7 CUỘC PHIÊU LƯU CỦA VIÊN NGỌC XANH
Tôi ghé thăm người bạn Sherlock Holmes vào sáng ngày thứ hai sau lễ Giáng Sinh, với ý định chúc mừng anh nhân dịp lễ. Anh đang nằm dài trên ghế bành, khoác chiếc áo choàng ngủ màu tím, bên tay phải là giá đựng tẩu thuốc nằm trong tầm với, cạnh đó là chồng báo sáng nhàu nát – rõ ràng đã được nghiên cứu kỹ lưỡng. Bên cạnh ghế bành là một chiếc ghế gỗ, trên móc tựa lưng treo lủng lẳng một chiếc mũ phớt cứng đã cũ kỹ và sờn rách nhiều chỗ. Chiếc kính lúp và cái nhíp đặt trên mặt ghế cho thấy chiếc mũ đã được treo ở đó để phục vụ cho việc khảo sát kỹ càng.
“Anh đang bận,” tôi nói; “có lẽ tôi làm phiền anh.”
“Không sao cả. Tôi rất vui khi có người bạn để trao đổi về những phát hiện của mình. Chuyện này hoàn toàn vặt vãnh” – anh hất ngón tay về phía chiếc mũ cũ kỹ – “nhưng lại có những chi tiết liên quan không kém phần thú vị, thậm chí còn mang tính gợi mở.”
Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành của anh, hơ đôi tay trước ngọn lửa lò sưởi đang reo vui, bởi tiết trời đã trở lạnh khắc nghiệt, những ô cửa kính phủ đầy hoa tuyết lấp lánh.
“Tôi đoán,” tôi nhận xét, “rằng dù trông có vẻ tầm thường thế này, nhưng vật này hẳn phải gắn liền với một câu chuyện kinh hoàng nào đó – rằng nó chính là đầu mối dẫn anh đến việc phá giải một vụ án bí ẩn và trừng trị tội ác.”
“Không, không. Chẳng có tội ác nào ở đây cả,” Sherlock Holmes cười đáp. “Chỉ là một trong những sự việc nhỏ nhặt kỳ lạ vẫn thường xảy ra khi bốn triệu con người chen chúc nhau trong một không gian chỉ vài dặm vuông. Giữa sự va chạm của một đám đông dày đặc như thế, mọi kết hợp khả dĩ của các sự kiện đều có thể xảy ra, và nhiều vấn đề tưởng chừng nhỏ nhặt sẽ nảy sinh, có thể gây ấn tượng kỳ quặc mà chẳng dính dáng gì đến tội phạm. Chúng ta đã từng chứng kiến không ít trường hợp như vậy rồi.”
“Đúng thế,” tôi gật đầu nhận xét, “trong sáu vụ án gần đây nhất mà tôi đã ghi chép vào sổ tay, có đến ba vụ hoàn toàn không liên quan đến bất kỳ hành vi phạm pháp nào.”
“Đúng vậy. Anh đang nhắc tới nỗ lực của tôi trong vụ tìm lại giấy tờ của Irene Adler, câu chuyện kỳ lạ về cô Mary Sutherland, hay cuộc phiêu lưu của gã đàn ông môi méo. Ồ, tôi chẳng nghi ngờ gì rằng chuyện nhỏ nhặt này cũng sẽ thuộc loại vô hại tương tự. Anh biết Peterson – người gác cổng chứ?”
“Biết chứ.”
“Chiếc mũ này là của hắn.”
“Của hắn ư?”
“Không phải, hắn nhặt được thôi. Chủ nhân thực sự thì vẫn còn là ẩn số. Tôi mong anh hãy xem nó không đơn thuần là chiếc mũ phớt cũ rách, mà như một bài toán trí tuệ. Và trước hết, hãy xem nó xuất hiện ở đây bằng cách nào. Nó đến vào sáng Giáng sinh cùng với một con ngỗng béo mập, mà tôi dám chắc giờ này đang được quay vàng ươm trước lò sưởi nhà Peterson.
Sự việc diễn ra thế này: vào khoảng bốn giờ sáng ngày lễ Giáng sinh, Peterson – như anh biết đấy, một người rất đáng tin – đang trở về nhà sau buổi tiệc nhỏ, đi dọc phố Tottenham Court. Dưới ánh đèn gas, hắn thấy trước mặt một gã đàn ông cao lớn, bước đi loạng choạng, vác trên vai con ngỗng trắng. Khi tới góc phố Goodge, gã lạ mặt này đã xảy ra xô xát với một nhóm du côn. Một tên trong bọn đánh rớt chiếc mũ của gã đàn ông, khiến ông ta giơ gậy lên tự vệ, vung qua đầu mà đập vỡ kính cửa hàng phía sau. Peterson xông vào bảo vệ người lạ, nhưng gã ta hoảng hốt vì đập vỡ kính, lại thấy một người mặc đồng phục trông như viên chức đang tiến tới, liền đánh rơi con ngỗng, ba chân bốn cẳng chuồn mất trong mê cung những con hẻm sau phố Tottenham Court. Bọn du côn cũng tán loạn khi thấy Peterson, để lại hắn ta một mình giữa chiến trường, làm chủ chiến lợi phẩm gồm chiếc mũ cũ kỹ này cùng con ngỗng Giáng sinh tuyệt hảo.”
“Anh ta chắc đã trả lại đồ cho chủ rồi chứ?”
“Bạn thân mến ơi, chính vấn đề nằm ở chỗ đó. Đúng là có tấm thẻ nhỏ ghi ‘Gửi bà Henry Baker’ buộc vào chân trái con ngỗng, và cũng đúng là những chữ cái ‘H.B.’ có thể nhìn thấy trên lớp lót chiếc mũ này. Nhưng trong thành phố chúng ta có hàng nghìn người họ Baker, và hàng trăm người tên Henry Baker, nên việc tìm đúng chủ nhân để trả lại món đồ thất lạc quả thực không dễ dàng gì.”
“Thế rồi Peterson đã làm gì?”
“Anh ta mang cả chiếc mũ lẫn con ngỗng đến cho tôi vào sáng Giáng Sinh, biết rằng ngay cả những vụ việc nhỏ nhặt nhất cũng khiến tôi quan tâm. Chúng tôi giữ con ngỗng lại cho đến sáng nay, khi có dấu hiệu cho thấy – dù trời hơi lạnh – tốt nhất là nên ăn nó ngay kẻo phí hoài. Người tìm thấy đã mang nó đi để hoàn thành số phận cuối cùng của một con ngỗng, trong khi tôi vẫn giữ lại chiếc mũ của vị quý ông vô danh đã đánh mất bữa tối Giáng Sinh của mình.”
“Anh ta không đăng quảng cáo ư?”
“Không.”
“Thế thì anh có manh mối gì về lai lịch của người này?”
“Chỉ có thể suy đoán mà thôi.”
“Từ chiếc mũ của hắn sao?”
“Đúng vậy.”
“Nhưng anh đang nói đùa chứ? Anh có thể rút ra được điều gì từ cái mũ phớt cũ kỹ nhàu nát này?”
“Đây là kính lúp của tôi. Anh đã biết phương pháp của tôi rồi. Anh có thể tự mình nhận ra điều gì về tính cách của kẻ từng đội thứ này không?”

Tôi cầm chiếc mũ cũ kỹ lên, xoay qua xoay lại một cách đầy bối rối. Đó là một chiếc mũ đen bình thường, kiểu tròn cứng quen thuộc, đã sờn cũ đến mức tệ hại. Lớp lót bên trong vốn là lụa đỏ nhưng đã phai màu đáng kể. Không có nhãn hiệu của nhà sản xuất; như Holmes đã chỉ ra, chỉ có hai chữ cái “H.B.” viết nguệch ngoạc ở một bên. Vành mũ có lỗ xỏ dây buộc, nhưng sợi dây chun đã biến mất. Ngoài ra, nó còn bị rách, phủ đầy bụi bặm, với nhiều vết bẩn loang lổ, mặc dù dường như có ai đó đã cố gắng che đi những chỗ sờn bằng cách bôi mực lên.
“Tôi chẳng thấy gì cả,” tôi nói, đưa trả chiếc mũ cho người bạn của mình.
“Trái lại, Watson, anh có thể nhìn thấy tất cả. Chỉ có điều anh không biết suy luận từ những gì anh quan sát được. Anh quá ngại ngần khi đưa ra những kết luận của riêng mình.”
“Vậy thì xin anh hãy cho tôi biết anh có thể rút ra được điều gì từ chiếc mũ này?”
Anh nhấc chiếc mũ lên và chăm chú nhìn nó với vẻ suy tư đặc trưng. “Có lẽ nó cung cấp ít manh mối hơn những gì ta mong đợi,” anh nhận xét, “nhưng vẫn có vài kết luận rất rõ ràng, cùng một số phỏng đoán khác ít nhiều có khả năng chính xác. Việc người đàn ông này có trí tuệ cao là điều hiển nhiên, cũng như việc ông ta từng khá giả trong ba năm trở lại đây, dù hiện tại đã sa cơ lỡ vận. Ông ta vốn là người có tầm nhìn xa trông rộng, nhưng giờ đã suy giảm, điều này cho thấy sự sa sút về đạo đức. Cùng với sự suy thoái tài chính, dường như có một ảnh hưởng xấu nào đó đang tác động lên ông ta, rất có thể là thói rượu chè. Điều này cũng có thể lý giải cho sự thật hiển nhiên rằng người vợ của ông ta không còn yêu ông ta nữa.”
“Holmes thân mến của tôi!”
“Dù vậy, ông ta vẫn duy trì được chút phẩm giá nhất định,” anh tiếp tục, phớt lờ lời phản đối của tôi. “Ông ta thuộc tuýp người ít vận động, hiếm khi ra khỏi nhà, hoàn toàn không tập thể dục, đã bước vào độ tuổi trung niên với mái tóc muối tiêu vừa mới được cắt tỉa cách đây vài ngày, và còn dùng cả kem chanh để chăm sóc tóc. Những chi tiết hiển nhiên này đều có thể suy luận ra từ chiếc mũ của ông ta. Nhân thể nói thêm, rất ít khả năng trong nhà ông ta có lắp đèn gas.”
“Anh chắc chắn đang nói đùa rồi, Holmes.”
“Hoàn toàn nghiêm túc. Ngay cả lúc này, khi tôi trình bày cho anh những kết luận này, anh vẫn không thể nhận ra chúng được suy luận như thế nào sao?”
“Tôi không hề nghi ngờ rằng mình thật ngu ngốc, nhưng tôi buộc phải thừa nhận rằng không thể theo kịp cách suy luận của anh. Chẳng hạn, làm thế nào anh có thể đoán được người đàn ông này là người trí tuệ?”
Holmes liền đội chiếc mũ lên đầu để trả lời. Vành mũ che kín trán và đè lên sống mũi anh. “Đó là vấn đề dung tích não bộ,” anh giải thích, “một người sở hữu bộ não lớn như thế này ắt hẳn phải có chút gì đó trong đầu chứ.”
“Thế còn sự sa sút tài sản của ông ta thì sao?”
“Chiếc mũ này đã được ba năm tuổi. Kiểu vành phẳng uốn cong ở mép chỉ mới thịnh hành vào thời điểm đó. Đây là loại mũ chất lượng cao cấp. Hãy xem đường viền lụa sang trọng và lớp lót tinh xảo này. Nếu ba năm trước người đàn ông này đủ khả năng mua chiếc mũ đắt tiền đến vậy, mà từ đó đến giờ không sắm chiếc mũ mới nào khác, thì rõ ràng ông ta đã lâm vào cảnh khó khăn.”
“Ồ, điều đó thì hiển nhiên. Nhưng còn về tầm nhìn xa trông rộng và sự suy giảm đạo đức thì sao?”
Sherlock Holmes bật cười. “Đây chính là tầm nhìn xa,” anh nói, chạm ngón tay vào chiếc đĩa nhỏ và sợi dây buộc mũ. “Những thứ này không bao giờ đi kèm khi mua mũ mới. Nếu người đàn ông này đã chủ động mua riêng chúng, đó là dấu hiệu cho thấy anh ta có chút tầm nhìn xa, bởi đã chuẩn bị đề phòng trường hợp gió thổi bay mũ. Nhưng khi thấy sợi dây chun đã đứt mà không được thay thế, rõ ràng tầm nhìn của anh ta đã giảm sút so với trước – bằng chứng rõ ràng cho thấy ý chí đang suy yếu. Ngược lại, việc cố gắng che đi những vết bẩn trên mũ bằng mực chứng tỏ anh ta vẫn còn giữ được chút lòng tự trọng.”
“Lập luận của anh quả thật rất hợp lý.”
“Những chi tiết khác, như việc ông ta đang ở độ tuổi trung niên, mái tóc điểm bạc, mới được cắt gần đây, và có thói quen dùng kem chanh, đều có thể suy ra từ việc quan sát kỹ phần dưới lớp lót mũ. Qua kính lúp, ta thấy vô số sợi tóc được cắt tỉa gọn gàng bằng kéo của thợ hớt tóc. Tất cả đều có vẻ hơi dính và mang mùi hương đặc trưng của kem chanh. Thứ bụi này, anh sẽ nhận thấy, không phải loại bụi đường xám xịt, thô ráp mà là thứ bụi nhà màu nâu mềm mịn, chứng tỏ chiếc mũ thường xuyên được treo trong nhà. Trong khi đó, những vết ẩm bên trong mũ là bằng chứng rõ ràng cho thấy người đội đã đổ mồ hôi rất nhiều, và như vậy, khó có thể là người có thể trạng sung mãn.”
“Nhưng vợ ông ta – anh bảo rằng bà ấy đã chẳng còn yêu ông ta nữa.”
“Cái mũ này đã không được chải chuốt suốt nhiều tuần liền. Này Watson thân mến, nếu tôi thấy anh bước ra đường với chiếc mũ đầy bụi bặm cả tuần như thế, mà vợ anh vẫn để yên cho anh xuất hiện trong bộ dạng ấy, thì tôi sẽ lo sợ rằng anh cũng chẳng may mắn hơn khi đánh mất tình cảm của người vợ mình đâu.”
“Nhưng biết đâu ông ta vẫn còn độc thân?”
“Không thể nào, ông ta mang con ngỗng về nhà như món quà giảng hòa với vợ. Anh hãy nhớ tấm thẻ buộc ở chân con chim ấy mà xem.”
“Anh luôn có lời giải đáp cho mọi thứ. Nhưng làm sao anh có thể suy ra được nhà ông ta không có lắp đèn gas?”
“Một vết mỡ nến, hay thậm chí hai vết, có thể chỉ là ngẫu nhiên; nhưng khi tôi nhìn thấy không dưới năm vết, tôi chắc chắn rằng không còn nghi ngờ gì nữa – người ấy hẳn phải thường xuyên tiếp xúc với mỡ nến đang cháy, có lẽ là leo cầu thang ban đêm với một tay cầm mũ còn tay kia xách cây nến cháy dở. Dù thế nào đi nữa, ông ta chắc chắn không thể có vết mỡ nến từ đèn gas. Anh thấy thuyết phục chưa?”
“Ôi, thật tinh tế làm sao,” tôi cười đáp; “nhưng như anh vừa nói, chẳng có tội ác nào xảy ra, cũng chẳng có thiệt hại gì ngoài việc mất một con ngỗng, thì tất cả những suy luận này có vẻ hơi phí công quá.”
Sherlock Holmes vừa định mở miệng đáp lời thì cánh cửa bỗng bật mở, Peterson – người gác cổng – ập vào phòng với gương mặt đỏ ửng và vẻ mặt ngỡ ngàng đến mức choáng váng.
“Con ngỗng, thưa ông Holmes! Con ngỗng, thưa ông!” anh ta thở hổn hển.
“Ồ? Nó làm sao thế? Chẳng lẽ nó sống lại rồi bay mất qua cửa sổ nhà bếp?” Holmes quay người trên ghế sofa, ánh mắt tò mò dán vào vẻ mặt kích động của người đàn ông.
“Ông xem này, thưa ngài! Xem thứ vợ tôi tìm thấy trong diều [1] nó này!” Anh ta giơ tay ra, lộ ra giữa lòng bàn tay một viên ngọc xanh lấp lánh rực rỡ, chỉ bé hơn hạt đậu một chút, nhưng tinh khiết và sáng lấp lánh đến nỗi nó như một tia điện nhỏ nhảy múa trên nền da sẫm của lòng bàn tay anh.
Sherlock Holmes bật dậy với một tiếng huýt sáo ngạc nhiên. “Trời ơi, Peterson!” anh thốt lên, “anh đang cầm cả một gia tài đấy. Tôi tin là anh nhận ra thứ mình đang nắm giữ chứ?”
“Một viên kim cương sao, thưa ngài? Một viên ngọc quý. Nó có thể cắt xuyên thủy tinh dễ như dao xẻ đất sét.”
“Không chỉ là ngọc quý thông thường. Đây chính là viên ngọc huyền thoại.”
“Chẳng lẽ đó là viên ngọc xanh của Nữ Bá tước Morcar?” tôi kinh ngạc thốt lên.
“Chính xác. Tôi nhớ rõ kích thước và hình dáng của nó, bởi gần đây tôi vẫn thường xuyên đọc thông báo tìm kiếm viên ngọc này trên tờ The Times. Nó là độc nhất vô nhị, giá trị không thể ước lượng chính xác, nhưng khoản tiền thưởng 1000 bảng được treo chắc chắn chưa bằng một phần hai mươi giá trị thực của nó.”
“Ngàn bảng! Lạy Chúa tôi!” Người gác cổng ngã ngửa ra ghế, đảo mắt nhìn hết người này đến người khác trong chúng tôi.
“Đó là số tiền thưởng, và tôi có lý do để tin rằng còn có những động cơ tình cảm đằng sau – Nữ Bá tước sẵn sàng hiến nửa gia tài nếu có thể tìm lại được viên ngọc quý.”
“Nếu tôi nhớ không nhầm, viên ngọc bị mất tại khách sạn Cosmopolitan,” tôi nhận xét.
“Chính xác, vào ngày 22 tháng Mười Hai, chỉ năm ngày trước. John Horner, một thợ sửa ống nước, bị buộc tội đã lấy trộm nó từ hộp nữ trang của quý bà. Bằng chứng chống lại hắn quá mạnh đến nỗi vụ án đã được chuyển lên Tòa án Cấp cao. Tôi tin mình còn giữ bản tường thuật vụ việc ở đây.”
Anh lục lọi trong chồng báo cũ, lật giở từng tờ, cuối cùng duỗi thẳng một tờ báo, gấp đôi nó lại rồi đọc to đoạn tin sau:
Vụ trộm ngọc quý tại khách sạn Cosmopolitan. John Horner, 26 tuổi, thợ sửa ống nước, bị cáo buộc đã đánh cắp viên đá xanh quý giá từ hộp đựng trang sức của Nữ Bá tước Morcar vào ngày 22 tháng này. James Ryder, quản lý giám sát của khách sạn, khai rằng chính ông đã dẫn Horner lên phòng thay đồ của Nữ Bá tước vào ngày xảy ra vụ việc để sửa chữa thanh lò sưởi thứ hai bị lỏng. Ông ta có ở lại cùng Horner một lúc, nhưng sau đó bị gọi đi. Khi trở lại, Ryder phát hiện Horner đã biến mất, tủ trang sức bị mở phá, còn chiếc hộp da Maroc nhỏ – vốn thường dùng để đựng trang sức của Nữ Bá tước – nằm trống không trên bàn trang điểm. Ryder lập tức báo động, và Horner bị bắt ngay tối hôm đó, song viên ngọc không tìm thấy trên người hay trong phòng anh ta. Catherine Cusack, người hầu của Nữ Bá tước, khai rằng đã nghe tiếng Ryder kêu thất thanh khi phát hiện vụ trộm, liền chạy vào phòng và chứng kiến cảnh tượng đúng như lời kể trước đó. Thanh tra Bradstreet thuộc đội B làm chứng về việc bắt giữ Horner – kẻ đã chống cự dữ dội và kịch liệt khẳng định mình vô tội. Bằng chứng về tiền án trộm cướp được đưa ra chống lại bị cáo, thẩm phán từ chối xử lý nhanh mà chuyển vụ án lên Tòa án cấp cao. Horner, người tỏ ra vô cùng xúc động trong suốt phiên tòa, đã ngất xỉu khi kết thúc và được khiêng ra khỏi phòng xử. |
“Hừm! Thế là chuyện tòa án cảnh sát đã xong rồi,” Holmes trầm ngâm nói, vứt tờ báo sang một bên. “Giờ nhiệm vụ của chúng ta là nối liền chuỗi sự kiện từ chiếc hộp nữ trang bị đục phá ở một đầu đến cái diều của con ngỗng trên phố Tottenham Court Road ở đầu kia. Anh thấy đấy Watson, những suy luận nhỏ nhặt của chúng ta bỗng chốc mang một tầm quan trọng lớn lao hơn và ít vô hại hơn chúng ta tưởng. Đây là viên đá quý; viên đá đến từ con ngỗng, và con ngỗng lại đến từ ngài Henry Baker, vị quý ông với chiếc mũ cũ kỹ cùng tất cả những đặc điểm khác mà tôi đã mô tả khiến anh phát chán. Giờ chúng ta phải nghiêm túc truy tìm vị quý ông này và xác định vai trò của ông ta trong vụ bí ẩn nhỏ nhặt này. Để làm được điều đó, trước hết chúng ta nên thử cách đơn giản nhất, chính là đăng quảng cáo trên tất cả các báo buổi tối. Nếu cách này không thành công, tôi sẽ phải áp dụng những biện pháp khác.”
“Anh định viết gì đây?”
“Hãy đưa tôi cây bút chì và mảnh giấy kia. Đây: ‘Tìm thấy tại góc phố Goodge Street một con ngỗng và một chiếc mũ phớt đen. Ông Henry Baker có thể đến nhận tại số 221B phố Baker lúc 6 giờ 30 tối nay.’ Thế là đủ rõ và ngắn gọn rồi.”
“Rất rõ ràng. Nhưng liệu ông ta có đọc được không?”
“Chà, chắc chắn ông ta sẽ theo dõi các tờ báo, bởi với một người nghèo, món đồ bị mất này là một tổn thất đáng kể. Rõ ràng lúc đó ông ta đã quá hoảng sợ vì vụ cửa sổ vỡ và sự xuất hiện của Peterson, đến nỗi chỉ nghĩ đến việc bỏ chạy, nhưng sau đó hẳn ông ta đã ân hận vì hành động nông nổi khiến mình đánh rơi con ngỗng. Hơn nữa, việc ghi rõ tên ông ta sẽ giúp ông ta dễ nhận ra thông báo, vì bất cứ ai quen biết ông ta cũng sẽ chỉ cho ông ta biết. Nào Peterson, anh hãy mang ngay xuống tòa soạn báo để đăng tin này lên các tờ báo buổi tối.”
“Những tờ báo nào, thưa ông?”
“À, các tờ Globe, Star, Pall Mall, St. James’s Gazette, Evening News, Standard, Echo, và bất cứ tờ nào khác anh nghĩ đến.”
“Vâng, thưa ông. Còn viên đá này thì sao ạ?”
“À, đúng rồi, tôi sẽ giữ viên đá. Cảm ơn anh. Này Peterson, nhớ mua một con ngỗng trên đường về và mang đến đây cho tôi nhé, vì chúng ta cần có một con để đền cho vị khách kia thay cho con ngỗng mà gia đình anh đang thưởng thức.”
Khi người gác cổng đã đi khỏi, Holmes cầm viên đá lên và đưa nó ra ánh sáng.
“Thật là một viên đá tuyệt đẹp,” anh nói. “Hãy nhìn xem nó lấp lánh và tỏa sáng thế nào. Tất nhiên, nó chính là nguồn cơn và trung tâm của tội ác. Mọi viên đá quý đều như vậy cả. Chúng là mồi nhử ưa thích của quỷ dữ. Ở những viên ngọc lớn hơn và cổ xưa hơn, mỗi mặt cắt có thể đại diện cho một vụ án đẫm máu. Viên đá này chưa đầy hai mươi năm tuổi. Nó được phát hiện ở bờ sông Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến, miền nam Trung Quốc và đặc biệt ở chỗ mang mọi đặc tính của hồng ngọc, chỉ khác là nó có màu xanh lam thay vì đỏ. Dù còn non trẻ, nó đã có một quá khứ đen tối. Đã có hai vụ giết người, một vụ tạt axit, một vụ tự sát, và vài vụ trộm cướp xảy ra chỉ vì viên đá tinh thể nặng bốn mươi grain này (khoảng 12,92 cara). Ai ngờ một món trang sức xinh đẹp thế này lại có thể đẩy người ta lên giá treo cổ và vào ngục tù? Giờ tôi sẽ cất nó vào hộp sắt và viết thư cho Nữ Bá tước thông báo rằng chúng ta đã tìm thấy nó.”
“Anh có tin rằng gã Horner này vô tội không?”
“Tôi không dám chắc.”
“Thế còn Henry Baker kia, anh có nghĩ hắn ta dính líu gì đến chuyện này không?”
“Tôi cho rằng Henry Baker rất có thể là một kẻ hoàn toàn trong sạch, hắn chẳng hề hay biết con chim mà hắn đang giữ còn quý giá gấp bội so với một khối vàng ròng. Dù vậy, tôi sẽ kiểm chứng điều đó bằng một thử nghiệm hết sức đơn giản nếu chúng ta nhận được hồi âm từ tờ quảng cáo.”
“Vậy là trước đó anh chẳng thể làm gì sao?”
“Chẳng thể làm gì.”
“Trong trường hợp này, tôi sẽ tiếp tục công việc thường nhật. Nhưng tôi sẽ quay lại vào buổi tối đúng giờ anh hẹn, bởi tôi rất muốn chứng kiến cách giải quyết một vụ việc phức tạp đến thế.”
“Rất hân hạnh được gặp anh. Tôi dùng bữa tối lúc bảy giờ. Hình như có món gà rừng thì phải. Nhân thể, xét tình hình vừa xảy ra, có lẽ tôi nên nhờ bà Hudson kiểm tra diều của con ngỗng đó.”
Tôi bị kẹt lại ở một bệnh án, và khi quay về phố Baker thì đã quá sáu giờ rưỡi một chút. Khi tới gần ngôi nhà, tôi trông thấy một người đàn ông cao lớn đội chiếc mũ len kiểu Scotland, khoác áo choàng cài kín đến tận cằm, đang đứng chờ trong vùng ánh sáng hình bán nguyệt tỏa ra từ ô cửa sổ phía trên lối vào. Vừa khi tôi tới nơi, cánh cửa liền mở ra, và chúng tôi cùng được đưa lên phòng làm việc của Holmes.
“Ông Henry Baker, tôi tin là như vậy,” Holmes nói, đứng dậy khỏi chiếc ghế bành và chào đón vị khách với nụ cười thân thiện mà anh luôn biểu lộ một cách tự nhiên. “Xin mời ông ngồi đây bên lò sưởi, thưa ông Baker. Đêm nay trời khá lạnh, và tôi nhận thấy thể trạng ông thích hợp với mùa hè hơn là mùa đông. À, Watson, anh đến đúng lúc đấy. Đây có phải chiếc mũ của ông không, thưa ông Baker?”
“Vâng, thưa ngài, đúng là chiếc mũ của tôi.”
Người đàn ông trước mặt chúng tôi có thân hình cao lớn với đôi vai vạm vỡ, cái đầu to và khuôn mặt rộng tỏ vẻ thông minh, thuôn dần xuống bộ râu nhọn màu nâu điểm bạc. Sắc đỏ ửng trên sống mũi và đôi gò má, cùng với bàn tay đưa ra run nhẹ, đã xác nhận suy đoán của Holmes về thói quen của người này. Chiếc áo khoác dài màu đen đã cũ được cài kín đến cổ, phần cổ áo dựng đứng lộ ra đôi cổ tay gầy guộc thò ra từ tay áo mà không thấy manchette áo sơ mi. Ông ta nói chậm rãi, ngắt quãng, cân nhắc từng lời, toát lên vẻ của một người từng trải, học rộng nhưng đang gặp vận đen.
“Chúng tôi đã giữ những món đồ này vài ngày rồi,” Holmes nói, “vì chúng tôi cứ ngỡ sẽ thấy ông đăng báo tìm kiếm để biết địa chỉ của ông. Giờ tôi thật không hiểu vì sao ông lại không đăng quảng cáo.”
Vị khách của chúng tôi bật cười ngại ngùng. “Giờ đây túi tiền của tôi không còn dư dả như xưa nữa,” ông thừa nhận. “Tôi chắc rằng lũ du côn đã tấn công tôi hôm ấy đã cuỗm luôn cả chiếc mũ lẫn con chim quý. Tôi chẳng muốn tốn thêm xu nào vào việc tìm kiếm vô vọng những thứ đã mất ấy.”
“Điều đó cũng dễ hiểu thôi. À mà nhân nói về con chim, chúng tôi buộc lòng phải ăn thịt nó rồi.”
“Ăn nó ư!” Vị khách của chúng tôi bật dậy khỏi ghế trong phấn khích.
“Vâng, nó sẽ chẳng còn giá trị gì nếu chúng tôi không làm thế. Nhưng tôi nghĩ con ngỗng kia trên tủ phụ, cũng nặng cân như vậy và tươi rói không kém, hẳn sẽ vừa ý ngài chứ?”
“Ồ, tất nhiên rồi, tất nhiên rồi,” ông Baker đáp với giọng nhẹ nhõm thở phào.
“Tất nhiên, chúng tôi vẫn giữ lại lông, chân, diều, vân vân của con chim của ngài, nếu ngài muốn – “
Người đàn ông bật cười vang. “Những thứ đó có thể làm kỷ vật cho cuộc phiêu lưu của tôi,” ông nói, “nhưng thú thực, tôi chẳng thấy mấy phần còn lại của người bạn cũ có ích gì cho mình. Không, thưa ngài, nếu được phép, tôi chỉ muốn nhận lại chú chim tuyệt vời đang đứng trên chiếc tủ kia thôi.”
Sherlock Holmes liếc nhanh về phía tôi, khẽ nhún vai.
“Vậy thì đây là mũ của ngài, và đây là con chim của ngài,” anh nói. “Nhân tiện, ngài có phiền kể cho tôi nghe ngài kiếm được con ngỗng ấy ở đâu không? Tôi là người đam mê gia cầm, và hiếm khi thấy một con ngỗng nào to khỏe đến thế.”
“Chắc chắn rồi, thưa ông,” Baker nói, vừa đứng dậy vừa kẹp chặt món đồ mới nhận được dưới cánh tay. “Mấy anh em chúng tôi thường hay lui tới quán Alpha Inn gần Bảo tàng – ông hiểu đấy, ban ngày chúng tôi thường làm việc trong Bảo tàng. Năm nay, ông chủ quán tử tế của chúng tôi, tên là Windigate, đã lập ra một hội nuôi ngỗng, theo đó mỗi tuần chúng tôi chỉ cần đóng vài xu là đến Giáng Sinh sẽ được nhận một con ngỗng. Tôi đã đóng tiền đầy đủ, và chuyện xảy ra sau đó thì ông đã rõ. Tôi thật lòng biết ơn ông, thưa ông, vì một chiếc mũ len kiểu Scotland chẳng hợp với tuổi tác lẫn vẻ nghiêm trang của tôi chút nào.” Với điệu bộ trang trọng pha chút hài hước, ông ta cúi đầu chào cả hai chúng tôi một cách đường hoàng rồi bước đi.
“Vậy là xong chuyện ông Henry Baker,” Holmes nói khi anh đóng cửa lại. “Rõ ràng ông ta không hề hay biết gì về vụ việc này. Anh có đói không, Watson?”
“Không lắm.”
“Thế thì tôi đề nghị chúng ta dời bữa tối thành bữa khuya và lần theo manh mối này ngay khi nó còn tươi mới.”
“Tôi đồng ý.”
Đêm ấy lạnh buốt, nên chúng tôi khoác lên mình những chiếc áo choàng dày và quấn khăn kín cổ. Ngoài trời, những ngôi sao lạnh lùng chiếu sáng trên nền trời không một gợn mây, hơi thở của người qua đường bốc lên tựa làn khói, như những phát súng lục. Tiếng bước chân chúng tôi vang lên rành rọt và dứt khoát khi đi qua khu phố của các bác sĩ – Wimpole Street, Harley Street, rồi rẽ vào Wigmore Street để ra Oxford Street.
Chỉ mười lăm phút sau, chúng tôi đã tới Bloomsbury tại quán Alpha Inn, một tiệm rượu nhỏ nằm ở góc một con phố dẫn xuống Holborn. Holmes đẩy cánh cửa quầy bar riêng và gọi hai cốc bia từ người chủ quán mặt đỏ ửng, đang đeo chiếc tạp dề trắng.
“Bia của ông chắc phải tuyệt vời lắm nếu ngon như ngỗng của ông,” anh ta nói.
“Ngỗng của tôi ư?” Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên.
“Đúng vậy. Tôi vừa trò chuyện nửa giờ trước với ông Henry Baker, một thành viên trong hội nuôi ngỗng của ông.”
“À! Tôi hiểu rồi. Nhưng ông thấy đấy, thưa ngài, đó không phải là ngỗng của chúng tôi.”
“Thật ư! Vậy là của ai?”
“Ồ, tôi mua hai tá từ một người bán hàng ở Covent Garden.”
“Thế à? Tôi quen vài người trong số họ. Ai vậy?”
“Tên hắn là Breckinridge.”
“À! Tôi không biết người đó. Thôi, chúc ông chủ quán mạnh khỏe, và tiệm của ông làm ăn phát đạt. Chúc ngủ ngon.”
“Giờ thì đến lượt ông Breckinridge,” anh nói tiếp, vừa cài nốt chiếc áo khoác khi chúng tôi bước ra ngoài cái lạnh buốt giá. “Watson này, anh hãy nhớ cho dù chúng ta đang bắt đầu từ một thứ tầm thường như con ngỗng ở một đầu sợi dây, thì ở đầu kia lại là một người đàn ông có thể phải lãnh bảy năm tù khổ sai trừ phi chúng ta chứng minh được anh ta vô tội. Biết đâu cuộc điều tra của chúng ta lại càng khẳng định tội trạng của hắn; nhưng dù thế nào đi nữa, chúng ta đang nắm trong tay một manh mối mà cảnh sát đã bỏ qua, cùng cơ hội đặc biệt mà số phận trao cho. Phải theo đuổi đến cùng thôi. Hướng về phía nam, đi nào, bước nhanh lên!”
Chúng tôi đi ngang qua Holborn, rẽ xuống phố Endell, rồi len lỏi qua một khu phố nhếch nhác, quanh co để tới khu chợ Covent Garden. Một trong những sạp hàng lớn nhất ở đây mang tên Breckinridge, nơi người chủ sạp – một gã đàn ông mặt dài rắn rỏi với vẻ mặt lanh lợi và hai bên tóc mai cắt tỉa gọn gàng – đang giúp một cậu bé đóng cửa tiệm.
“Chào buổi tối. Trời đêm nay lạnh nhỉ,” Holmes lên tiếng.
Người bán hàng khẽ gật đầu rồi liếc nhìn người bạn tôi bằng ánh mắt dò xét.
“Tôi thấy ngỗng đã bán hết rồi,” Holmes tiếp lời, chỉ tay về phía những tấm bàn đá cẩm thạch trống trơn.
“Sáng mai tôi sẽ có cho ngài năm trăm con.”
“Thế thì không được rồi.”
“Chà, có vài con ở quầy hàng có đèn gas kia kìa.”
“Nhưng tôi được người ta giới thiệu đến tìm ông.”
“Ai giới thiệu thế?”
“Ông chủ quán Alpha.”
“À, phải rồi! Tôi đã gửi cho ông ta hai tá ngỗng.”
“Toàn những con chim tuyệt vời. Thế ông lấy chúng từ đâu vậy?”
Thật ngạc nhiên, câu hỏi này khiến người bán hàng nổi giận.
“Này, ông bạn,” anh ta vừa nói vừa nghiêng đầu, chống nạnh, “ông định ám chỉ điều gì? Cứ nói thẳng ra đi.”
“Tôi nói rất thẳng thắn đây. Tôi muốn biết ai đã bán cho ông những con ngỗng mà ông cung cấp cho quán Alpha.”
“Ồ thế à? Thì tôi sẽ không nói cho ông biết đâu. Thế đấy!”
“Ồ, chẳng có gì quan trọng đâu; nhưng tôi không hiểu sao ông lại nổi nóng vì chuyện nhỏ nhặt thế.”
“Nổi nóng! Có lẽ ông cũng sẽ phát cáu như tôi thôi, nếu bị quấy rầy như vậy. Khi tôi đã trả tiền xứng đáng cho món hàng tốt thì chuyện phải dừng lại ở đó; thế mà cứ ‘Con ngỗng đâu?’ rồi ‘Ông đã bán ngỗng cho ai?’ và ‘Ông lấy bao nhiêu tiền con ngỗng?’ Nghe cái đám ồn ào xung quanh chúng, người ta tưởng đó là những con ngỗng duy nhất trên đời này mất.”
“Khoan đã, tôi chẳng dính dáng gì đến mấy người hỏi han kia đâu,” Holmes đáp một cách thờ ơ. “Nếu ông không chịu nói thì vụ cá cược này coi như hủy bỏ, thế thôi. Nhưng tôi luôn sẵn sàng đặt cược vào nhận định của mình về gia cầm, và tôi cá năm bảng rằng con chim tôi vừa ăn là ngỗng được nuôi ở nông thôn.”
“Vậy là ông đã mất năm bảng rồi, vì đó là ngỗng thành phố,” người bán hàng nói giọng cáu kỉnh.
“Không thể nào.”
“Tôi bảo là có.”
“Tôi không tin.”
“Ông tưởng ông hiểu về gia cầm hơn tôi, người đã giao dịch với chúng từ khi còn là một cậu bé hay sao? Tôi nói thẳng với ông, tất cả những con chim được giao đến quán Alpha đều là ngỗng thành phố.”
“Ông sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được tôi tin điều đó.”
“Thế ông có dám cá cược không?”
“Chẳng qua chỉ lấy tiền của ông thôi, vì tôi biết mình đúng. Nhưng tôi sẽ đặt cược một đồng sovereign với ông, chỉ để dạy ông đừng có bướng bỉnh.”
Người bán hàng cười gằn một cách khó chịu. “Mang sổ sách ra đây, Bill,” hắn nói.
Cậu bé con mang ra một cuốn sổ mỏng và một cuốn sổ dày bìa da cũ kỹ, đặt chúng cạnh nhau dưới ngọn đèn treo.
“Được rồi, thưa ngài Tự Tin,” gã bán hàng nói, “tôi cứ tưởng mình đã hết ngỗng để bán, nhưng trước khi kết thúc, ngài sẽ thấy vẫn còn một con trong cửa hàng của tôi. Ngài thấy cuốn sổ nhỏ này chứ?”
“Ừ?”
“Đây là danh sách những kẻ tôi mua hàng từ họ. Ngài thấy không? Này, ở trang này là những người ở nông thôn, và những con số sau tên họ chỉ vị trí tài khoản của họ trong cuốn sổ cái lớn. Nào! Ngài có thấy trang khác viết bằng mực đỏ không? Đó là danh sách các nhà cung cấp trong thành phố của tôi. Giờ hãy nhìn tên thứ ba ở đó. Đọc to lên cho tôi nghe đi.”
“Bà Oakshott, số 117, đường Brixton – mục 249,” Holmes đọc lên.
“Chính xác. Giờ thì tra cứu nó trong cuốn sổ cái đi.”
Holmes lật đến trang được chỉ dẫn. “Đây rồi, ‘Bà Oakshott, số 117 đường Brixton, buôn bán trứng và gia cầm.'”
“Thế còn mục cuối cùng ghi gì?”
“‘Ngày 22 tháng 12. Hai mươi bốn con ngỗng, giá 7 shilling 6 pence.'”
“Đúng thế. Chính nó đó. Còn bên dưới nữa?”
“‘Đã bán cho ông Windigate ở quán Alpha, giá 12 shilling.'”
“Giờ thì ông còn gì để nói nữa không?”
Sherlock Holmes trông cực kỳ thất vọng. Ông rút một đồng sovereign từ túi ra và ném nó xuống nền đá, quay đi với vẻ mặt chán ghét đến mức không thốt nên lời. Cách đó vài bước chân, ông dừng lại dưới một cột đèn và bật cười sảng khoái, cái cười thầm lặng đặc trưng của mình.
“Khi anh thấy một người đàn ông có kiểu tóc mai ấy cùng tờ báo ‘Pink ‘un’ ló ra từ túi áo, anh luôn có thể dụ dỗ hắn bằng một vụ cá cược,” anh bảo. “Tôi cam đoan rằng nếu đặt trước mặt hắn trăm bảng Anh, gã kia cũng chẳng tiết lộ đầy đủ thông tin như khi bị moi ra bởi cái ý nghĩ rằng đang lừa được tôi trong canh bạc. Này Watson, tôi nghĩ chúng ta sắp đi tới hồi kết của cuộc truy tìm này rồi, chỉ còn một điểm cần xác định: nên đến gặp bà Oakshott tối nay hay đợi đến ngày mai. Rõ ràng từ lời lẽ của gã khó ưa kia, có những kẻ khác ngoài chúng ta cũng đang sốt ruột về chuyện này, và tôi nên – “
Câu nói của anh ta đột ngột bị ngắt quãng bởi một tiếng ồn ào vang lên từ gian hàng mà chúng tôi vừa bước khỏi. Khi quay đầu nhìn lại, chúng tôi thấy một gã đàn ông thấp bé, mặt nhọn hoắt như chuột đang đứng giữa vòng ánh sáng vàng vằng vặc tỏa ra từ chiếc đèn lồng đong đưa, trong khi Breckinridge – chủ quầy hàng – đứng chặn ngay lối vào, giận dữ vung nắm đấm về phía kẻ đang co rúm kia.
“Tao chán ngấy mày và đám ngỗng của mày rồi đấy!” Hắn gào lên. “Ước gì tất cả bọn bay biến xuống địa ngục cho rảnh nợ! Nếu mày còn dám quấy rầy tao bằng mấy câu hỏi ngu ngốc đó, tao sẽ xích chó ra cắn mày. Đưa bà Oakshott tới đây, tao sẽ nói chuyện với bả, chứ mày thì có liên quan gì? Tao có mua ngỗng của mày bao giờ không?”
“Không; nhưng một trong số chúng là của tôi mà,” người đàn ông bé nhỏ rên rỉ.
“Thế thì, hãy đi hỏi bà Oakshott.”
“Bà ấy bảo tôi đến hỏi ông.”
“Ồ, ông có thể đi hỏi cả Vua nước Phổ nếu muốn, tôi chẳng quan tâm. Tôi chịu hết nổi rồi. Biến đi!” Hắn hầm hầm xông tới, và người hỏi chuyện vội vã lẩn khuất vào bóng tối.
“Ha! Điều này có thể giúp ta khỏi phải đến Brixton Road,” Holmes khẽ nói. “Đi cùng tôi, chúng ta sẽ xem có thể làm gì với gã này.”
Len lỏi qua những nhóm người thưa thớt đang tụ tập trước các quầy hàng rực rỡ ánh đèn, người bạn tôi nhanh chóng đuổi kịp người đàn ông lùn và đặt tay lên vai hắn. Hắn quay người lại trong chớp mắt, và dưới ánh đèn đường, tôi có thể thấy gương mặt hắn tái nhợt như không còn giọt máu.
“Vậy ông là ai? Ông muốn gì?” người đàn ông hỏi với giọng run rẩy.
“Xin ông thứ lỗi,” Holmes dịu dàng đáp, “nhưng tôi vô tình nghe được những câu hỏi ông vừa tra hỏi người bán hàng. Tôi nghĩ mình có thể giúp ông.”
“Ông? Ông là ai? Làm sao ông có thể biết gì về việc này?”
“Tôi là Sherlock Holmes. Nghề của tôi là biết những điều mà người khác không biết.”
“Nhưng ông không thể biết gì về chuyện này chứ?”
“Xin lỗi ông, tôi biết tất cả mọi chuyện. Ông đang truy tìm dấu vết của những con ngỗng do bà Oakshott ở Brixton Road bán cho người lái buôn tên Breckinridge, rồi từ Breckinridge chuyển đến tay ông Windigate ở quán Alpha, và từ ông ta lại đến hội của ông, nơi ông Henry Baker là một thành viên.”
“Ôi, thưa ông, ông chính là người tôi hằng mong được gặp,” người đàn ông thấp bé kêu lên, hai tay giơ ra cùng những ngón tay run rẩy. “Tôi không sao diễn tả hết được nỗi lòng tôi đặt vào việc này.”
Sherlock Holmes vẫy gọi một chiếc xe ngựa đang đi ngang. “Vậy thì tốt hơn hết chúng ta nên bàn chuyện trong căn phòng ấm áp thay vì nơi chợ búa gió lộng này,” anh nói. “Nhưng xin ông vui lòng cho biết, trước khi chúng ta đi xa hơn, tôi có vinh hạnh được giúp đỡ ai đây.”
Người đàn ông do dự một chút. “Tên tôi là John Robinson,” ông ta đáp, mắt thoáng liếc nhìn sang bên.
“Không, không; tên thật,” Holmes nhẹ nhàng nói. “Làm việc với tên giả bao giờ cũng phiền phức.”
Một ánh hồng thoáng hiện trên đôi gò má nhợt nhạt của người khách lạ. “Vậy thì,” ông ta nói, “tên thật tôi là James Ryder.”
“Đúng vậy. Giám sát lễ tân Cosmopolitan. Mời ông lên xe, tôi sẽ nói cho ông biết mọi điều ông muốn biết.”
Người đàn ông nhỏ bé đứng đó, ánh mắt chuyển từ người này sang người khác trong chúng tôi, vừa lo sợ vừa hi vọng, như kẻ không biết mình đang đứng trước vận may hay tai họa. Cuối cùng ông ta bước lên xe, và nửa giờ sau chúng tôi đã về tới phòng khách ở phố Baker. Suốt hành trình, không ai buông lời nào, nhưng nhịp thở gấp gáp, khẽ khàng của vị khách mới, cùng những lần bàn tay ông ta siết chặt rồi buông lỏng, đã tố cáo sự căng thẳng thần kinh đang dâng lên trong lòng ông.
“Chúng ta đã tới nơi rồi!” Holmes vui vẻ thốt lên khi chúng tôi bước vào căn phòng. “Cái lò sưởi này thật hợp với thời tiết lúc này. Anh trông có vẻ lạnh đấy, Ryder. Mời anh ngồi vào chiếc ghế mây này nhé. Tôi sẽ xỏ đôi dép đi trong nhà trước khi chúng ta bàn về chuyện nhỏ của anh. Nào! Có phải anh muốn biết mấy con ngỗng đó đã đi đâu không?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Hay chính xác hơn, tôi nghĩ là con ngỗng đó. Tôi đoán đó là một con chim mà anh đặc biệt quan tâm – lông trắng muốt, với một vệt lông đen ngang đuôi.”
Ryder run lên vì xúc động. “Ôi thưa ngài,” hắn kêu lên, “ngài có thể cho tôi biết nó đã đi đâu được không ạ?”
“Nó đã tới đây.”
“Tới đây ư?”
“Đúng vậy, và nó đã chứng minh là một loài chim hết sức đặc biệt. Tôi không ngạc nhiên khi ngài lại quan tâm đến nó. Sau khi chết, nó đã đẻ ra một quả trứng – một quả trứng nhỏ màu xanh lam tuyệt đẹp, sáng lấp lánh nhất mà tôi từng được thấy. Tôi đang giữ nó trong bộ sưu tập của mình.”
Vị khách của chúng tôi chao đảo đứng dậy, tay phải bám chặt vào gờ lò sưởi. Holmes mở chiếc hộp sắt ra và nâng viên ngọc xanh lên, nó lấp lánh như một vì sao với thứ ánh sáng lạnh lẽo, rực rỡ và đa chiều. Ryder đứng đó nhìn chằm chằm, gương mặt giằng xé giữa việc nên nhận hay từ chối viên ngọc ấy.
“Hết đường chạy rồi, Ryder ạ,” Holmes nhẹ giọng nói. “Đứng cho vững vào, không thì anh sẽ ngã nhào vào đống lửa mất! Watson, đỡ anh ta ngồi vào ghế đi. Con người nhát gan thế này thì đâu dám phạm tội mà không sợ bị trừng trị. Cho anh ta một ngụm brandy. Đấy! Giờ trông anh ta đã đỡ hơn rồi. Đúng là đồ nhãi con!”
Trong chốc lát, gã kia chệnh choạng suýt ngã, nhưng ngụm rượu đã khiến hai gò má hắn hồng lên đôi chút. Hắn ngồi đó, ánh mắt đầy khiếp sợ dán chặt vào người đang buộc tội mình.
“Gần như mọi mắt xích đều nằm trong tay tôi rồi, cùng tất cả chứng cứ cần thiết, nên anh chẳng cần phải khai báo gì thêm. Nhưng cũng nên làm rõ đôi điều cho vụ án được viên mãn. Anh đã nghe nói về viên ngọc xanh của Bà Bá tước Morcar chứ, Ryder?”
“Catherine Cusack đã kể cho tôi nghe mọi chuyện,” hắn nói bằng giọng khàn đặc.
“Tôi hiểu rồi – cô hầu gái của quý bà. Này, sự cám dỗ của món hời bất ngờ, dễ kiếm quả thật quá lớn đối với anh, như nó đã từng quật ngã bao kẻ khôn ngoan hơn anh. Nhưng anh chẳng còn chút lương tâm nào trong cách hành xử. Với tôi, Ryder này, anh có đủ tố chất để trở thành một tên gian manh đáng sợ đấy. Anh biết rõ gã thợ sửa ống nước Horner kia từng dính líu đến chuyện tương tự trước đây, nên mọi nghi ngờ sẽ dễ dàng đổ lên đầu hắn. Thế là anh đã làm gì? Anh cùng đồng phạm Cusack dựng lên một việc nhỏ trong phòng quý bà – rồi xui khiến người ta gọi hắn đến. Sau khi hắn đi khỏi, anh lục soát hộp nữ trang, báo động, khiến gã đàn ông khốn khổ kia bị bắt. Rồi anh – “
Ryder bỗng nhiên quỳ phịch xuống tấm thảm, hai tay ôm chặt lấy đầu gối Holmes.
“Lạy Chúa, xin ngài thương xót tôi!” hắn rú lên. “Xin nghĩ đến cha tôi! Đến mẹ tôi! Việc này sẽ khiến trái tim họ tan nát. Tôi chưa bao giờ làm điều gì sai trái trước đây! Tôi thề sẽ không tái phạm nữa. Tôi xin thề, thề trên cả Kinh Thánh. Ôi, xin đừng đưa tôi ra tòa! Vì lòng Chúa, xin đừng làm thế!”
“Ngồi lại vào chỗ đi!” Holmes quát lên giọng nghiêm khắc. “Bây giờ mới biết khép nép, van xin thì thật là hay đấy, nhưng lúc đó ngươi có nghĩ đến cái cảnh Horner tội nghiệp kia phải đứng trước vành móng ngựa vì tội ác mà hắn không hề hay biết hay không?”
“Tôi sẽ trốn đi, thưa ngài Holmes. Tôi sẽ rời khỏi đất nước này, thưa ngài. Khi đó cáo buộc chống lại hắn ta sẽ sụp đổ.”
“Ừ! Chúng ta sẽ bàn về chuyện đó sau. Giờ hãy kể cho tôi nghe toàn bộ sự thật về những gì xảy ra tiếp theo. Làm sao viên đá lại lọt vào trong con ngỗng, và con ngỗng đó lại xuất hiện ở chợ công cộng? Hãy nói thật, vì đó là con đường duy nhất giúp ông được an toàn.”
Ryder liếm môi khô khốc. “Tôi sẽ kể lại mọi chuyện đúng như nó đã xảy ra, thưa ngài.
Khi Horner bị bắt, tôi nghĩ tốt nhất là nên trốn đi ngay cùng viên đá, vì không biết khi nào cảnh sát có thể ập đến khám xét tôi và căn phòng của tôi. Trong khách sạn không có chỗ nào đủ an toàn để giấu nó. Tôi ra ngoài, giả vờ như đi làm việc gì đó, và thẳng tiến đến nhà chị gái tôi. Chị ấy lấy chồng tên Oakshott, sống ở đường Brixton, nơi chị nuôi gia cầm béo để bán ở chợ. Suốt dọc đường, ai tôi gặp cũng khiến tôi nghi ngờ là cảnh sát hay thám tử; và dù trời lạnh giá, mồ hôi vẫn chảy ròng ròng trên mặt tôi cho đến khi tới được đường Brixton. Chị gái hỏi tôi có chuyện gì, sao mặt mày tái mét thế; nhưng tôi bảo chị rằng tôi bị choáng vì vụ trộm ngọc ở khách sạn. Rồi tôi ra sau vườn hút thuốc, trăn trở không biết nên làm gì cho phải.
Tôi có một người bạn tên Maudsley, kẻ đã sa vào con đường tội lỗi và vừa mãn hạn tù ở Pentonville. Một hôm, hắn gặp tôi và kể về những thủ đoạn của bọn trộm cắp, cùng cách chúng tiêu tán những thứ đánh cắp được. Tôi biết hắn sẽ trung thành với tôi, vì tôi nắm được một hai bí mật của hắn; thế nên tôi quyết định thẳng đường tới Kilburn, nơi hắn sinh sống, để giãi bày nỗi lòng. Hắn sẽ chỉ cho tôi cách biến viên đá quý thành tiền bạc. Nhưng làm sao đến gặp hắn an toàn đây? Tôi nghĩ về những khốn khổ đã trải qua khi rời khách sạn. Tôi có thể bị bắt giữ và khám xét bất cứ lúc nào, trong khi viên đá vẫn nằm trong túi áo khoác. Đang lúc tựa vào tường ngắm đàn ngỗng lạch bạch dưới chân, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu, chỉ cho tôi cách đánh bại vị thám tử tài ba nhất từng tồn tại.
Chị gái tôi đã bảo tôi vài tuần trước rằng tôi có thể chọn bất cứ con ngỗng nào tôi thích trong đàn của chị để làm quà Giáng sinh, và tôi biết chị luôn giữ lời hứa. Giờ đây tôi quyết định lấy con ngỗng của mình, và trong bụng nó, tôi sẽ mang viên đá quý đến Kilburn. Trong sân có một cái chuồng nhỏ, đằng sau chuồng này tôi lùa ra một con ngỗng – một con to lớn, bộ lông trắng muốt với chiếc đuôi có vệt đen. Tôi túm lấy nó, mạnh tay mở mỏ nó ra và nhét viên đá vào sâu trong cổ họng, cố đẩy vào hết mức ngón tay tôi có thể với tới. Con ngỗng nuốt ực một cái, tôi cảm nhận rõ viên đá trôi qua thực quản rồi chui tới diều của nó. Nhưng con vật bắt đầu vỗ cánh quẫy đạp dữ dội, tiếng động khiến chị gái tôi chạy ra hỏi có chuyện gì xảy ra. Trong lúc tôi quay sang nói chuyện với chị, con ngỗng vùng thoát khỏi tay tôi, bay vụt lên rồi lẫn vào đàn ngỗng đang kiếm ăn gần đó.
Cậu định làm gì với con chim đó thế, Jem?” chị hỏi.
“À,” tôi đáp, “chị đã hứa tặng em một con vào Giáng Sinh, nên em đang xem con nào béo nhất.”
“Ồ,” chị nói, “bọn chị đã chọn riêng cho cậu một con rồi – bọn chị gọi nó là chim của Jem đấy. Là con ngỗng trắng to đùng đằng kia kìa. Tổng cộng có hai mươi sáu con, một con cho cậu, một con cho bọn chị, còn hai tá để đem ra chợ bán.”
“Cảm ơn chị, Maggie,” tôi nói; “nhưng nếu chị không phiền, em vẫn thích lấy con em vừa cầm lúc nãy hơn.”
“Con kia nặng hơn ba pound đấy,” chị bảo, “và bọn chị đã vỗ béo nó đặc biệt cho cậu mà.”
“Không sao đâu. Em sẽ lấy con kia, và em sẽ mang nó đi ngay bây giờ,” tôi nói.
“Ồ, tùy cậu thôi,” chị ấy đáp, giọng hơi bực bội. “Vậy anh muốn con nào?”
“Con trắng có vệt đuôi kia, cái đang đứng giữa đàn ấy.”
“Ồ, được rồi. Giết nó đi rồi mang đi.”
Và thế là tôi đã làm theo lời chị, thưa ông Holmes. Tôi mang con chim suốt quãng đường tới Kilburn. Tôi kể lại chuyện này cho bạn tôi nghe, vì hắn là người có thể tâm sự những chuyện như vậy. Hắn cười đến nỗi nghẹt thở, rồi chúng tôi lấy dao mổ con ngỗng ra. Tim tôi như lạnh hẳn đi khi chẳng thấy tăm hơi viên đá đâu cả, và tôi nhận ra mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp. Tôi vội vứt con chim lại, hối hả quay về nhà chị gái, rồi chạy thẳng ra sân sau. Chẳng còn một con ngỗng nào ở đó nữa.
“Chúng đi đâu hết rồi, Maggie?” tôi kêu lên.
“Đến chỗ người buôn rồi, Jem.”
“Người buôn nào?”
“Breckinridge, ở Covent Garden.”
“Nhưng có con nào khác có đuôi vệt không?” tôi hỏi, “giống như con tôi đã chọn ấy?”
“Có, Jem; có hai con có đuôi vệt, và chị không bao giờ phân biệt được chúng.”
Chà, vậy thì, dĩ nhiên tôi đã hiểu ra tất cả, và tôi chạy nhanh hết sức đến chỗ người đàn ông Breckinridge này; nhưng hắn ta đã bán hết cả lô ngay lập tức, và không nói một lời nào cho tôi biết chúng đã đi đâu.
Tối nay các ông đã tự mình nghe thấy hắn ta nói rồi đấy. Chà, hắn ta luôn trả lời tôi như vậy. Chị gái tôi nghĩ tôi đang phát điên. Đôi khi tôi cũng nghĩ mình đang phát điên. Và bây giờ – và bây giờ chính tôi là một kẻ trộm mang tiếng, mà chưa từng chạm vào của cải mà vì nó tôi đã đánh đổi danh dự của mình. Chúa giúp tôi! Chúa giúp tôi!”
Anh ta bật khóc nức nở, mặt vùi vào hai bàn tay.
Một khoảng lặng dài trôi qua, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng thở nặng nhọc của gã đàn ông và âm thanh đều đặn từ những ngón tay Sherlock Holmes gõ nhẹ lên mặt bàn. Bỗng bạn tôi đứng phắt dậy, mở toang cánh cửa.
“Cút đi!” Holmes quát.
“Gì cơ ạ? Ôi lạy Chúa!”
“Không một lời nào nữa. Biến ngay!”
Chẳng cần thêm lời. Một chuỗi âm thanh vội vã vang lên – tiếng chân chạy thình thịch xuống cầu thang, cánh cửa đóng sầm, rồi nhịp bước hối hả dần khuất ngoài phố.
“Nhưng mà Watson này,” Holmes lấy chiếc tẩu đất sét trên giá, giọng trầm xuống, “tôi không phải lính cảnh sát được thuê để vá những lỗ hổng của họ. Nếu Horner thực sự lâm nguy thì khác, nhưng tên này sẽ không dám ra tòa làm chứng chống lại hắn, vụ án thế nào cũng đổ bể. Có lẽ tôi đang giảm tội cho một kẻ phạm trọng tội, nhưng cũng có thể tôi vừa cứu vớt một tâm hồn. Hắn sẽ không dám tái phạm nữa đâu – đã sợ vỡ mật rồi. Bỏ tù hắn bây giờ chỉ khiến hắn thành tay tù chuyên nghiệp suốt đời. Vả lại, đây là mùa của sự khoan dung. Số phận đã trao cho chúng ta một vụ việc kỳ lạ hiếm có, và chính việc giải quyết nó đã là phần thưởng. Nếu anh vui lòng rung chuông, thưa Bác sĩ, chúng ta sẽ bắt đầu một ‘cuộc điều tra’ mới, mà trong đó, một chú chim sẽ đóng vai trò then chốt.”
*
- Diều (crop): là một túi nhỏ trong cổ họng của con ngỗng, nơi tạm chứa thức ăn trước khi được tiêu hóa. ↵