"

PHẦN MỘT

CHƯƠNG II: KHOA HỌC SUY LUẬN

Ngày hôm sau, chúng tôi gặp lại nhau đúng hẹn và cùng đi xem căn hộ tại số 221B phố Baker mà Sherlock Holmes đã nhắc đến trong cuộc trò chuyện hôm trước. Đó là một căn hộ gồm hai phòng ngủ tiện nghi và một phòng khách rộng rãi, thoáng mát, được bài trí với những món đồ tươi sáng cùng hai khung cửa sổ lớn đầy ánh sáng. Mọi thứ về nơi này đều hoàn hảo, và khi chia đôi tiền thuê, giá cả lại vô cùng hợp lý, vì vậy chúng tôi nhanh chóng quyết định nhận căn hộ và chuyển đến ngay.

Tối hôm đó, tôi chuyển hết đồ đạc từ khách sạn về đây. Sáng hôm sau, Sherlock Holmes cũng chuyển đến với vài chiếc rương và vali. Suốt một hai ngày đầu, chúng tôi bận rộn bốc dỡ đồ đạc và sắp xếp lại mọi thứ cho gọn gàng, thuận tiện. Khi mọi việc đã ổn thỏa, chúng tôi dần thích nghi với cuộc sống mới tại đây.

Holmes hoàn toàn không phải là người khó chung sống. Anh sống rất điềm đạm và tuân theo những thói quen hết sức đều đặn. Anh hiếm khi thức sau mười giờ tối và thường dùng bữa sáng xong xuôi trước khi tôi kịp tỉnh giấc.

Có ngày anh dành trọn thời gian trong phòng thí nghiệm hóa học, có hôm lại ở phòng giải phẫu, đôi lúc lang thang hàng giờ trên những con phố, dường như thường lui tới những khu phố tồi tàn nhất trong thành phố.

Khi làm việc, không ai có thể sánh được với sự hăng say cuồng nhiệt của anh; nhưng đôi khi anh lại rơi vào trạng thái uể oải, nằm dài trên đi văng suốt cả ngày từ sáng đến tối, gần như không buồn hé răng nói nửa lời hay cử động. Trong những khoảnh khắc ấy, ánh mắt anh trở nên xa xăm, vô hồn đến nỗi tôi đã có lúc ngờ rằng anh đang nghiện một chất ma túy nào đó, nếu không phải vì nếp sống điều độ và thanh sạch của anh đã bác bỏ ngay mối nghi ngờ ấy.

Thời gian trôi, sự quan tâm của tôi dành cho anh ta cùng nỗi tò mò về mục đích sống của anh ta ngày một sâu sắc và mãnh liệt hơn. Chính con người và dáng vẻ bề ngoài của anh ta đủ khiến cả những kẻ ít quan sát nhất cũng phải chú ý.

Anh ta cao hơn sáu bộ một chút, dáng người gầy gò đến mức trông còn cao hơn thế nữa. Đôi mắt sắc như dao và thấu suốt mọi thứ, trừ những lúc mệt mỏi như tôi đã kể; chiếc mũi nhọn, khoằm như mỏ chim ưng khiến toàn bộ khuôn mặt toát lên vẻ sắc sảo và quyết đoán. Cái cằm nhô ra vuông vức càng khẳng định ý chí sắt đá của anh ta. Đôi tay lúc nào cũng dính đầy mực và hóa chất, nhưng lại vô cùng khéo léo – điều tôi thường xuyên chứng kiến khi anh ta thao tác với những dụng cụ khoa học tinh xảo, mỏng manh của mình.

Độc giả có lẽ sẽ nghĩ tôi là một kẻ tọc mạch không biết chừng mực khi tôi thú nhận rằng người đàn ông này đã khơi gợi trí tò mò trong tôi đến nhường nào, và tôi đã bao phen cố phá tan bức màn bí mật mà anh ta luôn giăng ra quanh mọi chuyện thuộc về bản thân.

Nhưng trước khi lên án tôi, xin hãy nhớ cho rằng đời tôi lúc ấy tẻ nhạt biết bao, và chẳng có mấy điều khiến tôi phải bận lòng. Thể trạng yếu ớt khiến tôi chẳng thể bước chân ra ngoài trừ khi tiết trời vô cùng thuận lợi, lại thêm việc chẳng có người bạn nào ghé thăm để xua tan nỗi buồn chán của những ngày đơn điệu. Trong tình cảnh ấy, tôi háo hức đón nhận chút bí ẩn vây quanh người bạn cùng nhà, và dành không ít thời gian cố gỡ mối rối rắm ấy.

Anh ta không học ngành y. Chính anh ta, khi bị chất vấn, đã thừa nhận quan điểm của Stamford về điều này. Cũng chẳng có dấu hiệu nào cho thấy anh ta từng theo đuổi những khóa học có thể giúp lấy bằng khoa học hay mở ra con đường vào giới học thuật.

Thế nhưng, niềm đam mê của anh ta dành cho một số lĩnh vực nghiên cứu lại mãnh liệt khác thường, và trong những phạm vi hẹp đáng ngạc nhiên, tri thức của anh ta sâu rộng cùng chi tiết tới mức khiến tôi không khỏi sửng sốt trước những nhận định của anh.

Rõ ràng chẳng ai lại miệt mài đến thế hay sở hữu hiểu biết chuẩn xác như vậy mà không có mục tiêu rành mạch. Những kẻ đọc qua loa hiếm khi gây ấn tượng bởi độ chính xác trong kiến thức. Chẳng ai tự nguyện chất lên đầu mình những điều vụn vặt trừ phi có lý do hết sức thuyết phục để làm vậy.

Sự dốt nát của anh ta cũng đáng kinh ngạc như chính kiến thức uyên bác của anh ta vậy. Trong lĩnh vực văn chương, triết học hay chính trị đương thời, dường như anh chẳng có chút hiểu biết nào. Khi tôi nhắc đến Thomas Carlyle [Thomas Carlyle (4/12/1795 – 5/2/1881) là một nhà triết học, nhà châm biếm, nhà văn, nhà sử học và giáo viên người Scotland. Ông được xem như một nhà bình luận xã hội quan trọng nhất thế giới.], anh đã ngây ngô hỏi ông ấy là ai và có thành tựu gì.

Nhưng nỗi kinh ngạc của tôi đạt đến cực điểm khi tôi vô tình khám phá ra anh ta thậm chí không biết về Thuyết Nhật tâm của Copernicus hay cấu trúc của Thái Dương Hệ. Việc một con người văn minh ở thế kỷ XIX này lại không hề hay biết Trái Đất xoay quanh Mặt Trời đối với tôi là điều kỳ dị đến mức khó có thể tin nổi.

“Anh có vẻ ngạc nhiên đấy,” anh ta nói, nụ cười thoáng hiện khi quan sát vẻ mặt sửng sốt của tôi. “Giờ tôi đã hiểu rồi, và tôi sẽ cố gắng hết sức để quên nó đi.”

“Quên nó đi ư!”

“Anh xem này,” anh ta giảng giải, “tôi luôn ví bộ não con người giống như một căn gác xép trống trải, và chính anh phải tự tay sắp đặt những món đồ nội thất vào đó. Kẻ ngu ngốc sẽ chất đầy căn phòng ấy bằng đủ thứ hỗn độn vớ vẩn, khiến những tri thức hữu dụng bị chèn ép, hoặc tệ hơn – bị vùi lấp trong đống hỗn độn đến mức khó lòng tìm lại được khi cần. Trái lại, người thợ lành nghề luôn thận trọng khi chọn lựa những gì đặt vào ‘căn gác não’ của mình. Anh ta chỉ giữ lại những dụng cụ phục vụ cho công việc, nhưng mỗi món đồ đều được sắp xếp gọn gàng và có hệ thống hoàn hảo. Thật sai lầm khi tưởng tượng căn phòng nhỏ bé ấy có bức tường đàn hồi, có thể giãn nở vô hạn. Hãy tin tôi, đến một lúc nào đó, cứ mỗi kiến thức mới được thu nạp, anh sẽ đánh mất một điều đã biết trước đó. Bởi vậy, điều tối quan trọng là đừng để những sự thật vô bổ lấn át, đẩy những điều thiết yếu ra khỏi tâm trí.”

“Nhưng Hệ Mặt Trời!” tôi phản bác.

“Thì có can hệ gì đến tôi đâu?” anh ta cắt ngang với vẻ bực dọc; “anh bảo chúng ta xoay quanh Mặt Trời. Dẫu có xoay quanh Mặt Trăng thì với tôi hay công việc của tôi cũng chẳng khác gì.”

Tôi toan hỏi công việc ấy là gì, nhưng thái độ anh ta khiến tôi nhận ra câu hỏi sẽ chẳng được hoan nghênh. Dù vậy, tôi ngẫm nghĩ về cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa chúng tôi và cố suy diễn những điều riêng từ đó. Anh ta nói sẽ không tiếp nhận kiến thức nào không liên quan mục đích của mình. Thế thì mọi tri thức anh ta có đều phải hữu dụng cho bản thân.

Tôi lần lượt điểm lại trong đầu tất cả lĩnh vực riêng biệt mà anh ta đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc. Tôi còn lấy bút chì ghi chép lại. Xong xuôi, tôi không nhịn được cười khi nhìn tờ giấy ghi chú ấy. Nó trông như thế này—

SHERLOCK HOLMES – NHỮNG GIỚI HẠN CỦA ANH ẤY

  1. Văn học – Không biết gì.
  2. Triết học – Không biết gì.
  3. Thiên văn học – Không biết gì.
  4. Chính trị – Rất hạn chế.
  5. Thực vật học – Không đồng đều. Rất am hiểu về cây cà độc dược, thuốc phiện và các loại độc dược nói chung. Nhưng hoàn toàn mù tịt về kiến thức làm vườn thực tế.
  6. Địa chất học – Khá thực tế, nhưng vẫn có hạn. Chỉ cần nhìn qua là phân biệt được các loại đất khác nhau. Sau mỗi lần đi dạo, anh ấy thường chỉ cho tôi xem những vết bùn dính trên quần và giải thích rõ ràng từ màu sắc đến độ đặc để suy ra khu vực nào ở London anh ấy đã đi qua.
  7. Hóa học – Kiến thức uyên thâm.
  8. Giải phẫu học – Chính xác, nhưng thiếu hệ thống.
  9. Văn học trinh thám – Cực kỳ phong phú. Dường như anh ấy nắm rõ từng chi tiết của mọi vụ án kinh dị xảy ra trong thế kỷ này.
  10. Chơi đàn violin – Điêu luyện.
  11. Thành thạo các môn gậy, quyền Anh và đấu kiếm.
  12. Hiểu biết thực tế vững vàng về luật pháp Anh.

Khi viết đến đó trong bản liệt kê của mình, tôi ném tờ giấy vào lửa trong cơn bực dọc. “Nếu mình có thể tìm ra nghề nghiệp của gã này bằng cách ghép nối tất cả những khả năng ấy, và phát hiện một công việc đòi hỏi tất cả chúng,” tôi tự nhủ, “thì mình xin chịu thua ngay lập tức.”

Tôi chợt nhớ mình đã đề cập đến tài chơi vĩ cầm của anh ta. Khả năng này tuy đáng chú ý nhưng cũng kỳ dị chẳng kém những tài năng khác của anh. Tôi biết rõ anh có thể trình diễn những bản nhạc hoàn chỉnh, kể cả những bản khó, bởi theo yêu cầu của tôi, anh đã chơi cho tôi nghe mấy khúc Lieder của Mendelssohn cùng vài bản nhạc ưa thích khác.

Thế nhưng khi ở một mình, anh hiếm khi chơi thành bài hoặc thử bất cứ giai điệu quen thuộc nào. Vào buổi chiều tà, anh thường ngả người trên ghế bành, nhắm nghiền mắt và kéo đàn một cách hờ hững, cây vĩ cầm đặt vắt ngang qua đầu gối. Có khi những hợp âm nghe não nùng ai oán. Lại có lúc vang lên thật huyền ảo, rộn rã. Rõ ràng chúng phản chiếu những ý nghĩ đang ngự trị trong đầu anh, nhưng liệu tiếng đàn có hỗ trợ cho dòng tư tưởng ấy, hay chỉ đơn thuần là sản phẩm của một cơn hứng chợt đến thì tôi chẳng thể nào đoán định.

Có lẽ tôi đã phản đối những bản độc tấu khó chịu này nếu anh không thường kết thúc bằng cách dạo liền mạch một chuỗi giai điệu tôi yêu thích – như món quà nhỏ bù đắp cho sự kiên nhẫn bị thử thách của tôi.

Trong tuần đầu tiên hoặc hơn, chẳng có vị khách nào ghé thăm chúng tôi, khiến tôi mặc nhiên cho rằng người bạn đồng hành của mình cũng đơn độc chẳng kém gì tôi. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, tôi nhận ra anh ta quen biết vô số người thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.

Một hôm, có gã đàn ông thấp bé, nước da xám xịt, khuôn mặt nhăn nhó như chuột, đôi mắt đen nhánh được giới thiệu là ông Lestrade – vị khách này lui tới ba bốn lần mỗi tuần. Rồi một buổi sớm, một thiếu nữ ăn mặc hợp thời trang đã ghé chơi gần nửa giờ đồng hồ. Cùng ngày hôm ấy, lại có lão già tóc bạc phờ phạc, dáng vẻ tiều tụy trông chẳng khác gì tay lái buôn Do Thái, hớt hải bước vào theo sau là bà lão chân đi dép lộp cộp. Lại có lần, một vị lão thành quắc thước tóc bạc trắng tìm đến; khi khác lại là anh phu khuân vác đường sắt trong bộ đồng phục nhung phai màu.

Mỗi khi những nhân vật kỳ dị ấy xuất hiện, Sherlock Holmes thường xin phép tôi dùng phòng khách, còn tôi thì rút lui về buồng ngủ. Anh luôn áy náy xin lỗi vì sự bất tiện này: “Tôi buộc phải biến căn phòng này thành văn phòng tư vấn,” anh giải thích, “và những vị khách ấy chính là thân chủ của tôi.”

Dù nhiều lần muốn chất vấn thẳng thừng, nhưng lòng tế nhị lại ngăn tôi ép buộc người khác phải bộc bạch. Khi ấy tôi ngỡ anh có lý do đặc biệt để giấu giếm, nhưng chính Holmes đã tự động đề cập đến chuyện này khiến nghi ngờ của tôi tan biến.

Ngày mồng bốn tháng ba – tôi có lý do đặc biệt để nhớ rõ ngày này – tôi thức dậy sớm hơn mọi khi, bắt gặp Sherlock Holmes vẫn đang dùng bữa sáng dở dang. Bà chủ nhà đã quá quen với thói ngủ nướng của tôi nên bàn ăn chưa được dọn dẹp, ly cà phê cũng chưa kịp pha. Bất giác nổi cáu vì chuyện nhỏ nhặt, tôi giật chuông báo hiệu một cách cộc cằn rằng mình đã xuống ăn. Rồi tôi nhặt tờ tạp chí trên bàn lên, cố đọc qua loa để giết thời gian trong khi người bạn đồng hành vẫn lặng lẽ nhai miếng bánh mì nướng. Một tiêu đề bài báo có vết gạch bằng bút chì, thế là tôi vô tình bắt đầu đọc nó.

Tiêu đề khá tham vọng của bài báo là “Cuốn Sách Cuộc Đời”, nhằm chứng minh rằng một nhà quan sát tinh tường có thể thu nhận được biết bao điều thông qua việc kiểm tra tỉ mỉ và có phương pháp mọi thứ mình tiếp xúc. Tôi thấy nó là một hỗn hợp kỳ lạ giữa sự thông minh sắc sảo và những điều phi lý. Dù lập luận chặt chẽ và sâu sắc, nhưng những suy diễn ấy lại khiến tôi cảm thấy quá xa vời và cường điệu.

Tác giả khẳng định rằng chỉ cần một nét mặt thoáng qua, một cử động cơ hay ánh mắt liếc nhìn, ông ta có thể thấu hiểu tận cùng những suy nghĩ thầm kín nhất của con người. Theo quan điểm của ông, với người đã được rèn luyện kỹ năng quan sát và phân tích thì không thể nào bị lừa dối. Những kết luận của ông ta chắc chắn như những định lý Euclid vậy. Kết quả ông đưa ra sẽ gây chấn động đến nỗi với những ai chưa quen, cho đến khi họ hiểu được quá trình ông đi đến kết luận ấy, họ có thể xem ông như một pháp sư.

“Từ một giọt nước,” tác giả viết, “nhà logic học có thể suy luận ra khả năng tồn tại của Đại Tây Dương hay thác Niagara mà chưa từng thấy tận mắt hay nghe qua. Bởi thế, cuộc sống là một chuỗi mắt xích khổng lồ, và chỉ cần quan sát một mắt xích duy nhất, ta đã có thể thấu hiểu bản chất của cả hệ thống. Giống như mọi nghệ thuật khác, Khoa học Suy luận và Phân tích đòi hỏi quá trình học hỏi lâu dài, kiên nhẫn – đến mức một đời người cũng chưa đủ để đạt tới sự hoàn mỹ tối cao. Trước khi đào sâu vào những khía cạnh tinh thần và đạo đức phức tạp nhất, kẻ tầm đạo nên bắt đầu từ những điều cơ bản. Khi gặp một người lạ, hãy tập nhận diện ngay lập tức tiểu sử và nghề nghiệp của họ. Bài tập tưởng chừng trẻ con này sẽ rèn giũa năng lực quan sát, dạy ta biết nên nhìn vào đâu và tìm kiếm gì. Chỉ qua móng tay, gấu áo, đôi giày, vết sờn đầu gối quần, vết chai ở ngón trỏ và ngón cái, nét mặt, cổ tay áo sơ mi – mỗi chi tiết nhỏ ấy đều tố cáo nghề nghiệp của con người. Thật khó tưởng tượng nổi việc tất cả những manh mối ấy kết hợp lại mà vẫn không giúp nhà suy luận tài năng giải mã được bí ẩn trong bất kỳ tình huống nào.”

“Thật đúng là chuyện nhảm nhí không thể tưởng tượng nổi!” tôi thốt lên, đập mạnh cuốn tạp chí xuống mặt bàn. “Suốt đời tôi chưa từng đọc thứ văn chương tồi tệ đến thế!”

“Có chuyện gì thế?” Sherlock Holmes hỏi.

“Chính là bài báo này đây,” tôi trả lời, dùng chiếc thìa ăn trứng chỉ vào tờ tạp chí trong khi ngồi xuống dùng bữa sáng. “Tôi thấy anh đã đọc nó rồi vì có đánh dấu. Tôi không phủ nhận nó được viết rất khéo léo. Nhưng nó khiến tôi bực bội vô cùng. Rõ ràng đây là lý thuyết của một kẻ nhàn rỗi ngồi không, nghĩ ra đủ thứ nghịch lý vụn vặt trong sự cách biệt của căn phòng làm việc riêng. Thật phi thực tế. Tôi muốn nhốt hắn vào một toa tàu hạng ba trên chuyến tàu điện ngầm, rồi bắt hắn đoán nghề nghiệp của tất cả hành khách. Tôi sẵn sàng đánh cược với hắn một ăn một nghìn.”

“Anh sẽ thua tiền đấy,” Sherlock Holmes bình thản nói. “Còn bài báo đó, chính tôi là tác giả.”

“Anh ư!”

“Đúng vậy. Tôi có chút năng khiếu trong cả quan sát lẫn suy luận. Những lý thuyết tôi trình bày trong bài mà anh cho là viển vông, thực ra lại cực kỳ thiết thực – thiết thực đến mức tôi dùng chúng để mưu sinh.”

“Bằng cách nào vậy?” tôi không kìm được mà hỏi.

“À, tôi có một nghề riêng. Tôi tin mình là người duy nhất trên thế giới làm nghề này. Tôi là một nhà thám tử tư vấn, nếu anh hiểu ý tôi. Ở London này, chúng ta có đầy thanh tra chính phủ và thám tử tư nhân. Khi họ bí bách, họ tìm đến tôi, và tôi giúp họ tìm ra manh mối. Họ trình bày mọi bằng chứng, và thường thì nhờ hiểu biết về lịch sử tội phạm, tôi có thể giúp họ tháo gỡ vụ án. Mọi tội ác đều có điểm tương đồng kỳ lạ, nếu anh nắm được chi tiết của hàng nghìn vụ án thì không khó để giải được vụ thứ một nghìn lẻ một. Lestrade là một thanh tra khá nổi. Gần đây anh ta bế tắc trong vụ làm giả giấy tờ, thế nên mới tìm đến đây.”

“Những người khác thì thế nào?”

“Họ phần lớn được các văn phòng thám tử tư giới thiệu đến. Toàn là những kẻ đang vướng vào chuyện rắc rối nào đó, muốn tìm chút ánh sáng soi tỏ. Tôi nghe họ kể lể, họ nghe tôi nhận xét, rồi tôi nhét tiền thù lao vào túi.”

“Nhưng ý anh muốn nói,” tôi hỏi, “rằng ngay trong căn phòng này, anh có thể tháo gỡ những vụ việc mà người khác bó tay, dù họ đã tự mình điều tra kỹ lưỡng?”

“Chính xác. Tôi có cái khiếu đặc biệt ấy. Đôi khi gặp vụ nào rối ren hơn, tôi phải đích thân ra ngoài xem xét. Anh thấy đấy, tôi sở hữu cả kho kiến thức chuyên môn để vận dụng, nhờ thế mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn nhiều. Những nguyên tắc suy luận trong bài báo mà anh coi thường ấy, với tôi lại vô giá trong công việc thực tế. Quan sát đã thành bản năng thứ hai của tôi. Anh đã rất ngạc nhiên khi lần đầu gặp mặt, tôi bảo anh từ Afghanistan tới.”

“Chắc chắn anh đã được người ta mách bảo trước rồi.”

“Không hề. Tôi _biết_ anh từ Afghanistan tới. Do thói quen lâu năm, mạch suy nghĩ của tôi chạy nhanh đến mức tôi đi thẳng tới kết luận mà không ý thức được những bước trung gian. Tuy thế, những bước ấy vẫn hiện hữu. Quá trình suy luận diễn ra thế này: ‘Đây là một quý ông mang dáng dấp thầy thuốc, nhưng lại toát lên khí chất quân nhân. Hiển nhiên là một y sĩ quân y. Ông ta vừa từ xứ nhiệt đới trở về, bởi nước da mặt sạm đen không phải màu da tự nhiên – cổ tay ông ta vẫn trắng. Ông ta đã trải qua nhiều khổ ải và bệnh tật, như gương mặt tiều tụy kia minh chứng. Cánh tay trái ông ta đã bị thương – cách ông giữ nó cứng nhắc và thiếu tự nhiên. Vậy ở xứ nhiệt đới nào mà một y sĩ quân y người Anh có thể chịu nhiều gian khổ và bị thương ở tay? Hiển nhiên là Afghanistan.’ Cả chuỗi suy luận ấy chưa đầy một giây. Rồi tôi bảo anh đến từ Afghanistan, khiến anh sửng sốt.”

“Anh nói nghe có vẻ đơn giản thật đấy,” tôi cười đáp. “Anh khiến tôi nhớ đến nhân vật Dupin của Edgar Allan Poe. Tôi chưa từng nghĩ những người như thế thực sự tồn tại ngoài đời, chỉ có trong tiểu thuyết mà thôi.”

Sherlock Holmes đứng lên, châm lửa cho điếu tẩu của mình. “Tôi đoán anh tưởng mình đang khen tôi khi đem tôi so sánh với Dupin,” anh bình luận. “Nhưng theo tôi, Dupin chỉ là một tay vừa vừa. Cái trò đột ngột chen ngang dòng suy nghĩ của bạn hữu bằng một nhận xét đúng lúc sau mười lăm phút im lặng – thật ra chỉ là cách phô trương nông cạn. Đúng là hắn có chút năng khiếu phân tích, không thể phủ nhận; nhưng hắn chẳng phải là hiện tượng phi thường như Poe đã tưởng tượng đâu.”

“Anh đã đọc tác phẩm của Gaboriau chưa?” tôi hỏi. “Nhân vật Lecoq có đạt tới tiêu chuẩn thám tử như anh hình dung không?”

Sherlock Holmes bật cười chế nhạo. “Lecoq chỉ là một gã vụng về đáng thương,” anh nói với giọng đầy khinh bỉ; “điểm đáng khen duy nhất của hắn là lòng nhiệt huyết. Cuốn sách ấy khiến tôi phát ngán. Bài toán đặt ra là nhận diện một tù nhân vô danh. Tôi có thể giải quyết trong vòng một ngày. Còn Lecoq thì mất tới nửa năm trời. Tác phẩm đó nên trở thành sách giáo khoa cho các thám tử, để dạy họ biết những sai lầm cần tránh.”

Tôi cảm thấy bực bội khi chứng kiến hai nhân vật mình ngưỡng mộ bị hạ thấp một cách phũ phàng như vậy. Tôi bước tới cửa sổ, đứng ngắm nhìn con phố nhộn nhịp bên dưới.

“Gã này có thể thông minh thật,” tôi thầm nghĩ, “nhưng quả là hắn kiêu ngạo quá mức.”

“Thời buổi này chẳng còn tội ác nào đáng kể, cũng chẳng có tên tội phạm nào ra hồn cả,” anh ta lẩm bẩm. “Có trí tuệ và chuyên môn như chúng ta để làm gì? Tôi biết rõ mình có đủ tài năng để lưu danh thiên cổ. Chưa từng có ai, dù xưa hay nay, bỏ nhiều công sức nghiên cứu và sở hữu năng khiếu bẩm sinh để điều tra tội phạm như tôi. Thế nhưng kết quả nhận được là gì? Chẳng có vụ án nào đáng để phá, hoặc nếu có thì cũng chỉ là những vụ phạm tội vụng về với động cơ hiển nhiên đến mức ngay cả một anh cảnh sát Scotland Yard tầm thường cũng có thể nhìn ra.”

Tôi vẫn cảm thấy khó chịu trước lối nói khoác lác của anh ta. Tôi nghĩ tốt nhất nên chuyển sang chủ đề khác.

“Tôi tự hỏi người kia đang tìm gì thế nhỉ?” tôi hỏi, chỉ tay về phía một gã đàn ông lực lưỡng ăn mặc đơn giản đang đi chậm rãi bên kia đường, mắt liếc nhìn các số nhà với vẻ bồn chồn. Trong tay hắn cầm một phong bì lớn màu xanh dương, rõ ràng là một người đưa thư.

“Anh đang nói về viên trung sĩ Thủy quân lục chiến đã giải ngũ kia à?” Sherlock Holmes đáp.

“Khoe khoang và nổ!” tôi thầm nghĩ. “Hắn biết tôi không thể kiểm chứng được câu phán đoán này.”

Ý nghĩ ấy vừa lướt qua đầu tôi thì người đàn ông chúng tôi đang quan sát bỗng nhận ra số nhà, lập tức băng qua đường. Một hồi gõ cửa dồn dập vang lên, tiếp theo là giọng nói trầm đục phía dưới và tiếng bước chân nặng nề leo lên cầu thang.

“Thư gửi ông Sherlock Holmes ạ,” anh chàng nói, bước vào phòng và trao bức thư cho người bạn của tôi.

Đây chính là dịp để hạ bớt cái thói kiêu ngạo của hắn. Hắn đâu có ngờ tới chuyện này khi đưa ra lời phỏng đoán hồ đồ đó. “Này cậu, cho phép tôi hỏi,” tôi lên tiếng với giọng điệu ôn tồn nhất, “hiện nay cậu làm nghề gì vậy?”

“Thưa ngài, là người đưa thư,” anh ta trả lời cụt ngủn. “Bộ đồng phục đang đem đi giặt ủi.”

“Thế trước đây cậu làm gì?” tôi hỏi tiếp, liếc nhìn người bạn mình với ánh mắt đầy ý nhị.

“Thưa ngài, từng là trung sĩ trong Trung đoàn Bộ binh Hải quân Hoàng gia. Không cần trả lời thư? Vâng, thưa ông.”

Anh ta va gót chân vào nhau, giơ tay chào, rồi bỏ đi.

*

Bản quyền

Hồ Sơ Vụ Án Màu Đỏ Thẫm Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.