"

II. TỐNG THÁI TÔNG

QUYỂN 27: NĂM UNG HI THỨ 3 (BÍNH TUẤT, 986)

Bắt đầu từ tháng giêng năm Ung Hi thứ 3 đời Thái Tông đến hết tháng chạp cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Mậu Dần, (triều đình) [phong cho] Đức Di làm Hữu Thiên Ngưu Vệ Đại tướng quân, kiêm chức Phán quan ở châu Nghi, khi ấy ông mới 19 tuổi. Khi đó, một trận châu chấu bay tràn vào địa phận, quan lại và dân chúng xin đào hố chôn, đốt chúng đi. Đức Di nói: “Trời giáng tai hoạ, là tội của kẻ giữ đất.” Ông liền tự trách mình, nhận lỗi, trai giới thành tâm cầu nguyện, và đàn châu chấu tự chết.

[2] Trước đó, Hạ Lệnh Đồ, Tri châu Hùng, cùng cha là Hoài Phổ, Thứ sử châu Nhạc, Văn Tư sứ Tiết Kế Chiêu, Quân Khí Khố sứ Lưu Văn Dụ, Sùng Nghi phó sứ Hầu Mạc Trần Lợi Dụng cùng nhau dâng tấu rằng: “Từ khi quốc gia đánh Thái Nguyên, Khiết Đan đã phản bội minh ước, phát binh cứu viện. Nếu không nhờ uy trời và sức mạnh quân đội quyết đoán giành lấy, quân Hà Đông gần như bị sa lầy vào trận chiến kéo dài. Hơn nữa, chúa Khiết Đan còn nhỏ tuổi [1], việc nước do mẹ quyết định, đại tướng Hàn Đức Nhượng được sủng ái nắm quyền, người trong nước oán giận. Xin nhân cơ hội này để lấy U Kế.” Vua bèn cho rằng lời của Lệnh Đồ là đúng, bắt đầu có ý định Bắc phạt.

[3] Lúc đầu, Vua bàn việc thân chinh, Cấp sự trung kiêm Tham tri chính sự Lý Chí tâu rằng:

“U Lăng là cánh tay phải của quân Nhung, quân triều đình đến đánh, chúng tất kéo đến chống cự. Số người công thành ít cũng phải mấy vạn, quân đông tốn kém lớn, cần phải chuẩn bị đủ lương thực. Giả sử một ngày hạ được thành, cũng phải dự trù đủ cho mười tuần, không biết kho lương biên giới có đủ cung ứng không? Lại nữa, bên cạnh thành của quân Nhung, đất bằng không có gò đống, cách núi đã xa, việc lấy đá rất khó khăn, thành kiên cố như lò vàng, không có đá thì không thể phá được, vậy việc bắn đá bằng máy, làm sao thực hiện được? Nếu Thánh tâm đã quyết đoán, mưu lược đã định, thì kinh sư là gốc rễ của thiên hạ, xin Bệ hạ đừng rời xa kinh đô, kính cẩn giữ gìn tông miếu, tỏ ra bình thản trước kẻ địch, an lòng trăm họ ngưỡng vọng, đó là sách lược trên hết.

Đại Danh là yết hầu của Hà Sóc, có thể tạm dừng xa giá, tuyên bố thân chinh để tăng thêm uy thế quân đội, đó là sách lược trung bình. Còn như dẫn đại quân đi xa, thân chinh đến biên giới, phía bắc lo quân Nhung tiếp viện, phía nam lo sợ Trung Nguyên, thì những lời khẩn thiết kéo váy hay quyết liệt như chặt dây cương, thần tuy không đáng, nhưng cũng xấu hổ không kém người xưa.”

Hình bộ Thượng thư Tống Kỳ tâu:

“Triều đình xuất quân tinh nhuệ, tiêu trừ giặc cướp biên giới, cờ thiêng chỉ đến, thành Yên tất hạ. Nhưng đường đi của địch, có thể lợi dụng, ắt muốn lấy đường Hùng, Bá thẳng tiến, e rằng lại vướng vòng vây thành Dương. Phía bắc sông Giới, đầm phá bằng phẳng, quân đi đường bắc, buông vũ khí trên đất rộng[2]. Huống chi quân hành không rời quân nhu, địch đến không đoán được nông sâu, ắt mong quay xe, đi hướng tây đường núi.

Mong lệnh đại quân hội tại Dịch châu, theo phía bắc núi Hồ[3], phía tây sông Tất[4], dựa núi mà đi, tiếp tế lương thực tiến lên, vượt sông Trác, qua Đại Phòng, đến sông Tang Can, ra trại An Tổ, thì từ đông nhìn thành Yên, chỉ cách một xá. Đây là con đường Chu Đức Uy chiếm Yên. Từ sông Dịch đến đây hơn 200 dặm, đều là dựa núi, thôn xóm liền nhau, khe suối tiếp nối, lấy củi múc nước, ta chiếm thượng du. Phía đông là rừng núi bình cương, không phải nơi ngựa giặc xông pha, bên trong bày đội cung nỏ bộ binh, đó chính là phương pháp phòng ngự của quân vương.

Trên núi dựng cờ trắng để quan sát, ngựa giặc từ xa hơn hai mươi dặm đều có thể đếm được[5]. Từ phía tây bắc trại An Tổ có đền thờ thần Lô Sư, đây là cửa sông Tang Can chảy ra từ núi, về phía đông đến U Châu khoảng hơn bốn mươi dặm. Khi Triệu Đức Quân làm trấn thủ, muốn chặn đường tây xung, từng đào khúc sông này. Hơn nữa, ven sông có vách đá, không thể vượt qua trực tiếp, chỗ bằng phẳng thì xây thành để phòng thủ, dùng quân thiên về bảo vệ, đây là cách chặn đánh cánh phải của giặc.

Lại lo bộ tộc Hề quấy phá, có thể điều ba đến năm nghìn binh sĩ dũng cảm đến trấn thủ tại Thanh Bạch Quân, ngăn chặn trong núi, đây là khu vực giữa Tân Châu và Quy Sơn[6], phía nam là đại lộ dẫn đến Dịch Châu. Khúc sông Tang này thuộc góc bắc thành Yên, chảy quanh phía tây rồi đổi hướng. Đại quân nếu tiến đến dưới thành, tại phía bắc lăng Yên Đan[7], đắp đập ngang sông này, đưa nước vào sông Cao Lương, bờ sông Cao Lương hẹp, nước sông Tang ắt tràn, có thể dẫn nước sang phía đông chùa Trú Tất vào đầm Kỳ Đình, trong ba đến năm ngày nước ngập tràn hơn trăm dặm, tức là U Châu bị ngăn cách ở phía nam sông.

Quân triều đình có thể bắc cầu phao ở phía bắc châu để thông đường bắc, quân kị giặc đến ứng cứu đã bị ngăn cách bởi sông. Nhìn vào thành lũy cô lập này, trong vòng mười ngày ắt sẽ hạ được, các quân trong U Châu và tám quân phía sau núi nghe tin Kế Môn thất thủ, tất sẽ đầu hàng, đây là do thế lực khiến vậy. Sau đó, triều đình cử trọng thần đến trấn thủ, ban ân huệ để chiêu an.

Bộ lạc Hề và Tập, thời Lưu Nhân Cung và con trai là Lưu Thủ Quang, đều bị chích mặt làm nghĩa tử, phục tùng dưới quyền chỉ huy của quân Yên. Nhân mã, đất đai của họ không bằng Khiết Đan. Từ khi bị ép theo và lệ thuộc vào họ, họ luôn ôm mối hận sâu trong lòng. Binh mã và đất đai của Bột Hải so với Hề thì hùng mạnh hơn, tuy họ miễn cưỡng phục tùng, nhưng đều mang mối oán hận giết chủ và phá nước[8].

Các vùng Kế Môn và vùng núi phía sau như Vân Châu, Sóc Châu, Sa Đà và Thổ Hồn vốn là đất cắt cho họ, không phải là phe phản loạn. Những bộ tộc phiên Hán này, nếu sau này tiến hành thảo phạt, dù bắt được trên chiến trường, cũng sẽ tha chết, phong chức vụ và an ủi họ, khiến họ mang ơn, chỉ lấy cớ trừng trị Khiết Đan. Như vậy, lòng dân các tộc sẽ muốn báo thù[9], Khiết Đan dù nhỏ yếu cũng sẽ bị tiêu diệt trong ngày. Các nước Hề, Tập và Bột Hải, sẽ chọn những người có uy tín và thân tộc, phong vương, ban cho họ khí vật, cờ trống, xe ngựa, áo giáp, đối đãi hậu hĩ rồi cho về, họ ắt sẽ trung thành, mãi mãi phục tùng thiên triều.

Sau khi bình định xong, sẽ bổ nhiệm quan lại đến các vùng Yên và vùng núi phía sau như Vân Châu, Sóc Châu, cấp dồi dào lương thực và tiền bạc, đặt tên mới cho cấm quân, chiêu mộ ba đến năm vạn người, dạy họ cưỡi ngựa bắn cung, quản lý tại bản châu. Những người này sinh trưởng tại biên ải, thông thạo việc quân, chiến đấu sẽ một địch mười, lại có Hề, Tập, Bột Hải làm phiên thần, đó là cách giữ yên bốn phương.

Tuy nhiên, từ thời A Bảo Cơ đến nay, dân số vùng Hà Sóc bị bắt đi rất nhiều, đều ở trong cung điện Khiết Đan. Bình Lô cũng gần Liễu Thành, vùng Liêu Hải có hàng chục vạn hộ, canh tác hơn ngàn dặm, khi tiêu diệt hết bọn phản loạn, sẽ đều là dân của vương triều. Thay đổi lòng khác để phục tùng đức uy, dẫn dắt dân biên giới theo giáo hóa, ai muốn trở về thì cho phục hồi cũ, ai yên ổn thì ban ơn phủ dụ. Vẽ lại biên giới, đặt thành châu huyện, thì các quận Tùng Mạc[10], Nhiêu Lạc thời trước, chưa được mở mang rộng lớn như vậy.”

Kỳ người gốc Yên, am hiểu về xe ngựa, địa hình sông núi trong trại địch, những lời nói của ông đều có căn cứ. Sau đó ông lại dâng sớ tâu rằng:

“Cuối đời Tấn, Khiết Đan chủ[11] dẫn quân xuống phía nam, gọi là đại trướng, có binh lính phòng thủ bằng da khoảng ba vạn kỵ binh, đều là giáp tinh nhuệ, làm vuốt nanh của họ. Quốc mẫu Thuật Luật thị dẫn quân xuống, gọi là Thuộc San, có hai vạn quân, là tướng dưới trướng của Vua Khiết Đan trước là A Bảo Cơ, một nửa đã già. Mỗi lần tiến xuống phía nam, thường mượn được khoảng ba đến năm ngàn kỵ binh, còn Thuật Luật thị thường giữ lại phần quân còn lại làm nền tảng cho bộ tộc. Các thủ lĩnh lớn như Thái tử, Vĩ vương, Vĩnh Khang, Nam Bắc vương, Vu Việt, Ma Đáp, Ngũ Áp, người nhiều thì có hơn ngàn kỵ binh, người ít thì có vài trăm, đều là giáp riêng của họ. Các tộc khác là Hề, Tập, quân tinh nhuệ cũng hơn ngàn người, ít ngựa nhiều bộ binh. Hề, Vua của họ là A Bảo Đắc[12], năm xưa khi xâm phạm cung khuyết[13], đã ra lệnh cho đưa Lưu Hy và Thôi Đình Huân đóng quân ở Hà Lạc.

(Vua Hề gọi là Duệ Lạt, ở đây gọi là A Bảo Đắc, cần tra cứu thêm.)

Lại có thủ lĩnh Bột Hải là Đại Xá Lợi Cao Mô Hàn, có hơn một vạn bộ kỵ binh, đều cạo đầu và vấn tóc bên trái, bắt chước trang phục của Khiết Đan. Lại có các tộc Thát Đát, Uý Quyết Lý, Thất Vi, Nữ Chân, Đảng Hạng gần biên giới, cũng bị ép phải thuần phục, mỗi tộc không quá ngàn kỵ binh. Ba tộc khác là Thổ Hồn, Sa Di, cùng hơn mười quân, châu trong khu vực U Châu phía bắc Nhạn Môn, và bộ lạc Hán, tổng cộng hơn hai vạn quân, đây là vùng đất mà nhà Thạch Tấn đã cắt để dâng cho Khiết Đan. Số lượng các tộc Phiên và Hán có thể thấy rõ vậy.

Mỗi khi Khiết Đan tiến quân vào biên giới phía nam, quân số của họ không dưới mười vạn. Khi tiến vào biên giới, bộ binh, kị binh, xe ngựa và trướng không đi theo đường nhỏ mà đi thành hàng ngang khắp cả đông tây. Phía trước đại trướng và hai bên đông tây, cử ba vị đại thủ lĩnh, mỗi người dẫn một vạn kị binh, chia tán ra tuần tra[14], cách xa trăm dặm, qua lại quan sát và tuần tra, gọi là “lan tử mã”. Chủ tướng Khiết Đan thổi tù và làm hiệu lệnh, quân lập tức tập hợp, vây quanh trại lớn. Từ gần đến xa, bẻ cây cong lại làm “cung tử phố”, không đặt hàng rào chắn hay chiến lũy. Mỗi khi hành quân, nghe ba tiếng trống, không kể ngày đêm, đi một vòng là lên đường. Khi chưa gặp đại địch, không cưỡi ngựa chiến, đợi đến gần quân chủ mới tranh nhau lên ngựa, vì ngựa chiến mới được thuần có sức dư. Chiến thuật dùng binh của họ là dàn trận nhưng không đánh, đợi địch lui mới thừa cơ đánh. Thường đặt phục binh, chặn đường lương, ban đêm đốt lửa, thổi gió thổi cành khô, tự mang lương thực, thua trận không xấu hổ, tan rồi lại tụ, càng lạnh càng kiên cường. Đó là sở trường của họ.

Sở trường của Trung Nguyên là mưa rào mùa thu hạ, đó là thiên thời; núi rừng sông suối, đó là địa lợi; giáo đâm kiếm bắn, đó là binh thắng; của cải dồi dào, quân lính đông đảo, đó là sức mạnh. Biết tận dụng cơ hội, rõ ràng có thể thấy.

Kế sách của quân triều đình để phá địch, mỗi khi vào mùa thu đông, các quân châu ở vùng Hà Sóc dọc theo biên giới, chuyên tâm phòng thủ, không nên xâm phạm người dân, khiến kẻ địch không có cớ để khơi mào chiến tranh. Hoặc khi kỵ binh phương Bắc đã hùng mạnh, dẫn quân xâm lấn, chủ tướng đích thân xuất chinh, quân địch tập hợp đông đảo, mây lạnh che khuất mặt trời, tuyết phương Bắc khiến trời mù mịt, giao chiến trên lưng ngựa, tận dụng lợi thế của áo da và áo len. Nên cố thủ trong thành, vận dụng chiến thuật lấy tĩnh chế động. Kỵ binh nên tập trung ở các nơi như Thiên Hùng quân, Bối châu, Tương châu trở lại, nếu phân tán ở các thành biên giới, khi xảy ra tình huống khẩn cấp sẽ khó hội quân. Các châu phủ gần biên giới chỉ nên sử dụng bộ binh, tập trung nhiều cung thủ, lớn thì gồm vạn quân, nhỏ thì ngàn người, củng cố thành trì vững chắc, không nên xuất chiến. Kẻ địch dùng toàn bộ binh lực của cả nước, ta chỉ dùng quân lực của một quận, tuy sự dũng cảm và nhút nhát có khác biệt, nhưng cần lo ngại vì quân số quá chênh lệch.

Triều đình riêng biệt bổ nhiệm đại tướng, tổng chỉ huy tiền quân, để ngăn chặn sự xâm lấn. Chỉ cần tập trung ở các nơi như Thiên Hùng quân, Hình châu, Minh châu, Bối châu trở lại, thiết lập các phương án phòng thủ chống lại quân địch[15]. Chờ khi tiết xuân đến, kế sách của kẻ địch phương Bắc cùng quẫn, cỏ mới chưa mọc, cỏ cũ đã héo, ngựa không còn sức, quân giặc mệt mỏi muốn rút về, lúc này ta tấn công đuổi theo, chúng chắc chắn sẽ tháo chạy.

Phương pháp bày trận của tiền quân: Chiến mã và bộ binh tinh nhuệ không quá 10 vạn. Dưới quyền Chiêu thảo, cử thêm ba đến năm người làm nhiệm vụ thám sát, giữ các chức vụ Đô giám, Phó nhung, Bài trận, Tiên phong, tùy tình hình mà phân bố, điều quan trọng là phải linh hoạt. Trận đánh truy kích địch cần sắp xếp thành hàng trước sau.

Trận tiền phong gồm 15.000 kỵ binh, trung quân 1 vạn người, chia làm 40 chỉ huy. Tả hữu hai cánh mỗi bên 10 chỉ huy[16], tổng cộng 20 tướng. Mỗi chỉ huy thành lập một đội, từ Quân chủ, Đô Ngu hậu, Chỉ huy sứ, Áp đương, mỗi đội trang bị 100 ngọn giáo hoặc thương mác, còn lại đều là cung tên và khiên gỗ. Trung quân hạ ngựa xếp thành hàng, khi giao chiến với địch, bất kể mạnh yếu, đều phải dốc toàn lực, giáo mác đâm chém, đuổi đánh qua lại, hậu quân tiến lên tiếp ứng. Nếu địch thừa cơ đánh sâu vào, sau trận tuyến, sử dụng thêm 5.000 bộ binh và kỵ binh, chia làm 10 mũi, cùng tiến lên với cọc chống và nỏ cứng, làm nơi ẩn nấp cho kỵ binh quay lại.

Hai cánh trận không được tùy tiện di chuyển, phòng kỵ binh địch xông vào. Trận này do Đô giám chỉ huy, việc tiến lui, thưởng phạt đều do hắn quyết định. Hậu quân gồm 8 vạn bộ binh và kỵ binh, do Chiêu thảo thống lĩnh, cách tiền quân không quá 3 đến 5 dặm[17], hai cánh triển khai vững chắc, có thế như núi Thường, tả hữu chia nhau đôn đốc trận hình. Khi tiền quân đánh tan địch, hậu quân cũng phải ngăn chặn sự hung hăng xông lên, đó là kỷ luật nghiêm minh của quân đội.

《Mục thệ》 có viết: “Chém bốn năm nhát rồi dừng lại, chỉnh tề hàng ngũ”, đó là lời răn dạy cẩn trọng. Vì thế, trong niên hiệu Khai Vận, quân đội nhà Tấn đóng quân chống lại quân Nhung, chưa từng tan rã. Trong khoảng ba bốn năm, dù Đức Quang là thủ lĩnh quân Nhung, mưu kế xảo quyệt nhưng cũng không thắng được quân Tấn, bởi họ đã hợp lực chống lại. Sau đó vì dụng nhân không xứng, bị Trương Ngạn Trạch làm hỏng việc. Nếu sau khi giết chóc, cướp bóc và xua đuổi, bậc Thánh nhân lo giữ đức hiếu sinh, thiết lập kế hoạch ngừng binh, dù hạ chí khí chịu khó khăn, việc hòa hoãn với quân Nhung cũng là tiện lợi. Ngụy Cương thường trình bày năm điều lợi, Phụng Xuân chỉ đạt được trung sách.

Xem qua các sách sử, các bậc tiên vương đều làm như vậy. Kinh Dịch khen Cao Tông dùng binh đánh Quỷ Phương, Kinh Thi ca ngợi Tuyên Vương đánh Hiểm Doãn, từ đó biết rằng việc rợ Địch xâm lược đã có từ lâu. Tuy nhiên, binh đao là vật hung hiểm, bậc Thánh nhân chỉ bất đắc dĩ mới dùng đến. Nếu chọn kỹ sứ thần, không làm nhục mệnh Vua, thông hiếu kết minh, ngừng chiến yên dân, đó cũng là sách lược hay vậy.

Thần mỗi khi thấy triều đình phát binh, chưa đến nơi đồn trú, đã điều động dân chúng các quận hai bên sông vận chuyển lương thực, khiến xa gần đều xáo động, hao phí gấp mười lần.

Thần sinh sống nơi biên thùy, quen biết việc quân sự. Huống chi U Châu là cửa ngõ phía bắc của quốc gia, trấn giữ trọng trấn áp chế các bộ tộc phiên thuộc, nuôi dưỡng hàng vạn binh lính, việc đánh dẹp kẻ địch là điều hợp lý. Mỗi lần điều phát binh lính, chỉ cần chuẩn bị lương khô, vào đất phiên trong mười ngày, quân lương tự mang theo, mỗi người cấp hơn hai đấu bột, đựng trong túi để mang theo. Mỗi con ngựa chiến đấu cấp hai đấu lúa sống, làm thành túi, cho ăn mỗi ngày giới hạn hai thăng, trong mười ngày, người ngựa đều không có dấu hiệu đói.

Hơn nữa, con em các quan nha môn cùng nhau gánh vác việc vận chuyển, lương thực một tháng không cần lo việc tiếp tế. Đợi đại quân đến nơi, bàn định kế hoạch rồi mới tính chuyện chuyển lương, cũng chưa muộn.

Thần có kế sách bình định Yên, đường vào Yên, đã trình bày trong bản tấu trước, mong được xem xét. “

Tấu chương dâng lên, được chấp nhận phần lớn.

(Bản truyền và ‘Hội yếu’, ‘Kinh vũ thánh lược’ đều chép rằng vào năm Đoan Củng thứ hai, khi đánh U Kế, triệu tập quần thần bàn việc biên cương, Kỳ dâng tấu này. Xét năm Đoan Củng thứ hai, Khiết Đan quấy nhiễu Hà Bắc, triều đình lo lắng, đâu rảnh bàn việc xa như U Kế. Tấu này hẳn là dâng vào mùa xuân năm Ung Hi thứ ba khi Tào Bân xuất quân, nên chỉ bàn việc U Kế, nay trích ra phụ lục ở đây[18]. Bản truyền chép là Lại bộ, cũng sai.)

[4] Chiếu rằng các việc liên quan đến tiền lương của ba ty, từ nay phải tính toán kỹ việc nên làm hay không, đều phải tâu trình, không được giữ hai ý kiến để xin chỉ dụ. Nếu theo tấu chương thi hành mà không có lợi cho dân, bất lợi cho nước, đều sẽ bị xét tội. Có việc lớn mà bản ty không quyết định được, mới cho phép người đứng đầu tên mặt tâu trình.

[5] Tháng ba, Phan Mỹ xuất quân từ Nhạn Môn, tiến vào từ Tây Hình[19], giao chiến với quân địch, giành thắng lợi, chém được năm trăm thủ cấp. Đuổi giặc đến Hoàn Châu, lại chém được năm trăm thủ cấp. Đô chỉ huy sứ quân Thần vệ hữu đệ nhị là Tiết Siêu Thể người Bình Thành bị thương do vũ khí sắc nhọn, máu chảy nhiều chỗ thấm ướt dây áo giáp, nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy quân sĩ.

Ngày Canh Thìn, Thứ sử Triệu Ngạn Tân dâng Hoàn Châu đầu hàng. Triều đình hạ chiếu phong Ngạn Tân làm Đoàn luyện sứ bản châu.

[6] Tào Bân tiến quân đóng đồn ở phía đông Trác Châu, lại giao chiến với quân địch. Lý Kế Long, Phạm Đình Triệu đều trúng tên bắn, nhưng càng thúc quân chiến đấu gấp hơn, quân địch đại bại, thừa thắng đánh chiếm cửa bắc thành. Ngày Tân Tỵ, hạ được Trác Châu.

[7] Phan Mỹ tiến quân vây Sóc Châu, Tri tiết độ phó sứ Triệu Hi Tán dâng thành đầu hàng. Triều đình hạ chiếu phong Hi Tán làm Quan sát sứ bản châu.

[8] Điền Trọng Tiến đến khu vực phía bắc Phi Hồ, Đại Bằng Dực, Sứ phụ trách chiêu an vùng Tây Nam, dẫn quân đến tiếp viện. Viên Kế Trung, Sứ tại hành dinh phụ trách Tây Thượng Cáp Môn, nói với Trọng Tiến: “Địch có nhiều kỵ binh, lợi thế trên đất bằng, chi bằng thừa cơ địa hiểm mà đánh ngược lại.” Đàm Diên Mỹ, Thứ sử châu Kỳ, nói: “Địch ỷ vào quân đông khinh thường ta, nếu đánh bất ngờ, có thể thắng được.”

Trọng Tiến bèn bày trận đánh thẳng cánh đông, giao chiến nhiều lần, nhưng chưa phân thắng bại. Khi mặt trời gần lặn, ông lệnh cho Kinh Tử đánh cánh tây, áp sát vách núi, dùng đoản binh giao chiến. Quân địch bị rơi xuống vực, Kinh Tử tay chém được hơn trăm đầu, khiến thế địch suy yếu. Hơn nghìn tên lính địch tan tác trên chiến trường, Kinh Tử quát lên, chúng liền đầu hàng. Quân địch rút về đóng ở Thổ Lĩnh, phó tướng Hoàng Minh đánh nhau không nổi. Kinh Tử nói với Hoàng Minh: “Ngươi cứ đóng quân ở đây, làm viện binh cho ta, ta sẽ chiếm được ngọn núi này.” Ông liền giao chiến, đoạt được Thổ Lĩnh, truy kích hơn năm mươi dặm đến Thương Đầu rồi rút quân. Ông chiếm được hai đồn Tiểu Dã và Trực Cốc, rồi đóng quân ở Trực Cốc.

Mấy ngày sau, địch sai kỵ binh đến khiêu chiến, thế mạnh, Trọng Tiến triệu Kinh Tử hợp binh đánh lui được. Địch nhân đêm lại vây hai đồn Trực Cốc và Thạch Môn, Trọng Tiến sai Kinh Tử đi cứu. Kinh Tử nói: “Hiện quân ta chỉ có năm trăm người, địch hơn hai vạn, không thể địch nổi.” Trọng Tiến lo lắng, hỏi kế sách, Kinh Tử đáp: “Đàm Diên Mỹ hiện đóng ở Tiểu Dã, có hai nghìn quân, xin đi đường tắt mời ông ấy làm viện binh.” Ông liền đến gặp Diên Mỹ. Diên Mỹ nói: “Địch thế như vậy, làm sao chống nổi?” Kinh Tử nói: “Chỉ cần dàn toàn quân ở Bình Châu, dựng cờ hiệu, rồi sai hai ba trăm người cầm cờ trắng đứng bên đường. Tôi sẽ dẫn năm trăm quân xông thẳng vào đánh, địch thấy cờ hiệu liên tục ở xa, nghi ngờ có viện binh, dù đông cũng có thể phá được.” Diên Mỹ đồng ý.

Ngày Quý Mùi, Kinh Tử trở lại giao chiến, trong một ngày đánh nhau năm bảy trận, địch không thắng, định rút lui, Trọng Tiến bèn đem đại quân đuổi theo, kỵ binh địch tan vỡ, bắt sống Đại Bằng Dực, Giám quân Mã Quần, Phó tướng Hà Vạn Thông cùng hơn nghìn quân Khiết Đan và Bột Hải, chém được hàng nghìn đầu, bắt sống hơn bảy trăm người già trẻ, thu được hơn nghìn ngựa và khí giới. Đại Bằng Dực tướng mạnh mẽ, dũng mãnh, danh tiếng vang khắp biên ải, bị bắt sống, quân địch mất hết khí thế.

[9] Tào Bân tiến vào Trác châu, sai bộ tướng Tuấn Nghi Lý Kế Tuyên dẫn kỵ binh nhẹ vượt sông Trác để dò xét tình hình quân địch. Ngày Ất Dậu, quân địch kéo đến tấn công, Kế Tuyên đánh bại chúng ở phía nam thành, chém được một nghìn thủ cấp, thu hơn năm trăm ngựa và giết tể tướng nước Hề là Hạ Tư.

[10] Ngày Đinh Hợi, Phan Mỹ chuyển hướng tấn công Ứng châu, tiết độ sứ của châu này là Ngải Chính[20]và quan sát phán quan Tống Hùng đầu hàng và dâng thành. Ngải Chính được phong làm quan sát sứ của châu này, còn Tống Hùng được bổ nhiệm làm Hồng Lư thiếu khanh và đồng tri Ứng châu. Tống Hùng là người U châu.

[11] Điền Trọng Tiến vây Phi Hồ, sai Đại Bằng Dực đến dưới thành để khuyên hàng tướng giữ thành là Định Vũ quân Mã bộ quân đô chỉ huy sứ, Dĩnh châu phòng ngự sứ Lã Hành Đức, nhưng Hành Đức vẫn muốn cố thủ. Trọng Tiến gấp rút tấn công. Ngày Tân Mão, Hành Đức cùng phó đô chỉ huy sứ Trương Kế Tòng, mã quân đô chỉ huy sứ Lưu Tri Tiến dâng thành đầu hàng. Chiếu lệnh nâng cấp huyện này lên thành Phi Hồ quân. Hành Đức được phong làm Tả Kiêu vệ tướng quân, Thuận châu phòng ngự sứ; Kế Tòng làm Hữu Đồn vệ tướng quân, thứ sử Đàn châu; Tri Tiến làm Tả Giám môn vệ tướng quân. Trọng Tiến lại vây Linh Khâu, ngày Bính Thân, tướng giữ thành là bộ quân đô chỉ huy sứ Mục Siêu dâng thành đầu hàng, được phong làm Hữu Giám môn vệ tướng quân.

(Sự việc này ghi trong Thực lục vào tháng tư ngày Quý Mão, nay gộp chung lại.)

[12] Tháng này, bắt đầu dùng sĩ nhân làm Ty lý phán quan.

[13] Chiếu lệnh tạm dừng thi Cống cử.

[14] Tháng tư mùa hạ, ngày Tân Sửu, Phan Mỹ chiếm được Vân châu, chém được một nghìn thủ cấp.

[15] Điền Trọng Tiến đánh bại quân viện binh của địch ở phía bắc Phi Hồ, chém được một nghìn thủ cấp và bắt sống hơn bốn trăm người.

[16] Ngày Nhâm Dần, Miêu Tín đánh bại quân địch ở thành Tân Thành, chém được ba trăm thủ cấp. Quân địch tụ tập lại, quân của Tín hơi lùi, Tín một mình cùng ba trăm quân Long Vệ dưới trướng chống cự, bị vây nhiều lớp, tên bay như mưa, Tín tự tay bắn chết mấy người, quân dưới trướng chết nhiều. Trời gần tối, Tín cầm đại đao, dẫn hơn trăm kỵ binh hô lớn phá vòng vây, giết mấy chục người. Đúng lúc Tào Bân phái Lý Kế Tuyên đến cứu viện, bèn đánh bại quân địch ở phía đông bắc Tân Thành, chém được một ngàn thủ cấp, bắt được một trăm con ngựa.

[17] Ngày Ất Tỵ, Điền Trọng Tiến sai nha hiệu bộ đưa Đại Bằng Dực đến triều đình. Vua trách cứ nhưng tha tội, phong Bằng Dực làm Hữu Thiên Ngưu Vệ tướng quân, kiêm nhậm chức Thứ sử Bình Châu.

[18] Ngày Đinh Mùi, bổ nhiệm Giám bộ viên ngoại lang Lương Diệp làm Tri châu Ứng Châu, Giám sát ngự sử Trương Lợi Thiệp làm Tri châu Sóc Châu, Hữu tán thiện đại phu Mã Vụ Thành làm Đồng tri châu Hoàn Châu.

[19] Ngày Ất Dậu, Điền Trọng Tiến lại đánh bại quân địch ở phía bắc Phi Hồ, giết hai tù trưởng, chém được một ngàn thủ cấp, bắt được ba trăm con ngựa.

[20] Ngày Nhâm Tý, sai Tả thập di Trương Thư làm Đồng tri châu Vân Châu. Phó Tiết độ sứ Đại Đồng của Khiết Đan là Triệu Nghị được phong làm Hữu Thiên Ngưu Vệ tướng quân, kiêm nhậm chức Thứ sử Nho Châu. Tiết độ phán quan Trương Nhật Dụng, Quan sát phán quan Tống Huyền cùng được làm Điện trung thừa. Chưởng thư ký Thôi Tòng Thiện được phong làm Hữu tán thiện đại phu, tất cả đều giữ chức vụ cũ.

[21] Ngày Ất Mão, Điền Trọng Tiến đến Uất Châu. Tả hữu Đô Áp nha Lý Tồn Chương, Hứa Ngạn Khâm giết tù trưởng Tiêu Xuyết Lý cùng một ngàn quân phòng thủ, bắt giám thành sứ kiêm Tiết độ sứ Đồng Châu là Cảnh Thiệu Trung, cả thành đầu hàng. Phong Sùng nghi sứ Ngụy Chấn làm Tri châu Uất Châu (Chấn, không rõ quê quán). Phong Tồn Chương làm Đoàn luyện sứ Thuận Châu, Ngạn Khâm làm Đoàn luyện sứ Bình Châu kiêm Đồng tri châu Uất Châu.

[22] Ban đầu, vương sư tiến vào đất Bắc, hễ đến đâu đều hạ được. Đa La, Thiệu Trung sợ hãi, không yên lòng, bàn mưu giết các tướng lại trong thành, dẫn toàn bộ hào kiệt đầu hàng quân địch. Tồn Chương biết được mưu ấy, liền ra tay trước. Cha của Thiệu Trung là Mỹ làm Tiết độ sứ Phụng Thánh của quân địch, em là Thiệu Ung làm Tam ty sứ. Thiệu Trung nắm giữ Đồng châu, châu này cách Tây Lâu vài trăm dặm về phía nam[21], đang theo chủ tướng quân địch đến Dao Lạc hà, nghe tin vương sư đến, được cử làm Giám thành sứ Uất châu, sau đó bị bắt.

Tồn Chương ban đầu xin đầu hàng, Trọng Tiến nghi ngờ, trước hết sai Kinh Tự dẫn mấy chục dũng sĩ dùng dây leo vào thành, thấy thật sự đầu hàng, mới chấp nhận đám người này đầu hàng. Quân của Trọng Tiến thiếu lương thực, Kinh Tự sai quân đầu hàng chở lương trong kho châu cấp cho. Tồn Chương vừa giết xong tù trưởng đảng, lo thành trơ trọi khó giữ, bèn dẫn toàn bộ quan lại và dân chúng đến quân của Trọng Tiến, Trọng Tiến đối đãi hậu hĩnh. Viện binh của địch kéo đến đông, Phó Đô chỉ huy sứ Giang Khiêm nói bậy làm hoang mang quân sĩ, Kinh Tự liền chém ông ta, thu thập toàn bộ tư trang trong thành, rút về tập hợp với quân Trọng Tiến, cùng địch đánh nhau. Lúc ấy có năm viên hiệu úy, bốn người đều tử trận. Đến Đại Lĩnh, Kinh Tự chiến đấu hết sức, quân địch mới lui, Uất châu bị bỏ trống.

(“Truyện Kinh Tự” lại chép: Trọng Tiến định nhận hàng nhưng giặc phản kháng chặn đường rút quân của quân Vương, bèn đánh nhau, thương vong rất nhiều. Kinh Tự nhiều lần dùng dây leo vào thành, bắt các tướng giữ thành đầu hàng. Các sách khác đều không chép việc Uất châu đã đầu hàng rồi lại phản. “Chân Tông thực lục”“Truyện Kinh Tự” cũng chỉ chép việc Kinh Tự dùng dây leo vào thành xem việc đầu hàng hư thực, còn việc giặc phản kháng và lần nữa dùng dây leo vào thành bắt tướng đầu hàng thì đều bị bỏ, nay theo đó, còn việc chở lương và tư trang thì vẫn ghi thêm.)

Trong trận chiến này, những người dân biên giới dũng cảm đã cùng nhau tập hợp để tập kích quân địch, có người đêm vào thành lũy, chặt lấy đầu giặc mang về.

Vua nghe tin, khen ngợi rằng: “Những người này sinh trưởng nơi biên ải, quen thuộc chiến trận, nếu ban thưởng rõ ràng, ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng.” Bèn hạ chiếu, chiêu mộ dân chúng có khả năng tập hợp ứng viện quân triều, cấp lương thực, cho mượn vũ khí; bắt được tướng địch thì tuỳ theo chức vụ cao thấp mà bổ nhiệm. Bắt được tù binh thì mỗi người thưởng năm ngàn tiền, chặt được đầu giặc thì thưởng ba ngàn; ngựa thượng hạng thưởng mười ngàn, trung hạng bảy ngàn, hạng thường năm ngàn. Sau khi bình định U Châu, ai muốn ở lại quân đội thì được ưu đãi ghi danh, ai muốn về làm ruộng thì được miễn thuế ba năm. Từ đó, người hưởng ứng ngày càng đông.

[23] Ban đầu, Tào Bân cùng các tướng vào từ biệt, Vua bảo Bân rằng: “Hãy để các tướng tiến lên trước chiếm Vân, Ứng, khanh dẫn mười vạn quân lớn tiếng tuyên bố đánh U Châu, nhưng phải thận trọng tiến chậm, đừng ham lợi mà chủ động đánh địch. Địch nghe tin, ắt sẽ tập trung tinh binh ở U Châu, quân địch đã tập hợp thì không kịp viện binh cho sơn hậu.”

Sau đó, Phan Mỹ quả nhiên chiếm được Hoàn, Sóc, Vân, Ứng các châu, Điền Trọng Tiến lại chiếm Phi Hồ, Linh Khâu, Uất Châu, lấy được nhiều vị trí trọng yếu ở sơn hậu, còn Bân cũng liên tiếp thu phục Tân Thành, Cố An, hạ được Trác Châu, thế quân đại chấn. Mỗi khi tin thắng trận báo về, Vua thường nghi ngờ Bân tiến quân quá nhanh, lại lo địch chặn đường lương.

Bân đến Trác Châu, ở lại hơn mười ngày, lương thực cạn kiệt, bèn rút quân về Hùng Châu để tiếp viện lương thảo. Vua nghe tin, kinh hãi nói: “Lẽ nào có địch trước mặt mà lại lui quân để tiếp viện lương thảo? Sao lại thất sách đến vậy!” Vội sai sứ ngăn lại, lệnh đừng tiến nữa, dẫn quân dọc sông Bạch Câu tiếp ứng với quân của Mễ Tín, nuôi quân tích lực để tăng thế cho cánh quân phía tây, đợi Mễ chiếm xong đất sơn hậu, hội cùng Trọng Tiến tiến về phía đông đánh U Châu, hợp quân với Bân, Tín, dùng toàn quân chế ngự địch, ắt là phương lược thắng lợi.

Các tướng dưới quyền Tào Bân nghe tin Phan Mỹ và Lưu Trọng Tiến liên tiếp thắng trận, tự nghĩ mình nắm giữ trọng binh mà không thể giành được chiến công, bèn khởi xướng nhiều mưu kế, mâu thuẫn lẫn nhau, Tào Bân không thể kiềm chế, bèn chuẩn bị lương thảo đủ dùng trong 50 ngày, lại tiến đánh Trác châu.

Quân địch chặn đánh phía trước, quân triều vừa tiến vừa chiến, cách thành chỉ còn trăm dặm, phải mất 20 ngày mới tới nơi. Có tướng địch dẫn một vạn kỵ binh giao chiến với Mễ Tín, hai bên giằng co chưa phân thắng bại, bỗng địch sai sứ giả đến nói xin hàng. Thượng Thái Lệnh Đại Danh là Liễu Khai đang đốc lương đi theo quân, nói với Mễ Tín: “Đây là điều binh pháp gọi là ‘không có ước hẹn mà xin hòa’. Địch ắt có mưu kế, nếu ta gấp gáp tấn công, ắt sẽ thắng.” Mễ Tín do dự không quyết. Qua hai ngày, địch lại dẫn quân thách chiến[22]. Sau này do thám biết được, quả nhiên địch hết tên, đang chờ lấy từ U châu. (Việc quân địch giả hàng, ‘Liễu Khai truyền’ nói là lúc sắp đến Trác châu, nay ghi chép phụ ở đây.) Tào Bân tuy đoạt lại được Trác châu, nhưng lúc trời đang nắng nóng, quân sĩ mệt mỏi, lương thảo cũng không tiếp tế được, bèn bỏ thành, rút quân về biên giới.

(‘Thực Lục’ chép: Quân sĩ mệt mỏi, lương thảo sắp hết, nhà Vua lo lắng, sai rút quân về biên giới. Theo ‘Khiết Đan’ và ‘Tào Bân truyền’ thì là lại tiến đánh Trác châu[23], rồi lại rút về biên giới, không có chiếu chỉ của triều đình.)

Tào Bân ban đầu muốn sai tướng dưới quyền là Khai Phong Lư Bân dẫn một vạn quân trấn thủ Trác châu, Bân khẩn thiết nói: “Trác châu sâu trong đất Bắc, ngoài không có viện binh, trong không có lương thực, sổ đinh tàn tạ thất lạc, nếu cố thủ ắt bất lợi, chi bằng dùng một vạn quân này kết trận rút đi, so với cố thủ, lợi gấp trăm lần.” Tào Bân nghe theo lời ấy, sai Bân dẫn theo người già trẻ trong thành qua núi Lang Sơn về phía nam, còn Tào Bân cùng đại quân rút lui, đội ngũ không còn chỉnh tề, bị địch đuổi theo.

[24] Tháng năm, ngày Canh Ngọ, quân triều đình đến phía bắc ải Kì Câu, quân địch đuổi theo, quân triều đại bại. Tào Bân cùng các tướng thu nhặt tàn quân, đêm hôm đó vượt sông Cự Mã, đóng trại ở phía nam sông Dịch Thủy. Lý Kế Tuyên ra sức chiến đấu trên sông Cự Mã, quân địch mới rút lui, truy kích đến núi Hồ[24].[/footnote]. Khi vượt sông Cự Mã, người và ngựa giẫm đạp lên nhau mà chết rất nhiều. Chức Tri sự phủ hành U Châu, Hữu gián nghị đại phu Lưu Bảo Huân bị ngựa sa lầy, con trai ông là Khai Phong binh tào Lợi Thiệp đang theo quân đốc thúc lương thảo, thường theo sau cha, dốc sức kéo nhưng không ra được, nên cùng chết. Điện trung thừa Khổng Nghi cũng theo quân đốc thúc lương thảo, chết đuối ở sông Cự Mã.

Vua xuống chiếu cho lục dụng cháu của Bảo Huân là Cự Xuyên làm chức Bí thư tỉnh chính tự, con của Khổng Nghi là Diên Thế được ban học vị đồng học cứu xuất thân.

[25] Ngày Quý Dậu, Phan Mỹ sai sứ đưa các tướng lại và bô lão của hai châu Ứng, Sóc về kinh. Vua triệu kiến và an ủi họ. Các bô lão đều nói: “Lâu nay bị kẹt ở biên ải, có lúa không được ăn, có con không được nuôi dưỡng, không ngờ những năm cuối đời lại được nhìn thấy mặt trời mặt trăng.” Vua ban cho họ quần áo, mũ và đai.

[26] Ngày Bính Tý, Cung uyển sứ Vương Kế Ân từ châu Dịch phi ngựa đến. Vua mới biết quân của Tào Bân và các tướng thua trận, bèn ra chiếu cho các tướng lĩnh binh chia nhau đóng quân ở biên giới, triệu Tào Bân cùng Thôi Ngạn Tiến, Mễ Tín về triều, Điền Trọng Tiến dẫn toàn quân đóng ở châu Định, Phan Mỹ trở về châu Đại. Tào Bân và các tướng chưa về, Vũ thắng tiết độ sứ kiêm Thị trung Triệu Phổ dâng thư can rằng:

“Trong tháng hai, bỗng có sứ thần đến sai khiến việc chuyển vận lương thảo. Sau khi xem xét chiếu chỉ, mới biết là để chiếm lấy U Châu. Từ đó về sau, tuy nghe tin thắng trận, nhưng chưa nghe việc thành công. Việc khôi phục hơi chậm trễ, rồi chẳng mấy chốc đến mùa nắng nóng, quân lính già yếu, dân chúng mệt mỏi, khiến cho nỗi lo càng thêm tăng.

Kính nghĩ rằng, Thánh thượng có mưu lược thần kỳ, mọi việc đều được tính toán chu toàn, bình định được Chiết Hữu, dùng sức mạnh chiếm lấy Hà Đông, trong vòng mười năm, đạt được sự thái bình. Giống như giặc Hung Nô kia, thực sự không phải là đối thủ của chúng ta, bởi chúng di chuyển như chim bay, rất khó kiểm soát. Từ xưa các bậc Đế vương đều coi chúng là ngoài vòng kiểm soát, để chúng tự do theo đuổi nguồn nước và cỏ cây, coi chúng như loài cầm thú mà nuôi dưỡng.

Kính nghĩ rằng, Thánh thượng sáng suốt, chẳng cần bận tâm đến chúng. Điều này hẳn là do kẻ tiểu nhân xu nịnh phụ họa, che mắt Thượng trí, khiến dấy lên cuộc chiến không cần thiết, dẫn đến những lời bàn tán vô căn cứ. Thần trộm thấy, thời Hán Vũ Đế, Chủ Phụ Yển, Từ Lạc, Nghiêm An dâng thư lên, cùng với tướng nhà Đường là Diêu Sùng dâng mười điều lên Minh Hoàng, tuy thời đại khác nhau, nhưng xét về lẽ phải thì chắc chắn giống nhau, xin chép lại đầy đủ và tấu trình, mong được xem xét. Từ khi đại quân hùng mạnh ra trận tiêu diệt giặc hung ác, sinh kế của trăm vạn hộ dân đều bị bắt đi vận chuyển, ruộng đất của mười mấy châu bị bỏ hoang một nửa. Đây chính là dùng ngọc minh châu để bắn chim sẻ, vì con chuột nhắt mà kích hoạt máy bắn, mất nhiều mà được ít. Ngay trong cái được ít đó, cũng khó mà nắm bắt, huống chi ngoài cái mất nhiều ra, còn có những mối lo khác.

Thần lại nghe rằng bậc thánh nhân không cố chấp vào vật, việc không nhất thiết phải cố định, lý lẽ quý ở sự linh hoạt. Sách xưa nói rằng binh lính đánh nhau lâu ngày ắt sinh biến, điều này không thể không suy nghĩ sâu xa. Nếu lại còn chậm trễ, ắt sẽ đánh mất thời cơ. Trong vòng mười ngày, tiết thu sẽ đến, trong nước trước hết sẽ lâm vào cảnh khó khăn, biên ải sớm lạnh lẽo. Quân địch thì cung cứng ngựa béo, ta thì người mệt quân già, e rằng lúc này sẽ có sự sai lầm trong chỉ huy.

Thần nay một mình dám nói lời ngăn cản quần chúng, mang tội lớn như trời, mong ban chiếu minh, nhanh chóng bàn việc rút quân, tạm làm kế hoãn binh, dám dâng lên kế sách vạn toàn. Thần cúi mong Bệ hạ an nhiên nghỉ ngơi, nuôi dưỡng kẻ mệt mỏi, mãi để cửa ngoài không cần đóng, biên cương không cần cảnh giác, tự nhiên bốn phương ngưỡng mộ, thiên hạ quy phục nhân đức, đoán chừng bọn Khiết Đan ấy sẽ đi về đâu, cần gì phải hao tổn sức dân, bán bò mua dao. Việc có đạo thì dễ thực hiện, công vô vi là lớn nhất, cứ như thế mà thương xót và trừng phạt, ấy gọi là vạn toàn.

Thần lại nghĩ Bệ hạ bất ngờ xuất binh, ắt là do nghe lời thiên lệch, bọn tiểu nhân tà vạy chỉ biết lừa dối Vua, việc thành thì hưởng lợi cho bản thân, không thành thì gieo lo cho đất nước. Trước kia bàn việc lấy U Kế, chưa rõ ai là kẻ chủ mưu? Lời nói dối trá ắt sẽ lộ ra, mong tìm ra kẻ cầm đầu, sớm xử nghiêm pháp luật. Điều quý là bọn gian trá phải sửa đổi tâm tính, người trung lương ra sức phụng sự, cùng kính sợ pháp luật nghiêm minh, cùng vững lòng giữ gìn nền tảng quốc gia.

Thần muốn bày tỏ ruột gan, trước hết lông tóc đã dựng đứng, do dự mấy ngày, chưa dám thốt lời. Lại nghĩ xưa kia bậc hiền triết lúc lâm chung còn dám khuyên can bằng xác chết, kẻ thần hèn này chưa chết, sao đành cam tâm nịnh hót. Vốn biết lời nghịch tai chẳng phải là kế an thân, nhưng bởi ân sâu như cánh chim che chở, mạng sống nhẹ tựa lông hồng, muốn đền đáp tri ân của quốc sĩ, đâu thể so với sự báo đáp của kẻ thường. Dù bị đày vào chốn hoang vu hay chém đầu giữa chợ, thần cũng cam chịu hình phạt ngày nay, chứ không dám sống nhờ bổng lộc, an phận mà không làm việc để báo đáp đời sau.

Chỉ mong bậc minh thánh, đặc biệt xem xét suy nghĩ.”

Lại dùng tờ tráp tâu rằng: “Châu Đặng năm huyện, bốn huyện nằm ở vùng núi, ba phần thì hai phần là dân di cư. Trước đây sai phái [bắt buộc đóng góp], ước tính chung phải xuất ra mười vạn quan tiền mới có thể vận chuyển hai vạn thạch lương đến châu Mạc. [Dân chúng] cầm cố dâu, bán trâu, mười nhà thì sáu bảy nhà, cũng có người bán con trai con gái, bỏ mạng sống. Gắng sức dùng lời khéo léo dụ dỗ, ngẫu nhiên đáp ứng thời hạn nghiêm ngặt, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành trách nhiệm, chi phí càng thêm lớn. Nếu như lại bắt đi lao dịch, chắc chắn sẽ khiến dân chúng bỏ trốn nhiều hơn. Giả sử thu phục được châu U, cũng lo rằng chiến tranh vẫn chưa chấm dứt.”

Lại tâu: “Kẻ gian tà chỉ nói rằng thời của người Khiết Đan gặp Vua tối tăm, đất có sao tai họa, dùng lời đó để uốn cong thánh chỉ. Họ không biết rằng từ trên xuống dưới của bọn man di, châu U đều đặt ra sinh kế, sao Thổ Tú (Thổ tinh) chiếu rọi, nơi khác không thể chinh phạt được. Nếu họ đồng ý, dù là Vua nhỏ cũng khó coi thường, không thuận theo lòng dân, dù không có sao tai họa cũng sẽ thất bại. Thật nên giữ đạo, việc quý ở chỗ không tư lợi, nếu thích họa để tham công, lo được mà không võ vẻ. Đó là vì hai tỉnh thiếu người dám nói thẳng, đài linh thiêng không có người tài giỏi, huống chi chức Bổ Khuyết, Thập Di vốn nên chuyên tâm vào việc can gián, thiên văn lịch toán cần dự định trước điềm lành dữ. Do đó mà dẫn đến sai lầm, mỗi người đều mắc tội bỏ sót, nếu không trừng phạt, sao răn được người sau?”

Lại nói: “Việc điều động quân lương và phát binh không đồng nhất, một là vì ta không có ý dây dưa, hai là vì họ có lòng phản trắc, cần phải đề phòng quá mức, tránh để lộ sơ hở cho kẻ gian. Chỉ cần bố trí phòng thủ chu toàn, rút ngắn hành trình, dẫu gặp phải giao tranh, cũng không lo thiếu lực. Chỉ cần qua một đêm, sẽ đến được thành trì.”

Lại nói: “Thần may mắn được hai bậc Thánh nhân thấu hiểu sâu sắc, được trọng dụng qua hai triều đại, không chỉ kiếp này mà còn có duyên từ kiếp trước. Lễ tuy phân biệt quân thần, nhưng tình thực sự như cốt nhục. Vì thế, mỗi khi can gián, thần không né tránh nguy hiểm. Thần thực sự nghĩ rằng Bệ hạ vốn là người từ cõi trời, tạm ghé vào cõi tục, nên sinh ra đã thông hiểu phúc nghiệp, tính tình nhân từ. Thần từng nghe người trong cung kể rằng Bệ hạ thường đọc kinh, trong bữa ăn kiêng thịt. Nay mong Bệ hạ hãy nhẫn nhịn một chút giận dữ, gây dựng nhân duyên tốt lành cho muôn đời. Nếu không chấm dứt binh đao, e rằng sẽ càng nhiều sát hại. Hiện nay, dân chúng vẫn chưa yên ổn, tình hình chiến sự dao động, lại tiếp tục gây phiền phức trong cảnh mộng huyễn. Loài tiểu nhân nào đã làm lầm lạc Đức Vua? Xin hãy xét rõ kẻ gian, không dung tha kẻ cầm đầu. Nghĩ đến đây, thần không khỏi rơi lệ.”

(Triệu Phổ trong sớ có nói “Nay đến mùa nóng bức”, lại nói “Trong vòng một tháng sắp đến tháng bảy”, như vậy thời điểm ông dâng sớ chắc hẳn là đầu tháng sáu hoặc cuối tháng năm. Khi đó triều đình đã ban chiếu lệnh Tào Bân rút quân, nhưng Phổ chưa kịp biết.

Sử ký trong phần truyện về Phổ đã chỉnh sửa lời của ông, có đoạn “Qua tháng năm, đã đến đầu hạ.” Nếu vậy, thì sự việc nên được ghi vào tháng tư, nhưng Bân ban đầu hạ Trác châu vào ngày 13 tháng ba, sau khi ở lại hơn mười ngày đã rút quân về tiếp viện đường lương. Khi Bân quay lại Trác châu, chắc hẳn là đầu tháng tư, lúc này quân tình chưa thất bại.

Trong tờ trình, Phổ còn nói “Kẻ vận chuyển lương thực báo đại quân bị vây”, chắc hẳn là lúc Bân từ Trác châu rút quân vào cuối tháng tư, đầu tháng năm. Phổ nghe tin vào tháng đó, liền viết sớ can gián, khi sớ đến triều đình, thì chiếu lệnh rút quân đã được ban hành. Do đó, trong chiếu trả lời Phổ, Thái Tông nói rất rõ về việc các tướng vi phạm quân lệnh. Nếu sự việc xảy ra vào giữa tháng tư, thì sớ và tờ trình của Phổ cùng chiếu của Thái Tông không thể nói rõ là quân bại. Phần truyện trong sử đã chỉnh sửa lời của Phổ, thật sự đã sai lệch sự thực.

Tuy nhiên, thời gian cụ thể không thể xác định rõ, nay tạm ghi lại ở đây, đợi sau này khảo cứu thêm. Lời trong tờ trình của Phổ rất khẩn thiết, nhưng phần truyện không ghi chép, nay cũng sao lục lại, xem như một sự tiếc nuối cho sự thất lạc của nó.)

[27] Vua ban chiếu cho Triệu Phổ rằng: “Trẫm trước đây khởi binh chọn tướng, chỉ lệnh Tào Bân và các tướng đóng quân ở Hùng Châu, Bá Châu, tích trữ lương thực, sẵn sàng áo giáp, để tăng thanh thế quân đội, chờ một hai tháng sau khi vùng Sơn Hậu được bình định, Phan Mỹ, Điền Trọng Tiến và các tướng hội quân tiến lên, thẳng đến U Châu, cùng hợp lực đánh đuổi, khiến cho bọn Khiết Đan phải chạy xa vào sa mạc, sau đó khống chế những nơi hiểm yếu, khôi phục cương thổ cũ, đó là chí hướng của Trẫm.

Tại sao các tướng súy không tuân theo kế hoạch đã định[25], mà mỗi người lại thi hành ý kiến riêng, dẫn mười vạn quân tinh nhuệ vượt biên ải đánh xa, nhanh chóng chiếm các quận huyện, rồi lại rút quân về để bảo vệ đoàn vận lương, đi lại mệt nhọc, bị quân địch tập kích, lỗi này thuộc về chủ tướng. Hơn nữa, Trẫm nối tiếp ngôi Vua trong thời kỳ cuối của trăm vị Vua trước, tạm dẹp yên thiên hạ, nghĩ đến dân chúng vùng Yên bị rơi vào tay giặc biên cương, muốn cứu họ khỏi lửa cháy và nước lụt, chứ không phải để dùng vũ lực gây chiến tranh[26], khanh nên hiểu rõ điều đó.

Việc phòng thủ biên cương, Trẫm đã chuẩn bị chu đáo, nếu chúng dám xâm phạm, ắt sẽ tiêu diệt toàn bộ, khanh chớ lo lắng. Khanh là bậc nguyên thần của xã tắc, những lời trung ngôn khổ khẩu, Trẫm đã xem đi xem lại nhiều lần, lòng vừa khen ngợi vừa áy náy sâu sắc.”

Phổ dâng biểu tạ ơn, nói: “Trước đây thần chưa hiểu rõ tình hình, đã dám trình bày lời ngu muội. Bệ hạ thân chấp bút, bí mật ban dụ về mưu lược thánh ý. Thần suy nghĩ kỹ, thấy rằng lòng thành tín mới là thượng sách. Các tướng lãnh nếu theo đúng kế hoạch đã định, chắc chắn có thể dẹp tan giặc ngoại xâm; nhưng không phù hợp với ý trời, dẫn đến thất bại. Nay biên cương đã có phòng bị, còn lo gì nữa?

Huống chi Bệ hạ lên ngôi đã mười năm, đại nghiệp hưng thịnh, không có một vật gì bị thất lạc, muôn nước đều an lạc. Nên ngồi yên thờ Trời, nuôi dưỡng tinh thần, giữ tâm hòa hợp, lấy đạo vô vi để bảo vệ vận mệnh quốc gia. Từ đó có thể nối tiếp xa xưa, xem xét năm đế, đâu cần phải đi đến tận biên giới hiểm trở, so đo thắng thua với người phương Bắc?

Thần vốn thiếu khí phách anh hùng, lại đã già yếu, không có công lao gì đáng kể, chỉ biết hết lòng trung thành để đáp lại ơn trên.”

Người xem đều cảm phục lòng trung của ông.

[28] Tháng sáu, ngày Mậu Tuất mùng một, có nhật thực.

[29] Vua vì các tướng vi phạm chiếu chỉ và thất bại trong chiến lược, đã làm bài thơ tự răn mình ban cho các bề tôi thân cận. Ban đầu khi bàn việc xuất quân, chỉ có Vua cùng Viện Xu mật bàn bạc kế hoạch, một ngày triệu tập đến sáu lần, mà Trung thư không được biết. Đến khi thất bại, Vua triệu Viện Xu mật sứ Vương Hiển, Phó sứ Trương Tề Hiền, Vương Miễn đến và nói: “Các khanh hãy cùng nhìn xem Trẫm, từ nay có còn làm việc như thế nữa không?” Vua đã thành tâm hối lỗi, Hiển và các người đều xấu hổ và sợ hãi, như không còn chỗ dung thân.

(Việc thành tâm hối lỗi này cần được xem xét thêm.)

Thừa tướng Lý Phưởng cùng các quan liên tiếp dâng sớ lên rằng: “Thần nghĩ việc dùng binh đánh phương Bắc, ắt có nguyên do. Vì dân chúng triều Tấn chỉ hơn một triệu người, gặp vận xấu, bị Bắc nhung bắt làm nô lệ, chịu sự uy hiếp của chúng, trở thành nô tì. Bệ hạ trong lòng đau xót, muốn cứu giúp họ, nhưng khi giao phó trọng trách, tướng súy không có tài năng, không tuân theo kế sách của triều đình, dẫn đến thất bại thảm hại. Thanh thế của ta suy yếu, khí thế địch càng kiêu ngạo, không thể cứu vãn tình thế, khiến bản thân lâm vào cảnh khó khăn, dân chúng hai bờ sông gần như lâm vào lưỡi gươm binh đao.

Tuy nhiên, hối hận về quá khứ thì khó mà thay đổi, việc đã thành thì không thể trách cứ, không thể tranh chấp, như đã rõ trong kinh sử xưa, hãy tạm nghỉ ngơi dân chúng, không ngại khuất mình. Hơn nữa, trời sinh Bắc địch là mối họa cho Trung Quốc, Hán Cao Tổ dùng ba mươi vạn quân nhưng bị vây ở Bình Thành, cuối cùng nghe lời Phụng Xuân, định kế hòa thân. Đến thời Văn Đế, càng đối đãi hậu hĩnh, ngoài thể hiện sự kiềm chế, trong lại giảm bớt hao tổn, khiến biên ải yên ổn, dân chúng được nghỉ ngơi, tổn thất không nhiều mà lợi ích rất lớn. Huống chi tính của Hung Nô chỉ biết cầu lợi, nếu Bệ hạ thương dân chúng khổ cực, giảm bớt chi phí hằng ngày, bí mật dụ dỗ tướng biên, hé lộ chút cơ mưu, chúng vốn đã có ý đó, ắt sẽ vui mừng nghe theo, không cần dùng binh lực mà có thể dẹp yên biên ải. Đây chính là khuất mình dưới một người mà vươn lên trên vạn người. Thần mong Bệ hạ suy xét.”

(Bản sớ này theo bản chép khác của Thực lục. Truyện của Phường chép sau khi thất bại ở U Châu, Kế Châu, không rõ ngày tháng, nay ghi phụ vào, bản truyện chính không có. Sách ‘Ngọc Hồ Dã Sử’ chép rằng Thái Tông định đánh Ngư Dương, Phường dâng sớ khuyên can, sĩ phu đều kinh ngạc và kính phục, chắc là bản sớ này.)

[30] Thượng lo lắng về việc Khiết Đan chắc chắn sẽ xâm lược, bèn sai Tả vệ Thượng tướng quân Trương Vĩnh Đức làm Tri châu Thương, Hữu vệ Thượng tướng quân Tống Ngọ làm Tri châu Bá, Hữu kiêu vệ Thượng tướng quân Lưu Đình Nhượng làm Tri châu Hùng, Uất châu Quan sát sứ Triệu Diên Bạc làm Tri châu Bối.

Các tướng như Đình Nhượng đều là danh tướng lâu năm, từng giữ chức Tiết trấn nhưng đã được nghỉ, Thượng muốn họ ra quân chống địch để lập công, nên cùng Diên Bạc được bổ nhiệm.

[31] Ngày Bính Thìn, lấy Ngự sử Trung thừa Tân Trọng Phủ làm Cấp sự trung, Tham tri chính sự.

[32] Ngày Ất Tỵ, Đồn điền Lang trung, Tri chế cáo, Tri đại danh phủ Triệu Xương Ngôn, sai Quan sát Chi sứ Trịnh Mông[27]đi ngựa trạm đến kinh đô dâng thư, xin chém các tướng bại trận như Tào Bân. Thượng xem tấu rất khen ngợi, ban chiếu khen ngợi. Sau đó triệu về phong làm Ngự sử Trung thừa. Chức Tri chế cáo đang giữ chính thức làm Trung thừa, bắt đầu từ đây. Xương Ngôn là người Phân châu.

(làm Trung thừa vào ngày 8 tháng 7, nay ghi chung lại.)

[33] Ngày Bính Thìn, Tào Bân và các tướng đến kinh đô.

Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho Hàn lâm Học sĩ Giả Hoàng Trung, Hữu Gián nghị Đại phu Lôi Đức Tương, Ty Môn Viên ngoại lang Tri tạp sự Lý Cự Nguyên triệu tập Tào Bân cùng Thôi Ngạn Tiến, Mễ Tín, Đỗ Ngạn Khuê, Hành dinh Đô giám Quách Thủ Văn, Mã bộ Đô chỉ huy sứ Phó Tiềm, Áp trận Bộ thự Trần Đình Sơn, Bài trận sứ Thái Ngọc, Tiên phong Đô giám Tiết Kế Chiêu, tất cả chín người đến Thượng thư tỉnh xét hỏi.

[34] Mùa thu, tháng bảy, ngày Mậu Thìn, Giả Hoàng Trung và những người khác tâu rằng: “Tào Bân, Quách Thủ Văn, Phó Tiềm đều đã phạm tội trái chiếu lệnh, làm mất kỷ luật, khiến nhiều binh sĩ tử vong; Mễ Tín, Thôi Ngạn Tiến trái phép bộ thự, chỉ huy, dẫn quân đi đường khác mà quay về, bị địch đánh bại; Đỗ Ngạn Khuê không cho binh sĩ ăn chiều, bày trận không chỉnh tề, quân lính phần lớn tản mát; Thái Ngọc gặp địch mà sợ hãi không dám đánh, đổi y phục lén bỏ trốn; Trần Đình Sơn ở châu Trác hẹn hội chiến mà sai kỳ hạn; Tiết Kế Chiêu ra trận trước đã tính kế rút lui, làm lung lạc tinh thần quân sĩ: Luật pháp đều đáng chém.”

Vua xuống chiếu cho bá quan bàn bạc việc này.

Ngày Kỷ Tỵ, Công bộ thượng thư Hỗ Mông và những người khác bàn luận theo như ý kiến của các quan chức. Tào Bân mặc áo vải thô chờ tội, tự nhận lỗi một cách sâu sắc.

Ngày Canh Ngọ, Vua trách Tào Bân làm Hữu Kiêu vệ Thượng tướng quân, Ngạn Tiến làm Hữu Vũ vệ Thượng tướng quân, Tín làm Hữu Đồn vệ Thượng tướng quân, Thủ Văn làm Hữu Đồn vệ Đại tướng quân, Tiềm làm Hữu Lĩnh quân vệ Đại tướng quân, Ngạn Khuê làm Quy châu Đoàn luyện Phó sứ, Đình Sơn làm Phục châu Đoàn luyện Phó sứ, Ngọc bị tước danh hiệu, đày ra Thương châu, Kế Chiêu bị cách chức Văn tư sứ, làm Cung phụng quan.

Vua ra chiếu rằng các quan chức và tướng lĩnh, kẻ nào chết nơi chiến trận hoặc bị giặc bắt, đều nên được ưu đãi, ban thưởng, ghi nhận con cháu; dân chúng có người vận lương mà không trở về, được miễn thuế hai năm, nhà được ban ba thạch thóc.

[35] Ban đầu, Mễ Tín, Phó Tiềm và những người khác thất bại, quân lính rối loạn, duy có Lý Kế Long dẫn quân của mình chỉnh đốn đội ngũ rồi rút về, liền được lệnh Kế Long làm Tri Định châu. Khi có chiếu chia quân đồn trú, Kế Long sai thư lại sao chép toàn bộ chiếu chỉ. Hơn mười ngày sau, có binh lính thất trận tụ tập dưới thành, không biết đi đâu, Kế Long căn cứ chiếu chỉ cấp giấy phép, bảo họ cầm đến các bộ phận quân đội. Vua khen người có mưu lược, ngày Nhâm Thân, phong Kế Long làm Mã quân Đô ngu hậu, kiêm Vân châu Phòng ngự sứ.

[36] Ngày Giáp Tuất, lấy Bộ quân đô chỉ huy, Tĩnh Nan tiết độ sứ Điền Trọng Tiến làm Mã bộ quân đô ngu hậu. Kể từ khi Trương Lệnh Đạc[28]bãi chức Mã bộ quân đô ngu hậu, suốt 25 năm không bổ nhiệm ai vào chức này. Trong trận U Châu, chỉ có quân của Trọng Tiến là không thua trận, nên đặc cách phong cho ông. Quân từ Uất Châu về, Viên Kế Trung làm hậu quân, hàng ngũ chỉnh tề. Khi đến Định Châu, có tên hàng binh đến muộn, Trọng Tiến nổi giận định chém, Kế Trung khuyên rằng giết hàng binh là chuyện không lành, nên đều được tha.

[37] Ngày Nhâm Ngọ, sai Xu mật đô thừa chỉ Dương Thủ Nhất đến Tịnh Châu, Đại Châu, đưa dân hàng từ các châu phía sau núi về Hà Nam phủ, Hứa Châu, Nhữ Châu, tổng cộng 8.236 hộ, 78.262 người, cùng hơn 400.000 con trâu, dê, lạc đà, ngựa.

(Theo bản khác chép vào ngày Mậu Dần tháng chín.)

[38] Tả gián nghị đại phu, Thiêm thư xu mật viện sự Trương Tề Hiền thường dâng lời trái ý Thượng, vì thế Thượng hỏi cận thần về kế sách phòng thủ biên cương, Tề Hiền xin được ra trấn giữ biên giới. Ngày Mậu Tý, phong Tề Hiền làm Cấp sự trung, tri Đại Châu, cùng Đô bộ thự Phan Mỹ cùng cai quản quân đội biên cương.

[39] Ngày Quý Tỵ, Giai Châu báo rằng ở huyện Phúc Tân có núi lớn từ Long Đế Hiệp[29]bay tới, chặn dòng sông Bạch Giang, nước dâng ngược cao hơn 10 trượng, phá hủy ruộng dân hàng trăm dặm.

[40] Ngày Giáp Ngọ, Trần Vương Nguyên Hựu đổi tên thành Nguyên Hi, Hàn Vương Nguyên Hưu đổi tên thành Nguyên Khản, Ký Vương Nguyên Nhĩ đổi tên thành Nguyên Phần.

[41] Quốc tử bác sĩ Lý Giác dâng lời: “Từ đời Tần, Hán đến nay, dân chúng phần nhiều du đãng, theo nghề buôn bán đông đảo, kẻ giàu người nghèo không đều. Nay chế độ tỉnh điền đã bỏ lâu, khôi phục ắt khó, đất hoang còn nhiều, khai khẩn sẽ có lợi.

Vả lại, khuyến khích nông nghiệp không phải không đến nơi mà vẫn còn nhiều ruộng bỏ không, chi tiêu không phải không tiết kiệm mà vẫn không thể miễn thu thuế, mỗi nơi đất đai đều có chủ hộ, có kẻ không có ruộng đất, người giàu thì có ruộng đất bạt ngàn[30], người nghèo thì không có mảnh đất cắm dùi, kẻ có sức lại không có ruộng để cày, người có ruộng thì không có sức để canh tác, mưa móc rơi xuống mà mùa màng không được thu hoạch, thời tiết thay đổi mà ngũ cốc không được thu hoạch, người giàu càng thêm tích trữ, người nghèo không thể tự lo nổi.

Mong rằng ra lệnh cho các ruộng hoang trong thiên hạ, nếu chủ nhân không thể cày cấy, thì cho phép người có sức gieo trồng, một năm sau, đều nộp thuế ruộng, như thế mới là cội nguồn của việc giáo hóa vương đạo.” Vua xem qua khen ngợi.

[42] Tháng tám, lần đầu di dời dân bốn châu Vân, Sóc, Hoàn, Ứng, xuống chiếu cho Phan Mỹ, Dương Nghiệp đem quân bản bộ hộ tống. Lúc đó, Quốc mẫu nhà Liêu là Tiêu thị cùng các đại thần Gia Luật Hán Ninh, Nam Bắc Bì Thất và Ngũ Áp Dịch Ẩn, dẫn hơn mười vạn quân, lại chiếm châu Hoàn.

Nghiệp nói với Mỹ: “Hiện giờ quân địch đang hăng, không thể đối đầu. Triều đình chỉ lệnh thu dân các châu, hãy dẫn quân ra đường Đại Thạch, trước sai người báo mật cho tướng giữ châu Vân, châu Sóc, đợi khi đại quân rời châu Đại, cho dân châu Vân xuất phát trước. Quân ta đóng tại châu Ứng, quân Khiết Đan chắc sẽ kéo toàn quân đến chống cự, lúc đó hãy cho quan dân châu Sóc ra khỏi thành, tiến thẳng vào Thạch Kiệt Cốc, sai ba ngàn cung thủ đặt ở cửa cốc, dùng kỵ binh yểm trợ giữa đường, thì dân ba châu có thể bảo toàn vẹn vậy.”

Giám quân, Tây thượng cáp môn sứ, Thứ sử Uất châu Vương Sân bác bỏ ý kiến, nói: “Cầm mấy vạn tinh binh mà sợ hãi như vậy, chỉ cần tiến thẳng vào bắc xuyên Nhạn Môn, thẳng đường đến Mã Ấp.” Quân khí khố sứ, Đoàn luyện sứ Thuận châu Lưu Văn Dụ cũng tán thành.

Nghiệp nói: “Không được, thế tất thua.”

Sân nói: “Ngài vốn có tiếng là vô địch[31], nay thấy địch mà do dự không đánh, phải chăng có ý khác?”

Nghiệp nói: “Nghiệp không sợ chết, chỉ vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu đánh chỉ tổ thương tổn binh sĩ mà không lập được công. Nay các ông trách Nghiệp không chịu chết, Nghiệp sẽ chết trước mọi người vậy.” Rồi dẫn quân theo đường Thạch Hạp tiến về châu Sóc. Trước lúc đi, khóc nói với Mỹ: “Lần này tất gặp nguy, Nghiệp là tướng hàng của Thái Nguyên, đáng phải chết, nhưng Thượng không giết, lại ban cho chức Liên soái, trao binh quyền, không phải để buông tha địch, mà chờ thời cơ, mong lập chút công nhỏ báo đáp quốc ân. Nay các ông trách Nghiệp lánh địch, Nghiệp sẽ chết trước ở trận.” Rồi chỉ vào cửa cốc Trần Gia nói: “Các ông hãy bố trí bộ binh và cung thủ ở đây, làm cánh tả hữu tiếp ứng, đợi Nghiệp đánh tới đây, hãy dùng bộ binh đánh hai bên cứu giúp, nếu không, sẽ không còn ai sống sót.” Mỹ lập tức cùng Sân dẫn quân đóng trận ở cửa cốc.

Từ giờ Dần đến giờ Tỵ, Sân sai người lên đài Thác La nhìn ra, cho là quân địch đã thua chạy. Sân muốn tranh công, liền dẫn quân rời cửa cốc, Mỹ không ngăn được, bèn đi theo sông Hôi về phía tây nam hai mươi dặm. Chợt nghe tin Nghiệp thất bại, liền hạ lệnh rút quân.

Nghiệp chiến đấu hết sức, từ giờ Ngọ đến giờ Mùi, quả nhiên đến cửa cốc, thấy không có ai, liền ôm ngực khóc lớn, lại dẫn tàn quân liều chết đánh, bị mấy mươi vết thương, binh sĩ gần hết, Nghiệp vẫn chém chết mấy chục tên địch, nhưng ngựa bị thương nặng không thể tiến, nên bị giặc bắt. Con ông là Diên Ngọc cùng Thứ sử Nhạc châu Vương Quý đều tử trận.

Lúc đầu Nghiệp bị vây, Quý tự tay bắn chết mấy chục tên địch, hết tên, xách nỏ không bắn, lại đánh giết mấy chục tên rồi mới hy sinh. Nghiệp bị bắt, than rằng: “Thượng đãi tôi hậu, mong giữ biên cương, diệt giặc để báo đáp, nhưng lại bị gian thần ghen ghét, ép phải chết, khiến quân triều đình thua to, còn mặt mũi nào sống ở nơi đất khách!” Rồi nhịn ăn ba ngày mà chết.

Nghiệp không biết chữ, nhưng trung liệt, vũ dũng, có trí mưu. Ông luyện tập chiến đấu, cùng sĩ tốt chia ngọt sẻ bùi. Vùng Đại Bắc khí hậu khắc nghiệt, người ta thường mặc áo lông cừu, còn Nghiệp chỉ khoác áo bông, ngồi ngoài trời xử lý quân sự, bên cạnh không đốt lửa, người hầu gần như cóng lạnh, nhưng Nghiệp vẫn ung dung, không hề lộ vẻ lạnh lẽo. Ông cai trị giản dị, được quan lại và dân chúng yêu mến. Ông đối đãi ân cần với thuộc hạ, nên sĩ tốt đều vui lòng phục vụ. Khi thất bại, dưới trướng ông còn hơn trăm người, Nghiệp bảo họ: “Các ngươi đều có cha mẹ, vợ con, chết cùng ta chẳng có ích gì. Nếu kẻ địch rút lui, các ngươi còn có thể trở về báo cáo với Thiên tử.” Mọi người đều cảm động khóc lóc, không chịu rời đi, rồi cùng chết, không một ai sống sót trở về.

Vua nghe tin Nghiệp chết, rất đau xót.

Ngày Tân Hợi, xuống chiếu cách chức Mỹ ba lần; Sân bị tước danh hiệu, đày đến Kim Châu; Văn Dụ bị đày đến Đăng Châu. Truy tặng Nghiệp chức Thái uý, Đại Đồng tiết độ sứ, ban cho gia đình ông một nghìn tấm vải, một nghìn hộc lúa, bổ nhiệm năm người con của ông làm Cung phụng quan, trong đó có Diên Lãng[32], cùng hai người con quý.

[43] Tháng chín, ngày Mậu Thìn, Hộ bộ lang trung Trương Khứ Hoa dâng sách ‘Đại chính yếu lục’ gồm ba mươi thiên, Vua khen ngợi, ban chiếu khen tặng, thưởng năm mươi tấm lụa. Khứ Hoa vốn được bổ nhiệm làm Tri châu Thiểm Châu, nhưng ông ở lại không đi nhậm chức.

[44] Phán hình bộ Trương Tất tâu: “Xin từ nay, những ai xử án sai dẫn đến tử hình, không được dùng chức quan để giảm tội, quan kiểm pháp bị cách một chức, quan trưởng lại đều bị đình chỉ chức vụ hiện tại.” Vua đồng ý.

(Lời tâu của Trương Tất, nguyên ghi trong bản chí sau tháng năm, nay chuyển đến đây.)

Có kẻ phạm tội chết, Vua đặc cách giảm tội, bảo Tất: “Trẫm thấy kẻ tiểu nhân phạm pháp, xét tình không phải là kẻ đại ác, nên tha chết, đày đi xa, cũng đủ để răn đe.” Tất đáp: “Tiên vương lập pháp, vốn là để trị kẻ tiểu nhân, người quân tử vốn không phạm pháp.” Vua đem lời ấy nói với Tể tướng, rồi khen ngợi Tất, cho rằng ông biết nói lời chí lý.

[45] Mùa đông, tháng mười, ngày mùng một Bính Thân, Vua xuất chữ phi bạch ban tặng Thừa tướng Lý Phưởng và các quan, rồi nói: “Trẫm sau khi tan triều chưa từng để thời gian trôi qua vô ích. Ngoài việc đọc sách, Trẫm thường chú tâm luyện chữ chân và thảo, gần đây lại học thêm chữ phi bạch. Việc này tuy không phải là sự nghiệp của bậc đế vương, nhưng chẳng phải còn hơn là săn bắn, du ngoạn, hay đắm chìm trong thanh sắc sao?” Lý Phưởng và các quan cúi đầu tạ ơn.

[46] Tả Thập di ở Chân Định là Vương Hóa Cơ dâng sớ tự tiến cử. Vua xem xong, nói với Thừa tướng: “Hóa Cơ tự mình tìm cách kết giao với bề trên, đúng là đáng khen.” Lại nói: “Lý Hãng và Tống Thục đều là người tài giỏi.” Liền sai Trung thư triệu cả Hóa Cơ vào để khảo thí.

Ngày Canh Tý, cả ba đều được bổ làm Hữu Bổ khuyết, Tri chế cáo, mỗi người được ban một trăm vạn tiền. Hãng người Phì Hương; Thục người Trường An, đều giữ chức Trứ tác lang ở Sử quán. Vua lại thấy Hãng vốn nghèo, còn thiếu nợ lãi, nên đặc cách ban thêm ba mươi vạn để trả nợ. Vua đặc biệt coi trọng chức vụ soạn chế văn thư trong và ngoài triều, mỗi khi bổ nhiệm một vị quan văn, đều tham khảo ý kiến Thừa tướng, tìm người vừa có tài năng vừa có phẩm hạnh, trước hết cho triệu vào hỏi chuyện, xem xét tài năng và khí chất, rồi mới trao chức.

Vua từng nói với tả hữu: “Việc tuyển chọn quan văn, xưa nay đều là việc trọng đại. Trẫm từng nghe người ta nói, triều đình mỗi khi bổ nhiệm một vị Tri chế cáo, họ hàng đều chúc mừng, coi như một vị Phật ra đời, há phải chuyện dễ dàng sao! Quách Chí vốn là môn sinh ở Nam phủ, khi Trẫm mới lên ngôi, thấy ông ấy thích việc văn chương, nên cho giữ chức soạn chế. Nhưng nghe nói mỗi khi văn thư ban ra, có người chê cười, vì ông ấy vốn không có danh tiếng. Dù đã được bổ nhiệm, Trẫm cũng thấy ngại, nhưng rốt cuộc cũng không cho ông ấy vào Hàn lâm.”

[47] Ngày Giáp Thình, phong Trần Vương Nguyên Hi làm Khai Phong doãn, kiêm Thị trung; bổ Hộ bộ lang trương Trương Khứ Hoa làm Khai Phong phủ Phán quan, Điện trung thị ngự sử Trần Tải làm Thôi quan, đều được triệu kiến. Vua nói: “Các khanh đều là bậc chính nhân quân tử của triều đình, nên Trẫm chọn dùng, mong các khanh giúp đỡ con Trẫm.” Mỗi người được ban một trăm vạn tiền.

Khi Khứ Hoa được thăng làm Tả Gián nghị đại phu, Vua lại sai Xu mật viện Vương Hiển truyền chỉ, dặn dò ý phò tá thành công.

(Trần Tải, không thấy nhắc đến sau này.)

[48] Ngày Bính Ngọ, đổi ba ấn Ngự tiền, Thư chiếu và Thiên hạ hợp đồng thành “bảo”.

[49] Ngày Mậu Ngọ, Vua ban bản dịch mới của bài tựa ‘Thánh giáo’ do chính người soạn, để ban cho Thừa tướng Lý Phưởng và các quan khác.

[50] Ngày Canh Thân, phong Lê Hoàn làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải, sai Tả bổ khuyết Lý Nhược Chuyết và Quốc tử bác sĩ Lý Giác mang chiếu chỉ đến sứ mệnh. Lê Hoàn có chế độ vượt quá phận, Nhược Chuyết vừa vào địa giới, liền sai tả hữu nhắc nhở phải giữ lễ bề tôi. Khi nhận chiếu, Hoàn cung kính bái lễ. Ngày yến tiệc, Hoàn bày nhiều bảo vật quý hiếm trước mặt, nhưng Nhược Chuyết không để ý, lại từ chối những lễ vật riêng, chỉ đưa sứ thần từng bị bắt là Đặng Quân Biện về. Hoàn còn nói với Lý Giác: “Địa phương này núi sông xa xôi, người phương Bắc vừa đến, há chẳng mệt mỏi sao?” Giác đáp: “Quốc gia bờ cõi rộng lớn, có tới bốn trăm quận huyện, địa thế có nơi bằng phẳng, có nơi hiểm trở, một phương này có đáng kể gì.” Hoàn im lặng, sắc mặt không vui.

(Việc Lý Giác đi sứ Giao Châu, trong ‘Thực lục’ ghi vào ngày Tân Tỵ tháng mười hai, nay viết chung vào đây.)

[51] Tháng đó, Vua ban chiếu cho bộ Từ, những tăng ni nào trong sổ sách có tên, đều được cấp độ điệp. Lại ra chiếu, từ nay phải thông thạo kinh điển, qua kỳ khảo hạch đến ba trăm tờ giấy mới được ghi tên vào sổ.

(Thái Tông từng ban đặc ân tha độ hai lần, vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ bảy và năm nay. ‘Thực lục’ không ghi chép việc năm nay, nay bổ sung lại. Việc khảo thí kinh điển, ‘Thực lục’ ghi vào ngày Giáp Dần tháng này, nay cũng phụ thêm vào cuối tháng.)

[52] Vua chú trọng việc học chữ, thấy sách ‘Thuyết văn’ của Hứa Thận có nhiều sai sót, khiến học giả không có căn cứ, bèn hạ chiếu cho Hữu tán kỵ thường thị Từ Huyễn, Trứ tác lang trực sử quán Cú Trung Chính và các quan khác hiệu đính cẩn thận.

Tháng mười một, ngày Ất Sửu mùng một, Huyễn và các quan dâng lên bản ‘Thuyết văn’ mới hiệu đính gồm ba mươi quyển, những chữ trong kinh điển truyền tụng và thông dụng trong dân gian mà ‘Thuyết văn’ chưa ghi, theo chiếu đều được thêm vào. Vua khen ngợi, liền cho in khắc để ban hành, và thưởng cho các quan khí tụng có chênh lệch.[/footnote]

[53] Tháng mười hai, ngày Ất Mùi, có mưa tuyết lớn. Vua rất mừng, triệu tập các quan thân cận đến yến tiệc ở điện Ngọc Hoa, nói rằng: “Từ mùa xuân đến hè, Trẫm chưa từng uống rượu, nay được tuyết lành, lòng Trẫm vô cùng vui mừng, muốn cùng các khanh uống say một lần.”

[54] Vua thấy các tập văn của nhiều nhà rất nhiều, dù mỗi tác phẩm đều có sở trường riêng, nhưng cũng lẫn lộn tạp loạn, bèn ra lệnh cho các Hàn lâm học sĩ như Tống Bạch chọn lọc kỹ càng, sắp xếp theo loại, biên soạn thành sách ‘Văn uyển anh hoa’ gồm một nghìn quyển. Ngày Nhâm Dần, dâng lên Vua, được chiếu thư khen ngợi.

[55] Tướng Khiết Đan là Gia Luật Tốn Ninh, hiệu Vu Việt, đem vài vạn kỵ binh xâm nhập Châu Doanh. Đô bộ thự Lưu Đình Nhượng giao chiến với họ ở Quân Tử Quán.

Gặp lúc trời rất lạnh, quân triều đình không thể giương cung nỏ, bị quân địch vây nhiều lớp. Đình Nhượng trước đó đã sai tinh binh dưới quyền cùng Đô bộ thự Thương Châu là Lý Kế Long ở lại hậu quân, dự định khi cấp bách sẽ cứu viện. Khi Đình Nhượng bị vây, Kế Long rút quân về đóng ở Lạc Thọ. Chỉ huy sứ Thần Dũng Ngự Tiền Trung Tá, người Cự Dã là Tang Tán, đem binh lính dưới quyền chiến đấu dũng cảm, từ giờ Thìn đến giờ Thân. Nhưng quân viện binh địch lại kéo đến, Tán dẫn quân bỏ chạy trước, toàn quân của Đình Nhượng bị tiêu diệt, chết đến vài vạn người. Đình Nhượng nhờ con ngựa khác của thuộc hạ mà thoát chết. Các tướng tiên phong là Lục trạch sứ, Bình Châu đoàn luyện sứ, Tri Hùng Châu Hạ Lệnh Đồ, và Vũ Châu đoàn luyện sứ, Cao Dương Quan bộ thự Dương Trọng Tiến, đều bị quân địch bắt.

Lệnh Đồ tính tham công sinh sự, lại khinh suất vô mưu. Vu Việt vốn biết tính Lệnh Đồ, từng sai gián điệp lừa dối rằng: “Ta phạm tội với Khiết Đan, ngày đêm mong trở về triều đình, nhưng không có đường để tự nạp mình, may nhờ ngài hãy lưu ý.” Lệnh Đồ không ngờ là kế lừa, tự cho rằng cuối cùng sẽ lập được đại công, bèn bí mật tặng cho Vu Việt mười cặp gấm quý.

Đến lúc này, Vu Việt truyền lệnh trong quân, muốn gặp quan sứ Hạ ở Hùng Châu. Lệnh Đồ vốn đã bị lừa, cho rằng hắn đến đầu hàng, liền dẫn mấy chục kỵ binh đi đón. Khi đến cách trại của hắn khoảng vài bước, Vu ngồi trên ghế, mắng rằng: “Ngươi từng thích bàn chuyện biên cương, nay lại đến đây nộp mạng sao!” Liền ra lệnh tả hữu giết sạch kỵ binh đi theo, rồi trói ngược Lệnh Đồ đem đi [33]. Trọng Tiến gắng sức chiến đấu, rồi chết.

Trước đây, Lệnh Đồ cùng cha là Hoài Phổ là những người đầu tiên bàn việc Bắc phạt, trong vòng một năm, cả cha con đều thất bại, thiên hạ chê cười.

Dương Trọng Tiến là người Thái Nguyên.

Ngày Bính Ngọ, Doanh Châu đã báo lên. Đình Nhượng đến cửa khuyết xin tội, Vua biết là do Kế Long làm sai, không trách tội, bắt Kế Long, sai Trung thư tra hỏi, sau cũng tha cho.

(Theo bộ “Khiết Đan bản truyện”, Đình Nhượng thất bại vào mùa xuân năm sau, đây là một sai lầm lớn.)

[56] Đông Đầu Cung Phụng Quan Mã Tri Tiết giám quân ở Bác Châu, nghe tin Đình Nhượng thất bại, sợ giặc thừa thắng lại xâm phạm, bèn tu sửa thành lũy, sửa chữa khí giới, tuyển chọn trai tráng, tích trữ lương thảo, mười lăm ngày thì xong. Lúc mới khởi công, quan lại và dân chúng đều không hài lòng vì việc này gây xáo trộn. Nhưng sau đó, quân địch quả nhiên đến, thấy đã có phòng bị, liền rút lui, mọi người mới thán phục.

[57] Ban đầu, quân Khiết Đan lại từ Hoà Nhĩ Quách xâm lược, tiến sát dưới thành Đại Châu. Thần vệ đô chỉ huy sứ Mã Chính đem quân mình dàn trận ngoài cửa nam thành, quân ít không địch nổi. Phó bộ thự Lư Hán Uân khiếp nhược, cố thủ trong thành. Tri châu, Cấp sự trung Trương Tề Hiền chọn hai ngàn quân sương ra phía phải của Mã Chính, khích lệ quân sĩ, một người địch trăm người, quân địch bèn rút chạy, men theo phía nam sông Hồ Lô mà về phía tây.

Trước đó, Tề Hiền đã hẹn với Phan Mỹ đem quân Tịnh Châu đến hợp chiến[34]. Chẳng bao lâu, sứ giả bị quân địch bắt được. Tề Hiền thấy kế hoạch đã lộ, lại lo quân của Mỹ bị địch đánh úp. Một lát sau, có tin báo đến, nói rằng quân từ Tịnh Châu xuất phát, đi được bốn mươi dặm đến Bá̉ng Tỉnh, bỗng nhận chiếu mật, rằng quân phía đông bị thua ở Quân Tử Quán, lệnh cho toàn quân Tịnh Châu không được ra trận, quân đã rút về châu rồi. Lúc đó quân địch đầy sông, Tề Hiền lo địch biết chuyện, bèn nhốt sứ giả trong phòng kín.

Đêm ấy, phát hai trăm quân, mỗi người cầm một lá cờ, vác một bó cỏ, cách thành châu ba mươi dặm về phía tây nam, dàn cờ, đốt cỏ. Quân địch từ xa thấy ánh lửa có cờ, tưởng quân Tịnh Châu đến, hoảng sợ bỏ chạy về phía bắc. Tề Hiền đã phục sẵn hai ngàn quân tại đồn Thổ Đặng, bất ngờ tấn công, đại phá quân địch. Bắt được một con trai của Bắc Đại Vương, một Tạp lợi trước trướng, chém hơn hai ngàn thủ cấp, bắt sống hơn năm trăm người, thu được hơn một ngàn ngựa, xe trướng, trâu bò, khí giới rất nhiều. Tề Hiền đều quy công cho Hán Uân.

Ngày Kỷ Mùi, Hán Uân đem tin thắng trận báo lên, Vua ban chiếu khen ngợi. Sau biết Hán Uân chưa từng giao chiến, cùng với kiềm hạt Lưu Vũ, đều bị cách chức làm Hữu giám môn vệ đại tướng quân[35].

(Hán Uân bị cách chức vào tháng tám năm sau ngày Giáp Ngọ, Vũ bị cách vào ngày Canh Tý, nay chép chung lại).


  1. chữ 'chủ' trong câu 'chúa Khiết Đan còn nhỏ tuổi' vốn bị thiếu. Theo bản Tống, bản Tống Toát Yếu và Tống Hội Yếu, phần Phiên Di 1-10, Biên Niên Cương Mục quyển 4 đều ghi là 'Lỗ chủ', nay căn cứ để bổ sung chữ 'chủ'.
  2. Buông vũ khí trên đất rộng: 'buông' nguyên viết 'gây rối', theo Tống bản và Tống hội yếu phiên di nhất chi nhất thất sửa lại
  3. Núi Hồ: Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản đều giống nhau. Hoạt tự bản và Tống hội yếu, Tống sử quyển 264 Tống Kỳ truyện, Tấu nghị quyển 322 Ngự biên đều viết 'Cô Sơn'. Theo Gia Khánh trùng tu Nhất thống chí quyển 47, Dịch châu có Cô Sơn, ở phía đông huyện Quảng Xương 25 dặm. Phương dư kỷ yếu quyển 7 dẫn lời Tống Kỳ cũng viết Cô Sơn, chú: 'Cô Sơn, hoặc gọi là Đại Phòng Sơn ở phía tây huyện Phòng Sơn châu Trác 15 dặm, đường đi từ Dịch châu đến châu Trác.' Bản biên dưới đã viết 'Đại Phòng', lời bàn của người khác cần tra cứu thêm.
  4. Sông Tất: Các bản và Tống hội yếu, Tống sử đều giống nhau. Tấu nghị viết 'Sông Lại'. Thuộc cảnh Dịch châu, sông Tất không có ghi chép, Tấu nghị viết 'Sông Lại', có lẽ đúng. Theo các sách địa lý, sông Lại tức sông Cự Mã, nên là nơi Tào Bân vượt qua vào tháng 5, không phải huyện Lại Thủy.
  5. 'Hai mươi dặm' nguyên văn là 'hai trăm dặm', các bản đều giống nhau. Xét rằng 'hai trăm dặm' ở đây không hợp nghĩa, có lẽ do nhầm lẫn từ đoạn trên, nay căn cứ vào 'Tống hội yếu', 'Tống sử' và 'Tấu nghị' sửa lại.
  6. 'Đây là' nguyên văn là 'lúc này', căn cứ vào bản Tống, bản tóm lược Tống và bản các đời sửa lại.

    Lại thêm 'Quy Sơn', trong 'Tống hội yếu' phần Phiên Di và 'Tống sử', 'Tấu nghị' đều ghi là 'Quy Xuyên'.

  7. 'Phía bắc', trong 'Tống hội yếu', 'Tống sử' và 'Tấu nghị' đều ghi là 'đông bắc'.
  8. 'oán' nguyên là 'tâm', theo sách trên sửa lại
  9. 'nguyện' nguyên là 'hiển', theo sách trên sửa lại
  10. 'Tùng Mạc' nguyên là 'Tùng Mạc', theo bản Tống và nghị tấu sửa lại
  11. Chữ 'chủ' trong 'Khiết Đan chủ' vốn bị khuyết, được bổ sung theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách Tống sử, tấu nghị dẫn trên.
  12. 'Vua của họ' nguyên bản là 'Tập vương', được sửa theo sách trên.
  13. 'Khuyết' nguyên bản là 'quan', được sửa theo sách trên.
  14. 'Chi tán du dịch' trong nguyên văn ghi là 'Binh', theo bản Tống, các bản khác và sách 'Tống sử', 'Tấu nghị' thì sửa lại là 'Dịch'.
  15. Thiết lập phương án phòng thủ chống lại quân địch, 'kỷ nhung' nguyên tác là 'Cơ giác', theo bản Tống, Tống toát yếu, Tống hội yếu, cùng các tài liệu Tống sử, tấu nghị thì sửa lại.
  16. Lời chú: Trong sách gốc, chữ 'sương' (廂) đều viết là 'sao' (梢). Các chữ 'trận sương', 'triển sương' ở dưới cũng viết là 'trận sao', 'triển sao'.
  17. Lời chú: 'Tiền trận' (trước viết là 'tiền quân') được sửa theo bản Tống, bản Tóm yếu và bản Khác.
  18. '今' nguyên là '故', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa.
  19. Từ Tây Hình tiến vào, chữ 'hình' nguyên bản là 'kính', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và quyển 5 'Thái Tông kỷ' trong 'Tống sử' sửa lại.
  20. Tiết độ sứ Ngải Chính, theo Tống hội yếu, binh bát chi tam ghi là 'Tiết độ phó sứ'.
  21. Châu này cách Tây Lâu vài trăm dặm về phía nam, hai chữ 'tại' và 'lâu' vốn bị thiếu, nay dựa theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống và sách 'Tống hội yếu' binh biên 8.4 bổ sung.
  22. 'thách' nguyên là 'Bài', theo 'Long Bình Tập' quyển 18 'Liễu Khai truyền' và 'Trị Tích Thống Loại' quyển 3 mà sửa.
  23. 'lại' nguyên là 'xưng', theo bản Tống và bản các, sửa.
  24. truy kích đến núi Hồ 'Núi Hồ', bản Tống, bản Các chép là 'Núi Cô'. Xem phần hiệu khám kí quyển này[footnote] tam
  25. Tại sao các tướng súy không tuân theo kế hoạch đã định, từ 'Tuân' nguyên bản là 'Tôn', căn cứ vào bản Tống và bản Tóm tắt của Tống sửa lại.
  26. Không phải để dùng vũ lực gây chiến tranh, từ 'Độc' nguyên bản là 'Mại', căn cứ vào các bản và sách 'Trị Tích Thống Loại' quyển 3, 'Tống Sử' quyển 256 truyện Triệu Phổ sửa lại.
  27. chữ 'Chi' bản gốc thiếu, dựa theo bản Tống, tóm lược bản Tống, bản các và sử Tống quyển 267 Triệu Xương Ngôn truyền bổ sung
  28. Trương Lệnh Đạc nguyên bản chép là 'trương lệnh dịch', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản sửa đổi.
  29. Long Đế Hiệp nguyên bản chép là 'long thường hiệp', theo Tống sử quyển 5, Thái Tông kỷ, Phương dư kỷ yếu quyển 59, Giai Châu Hoạn Thiệp Hiệp điều và Nhất thống chí quyển 276, Giai Châu Long Đế Hiệp điều sửa đổi.
  30. Người giàu có ruộng đất bạt ngàn (chữ 'có' nguyên bản thiếu, dựa theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống bổ sung).
  31. 'Quân tố hiệu vô địch' các bản đều giống nhau. Sách 'Tống hội yếu' phần binh chương 8 điều 7, 'Hoàng triều loại uyển' quyển 55 dẫn 'Dương văn công đàm uyển', 'Long bình tập' quyển 17 và 'Tống sử' quyển 272 truyện Dương Nghiệp đều chép là 'Quân hầu tố hiệu vô địch'.
  32. 'Cung phụng quan' nguyên bản viết là 'Cung dưỡng quan', căn cứ theo các bản khác sửa lại.
  33. Trói ngược Lệnh Đồ đem đi: nguyên bản viết 'Nãi', căn cứ theo các bản Tống, Tống Toát Yếu và bộ 'Tống Sử' quyển 463 'Hạ Lệnh Đồ truyền' mà sửa lại
  34. Tề Hiền ước Phan Mỹ đem quân Tịnh Châu đến hợp chiến: chữ 'đem' vốn thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm lược Tống sử và quyển 265 truyện Trương Tề Hiền trong Tống sử bổ sung.
  35. Đều bị cách chức làm Hữu giám môn vệ đại tướng quân: chữ 'Hữu' vốn thiếu, căn cứ bản Tống, bản tóm lược Tống sử bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.