"

PHẦN I

Chương II. Con Chó Sói Cái

Hai người đàn ông dùng bữa sáng xong, chất đồ đạc gọn gàng lên chiếc xe trượt, rồi quay lưng lại với ngọn lửa hồng ấm áp để bước vào màn đêm lạnh lẽo. Ngay lập tức, những tiếng hú rùng rợn vang lên dữ dội – tiếng gọi bầy vọng giữa đêm tối và cái lạnh cắt da, rồi lại vang vọng trở lại. Cuộc trò chuyện giữa họ chợt im bặt. Mãi đến chín giờ sáng, bầu trời mới hửng sáng. Đến trưa, phía chân trời nam ánh lên màu hồng ấm áp, dấu hiệu cho thấy đường cong trái đất đã che khuất mặt trời buổi trưa khỏi vùng đất phương Bắc. Nhưng sắc hồng ấy chóng tàn. Ánh sáng xám xịt của ban ngày còn le lói kéo dài đến ba giờ chiều rồi cũng nhạt nhòa dần, để màn đêm Bắc Cực buông xuống, bao trùm lên vùng đất hoang vu tĩnh mịch.

Khi màn đêm buông xuống, những tiếng tru săn mồi vang lên từ phía phải, phía trái và đằng sau – tiến lại gần đến mức nhiều lần khiến đàn chó kéo xe kinh hãi, gây ra những khoảnh khắc hỗn loạn ngắn ngủi.

Sau một lần hỗn loạn như thế, khi hai người đã dồn lũ chó trở lại vị trí kéo xe, Bill lên tiếng:

“Ước gì lũ chúng nó kiếm được con mồi ở đâu đó rồi biến đi cho, để mình được yên.”

“Chúng khiến người ta căng thẳng kinh khủng,” Henry đồng tình.

Họ không nói gì nữa cho đến khi dựng xong trại.

Henry đang cúi xuống, nhặt những hòn đá bỏ vào nồi đậu đang sôi sùng sục thì bỗng giật mình vì tiếng đập mạnh, tiếng reo hò của Bill cùng với tiếng rên rỉ đau đớn và tiếng gầm gừ sắc lẹm của bầy chó. Anh vội đứng thẳng dậy, vừa kịp nhìn thấy một bóng mờ nhạt biến mất vào màn tuyết phía xa, lẩn khuất trong bóng tối. Sau đó, anh thấy Bill đứng giữa đàn chó, vẻ mặt vừa đắc thắng vừa thất vọng, một tay cầm cây gậy chắc nịch, tay kia nắm chặt cái đuôi và một phần thân con cá hồi hun khói.

“Nó lấy đi một nửa,” anh ta thông báo; “nhưng tôi cũng đánh trúng nó đấy. Anh nghe tiếng nó rên không?”

“Trông nó thế nào?” Henry hỏi.

“Không thấy được. Nhưng nó có bốn chân, một cái miệng, có lông và trông giống bất kỳ con chó nào.”

“Chắc là một con sói nhà, tôi nghĩ vậy.”

“Nó thuần lắm, cho dù là gì đi nữa, vào đây lúc cho ăn và lấy phần cá của nó.”

Đêm đó, khi bữa tối xong xuôi và họ ngồi trên chiếc hộp chữ nhật hút tẩu, vòng tròn mắt sáng lóe lại gần hơn trước.

“Tôi ước có một đàn nai sừng tấm hoặc gì đó xuất hiện, và chúng đi mất và để chúng ta yên,” Bill nói.

Henry càu nhàu với một giọng điệu không hẳn là đồng cảm, và suốt mười lăm phút họ ngồi im lặng, Henry nhìn vào lửa, và Bill thì nhìn vào vòng tròn mắt cháy rực trong bóng tối ngay bên ngoài ánh lửa.

“Tôi ước chúng ta đang kéo vào McGurry ngay bây giờ,” anh ta lại bắt đầu.

“Ngậm cái miệng ước ao và càu nhàu của anh lại đi,” Henry bực tức nổ tung. “Bụng anh khó chịu đấy. Đó là cái làm anh khó ở. Nuốt một thìa muối nở đi, và anh sẽ dễ chịu lắm và làm bạn đồng hành dễ chịu hơn.”

Sáng hôm sau, Henry bị đánh thức bởi những lời chửi thề gay gắt phát ra từ miệng Bill. Henry chống khuỷu tay và nhìn thấy bạn đồng hành của mình đang đứng giữa đám chó bên đống lửa được thêm củi, hai tay giơ lên chửi bới, khuôn mặt méo mó vì giận dữ.

“Chào!” Henry gọi. “Có chuyện gì vậy?”

“Frog mất rồi,” câu trả lời vang lên.

“Không thể nào.”

“Tôi bảo là có mà.”

Henry bật dậy khỏi chăn, bước vội đến chỗ bầy chó. Anh đếm đi đếm lại, rồi cùng người bạn đồng hành nguyền rủa sức mạnh tàn nhẫn của Vùng Hoang Dã đã cướp đi thêm một con chó nữa của họ.

“Frog là con chó khỏe nhất bầy,” Bill cuối cùng lên tiếng.

“Và cũng chẳng phải thằng ngốc,” Henry bổ sung.

Và như thế, bài điếu văn thứ hai trong vòng hai ngày đã được khắc ghi.

Một bữa sáng u ám trôi qua, rồi bốn con chó còn lại bị xích vào chiếc xe trượt. Ngày hôm ấy lặp lại y hệt những ngày trước đó. Hai người đàn ông lầm lũi bước đi trong thế giới băng giá. Sự tĩnh lặng chỉ bị xé toang bởi tiếng hú rợn người của những kẻ đuổi theo vô hình, lẩn khuất đâu đó phía sau lưng họ. Khi bóng đêm ập xuống giữa buổi chiều, tiếng hú nghe càng gần hơn – những kẻ săn đuổi đang dần thu hẹp khoảng cách như thường lệ; bầy chó bắt đầu hoảng loạn, sợ hãi, những cơn kinh hoàng khiến chúng giãy giụa làm rối tung dây xích, càng khiến hai người đàn ông thêm chán chường.

“Thế là xong với lũ vật ngu ngốc này rồi,” Bill nói đêm đó với vẻ hài lòng, đứng thẳng người khi công việc đã hoàn tất.

Henry bỏ dở việc nấu nướng để bước ra xem. Không chỉ trói lũ chó lại, người bạn đồng hành còn buộc chúng theo kiểu của dân bản địa bằng những cây gậy. Quanh cổ mỗi con chó, anh ta cột một sợi dây da. Vào sợi dây này, và ở vị trí đủ gần cổ để con chó không thể cắn đứt được, anh ta buộc một cây gậy chắc chắn dài khoảng bốn hoặc năm bộ. Đầu kia của cây gậy lại được cột chặt vào một cọc cắm dưới đất bằng sợi dây da. Con chó không thể nào cắn xuyên qua sợi dây da ở đầu gậy của nó. Cây gậy ngăn không cho nó với tới được sợi dây da buộc ở đầu bên kia.

Henry gật đầu đồng tình.

“Đó là cách duy nhất để giữ Một Tai,” anh nói. “Nó có thể cắn xuyên da dễ như dao cắt và nhanh gấp đôi. Sáng mai tất cả sẽ còn nguyên vẹn.”

“Cứ tin là thế đi,” Bill quả quyết. “Nếu mất thêm một con nữa, tôi sẽ nhịn luôn cà phê.”

“Bọn chúng biết chúng ta không thể bắn hết chúng thôi,” Henry nhận xét khi chuẩn bị đi ngủ, chỉ vào vòng tròn mắt sáng rực đang vây quanh. “Giá mà bắn hạ được vài con, chúng sẽ biết sợ hơn. Mỗi đêm chúng lại tiến gần hơn. Thử che ánh lửa đi mà nhìn kỹ xem – kia kìa! Anh có thấy con đó không?”

Hai người đàn ông say sưa ngắm nhìn những bóng hình mờ ảo chập chờn nơi rìa ánh lửa. Cứ kiên nhẫn dán mắt vào đôi mắt lấp lánh như than hồng giữa bóng đêm, dần dần hình hài con thú sẽ hiện ra trước mắt họ. Đôi khi, họ còn trông thấy cả những bóng đen ấy nhúc nhích di chuyển.

Bỗng tiếng động từ bầy chó khiến cả hai chú ý. Một Tai đang rên rỉ liên hồi, háo hức giật mạnh sợi dây buộc, vươn người về phía bóng tối, thi thoảng lại dừng lại để cắn xé điên cuồng vào chiếc cọc bằng hàm răng sắc nhọn.

“Xem kìa, Bill,” Henry khẽ thốt lên.

Một con vật giống chó lẻn vào vòng ánh sáng lửa trại, di chuyển lén lút nhưng dứt khoát. Nó vừa thận trọng quan sát hai người đàn ông, vừa liếc nhìn đàn chó. Một Tai vươn hết cổ dây buộc về phía kẻ lạ mặt, rên rỉ đầy khao khát.

“Thằng Một Tai ngốc nghếch này có vẻ chẳng sợ hãi gì cả,” Bill thì thào.

“Đó là một con sói cái,” Henry khẽ đáp, “và đó là lý do Fatty cùng Frog biến mất. Nó đóng vai mồi nhử cho cả đàn. Nó dụ con chó ra xa rồi cả bầy sẽ xông lên xé xác.”

Ngọn lửa bập bùng, lách tách. Một khúc củi bật ra với tiếng nổ đanh gọn. Nghe thấy âm thanh ấy, con vật lạ giật mình lùi nhanh vào màn đêm.

“Henry, tôi đang nghĩ,” Bill chậm rãi nói.

“Nghĩ gì thế?”

“Tôi nghĩ đó chính là con sói tôi đã đập bằng cây gậy.”

“Không nghi ngờ gì chút nào,” Henry đáp.

“Và ngay tại đây tôi muốn nói,” Bill tiếp tục, “sự quá quen thuộc của con vật đó với lửa trại là đáng ngờ và mất đạo đức.”

“Chắc chắn nó biết nhiều hơn một con sói tự trọng nên biết,” Henry đồng ý. “Một con sói biết đủ để vào cùng đám chó lúc cho ăn chắc chắn đã có kinh nghiệm rồi.”

“Ông Villan từng có một con chó chạy trốn với lũ sói,” Bill tự lẩm bẩm. “Tôi phải biết chứ. Tôi bắn nó ra khỏi đàn trong một đồng cỏ nai sừng tấm ở Little Stick ấy. Và ông Villan khóc như em bé. Ông bảo không thấy nó ba năm rồi. Nó đã ở với lũ sói suốt thời gian đó.”

“Tôi đoán anh đoán đúng rồi, Bill. Con sói đó là một con chó, và nó đã ăn cá rất nhiều lần từ tay con người.”

“Và nếu tôi có cơ hội, con sói đó mà là chó thì nó sẽ chỉ còn là thịt thôi,” Bill tuyên bố. “Chúng ta không thể mất thêm con vật nào nữa.”

“Nhưng anh chỉ có ba viên đạn thôi,” Henry phản đối.

“Tôi sẽ chờ một phát bắn chắc chắn,” câu trả lời.

Sáng hôm sau, Henry đốt lại lửa và nấu bữa sáng trong tiếng ngáy của bạn đồng hành.

“Anh ngủ say quá chừng,” Henry nói khi đánh thức bạn dậy để ăn sáng. “Tôi không nỡ gọi anh dậy.”

Bill bắt đầu ăn trong trạng thái lơ mơ. Anh nhận thấy cốc của mình trống không và với tay về phía ấm nước. Nhưng chiếc ấm nằm ngoài tầm với, đặt phía bên Henry.

“Này, Henry,” Bill nhắc nhở nhẹ nhàng, “anh quên gì rồi phải không?”

Henry nhìn quanh một cách cẩn thận rồi lắc đầu. Bill giơ chiếc cốc rỗng lên.

“Anh không được uống cà phê,” Henry thông báo.

“Không còn nữa à?” Bill hỏi với vẻ lo lắng.

“Không.”

“Anh không nghĩ nó sẽ làm hại bao tử tôi sao?”

“Không.”

Một làn máu nóng giận dữ bừng lên gương mặt Bill.

“Vậy thì tôi chỉ mong anh giải thích cho tôi rõ thôi,” anh nói.

“Spanker mất rồi,” Henry trả lời.

Không hối hả, với vẻ cam chịu số phận, Bill quay đầu lại và từ chỗ ngồi bắt đầu đếm bầy chó.

“Tại sao lại thế này?” anh lạnh lùng hỏi.

Henry nhún vai. “Ai mà biết. Trừ phi Một Tai đã cắn đứt dây cho nó. Chắc chắn nó không thể tự làm được chuyện đó.”

“Đồ khốn nạn.” Bill nói chậm rãi, nghiêm trọng, không một chút giận dữ nào lộ ra ngoài. “Chỉ vì không thể tự cắn đứt dây, nó đã cắn đứt dây cho Spanker.”

“Thôi thì nỗi đau của Spanker cũng đã chấm dứt; giờ chắc nó đang bị tiêu hóa và phân tán trong bụng của hai mươi con sói khác nhau rồi,” Henry nói như lời ai điếu cho con chó mới mất gần đây nhất. “Uống cà phê đi, Bill.”

Bill lắc đầu từ chối.

“Uống đi,” Henry nài nỉ, giơ cao chiếc ấm lên.

Bill đẩy tách của mình ra xa. “Tôi thề có trời chứng giám, tôi không uống đâu. Tôi đã nói là sẽ không đụng đến nếu mất thêm một con chó nào nữa, và tôi giữ lời.”

“Cà phê ngon lắm đấy,” Henry vẫn không bỏ cuộc.

Nhưng Bill vẫn kiên định. Anh ăn bữa sáng nhạt nhẽo, chỉ biết trút giận bằng những lời chửi rủa lầm bầm vào Một Tai vì trò láu cá của nó.

“Tối nay tôi sẽ buộc chúng xa nhau ra,” Bill nói khi họ lên đường.

Họ chưa đi được trăm bước thì Henry, người đi trước, cúi xuống nhặt thứ gì đó mà tấm ván trượt của anh vừa đụng phải. Trời tối đến nỗi anh không thể nhìn thấy, nhưng anh nhận biết được nó bằng xúc giác. Anh ném vật đó về phía sau, nó đập vào xe trượt rồi nảy lên cho đến khi mắc vào tấm ván trượt của Bill.

“Có lẽ anh sẽ cần đến thứ đó cho công việc của mình đấy,” Henry nói.

Bill thốt lên một tiếng kinh ngạc. Chỉ còn lại thế thôi – cái gậy mà Spanker đã bị buộc vào.

“Chúng ăn sạch cả da lẫn gậy rồi,” Bill nói. “Trơn tru như cái còi. Chúng đã gặm sạch da ở cả hai đầu. Chúng đang đói lắm đấy, Henry ạ, và chắc chắn chúng sẽ khiến anh với tôi phải bối rối trước khi chuyến đi này kết thúc.”

Henry cười một cách ngạo nghễ. “Tôi chưa từng bị bầy sói rượt đuổi thế này bao giờ, nhưng tôi đã trải qua những chuyện còn tồi tệ hơn mà vẫn sống nhăn răng đấy. Cần nhiều hơn một đám thú vật đáng ghét như thế này mới hạ được tôi đấy, Bill à.”

“Tôi không biết, tôi không biết,” Bill lẩm bẩm với giọng điệu đầy ám ảnh.

“Rồi anh sẽ biết thôi khi chúng ta tới McGurry.”

“Tôi chẳng thấy hứng thú gì cả,” Bill vẫn kiên quyết.

“Anh đang ốm đấy, đó là vấn đề của anh,” Henry nói với vẻ giáo điều. “Anh cần uống ký ninh, và tôi sẽ cho anh uống thật nhiều ngay khi chúng ta tới McGurry.”

Bill càu nhàu phản đối chẩn đoán đó rồi im bặt. Ngày hôm đó cũng chẳng khác gì những ngày khác. Chín giờ sáng, trời mới hửng sáng. Mười hai giờ trưa, chân trời phía nam ấm lên bởi mặt trời vô hình; rồi cái lạnh xám xịt của buổi chiều bắt đầu, và sẽ nhường chỗ cho màn đêm sau ba tiếng nữa.

Ngay sau nỗ lực vô vọng của mặt trời để ló dạng, Bill rút khẩu súng trường ra khỏi dây buộc xe trượt và nói:

“Cứ đi thẳng đi Henry, tôi sẽ đi xem có gì không.”

“Anh nên ở lại với xe trượt đi,” người bạn đồng hành phản đối. “Anh chỉ còn ba viên đạn, và chẳng biết chuyện gì có thể xảy ra.”

“Giờ thì ai đang cằn nhằn đây?” Bill hỏi với vẻ đắc thắng.

Henry không đáp lại, vẫn cúi đầu bước đi một mình, dù thỉnh thoảng anh vẫn liếc nhìn đầy lo âu về phía khoảng không gian xám xịt cô độc nơi người bạn đồng hành đã khuất bóng. Một tiếng đồng hồ sau, nhờ đi tắt qua những đoạn đường mà xe trượt phải đi vòng, Bill đã trở về.

“Chúng tản ra và đi khắp nơi,” anh nói: “vừa bám sát chúng ta vừa rình mồi. Anh thấy đấy, chúng tin chắc sẽ bắt được chúng ta, chỉ là chúng biết phải kiên nhẫn chờ đợi. Trong lúc đó, chúng sẵn sàng chộp bất cứ thứ gì ăn được vương vãi trên đường.”

“Ý anh là chúng _tin_ chắc sẽ bắt được chúng ta sao?” Henry chất vấn thẳng thừng.

Bill làm ngơ câu hỏi. “Tôi đã thấy vài con. Chúng gầy trơ xương. Chắc hẳn chúng nhịn đói nhiều tuần rồi, trừ lũ Fatty, Frog với Spanker; mà mấy con đó cũng chẳng đủ chia cho cả bầy. Chúng gầy đến rợn người. Xương sườn lộ rõ như bàn cờ, bụng dính chặt vào xương sống. Chúng đang tuyệt vọng lắm, tôi nói thật đấy. Rồi chúng sẽ phát điên lên mất, lúc ấy thì coi chừng.”

Một lát sau, Henry, đang đi sau chiếc xe trượt, bất ngờ thổi lên một tiếng huýt sáo cảnh báo khẽ. Bill quay đầu nhìn lại rồi im lặng dừng đàn chó lại. Phía sau họ, từ khúc cua cuối cùng mà họ vừa đi qua, hiện ra rõ ràng một bóng hình đầy lông lá đang lặng lẽ bước nước kiệu. Cái mũi của nó sát xuống đường mòn, di chuyển theo kiểu bước trườn kỳ lạ, nhẹ nhàng và uyển chuyển. Khi họ dừng lại, con vật ấy cũng ngừng bước, ngẩng cao đầu nhìn chằm chằm về phía họ với chiếc mũi co giật liên tục, như đang đánh hơi và phân tích mùi của hai người.

“Đó là con sói cái,” Bill trả lời.

Bầy chó đã nằm phục xuống tuyết, và anh bước qua chúng để đến bên người đồng hành đang đứng cạnh xe trượt. Cả hai cùng chăm chú quan sát sinh vật kỳ lạ đã rượt đuổi họ suốt nhiều ngày qua, kẻ đã xóa sổ một nửa đàn chó kéo xe của họ.

Sau khi xem xét kỹ càng, con vật bước vài nhịp ngắn về phía trước. Nó lặp lại hành động này nhiều lần, cho đến khi chỉ còn cách họ khoảng trăm thước. Rồi nó dừng lại, ngẩng cao đầu bên một bụi cây vân sam, dùng cả đôi mắt và chiếc mũi tinh nhạy để đánh giá những con người đang quan sát mình. Ánh nhìn của nó chứa đựng một khát khao kỳ lạ, giống hệt như ở loài chó, nhưng trong đó không hề có chút tình cảm ấm áp nào. Đó là thứ khát vọng được sinh ra từ cơn đói, tàn bạo như chính hàm răng nanh của nó, lạnh lùng như lớp băng giá bao phủ quanh.

Nó to hơn một con sói, bộ xương gầy guộc cho thấy đây là một trong những cá thể lớn nhất thuộc loài của nó.

“Phải cao tới hai bộ rưỡi ở vai đấy,” Henry nhận xét. “Và tôi cá là nó dài ít nhất năm bộ.”

“Màu lông cũng khác thường so với sói,” Bill nói. “Chưa bao giờ tôi thấy sói đỏ cả. Trông gần giống màu quế ấy.”

Con vật ấy chắc chắn không phải màu quế. Bộ lông của nó đúng là bộ lông sói thứ thiệt. Màu chủ đạo là xám, nhưng phảng phất chút đỏ nhạt – một sắc màu khó tả, khi ẩn khi hiện, giống ảo giác hơn là thực, lúc thì hiện rõ màu xám, rành rành là xám, lúc lại thoáng hiện và lóe lên thứ màu đỏ mơ hồ không thể xếp vào bất cứ loại nào theo kinh nghiệm thông thường.

“Trông giống y chang một con chó kéo xe Husky to lớn vậy,” Bill nói. “Tôi sẽ không ngạc nhiên khi thấy nó vẫy đuôi đâu.”

“Chào, anh Husky!” anh gọi. “Đến đây đi, anh gì đó tên là gì không biết.”

“Không sợ anh chút nào,” Henry cười.

Bill vẫy tay về phía nó đe dọa và hét to; nhưng con vật không tỏ ra sợ hãi. Thay đổi duy nhất họ nhận thấy là sự tăng cường khả năng cảnh giác. Nó vẫn nhìn họ với sự ao ước tàn nhẫn của cơn đói. Họ là thịt, và nó đói; và nó muốn xông vào ăn thịt họ nếu nó dám.

“Nghe này, Henry,” Bill nói, vô thức hạ giọng xuống thành tiếng thì thầm như đang bắt chước điều gì đó. “Chúng ta chỉ còn ba viên đạn. Nhưng phải bắn một phát chắc chắn trúng. Không được phép bắn trượt. Nó đã giết ba con chó của chúng ta rồi, chúng ta phải chặn nó lại thôi. Anh nghĩ thế nào?”

Henry gật đầu tán thành. Bill cẩn thận rút khẩu súng ra khỏi dây buộc xe trượt. Khẩu súng đang trên đường lên vai anh, nhưng nó chẳng bao giờ tới nơi. Bởi ngay khoảnh khắc ấy, con sói cái đã phóng vụt sang một bên khỏi đường mòn, lao vào bụi cây vân sam và biến mất.

Hai người đàn ông nhìn nhau. Henry huýt sáo một tiếng dài, đầy ý vị thông hiểu.

“Lẽ ra tao phải biết chứ,” Bill tự trách mình thành tiếng trong khi lắp đạn lại vào súng. “Dĩ nhiên một con sói đủ khôn để lẻn vào giữa đám chó lúc cho ăn thì cũng đủ thông minh để hiểu về súng ống rồi. Tao nói thẳng với mày nhé Henry, chính con quỷ đó là nguồn gốc mọi rắc rối của chúng ta. Giờ chúng ta chỉ còn sáu con chó thay vì chín, tất cả là do nó. Và tao nói cho mày biết, Henry, tao sẽ bắt được nó. Nó quá ranh mãnh để bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật. Nhưng tao sẽ rình nó. Tao sẽ phục kích nó chắc như đinh đóng cột, chắc như cái tên Bill của tao vậy.”

“Anh chẳng cần phải đi xa thế đâu,” người bạn đồng hành cảnh báo. “Nếu cả bầy ấy xông vào anh, ba viên đạn kia chẳng khác gì ba tiếng thét trong địa ngục. Lũ thú đó đang đói lắm rồi, một khi chúng đã tấn công, chắc chắn chúng sẽ hạ gục anh, Bill.”

Đêm ấy họ dựng trại sớm. Ba con chó không thể kéo xe trượt nhanh và bền bỉ như sáu con, chúng đã bắt đầu có những dấu hiệu rõ ràng của sự kiệt sức. Hai người đàn ông đi ngủ sớm, Bill trước tiên cẩn thận buộc lũ chó cách xa nhau để chúng không thể cắn nhau.

Nhưng bầy sói ngày càng trở nên táo tợn hơn, và đêm hôm ấy, hai người đàn ông đã phải thức giấc nhiều lần. Chúng tiến lại gần đến mức khiến đàn chó kéo xe rơi vào trạng thái hoảng loạn cực độ, buộc họ phải liên tục chất thêm củi vào đống lửa để giữ khoảng cách an toàn với lũ săn mồi liều lĩnh này.

“Tôi từng nghe thủy thủ kể về lũ cá mập bám theo tàu,” Bill nhận xét trong lúc chui vào chăn sau một lần thêm củi vào lửa. “Những con sói này chính là cá mập trên cạn đấy. Chúng hiểu rõ công việc của mình hơn cả chúng ta, và chúng bám đuổi chúng ta thế này không phải để mà chơi đâu. Chúng sẽ bắt được chúng ta thôi. Chắc chắn chúng sẽ bắt được chúng ta, Henry.”

“Chúng đã bắt được anh một nửa rồi đấy, nói năng như vậy,” Henry đáp lại một cách gay gắt. “Một người đàn ông đã thua một nửa khi anh ta nói như vậy. Và anh đã bị ăn thịt một nửa do cách anh nói về việc đó.”

“Chúng đã bắt được những người giỏi hơn anh và tôi,” Bill trả lời.

“Ồ, ngậm cái miệng càu nhàu của anh lại đi. Anh làm tôi mệt chết đi được.”

Henry tức giận lăn mình sang một bên, nhưng ngạc nhiên vì Bill không tỏ ra nóng nảy tương tự. Đây không phải là cách của Bill, vì anh ta dễ nổi giận bởi những lời nói gay gắt. Henry suy nghĩ rất lâu về điều đó trước khi đi ngủ, và khi mí mắt anh ta cụp xuống và anh ta chìm vào giấc ngủ, suy nghĩ trong đầu anh ta là: “Không thể nhầm lẫn được, Bill đang rất chán nản. Mình phải cổ vũ anh ta vào ngày mai thôi.”

Bản quyền

Nanh Trắng Copyright © by khosachviet.com. All Rights Reserved.