"

14 MỌI THỨ ĐỀU Ở ĐÚNG CHỖ CỦA NÓ

Hơn một trăm năm trước, sau khu rừng và cạnh một hồ nước sâu, có một tòa lâu đài cổ của một vị nam tước. Xung quanh nó có một con hào sâu, trong đó mọc đầy sậy và cỏ lác, và ngay cạnh cây cầu, gần cổng vào, có một cây liễu già rủ bóng xuống hào nước.

Một ngày nọ, từ một con đường nhỏ hẹp, tiếng tù và vang lên cùng tiếng vó ngựa dồn dập. Cô bé chăn ngỗng vội vàng lùa đàn ngỗng ra khỏi cầu trước khi đoàn người đi săn phi ngựa tới. Tuy nhiên, họ phi tới quá nhanh khiến cô bé phải trèo lên ngồi trên thành cầu, sợ bị ngựa giẫm phải. Cô bé còn nhỏ xíu, dáng người xinh xắn, mảnh mai, khuôn mặt hiền lành và đôi mắt xanh biếc lấp lánh – tất cả những điều đó vị nam tước chẳng hề để ý; nhưng khi phi ngựa ngang qua, ông ta lật ngược cây roi đang cầm, và trong một trò đùa thô lỗ, dùng cán roi đẩy mạnh cô bé chăn ngỗng khiến cô ngã ngửa xuống hào.

“Mọi vật đúng chỗ của nó!” ông ta la lên. “Ngươi xuống vũng bùn đi!” Rồi ông ta phá lên cười vì cái mà ông ta gọi là sự thông minh của mình, và những người khác cũng hùa theo. Cả đoàn người hò reo, la hét, và chó sủa vang.

May mắn thay, khi ngã, cô bé tội nghiệp đã kịp bám vào một cành liễu rủ, nhờ đó mà cô không bị rơi hẳn xuống vũng bùn. Ngay khi nam tước cùng đoàn tùy tùng và chó của ông ta biến mất qua cổng lâu đài, cô bé cố gắng tự mình trèo lên; nhưng cành cây gãy lìa ở phía trên, và cô bé suýt nữa đã ngã ngửa vào đám sậy nếu một bàn tay khỏe mạnh không kịp thời túm lấy cô từ phía trên. Đó là bàn tay của một người bán hàng rong, người đã chứng kiến toàn bộ sự việc từ xa và vội vàng chạy tới giúp đỡ.

“Mọi vật đúng chỗ của nó,” anh ta nói, bắt chước giọng điệu của vị nam tước quý tộc, trong lúc đỡ cô bé lên bãi đất khô ráo. Anh ta định gắn lại cành cây vào chỗ vừa bị gãy, nhưng “mọi vật đúng chỗ của nó” đâu phải lúc nào cũng dễ sắp đặt đến thế, thế là anh ta cắm cành cây xuống lớp đất mềm.

“Hãy lớn lên và phát triển hết mức có thể đi,” anh ta nói, “để một ngày nào đó, ngươi có thể trở thành cây sáo hay cho vài người trong số họ đằng kia. Với sự cho phép của ngài nam tước cao quý và gia đình ngài, ta muốn họ được nghe thử thách của ta.”

Rồi anh ta tiến về lâu đài, nhưng không bước vào đại sảnh nguy nga; thân phận thấp kém của anh ta không cho phép làm điều đó. Anh ta lui về khu vực của những người hầu, nơi các gia nhân nam nữ cặm cụi xem xét, lật giở từng món đồ trong gói hàng của anh, trong khi từ trên cao, nơi các vị khách đang dự tiệc, vẳng xuống những tiếng hò hét, reo ca mà họ gọi là ca hát – và quả thực họ đã cố hết sức mình. Tiếng cười ầm ĩ hòa lẫn tiếng chó sủa vang vọng qua những khung cửa sổ mở rộng. Tất cả đang chìm trong tiệc tùng và ăn chơi. Rượu vang và bia nồng sủi bọt trong những bình đựng và ly tách; ngay cả những chú chó cũng được chủ cho ăn uống no say. Người bán hàng rong được gọi lên, nhưng chỉ để họ trêu chọc cho vui. Rượu đã ngấm sâu vào đầu óc họ, và lý trí dường như đã bay đi mất. Họ đổ rượu vào một chiếc tất rồi bắt anh ta uống cùng – dĩ nhiên là phải uống thật nhanh – và xem đó như một trò đùa hiếm có, khiến những tràng cười mới lại bùng lên. Trên chiếu bạc, cả những trang trại rộng lớn, với đầy đủ nông dân và gia súc, cũng bị đem ra đặt cược vào một lá bài và thua sạch sẽ.

“Mọi vật đúng chỗ của nó,” người bán hàng rong nói, khi cuối cùng anh ta thoát khỏi cái mà anh ta gọi là Sodom và Gomorrah ở trên đó. “Con đường lớn thênh thang mới là chỗ của ta; cái nhà đó chẳng hợp với ta chút nào.” Khi anh ta bước đi, anh ta thấy cô bé chăn ngỗng đang trông coi đàn ngỗng, và cô bé gật đầu chào anh ta một cách thân thiện.

Ngày tháng trôi qua, và chẳng bao lâu sau, rõ ràng là cành liễu mà người bán hàng rong đã cắm xuống đất, gần hào nước lâu đài, đã bén rễ, vì nó vẫn tươi xanh và đâm chồi nảy lộc.

Cô bé thấy cành cây chắc chắn đã bén rễ, và cô bé rất vui mừng về điều đó. “Cây này,” cô bé nói, “giờ phải là cây của mình rồi.”

Cây liễu chắc chắn phát triển tốt, nhưng ở lâu đài, với những bữa tiệc tùng và cờ bạc, mọi thứ đều đi đến chỗ đổ nát; vì hai thứ này giống như những con lăn, không ai có thể đứng vững được trên đó. Chưa đầy sáu năm trôi qua, vị nam tước cao quý đã phải rời khỏi cổng lâu đài trong cảnh nghèo khó, và tòa lâu đài được mua lại bởi một thương gia giàu có. Thương gia này không ai khác chính là người mà ông ta đã trêu chọc và đổ rượu vào tất bắt uống. Nhưng sự trung thực và chăm chỉ giống như những cơn gió thuận buồm xuôi gió cho một con thuyền, và chúng đã đưa người bán hàng rong trở thành chủ nhân của điền trang nam tước. Từ giờ đó trở đi, không còn trò cờ bạc nào được phép diễn ra ở đó nữa.

Chủ nhân mới cưới vợ, và đó không ai khác chính là cô bé chăn ngỗng, người luôn trung thành và tốt bụng, và trông cô bé thật xinh đẹp, lộng lẫy trong bộ quần áo mới như thể cô là một tiểu thư quý tộc.

Sẽ là một câu chuyện quá dài trong thời buổi bận rộn này để giải thích tất cả những điều này đã xảy ra như thế nào, nhưng nó thực sự đã xảy ra, và phần quan trọng nhất vẫn còn ở phía trước.

Giờ đây, sống trong tòa lâu đài cũ thật dễ chịu. Bà chủ tự mình quản lý việc nhà, còn ông chủ trông coi điền trang. Gia đình họ tràn ngập phúc lành, vì nơi nào có sự ngay thẳng dẫn lối, nơi đó chắc chắn sẽ có sự thịnh vượng. Ngôi nhà cũ được dọn dẹp và sơn sửa, hào nước được lấp khô, và cây ăn quả được trồng vào đó. Sàn nhà được đánh bóng trơn tru như bàn cờ, và mọi thứ đều trông sáng sủa, vui tươi.

Vào những đêm đông dài lê thê, bà chủ nhà ngồi bên khung cửi trong căn phòng lớn cùng với những cô hầu gái. Người chồng của bà, khi đã về già, được phong làm quan tòa. Mỗi tối Chủ nhật, ông đọc Kinh Thánh cho cả gia đình nghe, bởi lẽ họ đã có những đứa con và tất cả đều được dạy dỗ một cách chu đáo nhất, dù không phải đứa trẻ nào cũng thông minh như nhau – điều này vẫn thường thấy ở mọi gia đình. Trong khi ấy, nhánh liễu mọc trước cổng lâu đài đã lớn lên thành một cây to đẹp lộng lẫy, đứng đó tự do và không hề bị trói buộc.

“Đó chính là cây gia phả của chúng ta,” những người lớn tuổi thường bảo, “và nó phải được tôn kính và trân quý, ngay cả bởi những kẻ chẳng được khôn ngoan cho lắm.”

Một trăm năm đã trôi qua, và nơi ấy đã thay đổi rất nhiều. Hồ nước giờ đã trở thành một đồng hoang, còn tòa lâu đài cổ kính của nam tước gần như chẳng còn lại gì. Một vũng nước nhỏ, con hào sâu và tàn tích của vài bức tường chính là tất cả những gì còn sót lại. Ngay bên cạnh đó mọc lên một cây liễu tráng lệ, với những nhánh cây rủ xuống mềm mại – đó chính là cây gia phả của thuở xa xưa. Nó vẫn sừng sững đứng đó, minh chứng cho vẻ đẹp tuyệt vời của một cây liễu khi được tự nhiên nuôi dưỡng.

Đúng vậy, thân cây đã bị tách đôi từ gốc lên đến ngọn, và những cơn bão dữ đã khiến nó hơi oằn mình cong đi; thế nhưng nó vẫn kiên cường trụ vững trước bao biến động, và từ mỗi kẽ hở, mỗi vết nứt mà đất đã được gió mang tới, cây đều đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Gần phần ngọn, nơi những cành lớn chia tách, cây mâm xôi dại quấn quýt lấy cành lá, trông tựa như một khu vườn treo lơ lửng. Ngay cả cây tầm gửi bé nhỏ cũng đã bén rễ nơi đây, và lớn lên tươi tốt, mảnh mai mà duyên dáng, giữa những nhánh liễu rủ, in bóng xuống mặt nước tối màu phía dưới. Đôi khi ngọn gió từ biển khơi thổi đến làm những chiếc lá liễu bay bay. Một con đường mòn nhỏ uốn lượn qua cánh đồng, chạy ngay sát bên gốc cây.

Trên đỉnh đồi, gần bìa rừng, với tầm nhìn tuyệt mỹ trải rộng phía trước, tòa lâu đài mới của nam tước sừng sững uy nghi. Những ô cửa kính trong vắt đến mức tưởng chừng chẳng hề có kính. Cầu thang lớn dẫn lối vào tựa như một vòm hoa hồng và lá rộng xanh tươi. Thảm cỏ mướt mát, từng ngọn cỏ như được chăm chút kỹ lưỡng sớm chiều. Trong đại sảnh, những bức tranh quý giá được treo trang trọng. Ghế bành và đi-văng bọc lụa nhung mịn màng, trông như có thể tự mình di chuyển. Những chiếc bàn với mặt đá cẩm thạch trắng tinh, cùng những cuốn sách bọc nhung viền vàng lấp lánh. Quả thực, nơi đây là chốn ở của những người giàu sang, quyền quý – vị nam tước mới và cả gia đình ông.

Mỗi món đồ đều được sắp xếp hài hòa với những vật dụng khác. Phương châm của gia đình vẫn giữ nguyên: “Mọi thứ phải ở đúng vị trí của nó.” Bởi vậy, những bức tranh từng là niềm kiêu hãnh và tự hào của ngôi nhà cũ giờ đây bị treo ở hành lang dẫn đến khu vực của người hầu. Chúng bị xem như đồ bỏ đi; đặc biệt là hai bức chân dung cũ kỹ, một bức vẽ người đàn ông đội tóc giả, mặc áo khoác màu hồng, bức kia vẽ người phụ nữ với mái tóc xoăn được phủ phấn, tay cầm một đóa hồng, mỗi bức đều được viền bằng vòng lá liễu. Cả hai bức đều lỗ chỗ những vết đạn, bởi các cậu nam tước nhỏ thường dùng hai ông bà già này làm bia tập bắn cung; thế mà đây chính là chân dung của vị quan tòa và phu nhân, những người mà gia đình hiện tại là hậu duệ.

“Nhưng họ đâu phải thực sự thuộc về dòng họ chúng ta,” một trong những cậu nam tước nhỏ nói; “ông ta là người bán hàng rong, còn bà ta là kẻ chăn ngỗng. Họ chẳng giống bố mẹ chút nào.” Vì thế, những bức tranh, do đã cũ kỹ, bị xem là vô giá trị; và với phương châm “Mỗi vật đúng chỗ của nó,” cụ cố và cụ kỵ của gia đình đã bị đày ra hành lang dẫn đến khu người hầu.

Người con trai của vị mục sư địa phương đang làm thầy giáo dạy kèm ở ngôi nhà lớn. Một hôm, anh cùng các học trò nhỏ của mình – những cậu bé mang tước hiệu nam tước – và cô chị gái lớn của bọn trẻ, người vừa mới trải qua nghi thức xác nhận đức tin, cùng nhau đi dạo. Họ bước theo con đường uốn lượn giữa cánh đồng, con đường dẫn ngang qua gốc liễu già. Trong lúc đi, cô tiểu thư trẻ tuổi đã kết một vòng hoa từ những bông hoa dại và cành lá bụi, “mỗi bông hoa đều ở đúng vị trí của nó,” và trông vòng hoa ấy thật đẹp. Cô cũng chăm chú lắng nghe từng lời con trai vị mục sư nói. Cô rất thích nghe anh kể về những kỳ quan của tạo hóa và về những người đàn ông, phụ nữ vĩ đại trong lịch sử. Cô sở hữu một tâm hồn trong trẻo, với những suy nghĩ và tình cảm cao quý, cùng một trái tim chan chứa yêu thương dành cho mọi sinh linh của Chúa.

Đoàn người đi dạo dừng chân bên gốc liễu cổ thụ; cậu nam tước nhỏ tuổi nhất muốn xin một nhánh cây để làm ống sáo, bởi trước đây cậu đã từng làm sáo từ những cây liễu khác. Vị gia sư liền bẻ một cành. “Ôi, xin đừng làm vậy!” tiểu thư trẻ thốt lên; nhưng đã muộn rồi. “Cháu thành thật xin lỗi,” nàng nói tiếp; “đây là cây cổ thụ nổi tiếng của gia tộc cháu, và cháu vô cùng quý trọng nó. Ở nhà mọi người thường cười cháu vì điều ấy, nhưng cháu chẳng bận tâm. Có cả một câu chuyện về gốc liễu này kia.”

Rồi nàng kể cho chàng nghe những điều chúng ta đã biết: về tòa lâu đài cũ kỹ, về gã lái buôn và cô bé chăn ngỗng, những con người đã gặp gỡ lần đầu tại nơi đây và trở thành tổ tiên của dòng họ quý tộc mà nàng tiểu thư trẻ là hậu duệ.

“Đôi vợ chồng hiền lành năm xưa chẳng hề muốn được phong tước,” nàng bày tỏ. “Châm ngôn của các cụ là ‘Mọi thứ thuộc về đúng chỗ của nó,’ và các cụ cho rằng sẽ thật không phải nếu dùng tiền mua lấy danh hiệu. Ông nội cháu – vị nam tước đầu tiên – chính là con trai của họ. Ông là bậc học giả uyên thâm, được các hoàng tử cùng công chúa ngưỡng mộ và trọng vọng, thường xuyên hiện diện trong mọi yến tiệc cung đình. Ở nhà, ai nấy đều yêu quý ông nhất, nhưng cháu chẳng hiểu vì sao. Với cháu, dường như có điều gì đó nơi đôi vợ chồng già thuở ban đầu ấy đã chạm đến trái tim mình. Ngôi nhà xưa hẳn phải ấm áp biết bao, đầy ắp tình thương gia tộc, nơi bà chủ ngồi bên khung cửi cùng những cô hầu gái trong khi chồng bà đọc Kinh Thánh cho mọi người nghe!”

“Họ hẳn là những người đáng yêu, khôn ngoan,” gia sư nói, và rồi cuộc trò chuyện chuyển sang chủ đề quý tộc và thường dân. Dường như gia sư không thuộc tầng lớp thấp kém, anh ta nói rất khôn ngoan về mục đích và ý nghĩa của sự cao quý.

“Thật may mắn khi thuộc về một gia đình đã tạo nên danh tiếng trong thế giới, và được thừa hưởng năng lượng thúc đẩy chúng ta tiến bộ trong mọi điều cao quý và hữu ích. Thật dễ chịu khi mang một cái tên gia đình giống như một tấm vé thông hành vào những giới thượng lưu nhất. Sự cao quý đích thực luôn vĩ đại và đáng kính. Nó là một đồng tiền đã được in dấu giá trị của chính nó. Đó là một sai lầm của thời đại ngày nay, mà nhiều nhà thơ đã mắc phải, khi khẳng định rằng tất cả những người sinh ra trong dòng dõi quý tộc đều phải độc ác hoặc ngu ngốc, và rằng càng xuống thấp trong xã hội, chúng ta càng thường xuyên tìm thấy những nhân cách vĩ đại và tỏa sáng. Tôi cảm thấy điều này hoàn toàn sai. Trong mọi tầng lớp đều có thể tìm thấy những người đàn ông và phụ nữ sở hữu những phẩm chất tốt bụng và đẹp đẽ.

Mẹ tôi đã kể cho tôi nghe về một người, và tôi có thể kể cho các bạn nghe nhiều người khác nữa. Bà từng đến thăm nhà một quý tộc trong thị trấn; bà tôi, tôi tin là đã được nuôi dưỡng trong gia đình đó. Một ngày nọ, khi mẹ tôi và vị quý tộc tình cờ ở một mình, một bà lão chống nạng tập tễnh bước vào sân. Bà ấy thường đến mỗi Chủ nhật và luôn mang về một món quà. ‘À, bà lão tội nghiệp đó kìa,’ vị quý tộc nói; ‘bà ấy đi lại thật khổ sở!’ Và trước khi mẹ tôi hiểu ông nói gì, ông đã rời khỏi phòng và chạy xuống cầu thang đến chỗ bà lão. Dù đã bảy mươi tuổi, vị quý tộc già vẫn mang món quà mà bà lão đến nhận tặng cho bà, để bà khỏi phải đi thêm nữa. Đây chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt, nhưng, giống như hai đồng tiền lẻ mà bà góa phụ trong Kinh Thánh đã dâng, nó khơi dậy một tiếng vang trong lòng.

Đó là những đề tài mà các thi nhân nên cất bút ngợi ca, bởi chúng có sức mạnh làm mềm lòng người và kết nối nhân loại trong tình huynh đệ. Nhưng khi một kẻ tầm thường, chỉ vì dòng máu quý tộc chảy trong huyết quản, mà vênh váo kiêu ngạo như chú ngựa Ả Rập giữa phố phường, hay khinh thường những con người bình dị, thì thứ cao quý ấy đang đứng bên bờ vực suy tàn – nó chỉ là sự giả tạo trống rỗng, tựa như chiếc mặt nạ sân khấu do Thespis sáng tạo. Thật đáng vui khi thấy những kẻ như vậy trở thành đối tượng cho sự châm biếm.”

Đó là bài diễn thuyết của người thầy giáo – hẳn là khá dài dòng, nhưng ông ta vẫn bận rộn gọt dũa cây sáo của mình trong lúc nói.

Tối hôm ấy, một bữa tiệc lớn được tổ chức tại Sảnh đường. Khách khứa đông nghịt trong sảnh lớn – có người đến từ các vùng lân cận, có người đến từ kinh thành. Một nhóm các quý bà ăn mặc lộng lẫy, kẻ có gu thẩm mỹ, người thì không; một nhóm các giáo sĩ từ những giáo xứ gần đó tụ tập ở một góc, trông nghiêm trang như thể đang dự một đám tang. Thế nhưng, đó rõ ràng không phải là một bữa tiệc tang; đó là một bữa tiệc vui, chỉ có điều niềm vui vẫn chưa thực sự đến. Âm nhạc và tiếng hát vang khắp các căn phòng, khi thì một người trong nhóm tự nguyện cất tiếng, lúc lại người khác. Cậu Nam tước nhỏ mang cây sáo của mình ra, nhưng cả cậu lẫn cha cậu – người thử sau cậu – đều chẳng thể thổi ra được âm thanh nào. Nó bị xem như một thất bại.

“Thế nhưng chắc chắn ngài cũng là một nghệ sĩ biểu diễn,” một quý ông hóm hỉnh nói, quay sang người gia sư. “Dĩ nhiên ngài vừa là người thổi sáo vừa là người chế tác sáo. Tôi nghe nói ngài là một thiên tài toàn năng, mà thiên tài thì đang rất được sùng chuộng trong thời đại này – không gì sánh bằng thiên tài. Nào; tôi tin chắc ngài sẽ vui lòng làm say đắm chúng tôi bằng cách thổi cây nhạc cụ nhỏ bé này.” Ông ta đưa cây sáo cho người gia sư, và lớn tiếng tuyên bố rằng anh sẽ trình diễn cho mọi người nghe một bản độc tấu sáo.

Dễ dàng nhận ra những người này đang muốn trêu chọc anh, và anh từ chối thổi. Nhưng họ cứ nài ép mãi, đến nỗi cuối cùng, vì quá mệt mỏi, anh đành cầm lấy cây sáo và đưa lên môi.

Đó là một cây sáo kỳ lạ! Một âm thanh phát ra từ nó, to, chói tai và rung động, giống như tiếng phát ra từ một động cơ hơi nước – không, còn to hơn nhiều. Nó vang vọng khắp ngôi nhà, qua vườn và rừng cây, xa hàng dặm ra ngoài đồng quê; và cùng với âm thanh đó, một cơn gió mạnh, ào ạt cũng ập đến, hơi thở bão tố của nó rõ ràng thốt lên những lời: “Mọi vật đúng chỗ của nó!”

Ngay lập tức, ngài Nam tước, chủ nhân của Sảnh đường, bị gió cuốn đi, bay ra ngoài cửa sổ, và trong chớp mắt bị nhốt vào nhà người gác cổng. Bản thân người gác cổng thì được nâng lên, không phải vào phòng khách – không, vì ông ta không xứng đáng – mà vào khu người hầu, nơi những người hầu kiêu ngạo với đôi tất lụa của họ run rẩy kinh hoàng khi thấy một người thấp kém như vậy ngồi cùng bàn với họ.

Nhưng trong đại sảnh, cô tiểu thư trẻ được đưa tới chiếc ghế danh dự mà nàng xứng đáng được ngồi, còn vị gia sư thì được an vị ngay bên cạnh nàng. Họ ngồi sát cạnh nhau, trông chẳng khác nào một cặp tân lang tân nương. Một vị bá tước cao niên, hậu duệ của một dòng tộc quý phái bậc nhất vùng, vẫn giữ nguyên vị trí của mình, chẳng một ngọn gió nào dám làm phiền đến cụ, bởi cây sáo thổi lên hoàn toàn công bằng. Ngược lại, chàng trai trẻ hóm hỉnh, kẻ đã gây ra mọi hỗn loạn, bị thổi văng đầu xuống đất để nhập bọn với đàn ngỗng cái và ngỗng đực trong khu chăn nuôi.

Cách đó nửa dặm ngoài cánh đồng, cây sáo cũng tạo ra những phép màu kỳ lạ. Một gia đình thương nhân giàu có, đang ngồi trên cỗ xe tứ mã, đều bị hất văng ra khỏi cửa sổ xe. Hai tiểu nông, vừa mới trở nên phát đạt đến mức chối bỏ họ hàng thân thích, bị thổi tụt xuống một con mương cạn. Quả thật là một cây sáo đầy nguy hiểm. May mắn thay, ngay sau nốt nhạc đầu tiên vang lên, nó đã vỡ tan thành từng mảnh và ngay lập tức được vị gia sư cất giữ cẩn thận trong túi áo. “Mọi thứ đã trở về đúng chỗ của nó!”

Ngày hôm sau, không ai nhắc đến cuộc phiêu lưu ấy như thể nó chưa từng hiện hữu. Mọi điều được giữ kín, và vạn vật vẫn nguyên trạng, chỉ trừ hai bức chân dung cũ kỹ của người bán hàng rong và cô bé chăn ngỗng vẫn tiếp tục treo trên tường Đại sảnh – nơi cơn gió đã đưa chúng đến. Ở đó, một người sành nghệ thuật tình cờ phát hiện ra chúng, và bởi ông ta khẳng định chúng được vẽ bởi bàn tay của một bậc thầy, chúng đã được lau chùi, phục hồi và từ đó luôn được nâng niu trân trọng. Giá trị thật sự của chúng trước đây chưa từng được ai hay biết.

“Mọi vật đúng chỗ của nó!” Rồi mọi thứ sẽ như thế, đúng lúc, đừng lo lắng. Có lẽ không phải ở thế giới này. Điều đó hẳn gọi là mong đợi quá nhiều.

***

Bản quyền

Truyện Cổ Tích Hans Andersen - Tập Hai Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.