15 BỘ QUẦN ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA
Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua vô cùng say mê quần áo mới đến mức ông đã tiêu tốn hết tiền bạc vào chúng. Ông chẳng quan tâm gì đến quân đội; ông cũng chẳng màng tới nhà hát hay những cuộc dạo chơi trong rừng, trừ khi đó là dịp để khoe những bộ trang phục mới.
Ông sở hữu một bộ quần áo riêng cho từng giờ trong ngày, và trong khi người ta thường nói về các vị vua hay hoàng đế khác rằng: “Ngài đang ở trong phòng họp triều đình,” thì với vị vua này, mọi người lại bảo: “Nhà vua đang ở trong phòng thay đồ.”
Thành phố nơi nhà Vua sinh sống lúc nào cũng tấp nập và vui tươi, mỗi ngày đều có vô số người lạ từ khắp nơi đổ về. Rồi một hôm, trong đám đông ấy xuất hiện hai tên lừa đảo tự nhận là thợ dệt, chúng huênh hoang tuyên bố rằng mình biết cách dệt ra thứ vải đẹp đẽ nhất, tuyệt vời nhất mà trần gian từng thấy. Không những màu sắc và họa tiết của nó vô cùng lộng lẫy, mà quần áo được may từ thứ vải này còn mang một đặc tính kỳ diệu: nó sẽ trở nên vô hình trước mắt những kẻ không xứng đáng với chức vụ của mình hoặc những ai quá đỗi ngu ngốc.
“Chắc hẳn đó phải là bộ trang phục vô cùng quý giá,” đức Vua thầm nghĩ. “Khi khoác lên mình, trẫm sẽ nhận ra kẻ nào trong vương quốc này không xứng đáng với chức vị của hắn. Trẫm sẽ phân biệt được người thông thái với kẻ đần độn. Phải rồi, trẫm phải ra lệnh dệt ngay loại vải này cho riêng mình.” Và ngài đã trả trước cho những kẻ lừa đảo một số tiền lớn, đúng như chúng yêu cầu.
Còn bọn chúng thì dựng lên hai khung cửi và giả vờ làm việc miệt mài, dù trên con thoi chẳng hề có sợi chỉ nào. Chúng đòi hỏi thật nhiều lụa tơ tằm thượng hạng và chỉ vàng nguyên chất, tất cả đều được chúng bỏ vào túi riêng, trong khi vẫn tiếp tục giả vờ làm việc bên những khung cửi trống trơn cho đến tận đêm khuya.
“Ta muốn biết những người thợ dệt đó dệt vải đến đâu rồi,” nhà Vua nghĩ thầm. Nhưng trong lòng lại cảm thấy hơi bồn chồn khi nghĩ đến những kẻ ngốc nghếch hoặc không xứng đáng với chức vụ của mình sẽ chẳng thể nào trông thấy thứ vải ấy. Ông tự tin bản thân chẳng có gì phải lo sợ, thế nhưng vẫn cho rằng tốt hơn hết nên sai người khác đi trước để dò xét tình hình. Khắp cả kinh thành đều đã nghe đồn về tính chất kỳ lạ của thứ vải này, và ai nấy đều háo hức muốn biết xem người láng giềng của mình đần độn đến mức nào.
“Ta sẽ phái lão thừa tướng trung thành của ta đến chỗ bọn thợ dệt,” nhà Vua quyết định. “Ông ấy chính là người thích hợp nhất để nhận xét thứ vải này, bởi lão vốn thông thái và chẳng ai xứng đáng với chức vụ của mình hơn lão.”
Vậy là vị tể tướng lão thành đáng kính bước vào căn phòng nơi hai kẻ bịp bợm đang ngồi làm việc bên những khung cửi trống không.
“Chúa ơi!” ông lão thầm nghĩ, mắt trợn tròn. “Sao ta chẳng nhìn thấy gì hết!” Nhưng ông cẩn trọng không thốt lên thành lời.
Hai tên lừa gạt cùng mời ông tiến lại gần và hỏi liệu ông có thấy hoa văn tuyệt đẹp cùng màu sắc tinh xảo hay không. Chúng vừa nói vừa chỉ tay về phía khung cửi trống rỗng, và vị tể tướng già đáng thương cứ dồn hết sức tập trung nhìn chăm chú – nhưng chẳng thấy gì trên đó cả, bởi đương nhiên chẳng có thứ gì để nhìn thấy.
“Lạy Chúa!” ông lão thầm nghĩ. “Chẳng lẽ ta thật sự ngu ngốc? Ta chưa từng nghi ngờ điều đó, và không một ai được phép biết chuyện này. Phải chăng ta không xứng với chức vụ của mình? Ta tuyệt đối không thể thừa nhận rằng mình không nhìn thấy thứ vải ấy.”
“Thưa ngài, ngài chẳng có lời nào nhận xét về tấm vải này sao?” một kẻ đang giả vờ làm việc hỏi.
“Ôi, nó thật tinh xảo, thật tuyệt vời!” vị lão thần bối rối đáp, trong khi đưa mắt nhìn qua cặp kính. “Đường nét thật tinh tế, sắc màu thật rực rỡ! Ta nhất định sẽ tâu lên bệ hạ rằng ta vô cùng hài lòng với tấm vải này.”
“Chúng thần vô cùng hoan hỉ khi nghe được điều đó,” hai tên thợ dệt đồng thanh đáp; rồi chúng thao thao bất tuyệt về những sắc màu và chỉ ra những nét độc đáo trong hoa văn. Vị đại thần chăm chú ghi nhớ từng lời, để khi trở về triều, ông có thể tường thuật lại cho hoàng thượng nghe y nguyên.
Chẳng bao lâu sau, bọn lừa đảo lại đòi thêm nhiều tiền bạc, thêm lụa là và chỉ vàng nữa, tất cả đều để phục vụ cho công việc dệt vải. Thế nhưng, tất cả số ấy đều bị chúng nhét đầy vào túi riêng, chẳng có một sợi chỉ nào thực sự được đưa vào khung dệt. Chúng vẫn cứ thản nhiên ngồi làm việc trước những khung cửi trống trơn như cũ.
Một thời gian ngắn trôi qua, nhà Vua lại sai một vị đại thần khác, nổi tiếng là người liêm khiết, đến để kiểm tra tiến độ công việc dệt và xem tấm vải quý đã gần hoàn thành hay chưa. Vị quan này cũng rơi vào tình cảnh y hệt như người tiền nhiệm của mình. Ông ta chăm chú nhìn tới nhìn lui, nhưng trước mắt chỉ là những khung cửi trống không, nên ông chẳng thể nhìn thấy bất cứ thứ gì khác.
“Đây chẳng phải là một tấm vải tuyệt đẹp sao?” những người thợ dệt hỏi, vừa nói vừa chỉ vào một trong những khung cửi và giải thích về hoa văn đẹp đẽ cùng những màu sắc không hề có ở đó.
“Mình không ngu ngốc, mình biết mình không ngu ngốc!” vị quan nghĩ, “Vậy thì chắc là mình không xứng đáng với chức vụ tốt đẹp của mình rồi. Thật là kì lạ, nhưng mình không được để lộ ra.”
Thế là ông ta khen ngợi tấm vải mà mình không hề thấy và cam đoan với những người thợ dệt rằng mình rất thích những màu sắc đáng yêu và hoa văn tinh xảo. “Nó thật sự rất quyến rũ,” ông ấy báo cáo với đức vua.
Mọi người trong thị trấn đều bàn tán về tấm vải tuyệt đẹp đó. Nhà Vua nghĩ rằng chính ngài nên tự mình đến xem khi nó vẫn còn đang ở trên khung cửi. Cùng với một đoàn tùy tùng được chọn lọc kĩ càng, trong đó có hai vị đại thần đáng kính đã từng đến trước đó, ngài tới thăm những kẻ lừa đảo gian xảo, những kẻ vẫn đang miệt mài làm việc bên những khung cửi trống không.
“Chẳng phải nó thật tuyệt vời sao?” cả hai vị quan trung thực đồng thanh thốt lên. “Tâu Bệ hạ, xin Ngài hãy ngắm nhìn, màu sắc thật lộng lẫy, hoa văn thật tinh xảo!”
Và họ chỉ tay về phía khung cửi trống rỗng, bởi họ tin chắc rằng những người khác, tất nhiên, có thể nhìn thấy thứ mà chính họ không hề thấy.
“Cái gì!” nhà Vua nghĩ thầm. “Ta chẳng thấy gì cả. Thật là khủng khiếp! Chẳng lẽ ta là kẻ ngốc nghếch? Chẳng lẽ ta không xứng đáng ngồi trên ngai vàng? Ôi, không có điều gì tồi tệ hơn thế này có thể xảy đến với ta nữa!”
“Ồ, thật là tuyệt mỹ! Trẫm rất hài lòng,” nhà Vua phán lớn. Ngài gật đầu ra vẻ tán thưởng khi nhìn chằm chằm vào khung cửi trống không, bởi ngài không muốn tiết lộ rằng mình chẳng nhìn thấy thứ gì.
Toàn bộ triều thần đi theo cũng đảo mắt nhìn qua nhìn lại, chẳng ai thấy được nhiều hơn những người khác; nhưng, giống như đức Vua, tất cả đều đồng thanh reo lên: “Ồ, thật là tuyệt diệu!” Họ còn nhiệt thành đề nghị nhà Vua nên mặc bộ trang phục mới lộng lẫy ấy trong lần đầu xuất hiện tại cuộc diễu hành trọng đại sắp tới.
“Tuyệt vời! Lộng lẫy! Tráng lệ!” những lời tán dương cứ thế truyền từ người này sang người khác. Ai nấy đều tỏ ra hài lòng như nhau trước tài nghệ của những người thợ dệt. Nhà Vua ban thưởng cho mỗi kẻ lừa đảo một huân chương hiệp sĩ để đính lên khuy áo, cùng phong tặng danh hiệu “Thợ Dệt Quý Tộc của Triều Đình Hoàng Gia”.
Trước ngày diễu hành, bọn họ thức trắng đêm, thắp sáng mười sáu ngọn nến, khiến ai cũng thấy rõ sự tận tụy của chúng trong việc hoàn thành bộ y phục mới cho đức Vua. Chúng giả vờ lấy vải ra khỏi khung dệt, cắt xén trong không trung bằng những chiếc kéo lớn, rồi may vá bằng kim không xỏ chỉ. Cuối cùng, chúng tuyên bố: “Giờ thì bộ quần áo đã hoàn thành.”
Đức Vua tự mình bước đến chỗ bọn họ cùng với những triều thần cao cấp nhất, và mỗi tên lừa đảo giơ cao tay lên như đang nâng niu thứ gì đó, rồi thong thả nói: “Xin Bệ hạ hãy ngắm nhìn! Đây là quần! Đây là áo khoác! Đây là áo choàng!” và cứ thế tiếp tục. “Chúng nhẹ tựa mạng nhện. Người mặc gần như cảm thấy chẳng mang gì trên người, nhưng chính điểm ấy mới làm nên vẻ đẹp tuyệt vời của bộ trang phục!”
“Đúng vậy,” tất cả các triều thần đồng thanh đáp, nhưng thực ra họ chẳng nhìn thấy thứ gì, bởi chẳng có thứ gì để thấy cả.
“Kính thưa Bệ hạ, Ngài có thể vui lòng cởi bỏ y phục hiện tại để hạ thần được tận tay mặc lên người Ngài bộ trang phục mới này ngay trước tấm gương lớn kia không ạ?”
Nhà Vua cởi bỏ hết quần áo trên người, và lũ lừa đảo giả vờ mặc cho ông từng bộ một trong số những bộ đồ mới mà chúng vờ như đã dệt xong. Chúng làm điệu bộ quấn thứ gì đó quanh eo nhà Vua, rồi thắt thứ gì đó lại. Chúng bảo đó là chiếc áo choàng đuôi dài, và nhà Vua cứ xoay mình trước tấm gương.
“Bệ hạ trông thật tuyệt vời trong bộ cánh mới! Thật là xứng tầm với Bệ hạ!” tất cả các quan thần đồng thanh reo lên. “Đúng là một bộ y phục lộng lẫy hiếm có!”
“Tàn lọng che đã sẵn sàng được rước phía trên đầu Bệ hạ trong đoàn diễu hành đang chờ đợi bên ngoài,” vị quan phụ trách nghi lễ cung kính tâu.
“Tốt lắm, trẫm đã chuẩn bị xong,” nhà Vua đáp. “Bộ trang phục trông có đẹp không?” rồi ngài lại tiếp tục xoay mình trước tấm gương lớn, làm ra vẻ đang say sưa ngắm nhìn bộ y phục mới của mình.
Những người hầu cận chuyên phụ trách phần tà áo choàng, cúi mình xuống và đưa tay về phía sàn nhà như thể đang nâng niu lớp vải quý; sau đó họ giả bộ như đang cẩn thận giữ một thứ gì đó lơ lửng trong không trung. Họ tuyệt đối không muốn lộ ra việc bản thân chẳng nhìn thấy cũng chẳng cảm nhận được bất cứ thứ gì.
Thế là đức Vua đi trong cuộc diễu hành, dưới chiếc lọng lộng lẫy, và mọi người trên phố đều nói: “Bộ quần áo mới của vua đẹp làm sao! Tà áo choàng thật lộng lẫy! Và nó hợp với vua biết bao!”
Chẳng ai muốn để lộ rằng mình chẳng thấy gì, vì điều đó sẽ chứng tỏ họ không xứng đáng với chức vụ của mình. Chưa có bộ quần áo nào của nhà Vua lại thành công lớn đến thế.
“Nhưng ông ấy có mặc gì đâu!” một đứa trẻ nhỏ nói.
“Nghe đứa bé ngây thơ nói kìa,” cha nó nói; và người này thì thầm với người kia điều đứa trẻ vừa nói. “Ông ấy chẳng mặc gì cả; một đứa trẻ nói ông ấy chẳng mặc gì cả!”
“Nhưng ông ấy chẳng mặc gì cả!” tất cả mọi người đồng thanh hô vang. Nhà Vua giật mình vì câu nói ấy, bởi lòng ông chợt nghi ngờ rằng lời họ nói có lẽ là thật. Nhưng ông tự nhủ: “Ta phải kiên quyết đi đến cùng và tiếp tục cuộc diễu hành này.”
Thế là đức Vua vươn thẳng người hơn bao giờ hết, trong khi các quan thị vệ vẫn cung kính nâng lên phía sau tà áo choàng vốn chẳng hề tồn tại.