô đã tháo cả bộ rèm xuống, luôn cả vòng treo, trong khi lão ta vẫn còn nằm đấy sao?” Joe hỏi.

“Đúng thế,” người đàn bà đáp. “Sao lại không?”

“Cô đúng là sinh ra để làm giàu,” Joe nói, “và cô nhất định sẽ giàu to.”

“Tôi chắc chắn sẽ không ngần ngại, khi tôi có thể lấy bất cứ thứ gì trong tầm tay bằng cách vươn tay ra lấy, vì một người như Ông ấy, tôi thề với ông đấy, Joe,” người đàn bà lạnh lùng đáp. “Giờ đừng để dầu rơi lên chăn nhé.”

“Chăn của ông ấy à?” Joe hỏi.

“Ông tưởng của ai?” người đàn bà đáp. “Chắc ông ta không bị cảm lạnh nếu không có chúng đâu.”

“Tôi mong ông ta không chết vì bệnh truyền nhiễm nhỉ? Hả?” lão Joe nói, ngừng tay và ngước lên.

“Bà đừng lo về chuyện ấy,” người đàn bà đáp. “Tôi chả thích giao du với ông ta đến mức phải lảng vảng quanh ông ta vì mấy chuyện như thế, dù ông ta có bệnh đi nữa. Này! Ông có thể nhìn chằm chằm vào cái áo choàng ấy đến mỏi mắt; nhưng ông sẽ chẳng tìm thấy một lỗ thủng hay chỗ sờn rách nào đâu. Đó là thứ tốt nhất ông ta có, và cũng là thứ đẹp nhất nữa. Họ đã phí hoài nó, nếu không có tôi.”

“Ông cho rằng lãng phí nó là gì?” lão Joe hỏi.

“Chắc chắn là mặc nó cho ông ấy để chôn cất,” người phụ nữ đáp, cười lớn. “Có người nào đó đủ ngu ngốc để làm vậy, nhưng tôi đã cởi ra lại. Nếu vải calico không đủ tốt cho việc đó, thì nó cũng chẳng đủ tốt cho bất cứ thứ gì. Nó hợp với cơ thể y như vậy. Ông ta không thể nhìn xấu hơn khi mặc cái đó đâu.”

Scrooge nghe cuộc đối thoại này với sự kinh hoàng. Khi họ ngồi tụ tập quanh số đồ cướp được, trong ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn cũ của lão già, ông nhìn họ với sự căm ghét tột độ, gần như không thể lớn hơn, dù họ có là những ác quỷ ghê tởm đang buôn bán chính cái xác.

“Ha ha!” người phụ nữ cười lớn khi lão Joe lôi ra chiếc túi vải đựng tiền và đổ tiền ra nền đất phân chia. “Thế là xong đời ấy mà! Khi sống thì hắn dọa đuổi mọi người đi, để khi chết rồi chúng ta mới được hưởng lợi! Ha ha ha!”

“Ôi hồn ma!” Scrooge run bắn lên từ đầu đến chân thì thào. “Tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi. Số phận tên đàn ông khốn khổ kia có thể sẽ là số phận của chính tôi. Đời tôi đang đi về cái kết ấy. Ôi Chúa nhân từ ơi, đây là cái gì thế này!”

Ông hoảng hốt lùi lại khi cảnh tượng đột ngột thay đổi, giờ đây ông gần như chạm phải một chiếc giường trơ trọi không màn che. Trên chiếc giường ấy, dưới lớp ga rách tả tơi, có một vật gì đó bị phủ kín – tuy vô thanh nhưng đã tự nói lên bằng thứ ngôn ngữ kinh hoàng.

Căn phòng tối om, tối đến mức khó lòng nhìn rõ mọi thứ, dù Scrooge đã cố gắng đảo mắt quanh theo một sự thôi thúc kỳ lạ, muốn biết đây là kiểu phòng gì. Một thứ ánh sáng nhàn nhạt từ bên ngoài lọt vào, chiếu thẳng xuống chiếc giường; và trên đó, bị bóc lột trắng trợn, không một kẻ canh giữ, không một giọt nước mắt, không một bàn tay chăm sóc, là xác chết của gã đàn ông kia.

Scrooge ngước nhìn Hồn ma. Bàn tay kiên định của nó chỉ thẳng về phía cái đầu. Tấm vải liệm được phủ lên một cách sơ sài đến nỗi chỉ cần Scrooge khẽ động ngón tay, nhấc nhẹ lên một chút thôi, khuôn mặt ắt sẽ lộ ra. Ông nghĩ về điều đó, cảm thấy thật dễ dàng để thực hiện, và khao khát được làm; nhưng ông chẳng đủ sức để vén tấm màn lên, cũng như chẳng thể xua đuổi bóng ma đang đứng bên cạnh mình.

“Ôi Thần Chết lạnh lùng, cứng nhắc, kinh khủng kia, hãy dựng lên bàn thờ của ngươi nơi đây, và trang hoàng nó bằng những nỗi kinh hoàng trong tay ngươi: vì đây chính là vương quốc của ngươi! Nhưng đối với cái đầu được yêu thương, được tôn kính, được trọng vọng, ngươi không thể bẻ gãy một sợi tóc nào theo ý đồ ghê rợn của ngươi, cũng không thể làm biến dạng một nét mặt nào thành xấu xí. Không phải vì bàn tay nặng nề sẽ rơi xuống khi buông thả; không phải vì trái tim và mạch máu đã ngừng đập; mà bởi vì bàn tay ấy đã từng rộng mở, hào phóng và chân thành; trái tim ấy can đảm, ấm áp và dịu dàng; nhịp đập ấy thuộc về một con người thực thụ. Hỡi Bóng Tối, hãy tấn công đi! Và hãy chứng kiến những việc thiện của ông ấy đâm chồi từ vết thương, để gieo rắc sự sống bất tử khắp thế gian!”

Không một giọng nói nào vang lên trong tai Scrooge, thế mà ông vẫn nghe thấy những lời ấy khi đưa mắt nhìn lên chiếc giường. Ông tự hỏi, nếu giờ đây người đàn ông này có thể sống lại, thì suy nghĩ đầu tiên của hắn sẽ là gì? Lòng tham lam, tính keo kiệt, sự bủn xỉn chăng? Những thứ ấy quả thực đã dẫn hắn tới một cái kết giàu sang phú quý!

Hắn nằm đó, trong căn phòng trống trải tối tăm, không một người đàn ông, người đàn bà hay đứa trẻ nào thốt lên rằng hắn đã đối xử tử tế với tôi trong chuyện này chuyện nọ, và để đáp lại một lời nói nhân từ, tôi sẽ đối xử tốt với hắn. Một con mèo đang cào cấu vào cánh cửa, dưới nền lò sưởi văng vẳng tiếng chuột gặm nhấm. Chúng muốn gì nơi căn phòng chết chóc này, và tại sao chúng lại xao xuyến quấy nhiễu đến thế, Scrooge chẳng dám nghĩ tới.

“Hồn ma!” ông kêu lên, “Nơi này thật kinh khủng. Khi rời khỏi đây, tôi sẽ không bao giờ quên bài học này, tôi xin thề. Ta đi thôi!”

Hồn ma vẫn giữ nguyên tư thế, ngón tay lạnh lẽo chỉ thẳng về phía ngôi mộ.

“Tôi hiểu ý ngài,” Scrooge run rẩy đáp, “và tôi sẽ làm theo nếu có thể. Nhưng tôi không thể, thưa Hồn ma. Tôi thực sự không thể.”

Một lần nữa, ánh mắt vô hồn của bóng ma lại đổ dồn về phía ông.

“Nếu trong thị trấn này có bất kỳ ai thực sự đau lòng trước cái chết của người đàn ông này,” Scrooge nghẹn ngào nói, “xin hãy chỉ cho tôi thấy người đó, hỡi Hồn ma, tôi van xin ngài!”

Hồn ma bỗng mở rộng chiếc áo choàng đen như đôi cánh quạ trước mặt ông trong chốc lát, rồi khép lại, để lộ ra một căn phòng ngập tràn ánh sáng ban ngày với hình ảnh một người mẹ đang ngồi giữa đàn con thơ.

Cô ấy đang chờ đợi ai đó, với vẻ lo lắng và háo hức; vì cô ấy đi đi lại lại trong phòng; giật mình mỗi khi có tiếng động; nhìn ra ngoài cửa sổ; liếc nhìn đồng hồ; cố gắng, dù vô ích, làm việc bằng kim chỉ; và hầu như không thể chịu nổi tiếng nói của bọn trẻ đang chơi đùa.

Cuối cùng, tiếng gõ cửa mong đợi đã vang lên. Cô vội vã ra cửa, và gặp chồng mình; một người đàn ông có khuôn mặt khắc khổ và chán nản, dù còn trẻ. Khuôn mặt ông lúc này có một vẻ khác thường; một thứ vui mừng nghiêm túc mà ông cảm thấy xấu hổ, và ông cố gắng kìm nén.

Ông ngồi xuống dùng bữa tối đã được giữ ấm cho ông bên bếp lửa; và khi bà hỏi ông khe khẽ có tin tức gì (chỉ sau một thời gian im lặng dài), ông dường như lúng túng không biết trả lời thế nào.

“Tốt hay xấu đây?” cô hỏi, như muốn giúp ông một tay.

“Xấu,” ông đáp.

“Chúng ta đã mất hết rồi sao?”

“Không. Vẫn còn hi vọng, Caroline à.”

“Ông trời!” cô thốt lên ngỡ ngàng, “nếu hắn đã động lòng thương thì quả là phép màu! Chẳng còn gì hết hi vọng nếu phép lạ ấy đã xảy đến.”

“Không còn hi vọng gì chuyện hắn mềm lòng nữa,” người chồng đáp. “Hắn đã chết rồi.”

Nét mặt dịu dàng và nhẫn nại của nàng không phản ánh đúng những gì đang diễn ra trong lòng. Nghe tin ấy, lòng nàng trào dâng niềm cảm kích khôn tả, và nàng đã thốt lên thành lời, hai bàn tay chắp lại. Ngay sau đó nàng vội van xin sự tha thứ, lòng đầy hối hận; nhưng khoảnh khắc đầu tiên ấy mới chính là tấm lòng chân thật nhất của nàng.

“Điều mà người phụ nữ hơi say xỉn kia đã nói với anh tối qua khi anh cố gặp ông ta để xin hoãn nợ thêm một tuần – điều mà anh tưởng chỉ là cái cớ để tránh mặt anh – hóa ra lại hoàn toàn là sự thật. Ông ấy không chỉ ốm nặng, mà lúc đó đang thực sự hấp hối.”

“Vậy khoản nợ của chúng ta sẽ chuyển về tay ai giờ?”

“Anh không rõ. Nhưng trước khi điều đó xảy ra, chúng ta sẽ kịp chuẩn bị tiền; và ngay cả khi chưa chuẩn bị xong, thật là xui xẻo nếu gặp phải chủ nợ mới tàn nhẫn hơn người kế nhiệm ông ấy. Caroline ạ, đêm nay chúng ta có thể yên giấc rồi!”

Đúng vậy. Dù họ có dùng lời lẽ mềm mỏng đến đâu, trái tim họ vẫn cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Những khuôn mặt trẻ thơ vốn im lặng xúm xít nghe những điều chúng chẳng hiểu bao nhiêu, giờ đây rạng rỡ hẳn lên; và đó là một gia đình trở nên hạnh phúc hơn nhờ cái chết của người đàn ông kia! Cảm xúc duy nhất mà Hồn ma có thể chỉ cho ông thấy, được gợi lên từ sự kiện ấy, chính là niềm vui.

“Xin hãy cho tôi thấy một chút tình cảm dịu dàng nào đó gắn với cái chết,” Scrooge nói; “bằng không, căn phòng tối tăm kia, thưa Hồn ma, nơi chúng ta vừa rời khỏi, sẽ mãi ám ảnh tôi.”

Hồn ma dắt ông đi qua những con phố quen thuộc; và trong lúc họ cùng bước, Scrooge đảo mắt khắp nơi tìm kiếm hình bóng chính mình, nhưng chẳng thấy đâu. Họ tiến vào ngôi nhà của Bob Cratchit khốn khổ; chính nơi ông đã đến thăm trước đó; và thấy người mẹ cùng lũ trẻ đang quây quần bên bếp lửa.

Yên lặng. Rất yên lặng. Những đứa trẻ Cratchit ồn ào đều im lặng như tượng ở một góc, và ngồi ngẩng lên nhìn Peter, người đang cầm một cuốn sách trước mặt. Người mẹ và các con gái đang may vá. Nhưng chắc chắn họ rất yên lặng!

“Và Ngài lấy một đứa trẻ, và đặt nó vào giữa họ.”

Scrooge đã nghe những lời đó ở đâu? Ông đã không mơ thấy chúng. Chàng trai hẳn đã đọc chúng lên, khi ông và Hồn ma bước qua ngưỡng cửa. Tại sao cậu ta không tiếp tục?

Người mẹ đặt công việc của mình xuống bàn, và đưa tay lên che mặt.

“Màu sắc làm mắt mẹ đau nhức,” bà nói.

“À, màu sắc ư? Chính là cậu bé Tiny Tim tội nghiệp của chúng ta đó!”

“Giờ thì đỡ hơn rồi,” bà Cratchit trả lời. “Ánh đèn làm mắt mẹ chói lóa; và mẹ không muốn bố các con trở về nhà thấy mắt mẹ đỏ hoe đâu. Chắc cũng sắp đến giờ bố về rồi.”

“Thậm chí đã quá giờ rồi cơ,” Peter đáp, vừa gấp cuốn sách lại. “Nhưng con nghĩ dạo gần đây bố thường đi bộ chậm hơn mọi khi một chút, nhất là mấy buổi chiều vừa qua, mẹ ạ.”

Cả nhà lại chìm vào im lặng. Cuối cùng, bà lên tiếng bằng giọng nói bình thản, vui vẻ, chỉ hơi ngập ngừng một nhịp:

“Mẹ đã từng thấy bố bước đi thật nhanh – mẹ đã từng thấy bố bồng Tiny Tim trên vai mà bước thật nhanh nhẹn.”

“Con cũng thấy thế!” Peter hồ hởi reo lên. “Rất nhiều lần ạ.”

“Và con cũng vậy,” một người khác thốt lên. Tất cả đều đồng thanh đáp lại như thế.

“Nhưng bé nhẹ lắm, bồng bế dễ dàng,” bà vừa nói vừa chăm chú vào công việc, “và cha nó thương nó đến nỗi chẳng có gì phải lo lắng cả: thật sự chẳng có gì đáng ngại. Kìa, cha các con đã về tới cửa rồi!”

Bà vội vàng chạy ra đón ông; còn Bob trông bé nhỏ trong chiếc khăn quàng cổ – ông rất cần nó, tội nghiệp – bước vào nhà. Ấm trà của ông đã được hâm nóng sẵn trên lò, mọi người thi nhau phục vụ ông uống trà thật chu đáo. Rồi hai đứa nhỏ Cratchit leo lên đầu gối cha, mỗi đứa áp một bên má nhỏ vào mặt ông, như muốn nói: “Cha đừng bận tâm nữa. Cha đừng buồn nữa mà!”

Bob hân hoan với lũ trẻ, trò chuyện rôm rả cùng cả gia đình. Ông xem xét công việc trên bàn, rồi trầm trồ khen ngợi sự cần mẫn và khéo léo của bà Cratchit cùng các cô con gái. “Chắc chắn công việc sẽ xong xuôi trước Chủ nhật xa lắm,” ông nói.

“Chủ nhật ư? Thế là hôm nay anh đã đến đó rồi phải không, Robert?” vợ ông hỏi.

“Ừ, em yêu,” Bob đáp. “Anh ước gì em có thể đi cùng. Em sẽ thấy nơi ấy xanh tươi biết bao. Nhưng rồi em sẽ được thường xuyên thăm viếng nó. Anh đã hứa với nó rằng mỗi Chủ nhật anh sẽ đi bộ tới đó. Ôi đứa con bé bỏng của anh!” Bob bỗng thốt lên. “Con yêu bé nhỏ của cha ơi!”

Nước mắt ông trào ra không kìm nén được. Giá ông có thể nén lại, có lẽ khoảng cách giữa cha con họ đã còn xa hơn thế nữa.

Ông bước ra khỏi phòng, đi lên tầng trên vào căn phòng ngập tràn ánh sáng rực rỡ và những đồ trang trí Giáng sinh. Một chiếc ghế nhỏ được kê sát bên đứa trẻ, với những dấu vết cho thấy có người vừa ngồi đó. Bob tội nghiệp đặt mình xuống chiếc ghế ấy, sau khi dành chút thời gian trấn tĩnh lại, ông nhẹ nhàng hôn lên gương mặt bé thơ. Cuối cùng ông cũng chấp nhận sự thật, rồi trở xuống nhà với tâm trạng khá thanh thản.

Cả nhà quây quần bên lò sưởi ấm áp trò chuyện; những cô con gái và người mẹ vẫn miệt mài với công việc may vá. Bob kể cho mọi người nghe về tấm lòng nhân hậu khác thường của ông chủ Scrooge – người mà ông hầu như chẳng mấy khi gặp mặt. Hôm nay trên phố, khi thấy Bob có vẻ hơi – “chỉ hơi ủ rũ một chút thôi, em hiểu mà,” Bob giải thích, ông chủ đã dừng lại hỏi han. “Nghe thế,” Bob tiếp tục, “vì đó là người ăn nói dễ nghe nhất mà anh từng gặp, nên anh đã kể hết cho ông ấy nghe. ‘Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này, ông Cratchit,’ ông ấy nói, ‘và cũng rất thương cảm cho người vợ đảm đang của ông.’ Nhưng mà kỳ lạ thay, làm sao ông ấy biết được chuyện ấy, anh cũng chẳng hiểu nổi.”

“Biết gì không, anh yêu?”

“Gì thế, em là người vợ tuyệt vời mà,” Bob đáp.

“Ai mà chẳng biết điều đó!” Peter nói.

“Con quan sát giỏi lắm!” Bob vui vẻ nói. “Bố hy vọng mọi người đều biết. ‘Thật lòng tiếc thương,’ ông ấy nói, ‘cho người vợ đảm đang của anh. Nếu tôi có thể giúp đỡ bằng bất cứ cách nào,’ ông ấy nói, trao cho anh danh thiếp của mình, ‘đây là nơi tôi ở. Xin cứ đến tìm tôi.’ Giờ đây,” Bob reo lên, “không phải vì những gì ông ấy có thể làm cho chúng ta, mà chính cách nói chuyện ân cần của ông ấy mới thật đáng quý. Cứ như thể ông ấy đã quen biết Tiny Tim bé nhỏ của chúng ta, và thấu hiểu nỗi lòng chúng ta vậy.”

“Chắc chắn ông ấy là người tốt bụng!” bà Cratchit nói.

“Em sẽ càng tin chắc hơn nữa, em yêu ạ,” Bob đáp, “nếu em được gặp và trò chuyện cùng ông ấy. Anh chẳng ngạc nhiên tí nào – hãy nhớ lấy lời anh nói! – nếu ông ấy xếp cho Peter một chỗ làm tử tế hơn.”

“Con nghe thấy chưa, Peter,” bà Cratchit nói.

“Rồi sau đó,” một trong các cô con gái reo lên, “Peter sẽ có người yêu và sống tự lập.”

“Thôi đi nào!” Peter đáp lại, nhoẻn miệng cười.

“Cứ thế mà tiến tới thôi,” Bob nói, “vào một ngày nào đó; dù vẫn còn nhiều thời gian phía trước cho chuyện ấy, em yêu. Nhưng dù có phải chia tay nhau bằng cách nào hay khi nào đi nữa, anh tin chắc không ai trong chúng ta sẽ quên được Tiny Tim tội nghiệp – phải không nào – hay buổi chia ly đầu tiên giữa chúng ta này?”

“Không bao giờ, bố ơi!” tất cả bọn trẻ đồng thanh reo lên.

“Và cha biết,” Bob nói giọng xúc động, “cha biết rõ lắm, những đứa con yêu quý của cha ạ, khi chúng ta nhớ lại con bé đã kiên nhẫn và dịu dàng biết bao; dù con bé chỉ là một đứa trẻ nhỏ bé, thật nhỏ bé; chúng ta sẽ không dễ dàng cãi vã với nhau, và quên đi Tiny Tim tội nghiệp khi làm thế.”

“Không, không bao giờ đâu bố ơi!” lũ trẻ lại một lần nữa đồng thanh hô vang.

“Cha thật hạnh phúc,” Bob nói trong nghẹn ngào, “Cha thật sự rất hạnh phúc!”

Bà Cratchit âu yếm hôn chồng, các cô con gái lần lượt hôn lên má ông, hai đứa trẻ Cratchit bé bỏng cũng thi nhau hôn bố, còn Peter thì nắm chặt tay cha. Hồn ma bé nhỏ của Tiny Tim, tinh thần trẻ thơ ngây thơ của con là món quà từ Thiên Chúa!

“Hồn ma,” Scrooge nói, “có điều gì đó mách bảo tôi rằng thời khắc chia ly của chúng ta đã gần kề. Tôi cảm nhận được điều ấy, nhưng chẳng hiểu vì sao. Xin hãy nói cho tôi biết người đàn ông nằm chết mà ta trông thấy lúc kia là ai?”

Hồn ma Giáng sinh vẫn chưa đưa ông đi như những lần trước – dù theo cảm nhận của Scrooge, đây là một thời điểm khác biệt: thật vậy, dường như chẳng có trật tự nào trong những cảnh tượng cuối cùng này, ngoại trừ việc chúng đều thuộc về Tương lai – tới những nơi tụ họp của giới thương nhân, nhưng chẳng cho ông thấy hình bóng mình. Quả thực, Hồn ma chẳng nán lại vì bất cứ lý do gì, mà cứ thẳng tiến như thể hướng tới đích đến đã định, cho đến khi Scrooge khẩn khoản xin dừng chân một lát.

“Sân này,” Scrooge nói, “nơi chúng ta đang đi qua, chính là chỗ tôi làm việc, và đã làm việc suốt bao năm rồi. Tôi nhận ra ngôi nhà kia. Hãy cho tôi thấy tôi sẽ trở thành gì trong những ngày sắp tới!”

Hồn ma đứng khựng lại; cánh tay giơ lên chỉ về một hướng khác.

“Căn nhà ở đằng kia cơ mà,” Scrooge kêu lên. “Sao ngươi lại chỉ sang chỗ khác thế?”

Ngón tay vẫn đờ đẫn, không nhúc nhích.

Scrooge hối hả chạy tới cửa sổ văn phòng mình, dán mắt nhìn vào. Đó vẫn là một văn phòng, nhưng chẳng phải của ông. Đồ đạc bày biện khác hẳn, và hình bóng người ngồi đó cũng chẳng phải là ông. Hồn ma vẫn giơ tay chỉ như cũ.

Ông lại đi cùng nó lần nữa, tự hỏi vì sao và đi đâu, cứ thế bước đi bên nhau cho tới khi họ tới một cánh cổng sắt. Ông dừng chân, đảo mắt nhìn quanh trước khi bước vào.

Một nghĩa trang. Thì ra, cái tên của người đàn ông tội nghiệp mà giờ đây ông phải tìm kiếm đang nằm sâu dưới lớp đất này. Đúng là một nơi xứng đáng. Bị vây quanh bởi những ngôi nhà lụp xụp; bị cỏ dại xâm chiếm um tùm – thứ cỏ dại của sự tàn lụi chứ không phải sự sống; ngột ngạt vì quá nhiều lần chôn cất; phình to vì đã no nê sự thèm khát. Một chốn xứng đáng!

Hồn ma đứng giữa những nấm mồ, rồi chỉ tay xuống một ngôi mộ. Ông run rẩy bước tới. Hồn ma vẫn y nguyên dáng vẻ ấy, nhưng ông cảm thấy sợ hãi vì nhận ra một ý nghĩa mới trong vẻ uy nghiêm của nó.

“Trước khi ta bước tới gần hơn tảng đá mà ngươi đang chỉ vào,” Scrooge nói, “hãy trả lời ta một điều. Đây có phải là hình bóng của những gì CHẮC CHẮN sẽ đến, hay chỉ là hình bóng của những điều CÓ LẼ sẽ đến mà thôi?”

Hồn ma vẫn giữ nguyên tư thế, ngón tay chỉ xuống ngôi mộ nơi nó đang đứng cạnh.

“Số phận con người luôn báo trước những hậu quả nhất định, nếu cứ tiếp tục sống như hiện tại, họ chắc chắn sẽ đi đến đó,” Scrooge nói. “Nhưng nếu thay đổi lối sống, kết cục cũng sẽ đổi khác. Hãy nói cho ta biết rằng những gì ngươi cho ta thấy chỉ là khả năng thôi!”

Hồn ma vẫn bất động như mọi khi.

Scrooge rón rén bước lại gần, người run lẩy bẩy; rồi theo hướng ngón tay chỉ, đọc dòng chữ khắc trên tấm bia mộ hoang lạnh chính tên mình: EBENEZER SCROOGE.

Linh hồn cuối cùng
Hồn ma cuối cùng

“Ta có phải là kẻ nằm trên giường kia không?” hắn thét lên, quỳ sụp xuống.

Ngón tay từ nấm mồ chỉ thẳng vào hắn, rồi lại quay về phía ngôi mộ.

“Không, Hồn ma! Ôi không, không thể nào!”

Ngón tay vẫn kiên định chỉ trỏ.

“Hỡi Vong linh,” hắn kêu lên, tay siết chặt tà áo của nó, “hãy nghe ta! Ta không còn là con người của ngày xưa nữa. Ta sẽ không trở thành cái bóng mà đáng lẽ ta phải thành nếu không có cuộc gặp gỡ này. Sao ngươi lại cho ta thấy cảnh tượng này, nếu mọi hy vọng đã tắt?”

Lần đầu tiên, bàn tay ấy có vẻ run rẩy.

“Hồn ma nhân từ,” hắn tiếp tục, gục mặt xuống đất trước nó: “Bản tính ngươi đang can thiệp cho ta, xót thương ta. Hãy cam đoan với ta rằng ta còn có thể thay đổi những hình ảnh ngươi đã bày ra, bằng một cuộc đời khác!”

Bàn tay nhân hậu run rẩy.

“Tôi sẽ nâng niu Lễ Giáng Sinh trong tim mình và gìn giữ tinh thần ấy suốt cả năm dài. Tôi sẽ sống cùng Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Ba vị Hồn ma ấy sẽ luôn đồng hành, cổ vũ tôi. Tôi sẽ không lãng quên những bài học họ mang đến. Ôi, xin hãy nói cho tôi biết liệu tôi có thể xóa đi dòng chữ khắc trên tấm bia kia không!”

Trong nỗi đau quặn thắt, ông siết chặt bàn tay hồn ma. Nó cố vùng vẫy thoát ra, nhưng ông vẫn kiên quyết nài nỉ, giữ chặt lấy. Hồn ma, càng lúc càng mạnh mẽ hơn, gạt phắt ông ra.

Khi ông giơ hai tay lên khẩn cầu lần cuối cùng, mong thay đổi định mệnh, bỗng ông nhận thấy hình dáng Hồn ma đang biến đổi. Chiếc mũ và trang phục của nó thu nhỏ dần, co rúm lại, rồi teo tóp thành một chiếc cột giường.

Bản quyền

Khúc Ca Giáng Sinh Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.