"

Chương I. Bước Vào Thế Giới Nguyên Sơ

“Bao ngày thèm khát cháy bỏng,
Giờ bừng lên mãnh liệt;
Thoát khỏi xiềng xích văn minh,
Bản năng hoang dã trỗi dậy.”

Buck không đọc báo, nếu không, cậu đã biết tai họa sắp giáng xuống không chỉ riêng mình, mà còn lên tất cả những chú chó khỏe mạnh, lông dài và dày từ vùng eo biển Puget đến tận San Diego. Bởi con người, trong cuộc mò mẫm giữa bóng tối Bắc Cực, đã phát hiện ra thứ kim loại vàng óng, và bởi những hãng tàu, công ty vận tải đang ồ ạt khai thác nguồn lợi này, hàng nghìn kẻ đổ xô về phương Bắc. Họ cần chó – những con chó to khỏe, cơ bắp rắn chắc để kéo xe, với bộ lông dày che chắn cái lạnh cắt da.

Buck sống trong một dinh thự rộng lớn nằm giữa Thung lũng Santa Clara ngập tràn ánh nắng. Người ta gọi nơi ấy là Dinh thự Thẩm phán Miller. Tòa dinh thự cách xa con đường chính, ẩn mình sau những hàng cây xanh um tùm, qua đó chỉ lấp ló thấy hành lang rộng rãi, mát mẻ bao quanh cả bốn phía. Lối vào nhà được rải sỏi trắng, uốn lượn qua những thảm cỏ xanh mượt và dưới những tán dương cao vút đan vào nhau. Phía sau dinh thự còn rộng rãi hơn nhiều so với phía trước. Ở đó có những chuồng ngựa đồ sộ với hàng chục người chăm sóc ngựa và các cậu bé phụ việc, những dãy nhà nhỏ xinh phủ đầy dây leo dành cho người giúp việc, một loạt nhà kho phụ trợ được sắp xếp gọn gàng và liên hoàn, những giàn nho dài bất tận, những cánh đồng cỏ xanh mơn mởn, những vườn cây trĩu quả và những luống dâu ngọt ngào. Ngoài ra còn có trạm bơm nước cho đài phun và một bể xi măng khổng lồ – nơi các con trai của Thẩm phán Miller thường tắm mỗi buổi sáng và đến ngâm mình giải nhiệt trong những buổi chiều oi ả.

Buck thống trị cả vùng đất rộng lớn này. Nó được sinh ra tại đây, và đã sống trọn bốn năm cuộc đời tại nơi này. Dĩ nhiên cũng có những con chó khác. Trên một khu đất bao la như thế, làm sao có thể không có những con chó khác được? Nhưng chúng chẳng đáng kể gì. Chúng đến rồi đi, sống tạm bợ trong những chuồng chó chật chội, hoặc lẩn khuất trong các xó xỉnh của ngôi nhà như Toots – chú chó pug Nhật Bản, hay Ysabel – cô chó không lông Mexico – những sinh vật kỳ dị hiếm khi dám thò mũi ra khỏi cửa hay đặt chân xuống đất. Ngược lại, có cả một bầy chó sục lông cáo, ít nhất hai mươi con, chúng sủa vang những lời đe dọa ghê gớm về phía Toots và Ysabel khi những con chó này nhìn qua cửa sổ, được bảo vệ bởi cả một “đội quân” người giúp việc vũ trang bằng chổi và giẻ lau.

Nhưng Buck không phải là chó giữ nhà cũng chẳng phải chó chuồng. Cả vùng đất rộng lớn này đều thuộc về cậu. Cậu có thể nhảy ùm xuống hồ bơi hay cùng những cậu con trai của ngài Thẩm phán đi săn; dạo bước bên Mollie và Alice, các tiểu thư nhà ngài Thẩm phán trong những buổi chiều tà dằng dặc hay những sớm mai tinh khôi; những đêm đông buốt giá, cậu nằm cuộn tròn dưới chân ngài Thẩm phán sưởi ấm bên lò sưởi trong thư phòng; cậu cõng lũ trẻ nhà ngài Thẩm phán trên lưng, lăn lộn cùng chúng trên thảm cỏ xanh, rồi ân cần dõi theo từng bước chân nhỏ khi chúng mạo hiểm đến đài phun nước sau chuồng ngựa, hay xa hơn nữa – tới những cánh đồng cỏ và vườn dâu chín mọng. Giữa bầy chó sục, cậu bước đi đầy kiêu hãnh, còn Toots với Ysabel thì cậu chẳng thèm để ý, bởi cậu chính là vua – chúa tể của mọi loài bò sát, lưỡng cư hay chim chóc trên mảnh đất Thẩm phán Miller, kể cả loài người.

Cha của Buck, Elmo, một chú chó St. Bernard đồ sộ, từng là người bạn thân thiết không thể tách rời của ngài Thẩm phán Miller. Và Buck hứa hẹn sẽ kế thừa trọn vẹn vị thế của cha mình. Tuy không đạt được kích thước khổng lồ như cha – cậu chỉ nặng khoảng một trăm bốn mươi pound – bởi mẹ cậu, Shep, là giống chó chăn cừu Scotland. Nhưng với cân nặng 140 pound ấy, cùng với phong thái của kẻ được nuông chiều trong nhung lụa và sự tôn kính mà cậu nhận được từ mọi người, Buck hoàn toàn xứng đáng với vẻ ngoài đài các của mình. Trong suốt bốn năm từ thuở ấu thơ, cậu đã sống cuộc đời sung túc của một quý tộc bốn chân; cậu nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh đôi khi hơi tự phụ, giống như những điền chủ sống biệt lập thường trở nên như vậy. Nhưng cậu đã tự cứu mình khỏi trở thành một con chó cảnh được cưng chiều thái quá. Những cuộc đi săn và các hoạt động ngoài trời đã giữ cho thân hình cậu không bị phì nhiêu mà thay vào đó là những bắp thịt rắn chắc; và đối với Buck, cũng như những giống chó ưa nước lạnh, niềm đam mê bơi lội chính là liều thuốc bổ và phương cách gìn giữ sức khỏe hoàn hảo.

Và đây là hình ảnh chú chó Buck vào mùa thu năm 1897, khi cơn sốt vàng Klondike cuốn theo bao người từ khắp nơi trên thế giới đổ xô về vùng đất Bắc Cực băng giá. Nhưng Buck không biết đọc báo, cậu cũng chẳng hề hay biết rằng Manuel – một trong những người làm vườn – là kẻ không đáng tin cậy. Manuel mang trong mình một thói xấu đáng trách. Hắn nghiện chơi xổ số kiểu Trung Quốc. Hơn thế, khi đánh bạc, hắn còn có một điểm yếu chết người – tin tưởng mù quáng vào hệ thống đánh cược; và chính điều này nhất định sẽ dẫn hắn đến tai họa. Bởi đánh theo hệ thống cần rất nhiều tiền, trong khi đồng lương làm vườn của hắn chẳng đủ để nuôi vợ cùng đàn con đông đúc.

Ngài Thẩm phán đang tham dự buổi họp của Hiệp Hội Chủ Vườn Nho, còn các cậu con trai thì mải mê với việc tổ chức câu lạc bộ thể thao, vào cái đêm định mệnh khi Manuel phản bội. Chẳng ai để ý thấy hắn và Buck băng qua khu vườn cây ăn quả trong một chuyến đi mà Buck ngỡ chỉ là cuộc dạo chơi thông thường. Và ngoài một người đàn ông cô độc kia, không ai chứng kiến cảnh họ tới nhà ga nhỏ có tên College Park. Người đàn ông ấy đã trao đổi vài lời với Manuel, rồi tiền kêu lẻng xẻng trong tay họ.

“Mày nên bọc cái đó lại trước khi gửi đi,” gã đàn ông lạ mặt nói một cách thô lỗ, và Manuel quấn chặt một sợi dây thừng quanh cổ Buck, ngay dưới vòng da.

“Vặn một cái là nó tắt thở ngay,” Manuel bảo, và gã kia gật đầu đồng ý ngay lập tức.

Buck chấp nhận sợi dây với vẻ điềm nhiên đáng ngạc nhiên. Đúng là chuyện lạ, nhưng nó đã học cách tin tưởng những người quen thuộc, tin rằng họ thông minh hơn mình. Thế nhưng khi hai đầu dây được trao vào tay người lạ, nó gầm lên một tiếng đe dọa. Chỉ đơn giản là nó bày tỏ sự bất mãn, với niềm kiêu hãnh cho rằng biểu lộ cảm xúc cũng là một cách ra lệnh. Nhưng nó sửng sốt khi sợi dây thình lình siết chặt quanh cổ, khiến hơi thở nghẹn lại. Cơn thịnh nộ bùng lên, nó lao vào gã đàn ông, hắn đỡ ngay lấy cổ nó, khéo léo vặn người và quật ngửa nó ra đất. Rồi sợi dây tiếp tục thít chặt không thương tiếc trong khi Buck giãy giụa điên cuồng, lưỡi lè ra khỏi miệng, ngực phập phồng tuyệt vọng. Chưa bao giờ trong đời nó bị đối xử tàn nhẫn đến thế, và cũng chưa bao giờ nó phẫn nộ đến vậy. Nhưng sức lực dần kiệt quệ, đôi mắt mờ đi, và nó chìm vào cõi vô thức khi chuyến tàu báo hiệu khởi hành, hai gã đàn ông quẳng nó vào toa hành lý.

Lần tỉnh lại tiếp theo, cậu mơ hồ cảm thấy lưỡi mình đau rát và nhận ra mình đang bị xóc lên xuống trên một phương tiện di chuyển nào đó. Tiếng còi tàu hỏa rú lên xé tan không khí khi băng qua đường ray đã cho cậu biết mình đang ở đâu. Cậu đã cùng ngài Thẩm phán đi tàu quá nhiều lần để không nhận ra cái cảm giác ngột ngạt này trong toa hành lý. Mắt cậu mở ra, lóe lên ngọn lửa phẫn nộ dữ dội của một vị vua bị bắt cóc. Người đàn ông vội vã chộp vào cổ cậu, nhưng Buck đã phản ứng nhanh hơn. Hàm răng sắc nhọn của cậu cắn phập vào bàn tay kẻ đó, và cậu nhất quyết không nhả ra cho đến khi mọi thứ lại chìm vào bóng tối vô thức.

“Ừm, nó bị co giật,” người đàn ông nói, giấu bàn tay bị cắn nát khỏi nhân viên toa hành lý đang bị thu hút bởi tiếng động ồn ào. “Tôi đang đưa nó tới San Francisco cho ông chủ. Có một bác sĩ chó giỏi ở đó nghĩ rằng có thể chữa khỏi cho nó.”

Về chuyến đi đêm ấy, người đàn ông đã kể lại tất cả một cách hùng hồn nhất trong căn lều nhỏ sau quán rượu ở bến cảng San Francisco.

“Tôi chỉ vớ được có năm chục thôi,” gã lẩm bẩm; “dù có cho cả ngàn đồng tiền mặt sạch cũng chẳng thèm làm lại chuyện này nữa.”

Bàn tay hắn quấn trong chiếc khăn ướt đẫm máu, còn ống quần phải bị xé rách từ đầu gối xuống tận mắt cá chân.

“Thằng kia được bao nhiêu?” ông chủ quán rượu hỏi.

“Một trăm,” hắn đáp. “Không chịu bớt lấy một xu, tôi thề có Chúa chứng giám.”

“Vậy là tổng cộng một trăm rưỡi,” ông chủ quán tính nhẩm; “và hắn xứng đáng với từng ấy tiền, nếu không thì tôi là thằng ngốc chính hiệu.”

Tên bắt cóc gỡ lớp băng đầy máu và nhìn xuống bàn tay bị xé toạc của hắn.

“Giá mà tôi không mắc chứng điên—”

“Thì mày cũng sinh ra để chết trên giá treo cổ,” gã chủ quán cười nhạo. “Nào, giúp tao một tay trước khi mày chuồn mất,” hắn nói thêm.

Mê man trong cơn đau dữ dội từ cổ họng đến lưỡi, gần như ngạt thở, Buck cố gắng chống cự những kẻ đang hành hạ mình. Nhưng cậu liên tục bị quật ngã và siết cổ, cho đến khi chúng cưa đứt được chiếc vòng đồng nặng trĩu khỏi cổ cậu. Rồi sợi dây thừng cũng bị gỡ bỏ, và cậu bị ném vào một chiếc thùng như cũi sắt.

Cậu nằm đó suốt đêm dài, ấp ủ cơn giận dữ và nỗi tổn thương trong lòng kiêu hãnh. Cậu không sao hiểu nổi ý nghĩa của tất cả những chuyện này. Những kẻ lạ mặt kia muốn gì ở cậu chứ? Sao họ lại nhốt cậu trong cái thùng chật chội này? Cậu chẳng hiểu vì sao, nhưng trong lòng dâng lên một nỗi bất an mơ hồ về tai họa sắp giáng xuống. Đêm ấy, mỗi khi nghe tiếng cửa lán kẽo kẹt mở ra, cậu lại bật dậy hi vọng thấy bóng dáng ngài Thẩm phán, hay ít nhất là mấy cậu con trai nhà ấy. Nhưng lần nào cũng chỉ là gương mặt phừng phựng của tên chủ quán rượu soi vào cậu dưới ánh nến leo lét. Và mỗi lần như thế, tiếng sủa mừng rỡ đang nghẹn lại trong cổ họng Buck bỗng hóa thành tiếng gầm gừ đầy hung hãn.

Nhưng chủ quán rượu để cậu yên, và sáng hôm sau có bốn người đàn ông bước vào, nhấc chiếc thùng lên. Những kẻ hành hạ mới, Buck nhận định ngay, bởi họ trông thật xấu xí, quần áo rách rưới và bẩn thỉu; cậu gầm gừ dữ tợn qua những thanh sắt ngăn cách. Họ chỉ cười nhạo rồi dùng gậy chọc vào cậu, lập tức cậu lao tới cắn xé cho tới khi nhận ra đó chính xác là điều họ đang muốn. Cuối cùng, cậu nằm xuống trong bực bội, để mặc cho họ khiêng chiếc thùng lên xe ngựa. Rồi cậu, cùng chiếc thùng giam hãm mình, bắt đầu một hành trình dài qua vô số bàn tay khác nhau. Nhân viên bưu điện nhận cậu từ đó; cậu bị chất lên một cỗ xe ngựa khác; rồi một chiếc xe tải chở cậu cùng vô số thùng hàng và bưu kiện lên một con tàu hơi nước; từ bến tàu, cậu lại bị đưa tới một nhà ga xe lửa đồ sộ, và cuối cùng bị tống vào một toa chở hàng tốc hành.

Trong hai ngày hai đêm, chiếc toa chuyển phát nhanh bị lôi đi phía sau những đầu máy xe lửa gầm rú; và suốt hai ngày hai đêm ấy, Buck chẳng được ăn uống gì. Lửa giận bốc cao, cậu đáp lại những lần tiếp cận đầu tiên của bọn nhân viên chuyển phát bằng tiếng gầm gừ hung dữ, và chúng đáp trả bằng cách trêu tức cậu. Mỗi khi cậu phóng mình vào song sắt, người run bần bật, mép sùi bọt trắng, bọn chúng lại cười nhạo, chế giễu không thương tiếc. Chúng bắt chước tiếng gầm gừ, tiếng sủa của lũ chó đáng khinh, rồi lại kêu meo meo, vẫy tay khoa chân, gáy ầm ĩ. Buck hiểu rõ đó chỉ là trò hề ngu xuẩn, nhưng chính sự ngu xuẩn ấy càng xúc phạm nặng nề đến lòng kiêu hãnh của cậu, khiến cơn thịnh nộ trong cậu cứ thế bùng lên dữ dội. Cơn đói không khiến cậu bận tâm lắm, nhưng cơn khát dày vò khủng khiếp, làm bùng cháy cơn giận đến tột đỉnh. Hơn nữa, với bản tính nhạy cảm dễ kích động, sự ngược đãi tàn nhẫn đã khiến cậu lên cơn sốt, mà cơn sốt ấy lại càng trầm trọng hơn bởi cổ họng và lưỡi cậu sưng vù, khô cứng, viêm tấy đau đớn.

Cậu vui mừng vì một điều: sợi dây đã được cởi khỏi cổ. Điều đó đã cho bọn họ lợi thế bất công; nhưng giờ dây đã tháo, cậu sẽ cho chúng biết tay. Chúng sẽ không bao giờ có thể quàng thêm sợi dây nào quanh cổ cậu nữa. Về chuyện đó, cậu đã quyết tâm. Suốt hai ngày hai đêm, cậu nhịn ăn nhịn uống, và trong khoảng thời gian hành hạ ấy, cậu đã tích tụ một cơn thịnh nộ khủng khiếp dành cho kẻ nào dám khiêu khích trước. Đôi mắt đỏ ngầu, và cậu biến thành một con quỷ dữ tợn. Cậu thay đổi đến mức ngay cả ông Thẩm phán cũng sẽ không nhận ra; còn những người đưa thư thì thở phào nhẹ nhõm khi tống cậu xuống tàu ở Seattle.

Bốn người đàn ông cẩn thận khiêng chiếc thùng từ xe ngựa vào một cái sân sau nhỏ, tường cao. Một người đàn ông to lớn, mặc chiếc áo len đỏ cổ rộng, bước ra và ký vào sổ cho người lái xe. Đó là người đàn ông, Buck đoán, kẻ hành hạ tiếp theo, và cậu điên tiết lao mình vào song sắt. Người đàn ông cười nhăn, cầm theo một cái rìu và một cây gậy.

“Anh không định lôi nó ra bây giờ sao?” người lái xe hỏi.

“Chắc chắn rồi,” người đàn ông đáp, cắm lưỡi rìu vào thành thùng để bẩy lên.

Bốn người vừa khiêng cái thùng vào liền tản ra, tìm chỗ đứng an toàn trên những bức tường cao, chuẩn bị xem màn kịch sắp diễn.

Buck xông thẳng tới chỗ gỗ bị nứt, cắm răng vào đó, giằng co, vật lộn điên cuồng. Bất kỳ chỗ nào lưỡi rìu từ bên ngoài bổ xuống, từ bên trong cậu đều hiện diện ngay lập tức – gầm gừ, nhe bộ nanh trắng nhọn hoắt, khao khát tự do cháy bỏng y hệt như người đàn ông áo đỏ kia đang bình thản nhưng kiên quyết kéo cậu ra khỏi đó.

“Nào, con quỷ mắt đỏ,” hắn nói, khi đã khoét đủ lỗ để Buck có thể chui lọt.

Hắn buông rìu xuống và chuyển cây gậy sang tay phải.

Buck quả thực là một con quỷ mắt đỏ lúc này, toàn thân căng cứng chuẩn bị phóng tới, lông dựng ngược, bọt mép sùi ra, ánh mắt đỏ ngầu đầy điên loạn. Cậu lao thẳng vào người đàn ông với toàn bộ sức mạnh một trăm bốn mươi pao cùng cơn thịnh nộ tích tụ suốt hai ngày hai đêm. Giữa không trung, ngay khi hàm răng sắp cắn phập vào kẻ thù, cậu bất ngờ nhận một cú đánh khiến cơ thể co giật, hàm răng đau điếng nghiến chặt vào nhau.

Cậu bị văng ngược trở lại, đập lưng và hông xuống đất. Chưa bao giờ cậu bị đánh bằng gậy, nên hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Gầm gừ, sủa dữ, rít lên điên cuồng, cậu lại bật dậy phóng lên. Và một lần nữa, cú đánh khủng khiếp ập xuống, ném cậu xuống đất không chút thương tiếc. Lần này cậu đã nhận ra thứ vũ khí kia, nhưng cơn điên đã khiến cậu mất hết nỗi sợ. Cậu liên tục xông lên, và mỗi lần như vậy, cây gậy tàn nhẫn lại chặn đứng đòn tấn công, quật cậu ngã dúi dụi xuống đất.

Sau một cú đánh đặc biệt tàn bạo, Buck lảo đảo đứng dậy, quá choáng váng để có thể xông lên. Cậu loạng choạng đi vòng quanh trong tình trạng kiệt sức, máu chảy ra từ mũi, miệng và tai, bộ lông xinh đẹp của cậu nhuộm đỏ bởi bọt máu. Người đàn ông tiến lại gần và cố ý giáng xuống mũi cậu một cú đánh kinh hoàng. Mọi nỗi đau trước đó cậu từng chịu đựng bỗng trở nên nhạt nhòa trước cơn đau tột cùng này. Với tiếng gầm dữ dội như sư tử, Buck lại lao thẳng vào kẻ thù. Nhưng người đàn ông nhanh chóng chuyển cây gậy từ tay phải sang tay trái, bình thản nắm chặt hàm dưới của cậu rồi giật mạnh xuống dưới và ra sau. Buck bị hất tung lên không trung, xoay trọn một vòng rưỡi trước khi đập mạnh đầu và ngực xuống mặt đất.

Lần cuối cùng, hắn lao tới. Người đàn ông tung ra cú đánh hiểm ác mà hắn đã cố tình giữ lại bấy lâu, và Buck ngã gục, hoàn toàn bất tỉnh.

“Anh ta chẳng phải tay vừa trong việc dạy chó đâu, tôi dám chắc thế,” một kẻ đứng trên tường hò reo đầy hứng khởi.

“Tôi thà đi thuần ngựa hoang bất cứ lúc nào, mà còn gấp đôi vào ngày Chủ nhật,” gã đánh xe đáp lại, trong khi leo lên xe và thúc ngựa phi đi.

Buck tỉnh dậy, nhưng chẳng còn chút sức lực nào. Cậu nằm bất động ngay chỗ vừa ngã xuống, đôi mắt đờ đẫn nhìn chằm chằm vào gã đàn ông mặc chiếc áo len đỏ kia.

“Tên nó là Buck,” gã lẩm bẩm một mình, đọc lại dòng chữ trong bức thư của ông chủ quán rượu gửi kèm theo cái thùng và món hàng bên trong. “Nào, Buck, cậu nhóc của ta,” gã tiếp tục bằng giọng điệu giả bộ thân thiện, “bọn ta vừa có một màn đấu đá nho nhỏ, và tốt nhất là dừng lại ở đây thôi. Mày đã rõ thân phận mày, tao cũng biết thân phận tao. Cứ ngoan ngoãn, mọi chuyện sẽ êm đẹp. Còn nếu cứng đầu, tao sẽ đập cho mày tan xác. Rõ chưa?”

Khi nói, hắn không ngần ngại vỗ nhẹ lên cái đầu mà chính tay hắn vừa đập tanh bành không chút thương xót, và dù lông Buck dựng đứng lên mỗi khi chạm phải bàn tay ấy, cậu vẫn cam chịu mà không kháng cự. Khi người đàn ông mang nước tới, cậu uống ừng ực, rồi nuốt vội một bữa thịt sống thịnh soạn từng miếng một do chính tay hắn đút cho.

Cậu đã bại trận (cậu biết rõ điều đó); nhưng chưa bị khuất phục. Cậu nhận ra rõ ràng mình chẳng có cửa nào chống lại một gã đàn ông tay cầm cây gậy. Bài học ấy cậu đã thuộc lòng, và suốt đời sau này chẳng thể nào quên. Cây gậy kia chính là ánh sáng khai minh. Đó là buổi đầu cậu làm quen với luật rừng man dại, và cậu đã sẵn sàng đón nhận nó. Hiện thực cuộc đời bỗng hiện ra tàn nhẫn hơn; và khi đối diện với mặt tối ấy mà không run sợ, cậu cũng đã đánh thức toàn bộ sự khôn ngoan tiềm ẩn trong bản chất loài sói của mình.

Ngày lại ngày trôi qua, lũ chó khác lần lượt xuất hiện, nhốt trong thùng gỗ hay bị buộc thừng vào cổ, có con ngoan ngoãn phục tùng, có con gầm gừ gào thét như cậu ngày trước; và từng con một, cậu chứng kiến chúng rơi vào vòng thống trị của gã đàn ông áo đỏ. Mỗi lần chứng kiến cảnh tàn bạo ấy lặp lại, bài học càng khắc sâu vào tâm trí Buck: kẻ cầm gậy chính là kẻ đặt ra luật lệ, là chủ nhân buộc phải tuân theo, dù chẳng cần nịnh hót. Buck chưa từng phạm sai lầm ấy, dù cậu từng thấy những con chó bị đánh đập vẫn ngoan ngoãn vẫy đuôi, liếm tay hắn. Cậu cũng chứng kiến một con chó khác, chẳng chịu nịnh hót cũng không phục tùng, cuối cùng bỏ mạng trong cuộc chiến giành quyền thống trị.

Thỉnh thoảng, lại có những người lạ tới, nói năng huyên thuyên, tâng bốc đủ điều với gã đàn ông mặc áo len đỏ. Và mỗi lần như thế, tiền bạc lại chuyển từ tay người này sang tay kẻ khác, rồi những kẻ lạ mặt dắt đi một vài con chó. Buck băn khoăn không biết chúng đi đâu, bởi chẳng con nào trở về; nhưng nỗi lo sợ về tương lai cứ đè nặng trong lòng nó, và mỗi lần không bị chọn, nó lại thầm cảm thấy nhẹ nhõm.

Rồi cái ngày ấy cũng tới với Buck, dưới hình dạng một gã đàn ông thấp bé gầy gò, nói tiếng Anh ngọng nghịu cùng vô số âm thanh quái dị, thô lỗ mà Buck chẳng thể nào hiểu nổi.

“Chết tiệt!” hắn thốt lên, khi ánh mắt dừng lại trên Buck. “Con chó này đúng là đồ cứng đầu! Hả? Bao nhiêu vậy?”

“Ba trăm, và coi như bán phá giá luôn,” gã mặc áo len đỏ nhanh nhảu đáp. “Tiền chính phủ cả mà, anh chẳng có gì phải băn khoăn đâu nhỉ, Perrault?”

Perrault nở nụ cười toe toét. Xét theo việc giá chó đang đội lên như diều gặp gió bởi nhu cầu khủng khiếp, thì đó không phải là mức giá quá đáng cho một con vật xuất sắc đến thế. Chính phủ Canada chẳng thiệt hại gì, cũng như công văn của họ sẽ không vì thế mà chậm trễ. Perrault hiểu rõ chó, và khi nhìn Buck, hắn biết ngay đây là con chó một trong ngàn – “Một trong mười ngàn,” hắn thầm nghĩ.

Buck chứng kiến những đồng tiền được trao đổi giữa hai người đàn ông, và chẳng có gì ngạc nhiên khi Curly – một chú chó Newfoundland hiền lành – cùng cậu bị người đàn ông thấp bé gầy gò kia dẫn đi. Đó là lần cuối cậu nhìn thấy gã đàn ông mặc chiếc áo len đỏ, và khi Curly cùng cậu đứng trên boong tàu Narwhal nhìn thành phố Seattle khuất dần, cũng là lúc cậu vĩnh viễn chia tay miền đất phương Nam ấm áp.

Perrault đưa Curly và cậu xuống khoang giữa, giao cho một người đàn ông da ngăm đen tên François. Perrault là người Canada gốc Pháp với làn da sạm nắng; còn François – hậu duệ lai của người Canada gốc Pháp – có nước da còn sẫm màu gấp đôi. Đối với Buck, họ thuộc về một chủng loại người hoàn toàn mới (và cậu sẽ còn gặp nhiều kẻ như thế nữa), dù chẳng ưa gì họ nhưng cậu vẫn dành cho họ sự kính trọng thực sự. Chẳng mấy chốc, cậu nhận ra Perrault và François là những con người công minh, điềm tĩnh và khách quan khi xét đoán, lại quá am tường tính cách loài chó để bị chúng lừa gạt.

Giữa khoang tàu Narwhal, Buck và Curly làm quen với hai con chó khác. Một trong số đó là một gã khổng lồ trắng muốt đến từ Spitzbergen, được một thuyền trưởng tàu săn cá voi mang về, sau đó lại theo một đoàn thám hiểm địa chất vào vùng đất hoang vu. Hắn tỏ ra thân thiện nhưng đầy mánh khóe, luôn nở nụ cười toe toét trước mặt kẻ khác trong khi âm thầm tính toán những trò đê tiện – như lần đầu tiên hắn lén ăn trộm phần thức ăn của Buck. Khi Buck xông vào dạy cho hắn một bài học, ngọn roi của François đã vút lên xé tan không khí, trút cơn thịnh nộ xuống kẻ phạm tội trước tiên; Buck chỉ còn biết nhặt lại khúc xương của mình. Buck cho rằng cách xử sự của François thật công minh, và từ đó người đàn ông lai này bắt đầu giành được sự nể phục từ con chó Bắc Mỹ.

Con chó ấy chẳng hề tỏ ra thân thiện hay niềm nở đón chào bất kỳ ai; hơn thế nữa, nó cũng chẳng buồn nhòm ngó đến việc ăn vụng đồ của những kẻ mới đến. Đó là một sinh vật lầm lũi, ủ rũ, và nó đã cho Curly thấy rõ ràng rằng nó chỉ muốn được yên ổn – hơn nữa, sẽ có chuyện chẳng lành nếu ai đó phá vỡ sự yên tĩnh của nó. Tên nó là “Dave”, và suốt ngày nó chỉ ăn, ngủ, hoặc ngáp dài trong những khoảng thời gian rảnh rỗi, hoàn toàn thờ ơ với mọi thứ xung quanh, kể cả khi con tàu Narwhal lắc lư, chòng chành và nhảy múa điên cuồng như bị ma ám khi vượt qua eo biển Queen Charlotte. Trong khi Buck và Curly hoảng loạn đến phát điên vì sợ hãi, nó chỉ ngẩng đầu lên như thể bực bội, liếc nhìn chúng bằng ánh mắt vô hồn, ngáp một cái rồi lại tiếp tục chìm vào giấc ngủ.

Ngày đêm, con tàu rung chuyển theo nhịp đập không ngừng của chân vịt, và dù mỗi ngày trôi qua đều giống hệt nhau, Buck vẫn nhận rõ cái lạnh đang ngày một buốt giá hơn. Rồi đến một buổi sáng, chân vịt đột nhiên ngừng quay, không khí trên con tàu Narwhal trở nên náo nhiệt lạ thường. Buck cảm nhận được điều đó, cũng như những con chó khác, và biết chắc một sự thay đổi lớn sắp diễn ra. François xích chúng lại rồi dẫn lên boong tàu.

Vừa đặt chân xuống bề mặt lạnh giá, bốn chân Buck đã lún sâu vào thứ vật chất trắng xốp giống bùn. Cậu giật mình thụt lùi, phì phò thở hổn hển. Từ trên trời, vô số hạt trắng mỏng manh đang rơi xuống. Buck lắc mình mạnh mẽ, nhưng chúng vẫn tiếp tục bám đầy lên bộ lông. Tò mò, cậu ngửi ngửi rồi thận trọng liếm thử. Một cảm giác châm chích như lửa đốt lan trên đầu lưỡi rồi biến mất tức thì. Điều kỳ lạ này khiến Buck bối rối. Cậu thử lại lần nữa, kết quả vẫn y nguyên. Tiếng cười giòn tan vang lên từ những người đứng xem khiến cậu cảm thấy ngượng ngùng, dù chẳng hiểu vì sao – bởi đây là lần đầu tiên trong đời Buck nhìn thấy tuyết.

Bản quyền

Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã Copyright © by khosachviet.com. All Rights Reserved.