NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA SINBAD
CHUYẾN ĐI THỨ BA
Tôi nhanh chóng quyết định thực hiện chuyến hải trình thứ ba, và một lần nữa lại đặt chân lên con tàu rời bến cảng Balsora. Sau vài tuần lênh đênh trên biển cả, chúng tôi bất ngờ đối mặt với một trận cuồng phong dữ dội, buộc phải thả neo gần một hòn đảo mà vị thuyền trưởng vốn cố tình tránh xa; bởi theo lời ông, nơi ấy là chốn cư ngụ của những kẻ hoang dã lùn tịt, phủ đầy lông lá, luôn sẵn sàng tràn lên tàu chúng tôi với số lượng áp đảo. Chẳng bao lâu sau, vô số sinh vật đáng sợ cao chừng hai bộ chân, thân hình đầy lông, đã leo lên boong tàu. Mọi kháng cự đều vô ích. Chúng hạ buồm, chặt đứt dây neo, kéo lê con tàu vào bờ và bắt giữ toàn bộ thủy thủ đoàn lên đảo. Chúng tôi bị dẫn sâu vào nội địa và phát hiện một kiến trúc đồ sộ. Đó là một cung điện cao vút, với cánh cổng bằng gỗ mun nặng nề, chúng tôi đẩy mở và lập tức nhìn thấy một căn phòng chất đầy xương người cùng những chiếc xiên nướng thịt. Ngay sau đó, một gã đàn ông da đen gớm guốc xuất hiện, cao lớn như thân cây cọ. Hắn chỉ có một mắt duy nhất giữa trán, hàm răng dài nhọn hoắt, cùng bộ móng tay sắc như vuốt chim ưng. Hắn nhấc bổng tôi lên dễ dàng như nhấc một chú mèo con, nhưng khi thấy thân hình tôi chỉ còn da bọc xương, hắn tỏ vẻ khinh miệt rồi đặt xuống. Thuyền trưởng, do là người béo tròn nhất đoàn, đã bị hiến tế cho cơn đói của hắn. Sau khi ăn uống no nê, quái vật duỗi dài trên chiếc ghế đá khổng lồ ngoài hiên và thiếp đi, tiếng ngáy vang rền hơn cả sấm rền. Hắn ngủ say như chết cho đến tận bình minh. Sáng hôm sau, hắn rời đi. Tôi liền nói với những người bạn đồng hành:
“Đừng để nỗi buồn vô ích làm hao mòn thời gian; hãy nhanh chóng tìm gỗ đóng bè.”
[Minh họa]
Chúng tôi nhặt nhạnh được ít gỗ dạt ven bờ, ra sức làm việc cật lực; nhưng vì thiếu dụng cụ, mãi đến tối mới hoàn thành; khi chuẩn bị đẩy bè xuống biển, tên bạo chúa gớm guốc của chúng tôi quay về và lùa chúng tôi về cung điện như một đàn cừu. Chứng kiến thêm một người bạn bị hiến tế, lũ khổng lồ lại đánh một giấc say sưa. Trong tuyệt vọng, lòng dũng cảm trỗi dậy; chín chúng tôi nhẹ nhàng trỗi dậy, hơ những mũi xiên nướng thịt trên lửa cho đến khi chúng đỏ rực, rồi đồng loạt đâm thẳng vào mắt quái vật. Hắn gào lên kinh hoàng, mò mẫm tìm chúng tôi trong vô vọng, rồi mở cổng gỗ mun rời khỏi cung điện. Chúng tôi không chần chừ, chạy thẳng ra bờ biển, chuẩn bị bè và chờ trời sáng lên đường. Nhưng lúc bình minh, kẻ thù quái dị của chúng tôi xuất hiện, dẫn đầu bởi hai gã khổng lồ cùng cỡ, theo sau là cả một đoàn. Chúng tôi nhảy vội lên bè, đẩy ra xa bờ, được thủy triều hỗ trợ. Lũ khổng lồ thấy chúng tôi sắp thoát, liền nhặt những tảng đá lớn, lội nước đến ngang thắt lưng, ném về phía chúng tôi bằng tất cả sức mạnh. Chúng đánh chìm mọi chiếc bè trừ chiếc của tôi; vì thế tất cả bạn đồng hành, chỉ còn lại hai người sống sót. Chúng tôi chèo hết sức, thoát khỏi tầm với của lũ quái vật. Trôi dạt hai ngày trên biển, cuối cùng chúng tôi tìm thấy một hòn đảo dễ chịu. Sau khi ăn ít trái cây, chúng tôi nằm xuống nghỉ, nhưng nhanh chóng bị đánh thức bởi tiếng rít của một con rắn khổng lồ. Một người bạn ngay lập tức bị sinh vật đáng sợ ấy nuốt chửng. Tôi trèo lên cây nhanh nhất có thể, leo đến những cành cao nhất; người bạn còn lại đuổi theo, nhưng con bò sát kinh khủng quấn quanh thân cây và tóm được anh ta. Con rắn sau đó trườn xuống và biến mất. Tôi đợi đến cuối ngày hôm sau mới dám trèo xuống. Khi hoàng hôn buông xuống, tôi thu nhặt thật nhiều củi nhỏ, bụi gai và gai nhọn. Bó chúng lại thành từng bó, tôi tạo một vòng tròn quanh gốc cây, buộc chặt phần ngọn vào các cành. Rồi tôi leo trở lại chỗ cao nhất. Đêm xuống, con rắn lại xuất hiện, nhưng không thể với tới cây; nó bò loanh quanh công sự nhỏ của tôi một cách vô ích cho đến sáng rồi bỏ đi. Ngày hôm sau, tôi phát hiện một con tàu đang căng buồm phía chân trời. Tôi dùng chiếc khăn xếp làm tín hiệu, và may mắn được thấy. Tôi được cứu lên tàu và kể lại mọi cuộc phiêu lưu. Vị thuyền trưởng vô cùng tử tế. Ông cho biết ông đang giữ một số kiện hàng thuộc về một thương nhân đã vô tình bị bỏ rơi trên đảo hoang trước đây. Vì người đó hẳn đã chết, ông định bán số hàng để giúp đỡ gia đình người ấy, và tôi sẽ được hưởng phần lợi nhuận. Giờ đây tôi chợt nhận ra đây chính là vị thuyền trưởng từ chuyến đi thứ hai của tôi. Tôi nhanh chóng thuyết phục ông rằng tôi chính là Sindbad – người ông tưởng đã mất tích. Ông vui mừng khôn xiết khi biết sự thật, và nhiệt thành xác nhận tài sản ấy thuộc về tôi. Tôi tiếp tục hành trình, bán hàng hóa được giá, và trở về Bagdad.