VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 472: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 7 (NHÂM THÂN, 1092)
Bắt đầu từ tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 7 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Quý Sửu (mùng một), Hồ Tông Dũ, học sĩ điện Tư chính, được bổ nhiệm làm Thượng thư Lễ bộ. Thái Kinh, Long đồ các đãi chế, tri quân Vĩnh Hưng, được bổ nhiệm làm Long đồ các trực học sĩ, tri phủ Thành Đô. (Lệnh bổ nhiệm Tông Dũ và Kinh được ghi trong chính mục vào ngày 28 tháng 3.)
Lương Đào, học sĩ viện Hàn lâm, tâu: “Trong số những người từng làm thị tòng thời Nguyên Phong, nhiều người có thể dùng được, duy chỉ có Thái Kinh là không thể dùng. Trước đây khi có lệnh bổ nhiệm, thần đang giữ chức ngôn quan, đã từng bàn về việc này.”
Có người nói: “Nghe nói các tướng cũ thường để việc bị đình trệ, người này có tài, nên để ông ta xử lý.”
Lương Đào đáp: “Nếu dùng người này bây giờ, chắc chắn sẽ không phải là điều may mắn cho Thành Đô.”
Mấy ngày sau, lệnh vẫn chưa ban xuống, Lương Đào tình cờ đang xin nghỉ, nên lệnh bổ nhiệm đã được thực hiện.
Thái Kinh đến Thành Đô, quả nhiên hành động khinh suất, càn quấy. Trộm cướp nổi lên giữa ban ngày, thiêu rụi gần hết chợ thuốc. Sau đó, ông ta lại tổ chức hội vạn tăng, xa xỉ phung phí đến cực điểm, khiến hai xứ Thục bị náo loạn, tụ tập suốt nhiều ngày, nam nữ lộn xộn, bọn ác thiếu niên giết người, cướp bóc, một ngày xảy ra đến mười mấy vụ. (Hành trạng lại chép: “Có ngự sử tâu, chuyển ông ta làm tri quân Vĩnh Hưng.” Xét: Thái Kinh tại phủ Thành Đô được triệu về làm Thượng thư Hộ bộ, hành trạng chép sai, nay không theo.)
[2] Ngày Giáp Dần (mồng 2), xuống chiếu cho Tô Tụng, Thượng thư Tả thừa, soạn bài minh cho hồn thiên nghi tượng.
[3] Tả chánh ngôn Diêu Miễn tâu:
[4] Tiên đế biểu dương thánh học, dùng kinh thuật để tuyển chọn nhân tài, thực sự muốn dùng đạo lớn để biến đổi văn hóa. Tuy nhiên, có người bàn rằng việc chỉ dùng học thuyết của một nhà, lâu ngày sẽ thành tệ, không thể thông suốt, nên trước đây đã có chiếu chỉ khôi phục lại thi phú. Điều này chắc chắn là ý sâu xa của bệ hạ nhằm mở rộng con đường đào tạo nhân tài, tìm kiếm hiền tài. Tuy nhiên, thần thấy rằng từ khi khôi phục thi phú đến nay, đã năm sáu năm, vẫn có nhiều người chưa giỏi. Theo thần đánh giá về nhân tài, những người đã học thì khôi phục lại, khó mà không đạt được như vậy. Khi tìm hiểu nguyên nhân, cũng có lý do. Bởi vì pháp chế cống cử hiện nay, người học thi phú vẫn phải thi kinh nghĩa, người học đã kỳ vọng đạt được, nên cố gắng thông cả hai, đến nỗi quan lại yêu cầu họ phải giỏi cả hai, điều này thật khó đạt được.
Tại sao? Người học kinh thì chỉ cầu đạo của tiên vương, hiểu tâm của thánh nhân; còn từ phú thì chú trọng vào việc trau chuốt, phân tích, chủ yếu lấy thanh bệnh làm trọng. Hai điều này khó mà đạt được cả, giống như đòi hỏi người giỏi nhìn phải giỏi nghe. Nếu tâm ý phân tán, thì cả hai đều không tinh; nếu có thể giỏi một mặt, thì ắt có một mặt kém. Hơn nữa, khoa kinh nghĩa đã thực hiện khá lâu, những người lớn tuổi đã học xong, một khi bị bỏ qua, cũng rất đáng tiếc, huống chi thông kinh biện đạo, chẳng phải tốt hơn việc trau chuốt văn chương? Lại có nghe nói rằng trong tương lai, số lượng người đỗ kinh nghĩa sẽ không nhiều, còn người học thi phú kiêm kinh thì đều sơ sài, như vậy thì danh nghĩa kinh nghĩa chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, còn học vấn lục nghệ sẽ dần mai một. Thần mong triều đình cùng lập thi phú và kinh nghĩa thành hai khoa riêng, tùy theo số lượng người dự thi mà phân bổ đều tiêu chuẩn tuyển chọn. Như vậy thì có thể thực hiện lâu dài, và người học sẽ chuyên tâm vào một nghề, dễ đạt thành tựu. Mong bệ hạ cân nhắc, thiên hạ sẽ rất may mắn.
[5] Năm thứ 7, ngày 2 tháng 4, có chiếu rằng, các bề tôi tâu: “Gần đây thấy quy định hạn chế số chữ trong khoa cử không tiện, xin lại bàn luận. Xin từ nay về sau, các bài phú, luận, sách, kinh nghĩa đều không hạn chế số chữ. Nay đã được chỉ, bài sách quá hai phần không bị giáng đẳng, nhưng bài phú, luận, kinh nghĩa chưa được chỉ đạo.” Thần nghĩ rằng, thánh triều lấy lời nói để chọn người tài mà lại cấm họ nói nhiều, không hợp với nghĩa xưa, cũng không phải là cách tốt để triều đình chọn người. Phàm những người dự thi hơi tự phụ về văn học, trong trường thi không thể tự do phô diễn tài năng, khoe khoang kiến thức uyên bác để nổi bật hơn người khác, thì không thể xuất sắc được. Vì vậy, người giỏi văn thường lo lắng vì viết quá nhiều, đó là lẽ thường. Trước đây, thí sinh Khai Phong là Lộ Thụ khởi xướng viết bài phú dài mấy ngàn chữ, chỉ toàn lời hoa mỹ, không cần thiết, lúc đó những người giỏi văn thường bắt chước, nhờ Trương Phương Bình bài trừ mà văn phong trở nên chính thống. Đầu niên hiệu Gia Hựu, Lưu Kỷ và những người khác thích viết lối văn kỳ lạ, nhờ Âu Dương Tu cải cách mà phong cách văn chương trở lại thanh nhã. Điều này chỉ phụ thuộc vào phong hóa của chủ khảo mà thôi. Nay triều đình đặt ra luật, không xét đến sự trong sáng hay phức tạp của văn chương, mà chỉ đếm số chữ. Trách cứ người không đạt yêu cầu thì còn có ý khuyên răn; nhưng cấm viết nhiều thì thật vô lý.
Khi mới có kinh nghĩa, các sĩ tử đều cố khoe khoang học thuyết của thầy mình, nên tranh nhau đưa ra những lời lẽ kỳ lạ để thu hút người nghe. Dù vậy, cũng cần chọn lựa kỹ càng các quan chấm thi, và tham khảo quy chế chấm thi, sao cho việc chấm thi nhẹ nhàng và dễ dàng. Những lời lẽ tùy tiện, không đúng đắn tự nhiên sẽ bị loại bỏ, khiến người học biết rằng triều đình chú trọng vào sự đúng đắn hay sai lệch của văn chương, chứ không phải số lượng chữ, như vậy chẳng phải tốt sao! Kính mong triều đình xem xét lại. Chiếu rằng bài phú, luận quá hai phần không bị giáng đẳng, bài kinh nghĩa có văn lý xuất sắc cũng được áp dụng tương tự.
(Đoạn này ghi chép chiếu chỉ ngày 2 tháng 4 năm thứ 7, nay trích dẫn để tham khảo. “Bài sách quá hai phần không bị giáng đẳng” là theo tấu của Cấp sự Phạm Tổ Vũ, vào ngày 14 tháng 6 năm thứ 6, thực lục có ghi, nhưng chính mục không có. Kinh nghĩa vẫn theo chỉ đạo trước đây[1], Phạm Tổ Vũ lại phản đối. Điều này căn cứ theo gia truyền của Tổ Vũ, thực lục không ghi. Chính mục ngày 4 tháng 7 có ghi Chu Quang Đình phản đối việc không hạn chế số chữ, thực lục không ghi, đã chép vào ngày 14 tháng 6 năm thứ 6.)
[6] Kim bộ Lang trung Lý Kiệt tâu: “Ở trấn Thanh Dương, châu Hưng, lộ Lợi Châu hiện có hơn một trăm mỏ đồng. Trước đây thuộc Ty Tài Dụng Biên Phòng Tây Hà cử quan chiêu dụ thu mua, vốn liếng cũng do ty này lo liệu ứng phó. Gần đây bãi bỏ ty này, đem các mỏ đồng đó sáp nhập vào Ty Chuyển Vận Thiểm Tây quản lý. Từ khi sáp nhập, giá đồng giảm còn một nửa, vốn liếng cũng không đủ, dù có cử quan giám sát cũng không thể thu gom được. Những người khai thác đồng dần tan rã, sản lượng thu được ngày càng ít, lợi nhuận ngày càng giảm. Nay xin tăng thêm tiền mỗi cân, chuẩn bị nhiều vốn hơn, vẫn dùng cả bạc và lụa, chất đống dưới cân, và theo lệ trường Sầm Thủy châu Thiều, chọn quan, thưởng công xứng đáng để họ tìm cách thu mua, chắc chắn sẽ tăng thêm.” Chiếu cho mượn năm vạn quan tiền thường bình của lộ Lợi Châu làm vốn mua đồng, mỗi cân theo giá hiện tại, các việc khác đều theo lời tâu.
(Bản mới bỏ đi.)
[7] Ngày Ất Mão, Tả Bộc xạ Lã Đại Phòng tâu: “Đêm qua có mưa lành, chắc đã làm nhẹ lòng Thánh thượng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Mưa chắc đã thấm đủ.” Đại Phòng nói: “Thần nghe Đổng Trọng Thư nói: ‘Lòng trời yêu thương Vua, muốn giúp đỡ và bảo vệ ngài.’ Từ đầu xuân đến nay, hạn hán kéo dài, Bệ hạ thành tâm cầu nguyện, nên trời ban mưa. Há chẳng phải là ý trời muốn giúp đỡ và bảo vệ ngài sao? Cũng là do lòng thành của Vua mà thôi.”
[8] Ngày Bính Thìn, Ngự sử trung thừa Trịnh Ung tâu: “Thần trộm thấy những năm gần đây mưa tuyết hơi thiếu, khiến bệ hạ lo lắng, suy xét kinh sách, tra cứu sự việc, tội lỗi nằm ở sự buông lỏng. Thần trộm thấy chiếu chỉ năm Nguyên Hựu thứ hai, vì mưa thuận hơi thiếu, lo rằng Lục bộ Thượng thư có các văn thư tố cáo, tấu trình từ bốn phương lên trên. Hoặc việc thưởng phạt khó rõ ràng, bãi bỏ hay thi hành chưa quyết định, quan lang lười biếng trong việc xem xét, lại dịch cẩu thả trốn tránh thời hạn, quá mức ngăn cản, gian trá trăm đường, khiến người oan ức không có nơi để kêu cứu. Đây là chính sự nhân minh của bệ hạ, soi thấu tệ nạn ngày nay. Tuy nhiên, chiếu chỉ lúc đó như vậy, nhưng các cơ quan chưa có ai thực hiện ý chỉ minh bạch của chiếu chỉ. Thần đang giữ chức ở Hiến đài, từng chứng kiến các thần dân trong và ngoài kinh thành, từng có kiện tụng ở các nơi thuộc quyền và Lục bộ, đều trải qua nhiều năm mà không có quyết định. Dân chúng oán than, làm tổn thương khí hòa. Nay bệ hạ nhân thánh trị vì, mà các cơ quan buông lỏng đến mức này, thật là vô nghĩa. Thần gần đây từng kiến nghị, xin chọn quan tra xét việc thi hành của Lục bộ[2], bãi bỏ việc tệ hại, định ra phép tắc, nhưng chưa được thi hành. Kính mong bệ hạ xét nguyên nhân âm dương giao hòa, trong mối quan hệ giữa trời và người, trừng trị sự buông lỏng, chỉnh đốn kỷ cương, không làm phiền hà văn tự, yêu cầu hiệu quả thực tế, sau đó các chức vụ trong ngoài chọn người làm quan, thì âm dương sẽ điều hòa, khí lành sẽ ứng nghiệm.”
[9] Hữu chánh ngôn Ngu Sách tâu: “Thần kính nghe đức âm ngày 16, xét lại tù nhân, rửa sạch ngục tù. Đây thực là việc ban bố đức hạnh, sửa sang hình pháp. Tuy nhiên, đức âm chỉ đến được kinh thành. Là thiên tử ban ân mà còn có chỗ keo kiệt, thần e rằng ân trạch không tràn đầy, chưa đủ để kêu gọi khí hòa của thiên hạ. Kính mong bệ hạ mở rộng đức âm này, đến khắp bốn biển, đối với các việc của các cơ quan, những việc đầy đủ trách nhiệm và những việc không gấp gáp phiền nhiễu, nên nhanh thì nhanh, có thể chậm thì chậm, thì dân khí sẽ thư thái, mưa thuận sẽ đến.”
[10] Giám sát ngự sử Đổng Đôn Dật tâu: “Thần nghe rằng việc làm của nhà Vua là do trời, nên mệnh gọi là thiên mệnh, quan gọi là thiên quan. Gọi là trời thì nhà Vua không thể tư lợi, huống chi bề tôi? Làm oai làm phúc là quyền của nhà Vua; vâng mệnh mà làm là việc của bề tôi. Cốt yếu là như vậy. Thần nhân xét sổ sách, thấy rằng các quan trong kinh như ở các tỉnh, đài, tự, giám, ngoài kinh như các chức quận thủ, giám ty, việc bổ nhiệm trong ngoài, nhàn hạ hay vất vả không đều, rõ ràng có thể đếm được. Ví như các chức lang quan có người đổi qua nhiều bộ, các chức thừa, bạ thì càng nhiều; nhà quyền quý có người được bổ làm quan ngoài mà không đến nhậm chức, có người chưa được thay mà đã định trước chức vụ; ở ngoài có người đổi qua nhiều châu, có người dời qua nhiều lộ, có người vừa được phục chức đã được thăng chức, có người từ chức xa lại được bổ vào chức xa, nhanh chậm không đồng đều, chờ khuyết chức xa gần khác nhau. Kinh Thi nói ‘có người nằm nghỉ trên giường, có người không ngừng đi đường’, há chẳng phải vậy sao! Nhưng đây há phải là việc của triều đình công chính ư?
Dù thời tổ tông, ở biên cương hay trong triều, cũng từng có người giữ chức lâu. Như Đậu Nghi hai lần làm việc ở cấm lâm, Trần Thứ lâu năm ở kế tỉnh, tài năng công lao, vượt xa người thường, lại không phải là tài năng tầm thường có thể so sánh. Thần cho rằng từ chức quan trở lên, khác với các chức thường, cùng với những người tài năng vượt trội, triều đình có chỗ dựa, hoặc cho giữ chức lâu, hoặc thăng chức khác, tất cả đều chọn lựa theo đặc chỉ. Còn lại các chức trong ngoài, ở kinh thì định theo số năm khảo xét, dù có việc tự xin ân thưởng cũng không được quá bao nhiêu năm; ở ngoài thì chia xa gần theo chức vụ hợp lệ, việc dời chỗ, phục chức, lấy ngày tháng đến nhậm chức làm thứ tự, thì người cô hàn hay có thế lực đều rõ ràng, quyền bổ nhiệm không bị thay đổi, một khi đã có định luận, đều là việc làm rất công bằng.”
[11] Ngày Đinh Tỵ, Kinh lược ty của Hi Hà Lan Dân lộ tâu rằng: “Việc biên giới chưa yên, xin thêm hai viên sứ thần quản áp binh phiên cho mỗi tướng trong năm tướng binh phiên. Theo điều lệnh, các tướng chọn sứ thần am hiểu tình hình phiên, trình lên ty này xem xét rồi tâu lên để bổ nhiệm, đợi khi việc biên giới yên ổn thì giảm bớt.” Được chấp thuận.
(Ghi chú mới, ngày Kỷ Tỵ tháng hai có thể tham khảo.)
[12] Ngày Mậu Ngọ, ban chiếu cho các ty thừa ngoại Nam Bắc quản lý các đê sông, từ nay về sau lệnh cho các chuyển vận sứ, phó, phán quan của Hà Bắc, Kinh Tây, cùng đề điểm phủ giới, mỗi người phụ trách một khu vực, trong đó Hà Bắc kiêm thêm chức quản câu đô thủy công sự ngoại Nam Bắc.
[13] Ban chiếu cho tướng thứ ba của Kinh Đông đang đóng quân tạm thời ở Vĩnh Hưng quân đến phòng thủ Kinh Nguyên lộ[3]. Do Kinh lược ty tâu rằng giặc phương Tây xuất hiện ở Trấn Nhung, Đức Thuận quân, nên xin tăng thêm quân.
[14] Châu Mục tâu: “Dân huyện Thanh Khê là Tống An Thế, chín đời cùng một nhà, kính mong được khen thưởng để làm gương cho bốn phương.” Ban chiếu thưởng 50 thạch gạo và 50 tấm lụa.
(Ba việc này đều thuộc ngày Kỷ Mùi, sợ lẫn với việc lập hoàng hậu, nên dời đến ngày Mậu Ngọ hiện tại.)
[15] Lúc đầu, Tam tỉnh và Xu mật viện trình lên văn bản xem xét hôn nhân của Thái sử cục. Lã Đại Phòng nói: “Nếu nam nữ có niên mệnh quái biến đắc sinh khí, thì trăm việc đều không cần kiêng kỵ. Ví như Nhân Tông sinh năm Tuất, Quang Hiến sinh năm Thìn, Thìn Tuất tương xung, nhưng cũng biến quái đắc sinh khí.” Thái hoàng thái hậu nói: “Quốc gia không giống nhà thường dân, nếu không xem xét hôn nhân thì thôi, trong cung ai dám đảm đương? Các khanh là bậc chấp chính, dám đảm đương không?” Lã Đại Phòng lại nói: “Tuy nói là xem xét hôn nhân, nhưng trước hết phải xem môn phiệt, trong môn phiệt xem xét mới được.” Vương Nham Tẩu nói: “Nếu không chọn từ nhà có công đức, thì không thể phục lòng người.” Lã Đại Phòng nhân đó nhắc đến việc của Trần Tử Thành. Thái hoàng thái hậu nói: “Nhân Hoàng thánh minh, Ngự dược Diêm An biết rõ chi tiết. Cha của y là Sĩ Lương lúc đó rất được thân cận. Một hôm, Nhân Hoàng nói: ‘Ngươi sao không chúc mừng ta?’ Sĩ Lương hỏi: ‘Chúc mừng việc gì?’ Nhân Hoàng đáp: ‘Chúc mừng ta chọn được hoàng hậu.’ Sĩ Lương hỏi: ‘Nhà ai?’ Nhân Hoàng nói: ‘Nhà Trần Tử Thành.’ Sĩ Lương nói: ‘Tử Thành chỉ là chức quan nô lệ, dân giàu dùng tiền mua được.’ Nhân Hoàng vội nói: ‘Suýt nữa thì sai rồi.’ Hôm sau, Nhân Hoàng kể lại với Lữ Di Giản, Di Giản chúc mừng sự thánh minh của ngài. Người ta nói Lữ Di Giản nói trước, nhưng không phải, chính Nhân Hoàng kể lại, thánh minh như vậy.”
Lã Đại Phòng và Vương Nham Tẩu đều nói: “Xin bệ hạ thể theo ý này.” Thái hoàng thái hậu nói: “Có một việc rất hối hận. Hôm trước đi hỏi nhà họ Điền về mũ, thấy nói nhà đó có mười huyện chủ, mỗi người dùng năm ngàn quan tiền mua một cái, quốc gia nào cần tiền của ngươi? Đó là môn đăng hộ đối gì?” Hàn Trung Ngạn và Vương Nham Tẩu đều nói: “Nhà bề tôi cũng cần xem môn hộ, không thể không cẩn thận.” Lã Đại Phòng nói: “Thái sử cục toàn là tiểu nhân. Nếu không xem môn phiệt, e rằng những nhà này sẽ tính toán, vọng hợp niên mệnh, cũng nên đề phòng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Thái hoàng thái hậu và Anh Tông không từng xem xét hôn nhân, nhưng Nhân Hoàng thông hiểu tam mệnh lục nhâm.” Mọi người nói: “Điều này đâu phải ngẫu nhiên.” Thái hoàng thái hậu nói Nhân Tông thông hiểu tam mệnh lục nhâm, ý là Nhân Hoàng cũng tự xem xét hôn nhân với Anh Tông.
[16] Hôm khác, Lữ Đại Phòng lại nói: “Không biết bệ hạ lấy môn phiệt làm chủ hay khám hôn làm chủ?” Thái hoàng thái hậu nói: “Cần môn phiệt, cũng cần khám hôn.” Đại Phòng và các quan đều nói: “Như vậy chỉ sợ khó được thôi.”
Lâu sau, tháng hai ngày Ất Mão, Thái hoàng thái hậu mới tuyên dụ rằng: “Gần đây chọn được chín nhà mười cô gái, chỉ có con gái nhà họ Mạnh là khá nhất, nhưng lớn hơn ba tuổi, dung mạo cũng chưa đạt.” Lưu Nham Tẩu hỏi: “Không biết có phải là con chính thức không?” Đáp rằng: “Con gái của Vương Quảng Uyên gả cho họ Mạnh sinh ra cô gái này.” Đại Phòng và các quan bèn nói: “Chỉ sợ vì khám hôn lại khó thành tựu.”
Thái hoàng thái hậu nói: “Nay các quan đài là Trịnh Ung, Dương Úy, các quan gián là Ngu Sách, Diêu Miễn đều có văn bản, xin không dùng thuyết âm dương, cũng muốn cùng các khanh bàn bạc, không khám hôn nữa thì sao?” Mọi người đều khen ngợi. Đại Phòng bèn nói từ đời tổ tông đến nay đều chưa từng khám hôn, Thái hoàng thái hậu nghe theo lời đó. Tam tỉnh lui ra, Xu mật viện lại tấu việc. Nham Tẩu lại nói: “Từ xưa thánh nhân không dùng tiểu thuyết âm dương, bệ hạ nay bỏ được việc này, thật là đắc thể.”
Thái hoàng thái hậu lại nói: “Văn bản của đài gián chưa từng cho hoàng đế xem.” Nham Tẩu nói: “Việc này chỉ nên quyết định ở Thái hoàng thái hậu.” Bèn tuyên dụ cho cùng Tam tỉnh tiến văn bản. Nham Tẩu nói với Đại Phòng: “Thái hoàng thái hậu muốn văn bản không chỉ để bảo vệ nhà họ Mạnh, thực ra muốn lấy ý kiến bên ngoài để phá thuyết khám hôn.” Đại Phòng liền soạn tấu rằng: “Vâng thánh dụ, tuyển nạp hoàng hậu không khám hôn nữa.” Nham Tẩu nói: “Như vậy thì không khám hôn là ý của thánh, cần gì văn bản của đại thần? Phải thấy nghị luận từ mọi người, mới hợp ý thánh.” Tô Triệt cũng cho là phải, bèn dưới chữ “tuyển nạp hoàng hậu” thêm bốn chữ “nay theo ý kiến mọi người”, và thêm vào “thần đã nhiều lần tấu, việc kiêng kỵ âm dương cũng nên giản lược.” Hai ngày sau bèn tiến trình việc nạp hậu không nên khám hôn, cùng với tờ trát khảo sát tuyển chọn nhà họ Mạnh.
[17] Xu mật viện lại vào chầu, Thái hoàng thái hậu hỏi Trung Ngạn và các quan: “Các khanh cũng nghe rõ việc nhà họ Mạnh chưa?” Đáp rằng: “Mạnh là người thiện, làm quan nhỏ, gia đình yên ổn, không có việc gì khác.” Thái hoàng thái hậu lại tuyên dụ: “Không muốn chọn trong nhà quý tộc, sợ họ kiêu căng, kiêu căng thì khó dạy.” Trung Ngạn nói: “Như nhà họ Mạnh tự nhiên không kiêu căng, cũng dễ dạy. Không sinh ra trong giàu sang thì ắt phải cẩn thận, kính sợ.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đúng vậy.” Lúc đó là ngày Ất Mão tháng hai (ngày 2 tháng 2, Ất Mão).
Đến ngày Giáp Dần tháng này, Thái hoàng thái hậu lại tuyên dụ: “Con gái nhà họ Mạnh vào cung biết giữ lễ phép, có thể ban chiếu lập làm hoàng hậu.” Đại Phòng tâu: “Nên chọn ngày.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Hôm nay hay ngày mai đều tốt, cứ ngày mai ban chiếu.” Vương Nham Tẩu nói: “Thái hoàng thái hậu nên ban một tờ thư tay giao cho Học sĩ viện, để việc được thuận lẽ.” Thái hoàng thái hậu nghe theo. Lại bàn đến việc ban thưởng cho nhà hoàng hậu theo lệ cũ, Đại Phòng nói: “Thời Hán ban thưởng nhiều.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Thời Hán xa xôi, hãy nói thời Đường.” Đại Phòng nói: “Thời Đường không thấy.” Lại hỏi về triều ta, Đại Phòng nói: “Có. Nhưng đều không có văn bản, ắt là từ nội khố. Nếu không ban thưởng, ắt sẽ mắc nợ.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tào Tông ngày trước trả nợ rất nhiều.” Tào Tông là chú của Quang Hiến. Lui về họp ở đô đường, triệu Phạm Bách Lộc, Lương Đào, truyền dụ việc hôm nay ban thư tay và trong chiếu cần thể hiện ý phụng mệnh mẹ, lại lệnh Quốc sử viện tra cứu truyện của Mạnh Nguyên gửi đến Học sĩ viện. Bèn soạn thảo thư tay dâng lên. Ban đầu định ban thư tay vào ngày Bính Thìn, nhưng vì ngày đó là ngày bản mệnh của hoàng đế, nên đổi sang ngày Mậu Ngọ. Thư tay viết: “Ta gần đây vì hoàng đế đã lớn mà trung cung chưa lập, đã chọn khắp nhà các đại thần, tìm người hiền đức. Cháu gái của Mã quân đô ngu hậu, tặng Thái úy Mạnh Nguyên, là dòng dõi danh gia, biết giữ lễ, tính tình đoan trang, hợp với pháp tượng, nên lập làm hoàng hậu. Giao Học sĩ viện ban chiếu thi hành, các nghi lễ khác đều theo chỉ dụ trước.”
(Việc không khám hôn, 《Thực lục》 chép sơ lược vào ngày 2 tháng 8 năm thứ 6, nay lấy 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 chỉnh sửa biên vào, có thể thấy việc bàn luận trong triều khó khăn, không phải một hai ngày mà xong. Lã Đại Phòng nói việc Nhân Tông không khám hôn và việc Trần Tử Thành, Thái hoàng thái hậu hối hỏi việc nhà họ Điền, đều vào ngày 22 tháng 8 năm thứ 6. Đại Phòng lại nói việc cần môn phiệt và khám hôn sợ khó được, vào ngày 26 tháng 12 năm thứ 6. Tuyên dụ được con gái nhà họ Mạnh và Đại Phòng bàn không khám hôn, vào ngày 2 tháng 2 năm thứ 7. Tuyên dụ lập hoàng hậu vào ngày 2 tháng 4. Nay đều chép vào ngày 2 tháng 4, chỉ việc ban đầu được con gái nhà họ Mạnh tuyên dụ vẫn ghi rõ ngày tháng.)
[18] Ngày Kỷ Mùi, từ trong cung ban ra chiếu thư, lập cháu gái của Mã quân đô ngu hậu cũ, Mi Châu phòng ngự sứ, được tặng Thái úy là Mạnh Nguyên làm Hoàng hậu, đồng thời lệnh cho các cơ quan chọn ngày lành để làm lễ sách phong.
(Sách 《Ngọc điệp》 chép: “Hoàng thượng tuổi còn trẻ, lâu nay chưa bàn đến việc lập Hoàng hậu. Nguyên nhân là do bọn gian thần chuyên quyền, sợ họ khôi phục quyền lực nên mới như vậy. Trong ngoài xôn xao, vì các quan liên tục dâng lời, cuối cùng mới ban chiếu cáo trong ngoài việc lập Hoàng hậu.” 《Ngọc điệp》 không rõ ai soạn, chắc chắn là phe tà đảng. Ghi chép thêm để tham khảo.)
Hàn lâm học sĩ Lương Đào tâu: “Thần vào ngày mồng 6 tháng này nhận chiếu, kính cẩn tiếp nhận thủ chiếu của Thái hoàng thái hậu lập Hoàng hậu. Kính nghĩ Hoàng thượng vì Hoàng đế mà chú ý chọn người hiền đức, hơn một năm mới chọn được người xứng đáng, công lao an định quốc gia càng thêm lớn lao. Đây là việc vui của triều đình, thiên hạ may mắn lắm thay. Thần xin chúc mừng hai cung, nhân đây xin dâng lời về bốn việc cần làm:
Triều đình theo chiếu chỉ của Hoàng thượng, bàn bạc kỹ lưỡng về nghi lễ nghênh tiếp và lập Hoàng hậu, thực sự là việc trọng đại của một triều đại. Cần thực hiện tuần tự, không nên giảm bớt, để thiên hạ biết rõ quốc gia coi trọng lễ cưới hỏi lớn, lưu truyền phép tắc cho muôn đời. Đây là việc thứ nhất.
Hoàng thượng đã có người hiền trợ giúp trong cung, lại thường tiến cử nhiều người chính trực, phụ tá đức độ của Thánh thượng bên ngoài. Người chính trực nhiều thì chính sự thuần nhất, chính sự thuần nhất thì triều đình yên ổn, gian tà tự tiêu tan, có thể mãi mãi không lo hối hận. Đây là việc thứ hai.
Đợi việc vui mừng hoàn tất, trong cung sẽ có người được ban ân, nên xuất phát từ ý Thánh thượng, sớm ban bố, không cần đợi các quan dâng sớ xin. Ân đức quý ở chỗ ban xuống kịp thời, không thể chậm trễ. Đây là việc thứ ba.
Nay có việc vui lớn, lòng người trên dưới đều vui mừng, nên ban ân huệ để an ủi lòng dân. Xin bảo các đại thần bàn bạc, đặc biệt chỉ đạo, không thể không có, cũng không thể quá ít. Đây là việc thứ tư.
Bốn việc này đều liên quan đến việc cấp bách hiện nay, có thể làm vui lòng trong ngoài, đơn giản mà dễ thực hiện, đủ để mở rộng đức độ của Thánh thượng, mong Ngài lưu tâm.”
Tờ thiếp vàng viết: “Thần hôm qua muốn tâu bày những việc này, nhưng không được diện kiến, lòng trung thành cô độc, nhất định phải tự trình bày, nên mới viết thành văn bản, dâng lên Thánh thượng, mong Ngài xem xét.” Lại tâu: “Việc ban ân huệ, nên xem xét các vụ án hình sự trong thiên hạ, có thể có oan sai, người ở xa nên được ban ân đức, các quân ở kinh thành chắc chắn sẽ mong đợi, có thể ban cấp đặc biệt theo thứ bậc. Việc này tốn kém không nhiều, nhưng ân huệ rất lớn, đủ để tụ họp khí hòa, an ủi lòng dân. Việc ban cấp đặc biệt cần phải thực hiện, thứ bậc xin giao cho các đại thần thảo luận, tiền bạc e rằng Hộ bộ không dễ dàng chuẩn bị ngay, cũng xin xem xét chỉ đạo, mong Thánh thượng quyết định.”
Lại tâu: “Hoàng hậu đức hạnh hiền thục vốn đã sớm thành, càng mong Thái hoàng thái hậu xuất phát từ ý Thánh thượng, cẩn thận chọn người khoan hòa, có kiến thức, không đố kỵ, già dặn hiểu việc, để phụ tá bên cạnh. Kính nghĩ Thánh thượng suy tính sâu xa, chắc chắn đã có quyết định, thần chỉ dám bày tỏ ý kiến.”
(Lương Đào lại dâng sớ xin trả lại chính quyền, ghi chép thêm vào cuối tháng 5 sau khi lập Hoàng hậu.)
[19] Ngày Giáp Tý, ban chiếu: “Lễ cưới Hoàng hậu: Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang Lã Đại Phòng nhiếp Thái uý, sung Phụng nghênh sứ; Đồng tri Xu mật viện sự Hàn Trung Ngạn nhiếp Tư đồ, làm phó. Thượng thư Tả thừa Tô Tụng nhiếp Thái uý, sung Phát sách sứ; Thiêm thư Xu mật viện sự Vương Nham Tẩu nhiếp Tư đồ, làm phó. Thượng thư Hữu thừa Tô Triệt nhiếp Thái uý[4], sung Cáo kỳ sứ; Hoàng thúc tổ Đồng tri Đại tông chính sự Tông Cảnh nhiếp Đại tông chính khanh, làm phó. Hoàng bá tổ Phán Đại tông chính sự, Cao Mật quận vương Tông Thịnh nhiếp Thái uý, sung Nạp thành sứ; Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc nhiếp Tông chính khanh, làm phó. Lại bộ Thượng thư Vương Tồn nhiếp Thái uý, sung Nạp cát sứ; Quyền Hộ bộ Thượng thư Lưu Phụng Thế nhiếp Tông chính khanh, làm phó. Hàn lâm học sĩ Lương Đào nhiếp Thái uý, sung Nạp thái, Vấn danh sứ; Ngự sử Trung thừa Trịnh Ung nhiếp Tông chính khanh, làm phó.”
[20] Lại bộ tâu: “Muốn ứng cử chức quan tri huyện, huyện lệnh theo thường lệ; những người thuộc bản tư tự là Phán, Ty, Bạ, Úy được sai sung làm giáo thụ các châu, nếu nguyện mãn bốn khoa thì cho phép.” Theo đó.
[21] Kinh lược ty lộ Tần Phượng tâu: “Theo chỉ triều đình, tăng tu các bảo Lũng Dương, Đạt Hãn, Xuy Tàng. Hiện đang là mùa nông vụ, lại thêm mùa thu năm ngoái bị thiên tai, dân Hán và phiên binh cung tiễn thủ đều thiếu thốn, hơn nữa giặc ngoài biên giới đang tụ tập ngựa, cần chuyên tâm lo việc phòng bị, xin đợi đến mùa xuân năm sau mới khởi công.” Theo đó.
[22] Phạm Dục tâu: “A Lý Cốt sai Tuân Bác Tư Cát mang thư tiếng Phiên đến xin trả lại Lũng Bô Liễu An. Trước đây khi bắt được Quỷ Chương, đồng thời bắt được mười thủ lĩnh, trong đó Tư Môn và ba người khác đã chết vì bệnh, Tâm Mâu Ôn Kê và Đông Tư Kê hai người đã được triều đình ban cho A Lý Cốt, còn lại bốn người, trong đó Lũng Bô Liễu An hiện đang bị quản thúc tại Dân Châu ở chỗ Bao Thuận. Nay A Lý Cốt lời lẽ cung kính thuận phục, Lũng Bô Liễu An tuy bị quản thúc ở Hán, nhưng đối với quốc gia không có lợi ích gì, xin theo lời thỉnh cầu của A Lý Cốt mà trả lại.” Triều đình đồng ý.
[23] Ngày Bính Dần, ban chiếu: “Các lộ Hà Đông, Thiểm Tây đặt định số lượng 100 người dũng cảm trong phủ sứ. Tuyển mộ những người có hộ tịch, hành vi rõ ràng, tuổi từ 20 trở lên, khỏe mạnh dũng cảm, có thể sai khiến, biết chữ ít nhiều, chưa từng phạm tội, võ nghệ đạt tiêu chuẩn để bổ sung. Những người này sẽ thuộc quyền quản lý của Kinh lược ty.”
(Sách mới không ghi.)
[24] Điện trung Thị ngự sử Ngô Lập Lễ tâu: “Thần gần đây thấy người để tang cha mẹ xong là Trình Di được bổ nhiệm làm Trực bí các, quyền phán Tây Kinh Quốc tử giám, vì việc thăng chức của ông ta không có danh nghĩa, đã từng dâng sớ bàn luận, nhưng chưa được thi hành. Nay thấy Di dâng biểu từ chối, xem lời lẽ trong biểu, không hề nhận lỗi tự kiểm điểm, lại dám đòi hỏi Vua, xin về quê. Bề tôi ngang ngược, công khai không kiêng sợ, chưa từng thấy ai như vậy. Xét Di vốn hành xử không chính đáng, cuồng vọng tham tiến, nói về đạo đức trong nhà thì lấy cháu gái làm vợ, bàn về việc mưu cầu danh tiếng thì giả vờ ẩn dật mà làm điều quái dị. Lấy việc du thuyết làm sự nghiệp, lấy việc bác hạp làm công lao, dùng lời lẽ tà thuyết quỷ quyệt, đủ để loạn chính. Hơn nữa, Di trước đây vì tội bị giáng chức, chưa hết hạn lại gặp tang cha, triều đình nhân việc ông ta mãn tang, vượt cấp bổ nhiệm vào chức vụ Nho quán, có thể nói là ân điển đặc biệt. Đã dâng chương xin từ chối, không tự biết mình được ơn quá mức, thành khẩn từ chối mệnh lệnh tốt đẹp, mà lại tỏ ra bất mãn, muốn về quê. Bề tôi tiến thoái, vốn có đại nghĩa, nếu không muốn làm quan, tự nên xin từ chức theo lễ, chưa từng nghe việc từ chức một cách khinh suất, dám đòi hỏi Vua như vậy. Nếu không minh chính hình phạt, lấy gì để răn đe kẻ tại chức?”
(Ngày 22 tháng 3, Lập Lễ lần đầu tâu, nay lại tâu. Ngày 4 tháng 5, Đổng Đôn Dật tâu.)
[25] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu rằng tông thất, ngoại thích, nhà các quan, nếu vi phạm lệnh cấm rượu đến ba lần, đều bị thu hồi tước trượng.
(Sách mới không có.)
[26] Ngày Kỷ Tỵ, Thái thường tự tâu: “Sắp tới trước khi làm lễ nạp thái cho Hoàng hậu, chọn ngày cáo với trời đất, trước ngày làm lễ sách phong một ngày cáo với tông miếu. Kiểm lại việc cũ năm Cảnh Hữu thứ nhất lập Hoàng hậu, trước khi làm lễ sách phong chọn ngày cáo với trời đất, tông miếu, xã tắc, cung quan, các lăng, nay xem xét muốn cùng vào một ngày trước khi làm lễ sách phong sai quan tấu cáo.” Theo đó.
[27] Hộ bộ tâu: “Theo phê chuẩn của Đô tỉnh gửi xuống tờ tâu trắng, có bề tôi dâng lời: ‘Thần cho rằng cứu đói cũng như cứu bệnh. Khi tai họa xảy ra, giống như bệnh đang phát, chỉ cứu sống mà thôi. Sau khi tai họa qua đi, giống như bệnh mới khỏi, không thể coi thường, cần phải bồi dưỡng để phục hồi sức khỏe. Trong năm đói kém, dịch bệnh, dân làng vì bị bức bách ngày đêm, thường bỏ trốn. Nhưng vì số người bỏ trốn quá nhiều, hoặc hàng xóm cũng tự bỏ trốn, nên không có ai báo cáo lúc đó, hoặc quan phủ cũng không kịp kiểm tra xác minh từng việc. Đến khi họ trở về, quan phủ lại cho rằng không có báo cáo kiểm tra, nên không chịu thi hành chính sách miễn thuế cho người trở về. Vì thế, những hộ dân này thực sự là người bỏ trốn rồi trở về, triều đình có chính sách miễn thuế ưu đãi, nhưng ân huệ không đến được với họ. Thần mong bệ hạ thương xót, ban ân lớn, cho phép thi hành theo điều lệ miễn thuế cho người trở về.’ Bộ này xét thấy đã có điều lệ về việc trở về, xin ban xuống các lộ thi hành theo điều lệ. Thượng thư tỉnh xét rằng những hộ dân bỏ trốn này, vì các quan huyện muốn tránh bị phê phạt, và chuyển vận ty tiếc thuế, nên không chịu kiểm tra xác minh theo điều lệ.” Chiếu theo lời xin.
(Cựu lục chép: Thượng thư tỉnh tâu: “Hộ dân bị tai họa bỏ trốn, nhưng vì sau khi bỏ trốn, hàng xóm cũng tự bỏ trốn, nên không có ai báo cáo lúc đó, hoặc quan phủ cũng không kịp kiểm tra xác minh từng việc. Đến khi họ trở về, quan phủ lại cho rằng không có báo cáo kiểm tra, nên không chịu thi hành chính sách miễn thuế cho người trở về, khiến chính sách miễn thuế ưu đãi không được thực hiện. Xin cho phép thi hành theo điều lệ miễn thuế cho người trở về.” Được chấp thuận. Hoặc chỉ dùng Cựu lục cũng đủ.)
[28] Ngày Canh Ngọ, Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Mạnh Tại được thăng làm Sùng nghi sứ, Vinh Châu thứ sử. (Chính mục chép ngày 18 Mạnh Tại nhậm chính, Thực lục chép là thứ sử kiêm nhiệm, cần xét lại.) Tả ty viên ngoại lang Vũ Văn Xương Linh được thăng làm Thái thường thiếu khanh.
[29] Ngày Tân Mùi, Lễ bộ tâu: “Sắp tới việc nạp hoàng hậu, các quan văn vũ liên quan đến hôn lễ theo điển lệ sẽ không chúc mừng, còn nghi thức sách phong thì theo lệ cũ năm Cảnh Hữu thứ nhất, dâng biểu chúc mừng. Gần đây xét thấy việc lập hoàng hậu năm Trị Bình thứ nhất tại Thái thường tự, các quan văn vũ đều đến cửa Đông Thượng Cáp dâng biểu chúc mừng hoàng đế, rồi đến cửa Nội Đông dâng biểu chúc mừng Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu xong, tại cửa Nội Đông dâng sớ chúc mừng hoàng hậu, xin được thi hành theo lễ lệ trên. Lại xin tham bái Hoàng thái phi, xin được dâng sớ chúc mừng theo lệ như hoàng hậu.” Vua đồng ý.
[30] Ngày Quý Dậu, Bảo văn các Trực học sĩ, Trung đại phu, Binh bộ Thị lang Lý Chi Thuần bị giáng làm Tả Trung tán đại phu, vì khi làm Tri Khai Phong phủ để xảy ra cháy nhà.
(Sách 《Chính mục》 chép: “Xử phạt các quan lại Khai Phong để xảy ra cháy.” Ngày 18 tháng 12 năm ngoái bắt đầu điều tra vụ cháy, đến nay mới xử phạt.)
[31] Ngày Giáp Tuất, ba tỉnh tâu rằng: “Các lộ khảo sát thành tích của các huyện lệnh, điều khoản hiện tại chưa quy định số lượng người. Nay lấy số lượng huyện mà một lộ quản lý làm tiêu chuẩn, giao cho tri châu và thông phán khảo sát. Thành tích được đánh giá dựa trên bốn tiêu chuẩn tốt: đức nghĩa được biết đến, thanh liêm thận trọng rõ ràng, công bằng đáng khen, siêng năng không lười biếng; và ba tiêu chuẩn xuất sắc: xử lý kiện tụng không oan sai, thu thuế không gây phiền nhiễu, thuế má không thất thoát, thực hiện đúng chỉ dụ, sổ sách gọn gàng, phân bổ lao dịch công bằng là tiêu chuẩn xuất sắc trong việc trị sự; khai khẩn đất đai, không có đất bỏ hoang, xây dựng thủy lợi, dân chúng được hưởng lợi là tiêu chuẩn xuất sắc trong việc khuyến khích sản xuất; trừ bỏ trộm cướp, dân chúng được an cư, cứu tế người nghèo khó[5], không để dân phải lưu lạc là tiêu chuẩn xuất sắc trong việc chăm lo dân chúng. Sau đó tổng hợp các tiêu chuẩn tốt và xuất sắc, chia làm ba bậc: đạt bảy tiêu chuẩn là bậc trên, năm tiêu chuẩn là bậc trung, còn lại là bậc dưới. Hạn đến tháng sau báo lên giám ty để tổng hợp, mỗi nửa năm một lần, cùng nhau xem xét lại, nếu có người năng lực đặc biệt xuất sắc thì xếp riêng thành bậc ưu hoặc liệt. Nửa năm đầu hạn đến tháng 8, nửa năm sau hạn đến tháng 2 năm sau, trình bày rõ tình hình và bảo đảm tâu lên. Tri châu trừ những người có chức Thái trung đại phu, Quan sát sứ trở lên, cùng các chức Tam kinh lưu thủ, An phủ sứ, Kiềm hạt không phải khảo sát, còn lại đều giao cho giám ty khảo sát theo cách này.
Những việc trên đều giao cho Lại bộ phân tích bậc hạng rồi tâu lên Thượng thư tỉnh. Nếu tri châu, thông phán nhậm chức chưa đầy một tháng, giám ty chưa đầy hai tháng thì gia hạn thêm một tháng. Còn tri châu, huyện lệnh tại nhiệm chưa đầy một năm mà bãi nhiệm thì không cần khảo sát.” Được chấp thuận.
(Cựu lục và Tân lục vào ngày Nhâm Dần tháng 8 năm thứ 4 đều chép Lại bộ tâu về pháp khảo khóa bốn tiêu chuẩn tốt và ba tiêu chuẩn xuất sắc, lại vào ngày Giáp Tuất tháng 4 năm thứ 7 đều chép lại, chỉ có chút khác biệt về chi tiết. Nay căn cứ vào ngày Giáp Tuất tháng 4 năm thứ 7 để ghi chép đầy đủ, còn những ghi chép vào ngày Nhâm Dần tháng 8 năm thứ 4 thì không đưa vào. 《Chính mục》 ngày 22 chép Phạm Thuần Lễ làm Hình bộ thị lang, nhưng 《Thực lục》 không có. Xét thấy Thuần Lễ vào tháng 5 năm thứ 6 từ chức Cấp trung thăng làm Hình bộ thị lang, đến tháng 6 năm thứ 7 mới từ Hình bộ thị lang đổi làm Lại bộ thị lang, không rõ 《Chính mục》 vì sao lại chép như vậy, cần xem xét thêm.)
[32] Ngày Bính Tý, Hữu chánh ngôn Ngu Sách tâu: “Thần thấy ở Lại bộ hiện có hơn hai trăm người đủ điều kiện được dẫn kiến để cải quan, và số chức tri huyện còn khuyết khá nhiều. Thần nghĩ rằng những người này phải chờ đợi hơn hai năm trong cảnh nhàn rỗi để được dẫn kiến, rồi sau khi cải quan, được bổ nhiệm chức vụ, lại phải chờ khuyết thêm một đến hai năm nữa. Họ đều là những người có đủ người tiến cử, tài năng và chính sự đều đáng khen, có thể đảm đương công việc. Nên kịp thời tuyển dụng, để họ ra sức giúp đỡ bốn phương, nuôi dưỡng dân chúng, chứ không nên để họ phải sống trong cảnh nhàn rỗi suốt bốn năm năm. Hơn nữa, các quan nhỏ bị ngưng lương, sống nhàn rỗi lâu ngày, nghèo khó đến cùng cực, e rằng không phải là cách để nuôi dưỡng sự liêm chính. Thần nghe nói vào thời tổ tông, có lệnh hợp giáp, lúc ấy rất tiện lợi. Mong bệ hạ đặc biệt ban chỉ, giao cho hữu ty xem xét và thi hành, để tiện lợi cho thời điểm hiện tại.”
[33] Sách lại tâu: “Người nhận khí hòa của trời đất mà sinh ra, một khi mất đi sự hòa hợp, bệnh tật sẽ phát sinh, sống chết đều hệ lụy vào đó. Thần Nông phân biệt trăm loài, Hoàng Đế có các kinh nội, ngoại, nhà Chu đặt ra chức Y sư, Tật y, Dương y để coi sóc bệnh tật của muôn dân. Việc nuôi dưỡng con người, phàm những gì có thể làm được, thánh vương đều không bỏ qua. Từ thời tổ tiên đến nay, đã thu thập nhiều phương thuốc, ban bố khắp thiên hạ. Chiếu thư năm Gia Hựu noi theo chế độ thời Khai Nguyên, đặt chức Y sinh ở các quận, từ năm Hi Ninh trở đi, các huyện cũng làm theo. Tuy nhiên, các quận huyện thi hành chưa đúng ý chỉ, có danh Y sinh mà không có thực chất, không nơi giảng dạy, chưa nghe truyền tập. Nay những nơi trọng yếu, quận lớn còn thiếu lương y, những châu huyện xa xôi, sinh mệnh của dân đều giao phó cho thầy mo. Dù có người hành nghề y, cũng chỉ là danh hão, tùy tiện chữa trị, không theo phép tắc, nỗi khổ chết oan sao kể xiết? Thần cho rằng nên ban lệnh cho các châu, phủ, quân, giám trong thiên hạ, tìm kiếm những người tinh thông y thuật, được mọi người tín phục, có thể dạy học, thì mở nhà quan, lập trường y, bổ nhiệm làm giáo thụ, cấp bổng lộc hậu hơn, phàm ai muốn học đều được phép theo học. Đây cũng là việc tiên vương dùng ngũ phúc ban cho dân, khiến họ được khỏe mạnh, sống lâu.”
[34] Ngày Đinh Sửu, Đại Lý tự tâu: “Trộm thấy ngày 16 tháng 5 nạp hậu, các văn thần từ chức Thừa vụ lang, sứ thần từ chức Điện trực trở lên đều được tham dự. Chức Đại Lý bình sự tuy có người được bổ sung từ hàng tuyển nhân, nhưng căn cứ vào thứ bậc, chức Bình sự xếp trên Thông trực lang, xin đặc biệt ban chỉ cho phép họ tham dự. Như vậy, những người đang giữ chức sự đều được tỏ lòng thần tử, và được chứng kiến sự uy nghi của lễ nghi.” Được chấp thuận. Những tuyển nhân giữ chức sự ở kinh đô, xếp thứ bậc trên Thừa vụ lang cũng được áp dụng theo quy định này.
[35] Thái thường tâu rằng: “Sắp tới việc nạp hoàng hậu, ngày lâm hiên mệnh sứ ban sách phong hoàng hậu, một ngày trước đó, Lễ bộ dâng sách bảo vào trong cung, đến ngày đó từ trong cung đưa ra, đến các hậu điện Văn Đức và hành đệ để ứng phụng. Lễ nhận sách của hoàng hậu tại hành đệ, cần cử hai viên nội thị chủ đương việc khiêng sách bảo và các pháp vật, một ngày trước đó tại cửa Đông nội giao nhận và đưa vào. Đến ngày hành lễ, sớm đưa ra đến các hậu điện Văn Đức xong, lại đến hành đệ của hoàng hậu, cùng với nội thần chủ đương giao nhận và ứng phụng hành lễ, quản cung cấp đến điện này. Sau khi hoàng hậu tại hành đệ nhận sách bảo xong, hoàng hậu vào cung, những người khiêng sách bảo đi qua sân điện, cần cử bốn mươi hai người liễn quan.” Đều được chấp thuận.
[36] Thái thường tâu rằng: “Xét theo nghi thức lục lễ vừa ban, khi tiến cử xe trọng trạch, một viên nội bộc lệnh đứng bên trái, một viên nội bộc thừa đứng bên phải, mỗi bên có hai viên thư lệnh sử đi theo. Bốn viên nội yết giả giám, một viên cấp sự, hai viên nội thường thị, những người trên đều chia đứng hai bên. Sau nội yết giả giám, mỗi người có một viên nội cấp sứ đi theo. Một trăm hai mươi viên nội cấp sứ chia hai bên đi hàng đơn, sau cùng là xe cung nhân. Hai viên nội tự bá, dẫn sáu viên tự nhân chia hai bên đi kèm xe trọng trạch.” Được chấp thuận.
[37] Ngày Mậu Dần, Thường Lập, Tiết độ phán quan quân Thiên Bình, được bổ làm Giáo thụ châu Trần. Lập trước giữ chức Hiệu thư ở Sùng Văn viện, đến khi quan chế thực hiện, được thăng một bậc rồi thôi chức, hơn mười năm sau mới có mệnh lệnh này.
(Sự việc ngày 26 trong 《Chính mục》, người tiến cử cần tra cứu. Ngày 19 tháng 10 năm Hi Ninh thứ 8 nhận chức Hiệu thư, ngày 27 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 5 thăng một bậc rồi thôi chức, ngày 21 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ 3, ngày Kỷ Mão, Lập bị khiển trách.)
[38] Ngày Kỷ Mão, Ty Chuyển vận Thiểm Tây tâu: “Ở các châu Thương, Quắc có dân khai báo về mỏ đồng, hiện đã cử quan đến kiểm tra, nấu chảy, cũng có đồng cũ. Nay xét thấy muốn đem đồng mới nấu từ mỏ đồng Tân Hưng ở châu Quắc cùng đồng cũ, chở đến Thiểm Tây để đúc tiền; còn đồng ở châu Hưng, nếu chở đến phủ Thiểm thì đường xa, tốn kém phí vận chuyển, muốn đem đồng châu Hưng chỉ chở gần đến Giám đúc tiền ở quân Vĩnh Hưng để đúc tiền.” Được chấp thuận.
(Sách 《Tân》 không chép. Tô Thức trong tấu trạng ngày mùng 5 tháng 8 xin bãi bỏ quy định thưởng cuối năm của các ty thuế có nói: “Theo chiếu ngày 27 tháng 4 năm nay, bãi bỏ các trường thuế sản vật địa phương do dân các lộ đấu thầu.” Việc này cần khảo cứu. Ngày 27 tháng này lần đầu bãi bỏ trường thuế sản vật địa phương ở lộ Giang Nam, đến ngày mùng 7 tháng 10 mới bãi bỏ toàn bộ các lộ, cần khảo cứu và sửa lại riêng.)
[39] Tháng này, ba tỉnh và Xu mật viện cùng tấu: “Theo lệ cũ khi sách phong hoàng hậu, các quân ở kinh thành đều được cấp tiền đặc biệt nhỏ, giống như lệ Đoan Ngọ.” Lã Đại Phòng nói: “Năm Cảnh Hữu thứ nhất khi sách phong Quang Hiến, vì tang lễ Minh Túc chưa hết, hoàng đế không ra triều phát sách. Nay đã ra triều, muốn cấp tiền đặc biệt lớn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Theo lệ Đông Chí.” Đại Phòng nói: “Nên như vậy.” Lại nói: “Muốn cấp cho cả cấm quân và sương quân ở ngoài, cấm quân 500, sương quân 300.” Đại Phòng nói: “So với khi Thái hoàng thái hậu nhận sách, nên có chút khác biệt.” Các quan đều cho là khó. Lại nói: “Cần phải công bằng.” Mọi người nói: “Đợi bàn bạc, rồi tấu lên.” Lại nói: “Các khanh hãy bàn kỹ.”
Sau khi lui, Đại Phòng trình bày số lượng cấm quân và sương quân trong thiên hạ, cấm quân hơn 55 vạn người, ước tính chi khoảng hơn 30 vạn quan tiền, sương quân hơn 20 vạn người[6], ước tính chi khoảng 7 vạn quan tiền. Nham Tẩu nói: “Tiền tuy không nhiều, nhưng việc rất lớn. Thánh ý bảo chấp chính bàn kỹ, sao không trình bày hết lý lẽ.” Đại Phòng nói: “Trước đây Thánh ý cũng nói tiền không nhiều, dùng tiền Hữu tào, tiền phong trang của cấm quân, tiền thượng cung, có vẻ không tốn sức.” Nham Tẩu nói: “Triều đình dù không tiếc tiền, nhưng phải tiếc lễ.” Đại Phòng nói: “Lễ cũng tùy thời mà làm.” Nham Tẩu nói: “Không có tiền lệ, lại vượt Quang Hiến, lại ngang Thái hoàng thái hậu, việc này rất hệ trọng.” Đại Phòng không đáp. Tô Triệt nói với Đại Phòng: “Phải lấy việc không cấp làm chính, bất đắc dĩ mới bàn thêm, sao có thể nhận ngay? Người trước không đủ, chúng ta cười họ, sao lại để người ta cười mình!” Đại Phòng im lặng. Nham Tẩu lui ra nói với Hàn Trung Ngạn: “Việc lớn thế này nhận ngay có ổn không? Không biết việc gì đại thần nên lo.” Trung Ngạn nói: “Ngày sau nên lấy việc không có tiền lệ, vượt Quang Hiến để trình bày với Thái hoàng thái hậu.” Nham Tẩu nói: “Rất hay.”
Hai ngày sau, Đại Phòng nói với các quan: “Tìm được bốn ví dụ: Năm Thiên Thánh thứ hai Minh Túc nhận sách, cấp tiền đặc biệt trong ngoài; năm Cảnh Hữu thứ nhất sách phong Quang Hiến, cấp tiền đặc biệt ở kinh thành; năm Hi Ninh thứ hai Quang Hiến và Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu nhận sách, chỉ cấp tiền đặc biệt cho người cầm cờ; năm Nguyên Hựu thứ hai Thái hoàng thái hậu nhận sách, cấp tiền đặc biệt trong ngoài.” Ý cũng theo Nham Tẩu và các quan bàn. Khi tấu lên, Thái hoàng thái hậu nói: “Không phải vì nhận sách, mà vì nạp hậu.” Đại Phòng nói: “Cảnh Hữu là lệ nạp hậu.” Nham Tẩu nói: “Nếu trong ngoài đều có, tức là lệ mẫu hậu. Nên tiếc việc thể.” Thái hoàng thái hậu nói: “Không có ý gì khác, chỉ sợ họ thất vọng.” Nham Tẩu nói: “Người ngoài không mong. Nay gần đến lễ giao, chỉ mong thế này, nếu cấp thêm, sau này sẽ sinh may rủi.” Mọi người nói: “Như vậy thôi.” Đại Phòng nói: “Hoặc sau vài ngày đặt tên khác, giảm số lượng cấp một ít.” Trung Ngạn và Nham Tẩu đều nói: “Như vậy lại không có danh nghĩa.” Đại Phòng nói: “Quân biên thùy khó nhọc, nên cấp một ít.” Thái hoàng thái hậu nói: “Vẫn là không có danh nghĩa.” Thế là thôi.
(《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》: “Ngày 27 tháng 3, Lã Đại Phòng tra lại việc cấp tiền đặc biệt cho các quân ở kinh thành khi sách phong hoàng hậu ngày 3 tháng 11 năm Cảnh Hữu thứ nhất, rồi việc thăng chức cho ba nhà mẫu hậu, muốn tấu lên. Ngày 26 tháng 4, ba tỉnh và Xu mật viện cùng tấu, xin theo lệ Đoan Ngọ cấp tiền đặc biệt nhỏ. Ngày 27, Nham Tẩu và các quan tranh luận với Đại Phòng. Ngày 2 tháng 5, lại cùng tấu, rồi không thực hiện.” Nay phụ lục cuối tháng 4. 《Chính mục》 ngày 4 tháng 5 nạp hậu cấp tiền đặc biệt theo lệ Đông Chí, khác với đây, nên khảo xét kỹ.)
[40] Ban đầu, Thái hoàng thái hậu nhân việc các phụ thần dâng lên chuyện cấp đặc biệt thời Cảnh Hữu, bèn hỏi: “Lúc đó việc cưới gả trong tang chế, các đại thần không nói gì, là vì sao? Thần Tông cũng từng hỏi việc này, không biết nguyên do thế nào. Nay trong nhà các bề tôi cũng không ai dám làm như vậy!” Lã Đại Phòng và các người đều không biết trả lời thế nào. Sau đó, Xu mật viện lại tâu việc, Vương Nham Tẩu bèn trình bày đầy đủ những điều nghe được từ Hàn Kỳ. Thái hoàng thái hậu cười nói: “Vốn đã nghi ngờ ắt có lý do.” Hàn Trung Ngạn nói: “Có lẽ là sợ trong hàng phi tần có người được thăng tiến đột ngột.” Thái hoàng thái hậu nói: “Những người ấy làm sao hiểu được thể thống quân thần?” Nham Tẩu nói: “Cần phải chính hậu thì thể thống tự nhiên sẽ chính.” Thái hoàng thái hậu nói: “Cũng từng chiếu cho hoàng đế, chọn được hiền hậu, có công giúp đỡ trong nội cung, đây không phải việc nhỏ.” Nham Tẩu nói: “Giúp đỡ trong nội cung thì nhờ vào hiền hậu, nhưng việc chính gia phải do hoàng đế. Thánh nhân nói chính gia thì thiên hạ yên định, cần phải thận trọng ngay từ đầu.” Thái hoàng thái hậu liền quay lại nói với Vua: “Chính gia phải do hoàng đế.” Như vậy hai lần. Nham Tẩu lui về, chọn những việc làm của các hoàng hậu đời trước có thể làm gương, biên soạn thành một quyển sách, đặt tên là 《Trung cung ý phạm》, dâng lên.
(Việc Nham Tẩu dâng 《Trung cung ý phạm》, thực lục ghi ngày mùng một0 tháng 4, nay dời ghi vào cuối tháng.)
[41] Lễ bộ Thị lang kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần thấy Vương Tồn đoan chính, trọng hậu, vốn có tiếng tốt, trước đã từng giữ chức chấp chính, nếu cho ông vào giảng đọc, đủ để tăng thêm uy tín cho việc tuyển chọn kinh diên. Tô Thức văn chương đứng đầu thiên hạ, danh tiếng chỉ sau Tư Mã Quang, nhưng kẻ ghen ghét nhiều, việc này cần bệ hạ chủ trương mà dùng.
Triệu Ngạn Nhược, cha là Sư Dân, nổi tiếng về kinh học và đức hạnh, từng lâu năm hầu cận sách vở cho Nhân Tông. Ngạn Nhược đức tính giống cha, học rộng, nghe nhiều, thông thạo việc cũ, năm ngoái vì con phạm tội, việc ấy có thể thông cảm, không phải lỗi lớn, không nên bỏ lâu. Trịnh Ung từ khi làm Trung thư Xá nhân, thần từng nói ông có thể đảm nhiệm khuyến đọc, từ khi giữ chức ngôn quan, tiếng tăm càng cao. Nay chức giảng đọc quan còn khuyết[7], bốn người này thực sự hợp với ý chúng. Trình Di, thần sẽ bàn riêng.
Khổng Vũ Trọng học vấn uyên bác, giảng giải rõ ràng. Thời Nhân Tông, Giả Xương Triều, Tăng Công Lượng đều lấy chức Tri chế cáo kiêm giảng chức, nay Vũ Trọng nếu lấy Trung thư Xá nhân kiêm chức, cũng như lệ cũ. Lữ Hi Triết là con của Tư không Công Trước, Công Trước từng nói con trai này không dối trá nơi khuất tất. Người này kinh thuật và đức hạnh, người hiểu biết đều cho là có thể đảm nhiệm khuyến giảng, nay đã 54 tuổi. Nhưng Hi Triết là anh vợ thần, nên thần lâu không dám tiến cử, nay sắp rời triều đình, thầm nghĩ nói ra cũng không ngại, xin bệ hạ hỏi ý đại thần, tham khảo về người này. Lữ Đại Lâm là em của Đại Phòng, tu thân hiếu học, hạnh kiểm như người xưa, thần tuy không quen biết, nhưng biết từ lâu, vì là em tể tướng nên không dám nói.
Bệ hạ vốn biết thần không a dua chấp chính, lại thần đã xin ra ngoài làm quan, nên không tự nghi, mong bệ hạ ghi nhớ tên họ, để dùng khi cần. Ngô Sư Nhân từ khi còn là thường dân, đã nổi tiếng về đức hạnh trong giới sĩ đại phu, đầu niên hiệu Nguyên Hựu, triều đình đặc cách triệu làm học quan, mọi người đều cho rằng Sư Nhân nên vào hầu kinh diên. Thần trước sau đã ba lần tiến cử Sư Nhân, xin bệ hạ nghe theo ý chúng.”
[42] Lại tấu rằng: “Thần trộm thấy lúc đầu niên hiệu Nguyên Hựu, bệ hạ triệu Trình Di vào điện tiện đối đáp, từ thân phận thường dân được bổ làm Thông trực lang, sung chức Sùng chính điện thuyết thư, các sĩ tử trong thiên hạ đều cho là được người hiền, dù việc Chân Tông đối đãi với Chủng Phóng cũng không hơn thế. Khổng Tử nói: ‘Cử người ẩn dật, dân thiên hạ sẽ quy tâm!’ Việc cử một người mà thiên hạ không ai không quy tâm, là vì sao? Vì người làm việc thiện trong chốn u ẩn, biết rằng họ ắt không bị bỏ rơi.
Bệ hạ dùng Trình Di, thực là việc tốt đẹp hiếm có, chỉ hơn một năm, lại vì lời người mà bãi chức. Kinh thuật và đạo hạnh của Trình Di, thiên hạ đều biết, Tư Mã Quang, Lữ Công Trước quen biết Trình Di hơn hai mươi năm, sau đó mới tiến cử. Hai người này, không phải là kẻ lừa dối để làm mê hoặc thánh thính. Trình Di ở kinh diên, rất mong hoàng đế bệ hạ tiến bộ trong học vấn, nên khi giảng giải, lời lẽ thường nhiều. Trình Di, người thảo dã, một sớm vào triều tiếp xúc với người, không phòng bị, chưa quen việc triều đình, có phần cổ lỗ là điều tất nhiên; nhưng nói Trình Di muốn dùng tình cũ để lật đổ đại thần, dùng khí khái để sai khiến đài gián, những lời đó đều là vu cáo không thật. Bởi lúc đó các quan đài gián Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình, Giả Dịch, vốn đều kính phục kinh hạnh của Trình Di, nên người không biết cho là đảng của Trình Di. Trình Di, một kẻ thường dân, có quyền thế gì lay động người, mà có thể lật đổ đại thần, sai khiến đài gián?
Từ xưa, người ẩn dật vào triều, không ai không bị gièm pha. Bởi người ẩn dật vốn không cầu tiến thân, coi thường phú quý, công khanh đại phu tự biết mình không làm được như vậy, nên không ai không kính trọng, cho rằng người ẩn dật vào triều, ắt có tài năng hơn người, thuật trị bình thiên hạ, nên sự kỳ vọng thường lớn, đến kẻ không hiền thì thẳng thừng cho người ẩn dật là giả dối, là kích động, là cầu danh.
Lại nữa, người ẩn dật thường được bổ nhiệm chức vụ tốt đẹp không theo thứ tự, nên sự ghen ghét thường nhiều. Vì kẻ hiền kỳ vọng lớn, kẻ không hiền ghen ghét nhiều, nên người ẩn dật vào triều, chưa từng không bị gièm pha. Bệ hạ hãy cẩn thận chọn quan kinh diên, như Trình Di là người hiền, mới đủ để phụ đạo thánh học, còn như thần đây nhận chức phụ giảng, thực không dám so với Trình Di. Thần đã lâu muốn nói một lời cho Trình Di, ôm ấp nhiều năm, do dự không quyết, khiến Trình Di phải chịu lời gièm pha vu cáo ở triều đình công chính, thần mỗi lần nghĩ đến, không khỏi hối hận! Nay thần đã xin từ chức, nếu lại triệu Trình Di khuyên giảng, ắt có ích cho thánh minh, thần dù già nua ở ngoài, cũng không còn hối tiếc.”
Lúc đó Tổ Vũ nhiều lần xin làm Tri Tử Châu, chấp chính định theo lời xin, tiến chức Long đồ các đãi chế.
Thái hoàng thái hậu nói: “Hoàng đế chưa muốn cho đi, hãy vì hoàng đế mà giữ lại.” Chấp chính truyền chỉ, Tổ Vũ bèn không dám xin nữa.
- Kinh nghĩa vẫn theo chỉ đạo trước đây, chữ 'chỉ' trên nguyên bản có thêm chữ 'chỉ', theo các bản khác mà bỏ. ↵
- Xin chọn quan tra xét việc thi hành của Lục bộ, 'tra' nguyên bản là 'tố', theo các bản và bản hoạt tự sửa ↵
- Chữ 'Kinh' trong Kinh Nguyên lộ nguyên bản viết là 'Kinh', theo bản khác sửa lại. ↵
- Thượng thư Hữu thừa Tô Triệt nhiếp Thái uý, chữ 'Hữu' nguyên bản là 'Tả', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 243 truyện Chiêu Từ Thánh Hiến Mạnh Hoàng hậu và quyển 339 truyện Tô Thức sửa lại. ↵
- 'Chẩn' nguyên bản viết là 'Trướng', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 59-11 và 《Tống sử》 quyển 160, mục Tuyển cử chí sửa lại. ↵
- sương quân hơn 20 vạn người, chữ 'nhị' nguyên là 'tam', theo bản khác sửa lại. ↵
- Nay chức giảng đọc quan còn khuyết, chữ 'giảng' nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 hạ bổ. ↵