"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 81: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 6 (QUÝ SỬU, 1013)

Từ tháng 7 năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Quý Tỵ, nội thị Giang Đức Minh tâu rằng tại đạo trường Thượng Thanh cung, trong hộp hương bắt được một con rồng.

[2] Ngày Giáp Ngọ, ban cho các lộ Thiên Khánh quan ruộng bỏ hoang: phiên trấn 10 khoảnh, các châu 7 khoảnh, quân giám 5 khoảnh.

[3] Đổi tên Cửu Thiên Ty Mệnh Thượng Khanh Bảo Sinh Thiên Tôn thành Đông Nhạc Ty Mệnh Thượng Khanh Hựu Thánh Chân Quân. Trước đây, sau khi làm lễ phong thiền, đã ban chiếu tôn hiệu Bảo Sinh Thiên Tôn. Đến nay, vì Thánh Tổ giáng lâm, tên hiệu tương tự nên đổi lại.

(Theo đó, Bảo Sinh Thiên Tôn chính là Thánh Tổ, còn Hựu Thánh Chân Quân là Đông Nhạc. Đầu niên hiệu Tường Phù, nhầm lẫn coi Thánh Tổ là Đông Nhạc, đến nay mới biết là khác nhau nên đổi tên. Tóm lại, cả Thánh Tổ và Đông Nhạc đều có hiệu Ty Mệnh. Việc của Vương Trung Chính sẽ được nói rõ hơn sau.)

[4] Ngày Ất Mùi, Vua nói với Vương Khâm Nhược: “Nghe nói thành trì và nhà cửa ở các châu quân Hà Bắc nhiều nơi đổ nát, đều nói là do điều khoản trong chiếu xá nên không dám sửa chữa. Nay tuy thái bình vô sự, nhưng việc võ bị không thể bỏ, nên ra lệnh cho họ kịp thời tu sửa, chỉ cần không thay đổi kiểu dáng.”

[5] Ban chiếu: “Hàng năm hoàng tộc dâng lễ vật đều là những thứ vô dụng, chỉ gây lãng phí. Từ nay, trừ bốn ngày lễ Thiên Khánh, Thiên Huống, Tiên Thiên, Giáng Thánh được dâng lễ vật cúng dường, còn lại đều bãi bỏ.” Tương vương Nguyên Ốc và các vương khác dâng biểu xin giữ nguyên như cũ, nhưng không được chấp thuận.

[6] Trước đó, người Di ở huyện Đa Cương, châu Yến là Cương Vọng cầm bài hành lệnh dẫn quân cướp phá giám Tỉnh Dục, giết chức Tá chức Bình Ngôn đang đóng quân, cướp bóc nhiều gia súc. Quan Phụng chức Văn Tín, tri huyện Giang An, châu Lô, dẫn quân đến đánh, bị hại. Dân chúng đều hoảng sợ, chạy về giữ châu Nhung. Chuyển vận sứ Khấu Giam liền lệnh các châu tuần kiểm hội quân ở huyện Giang An, tập hợp hơn trăm thuyền công tư, chở lương thực và giáp trụ, giương cờ xí, đánh trống đồng và thổi kèn, từ sông Thục xuôi đến đập Thanh Phù, dựng doanh trại, chiêu an các tộc người Di gần biên giới, dụ rằng đại quân sắp đến, đừng theo Cương Vọng làm ác.

Không lâu sau, các thứ sử châu Lam, châu Thuận là Sử Tuyết Tùng, các đoàn người thuộc bát tính sinh Nam, con trai vương Ô Man Nữu Quảng, thứ sử 11 châu Di, Duyệt ở giới Nam Quảng Khê là Lý Thiệu An, thủ lĩnh thôn Sa Bà ở giới huyện Giang An và 6 châu Cao, Củng phía sau núi đều đến xin kết minh. Theo phép người Di, dựng cổng thề bằng tre, buộc ngang một con chó và một con gà lên trên, người Di già cầm đao kiếm, gọi là đánh thề. Lời thề rằng: “Thề cùng nhà Hán đồng lòng đánh giặc.” Rồi lấy máu chó, gà, mèo hòa với rượu uống. Khấu Giam cấp muối, rượu, thức ăn, kim, lược, quần áo, viết tờ lớn giao cho họ, ước rằng khi đại quân đến, treo lên để phân biệt nghịch thuận, không giết già trẻ, không đốt nhà cửa. Người Di rất vui mừng.

Bấy giờ, Kiềm hạt lộ Hiệp là Vương Chiêu Tốn tâu việc ở Tỉnh Dục, Vua sai Nội điện Sùng ban Vương Hoài Tín đi ngựa trạm cùng Khấu Giam bàn việc đánh dẹp và chiêu tập. Khấu Giam tâu: “Cương Vọng từng vào mùa xuân năm thứ hai đốt Tỉnh Dục, giết quan dân, được tha tội, lại đến cướp biên giới, nói rằng triều đình sẽ chiêu an, được cấp thức ăn quần áo. Nếu không đánh dẹp, thì người Di ở các châu Nhung, Lô, Tư, Vinh và giám Phú Thuận sẽ nổi lên làm hại biên giới. Nay xin phát quân ở các châu Gia, Mi đánh dẹp để răn đe.”

(Bản truyền chép việc này vào năm thứ năm là sai. Thực lục cũng không rõ, nay theo Hội yếu.)

Vua bèn hạ chiếu cho Hoài Tín làm Thủy lục đô tuần kiểm sứ các châu Gia, Mi, Nhung, Lô, Cáp môn Chỉ hậu Khang Huấn, Phó Thừa Huấn làm Đồng đô tuần kiểm sứ. Rồi phát hơn ba nghìn quân Hổ Dực, Thần Hổ ở Thiểm Tây, lệnh Hoài Tín cùng Khấu Giam bàn kế tiến đánh. Vua bảo Xu mật sứ Trần Nghiêu Tẩu rằng: “Trước kia Tôn Chính Từ đánh người Man, có ba tiểu hiệu Hổ Dực dẫn quân xông pha nguy hiểm, Trẫm nhớ tên họ, nay cho đi theo Hoài Tín. Chính Từ từng tuyển đinh tráng trong làng, gọi là bạch truỵ tử đệ, vì họ biết địa hình hiểm yếu, làm hướng đạo, nay cũng lệnh Hoài Tín chiêu mộ. Lại có hai trăm quân Trung Dũng ở Ích Châu, trước đánh Vương Quân có công, có thể cấp cho Hoài Tín làm tiên phong. Lại có sứ thần Tống Bôn nhiều lần bàn việc ở Khê Động, hợp thời cơ, có thể thăng chức, cho làm tri huyện Giang An, lệnh Hoài Tín mỗi khi bàn việc đều cùng tham gia.”

(Thực lục không chép việc sai Hoài Tín xuất quân, chỉ có lời Vua nói với Trần Nghiêu Tẩu, nay lấy Hội yếu và chính sử thêm vào. Nhưng Hội yếu và chính sử đều chép việc xuất quân vào tháng chín, nay nhân lời Vua nói với Trần Nghiêu Tẩu chép chung vào đây. Phó Thừa Huấn là cháu của Ngạn Khanh, con của Chiêu Nguyện.)

[7] Cảnh Phúc điện sứ, Tân Châu quan sát sứ Lưu Thừa Khuê lâu ngày bệnh nặng, gầy yếu. Vua vì lấy ý nghĩa đạo gia đổi tên để vượt qua tai họa, nên đổi chữ “Khuê” thành “Quy”. Khi bệnh trở nặng, Vua cho phép ông về nhà riêng. Công việc thường ngày ở Hoàng thành, chỉ ngày nào có ấn tín thì Nội tàng khố mới có sáng chế[1], mới được đem ra bàn bạc. Thừa Quy nhiều lần dâng biểu xin từ chức, ngày Bính Thân, được phong làm An Viễn lưu hậu, Tả Kiêu vệ thượng tướng quân về hưu.

Vua nói với Vương Đán rằng: “Chức lưu hậu của hai sứ, xưa không phải là chức quan về hưu, từ khi triều đình ta lập quốc đến nay, chức thượng tướng quân cũng hiếm khi được phong. Vì Thừa Quy đã phục vụ ba triều, nhiều lần lập công lao, nên mới được ưu đãi như vậy.” Ban đầu, Thừa Quy sai người bí mật xin Vua, muốn được làm Tiết độ sứ. Vua bảo Vương Đán, Đán nói: “Bệ hạ tuân thủ điển chương của tổ tông, điển chương không có thì không thể nghe theo, nên hỏi các cơ quan hữu trách.”

Hôm sau, Vua lại nói: “Thừa Quy nói rằng sắp chết, chỉ mong nghe được lời phong tặng của triều đình thì nhắm mắt mới không hối hận.” Đán nói: “Nếu bệ hạ nghe theo lời thỉnh cầu của Thừa Quy, sau này ắt sẽ có người đòi triều đình phong làm Xu mật sứ, điều này tuyệt đối không thể.” Vua bèn thôi. Thừa Quy không lâu sau thì mất, được truy tặng Trấn Giang tiết độ sứ, thụy hiệu là Trung Túc.

Thừa Quy tính cách trầm tĩnh, kiên nghị, tận tụy với công việc, được Vua rất tin cậy. Ông đặc biệt thích dò xét, nhiều người sợ ông.

Vua sùng bái điềm lành, tu sửa đền miếu, trang hoàng cung quán, Thừa Quy đều tham gia. Khi xây dựng cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, đặc biệt tinh xảo, lộng lẫy. Nếu phòng ốc có chỗ nào không đúng quy cách, dù đã dát vàng, vẽ ngọc, cũng nhất định phá đi làm lại, các cơ quan không dám tính toán chi phí. Khi cung điện hoàn thành, ông được truy tặng chức Thị trung, lại sai trung sứ đến mộ tế cáo. Ở điện Nhị Thánh, tạc tượng các công thần được phối hưởng, đặc biệt ban chiếu tạc tượng Thừa Quy đặt bên cạnh tượng Thái Tông.

[8] Ra lệnh các chùa viện dọc biên giới Hà Bắc không được lưu giữ người từ đất Khiết Đan làm hành giả.

[9] Chiếu rằng: “Nghe nói ở châu Doanh, dân phải nộp cỏ khô để phòng thủ thành trì, rất hao tổn sức lực. Từ nay nên lệnh cho quân lính cắt cỏ dại để dùng, không được làm phiền dân.”

[10] Tào Lợi Dụng, bộ thự Phu Diên, tâu rằng quân chủ Khắc Sơn ở biên giới phía bắc đem quân vượt sông Đại Lý về phía nam xâm lấn, tộc La Lặc của dân thục hộ do Đô La chỉ huy đã đánh đuổi được. Xin phong Đô La làm Chỉ huy sứ của bộ tộc này, được chấp thuận. Lại ra chiếu cho Lợi Dụng răn dạy các tộc, cẩn thận giữ gìn biên giới, không được vượt biên truy kích.

[11] Lấy quyền Tam ty sứ Lâm Đặc làm Phó sứ tu sửa cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Đặc siêng năng trong công việc, khéo léo trong việc tiếp trên đối dưới, mỗi lần gặp Đinh Vị, sứ tu sửa cung, đều lạy, một ngày gặp ba lần cũng lạy ba lần. Khi nói chuyện với lại tốt, ông tỏ ra hòa nhã, chỉ sợ làm tổn thương người khác. Vì thế mọi người đều hết sức, việc gì cũng hoàn thành.

[12] Đến cuối niên hiệu Chí Đạo, các quan xin cho Hoàng hậu Ý Đức được phối hưởng trong miếu thờ Thái Tông, có người lại cho rằng Hoàng hậu Thục Đức mới thực sự đáng được thăng lên phối hưởng, bàn cãi lâu mà chưa quyết định.

Lúc đó, Hoàng hậu Nguyên Đức chưa được truy tôn, còn Hoàng hậu Minh Đức đang ở cung Vạn An. Đô quan viên ngoại lang Ngô Thục bác bỏ ý kiến đó, nói: “Lễ nghi xuất phát từ tình người, việc cần phải linh hoạt theo tình thế, xử lý việc gì cũng phải có thực chất, giữ vị trí nào cũng phải có công lao. Hoàng hậu Thục Đức và Ý Đức, một người giúp đỡ từ khi còn tiềm long, một người theo hầu khi còn ở phủ đệ, đều chưa từng chính thức ngồi ngôi Trung cung, làm mẫu nghi thiên hạ, nên lễ phối hưởng thực sự chưa hợp lý. Nếu để ngôi vị phối hưởng trống không, e rằng thần lý có thiếu sót, xét theo cổ lễ, thực sự có trường hợp cùng phối hưởng. Mẹ nhờ con mà được tôn quý, nghĩa lý này đã có từ xưa, như Hán Chiêu Đế lên ngôi, truy tôn mẹ là Triệu Tiệp Dư làm Hoàng thái hậu, đó là đạo lý thông thường của thánh hiền. Hiền phi Lý thị, ở ngôi vị tôn quý, có công sinh nở, sinh ra thánh tự, khiến thiên hạ được hưởng phúc, mà bàn luận lại không nhắc đến, thần thật sự thấy khó hiểu.

Năm Khai Nguyên thứ 4 đời Đường, Hoàng hậu Chiêu Thành của Duệ Tông được phối hưởng trong miếu, còn Hoàng hậu Túc Minh ban đầu được hưởng ở Nghi Khôn, đến năm thứ 20, lại rước thần chủ của Hoàng hậu Túc Minh lên Thái Miếu[2], biết rõ là cùng phối hưởng với Đậu thị[3], như vậy cùng ngôi vị và cùng phối hưởng, có gì đáng ngại về nghĩa lý? Xin hãy thi hành mệnh lệnh truy tôn, để Hiền phi Lý thị ở ngôi vị tôn quý, được thăng lên Thanh Miếu, ngồi ngôi vị cùng phối hưởng, còn Hoàng hậu Thục Đức và Ý Đức vẫn như cũ được hưởng ở biệt miếu, như vậy mới hợp lễ chế.”

Nhưng không được chấp thuận. Hiền phi sau đó được gia phong làm Hoàng thái hậu, nhưng chỉ được hưởng ở biệt miếu mà thôi. Đến tháng 10 năm Đại Trung Tường Phù thứ 3, Phán Tông chính tự Triệu Tương lại xin việc này, mới sai các quan Lễ bộ bàn bạc.

[13] Ngày Canh Tý, Trung thư môn hạ tâu rằng: “Kính nghĩ rằng Nguyên Đức hoàng thái hậu phò tá tiên triều, làm rạng rỡ nội tắc, sinh ra thánh tử, kế tục cai trị trung nguyên, nuôi dưỡng đức độ nơi cửa Nghiêu, tuyên dương công lao nơi sông Quy, tiếng thơm lan tỏa, khắp nơi đều ngưỡng mộ. Bệ hạ thuận theo cổ kinh, noi gương từ huấn, phụng thờ danh hiệu trong sách ý, tu sửa lễ tế ở cung bí, chưa được thăng hưởng nơi tông miếu, chỉ phụng thờ ở biệt miếu, tuy tuân theo điển cố, nhưng lòng hiếu thảo vẫn còn uất ức. Kính nghĩ rằng Hậu Tắc là chư hầu, nên Khương Nguyên được tế riêng với Đế Khốc, thời Khai Nguyên của hoàng thất, nên Chiêu Thành được phối hưởng với Duệ Tông. Điển cố xưa đã rõ, lòng dân khó lay chuyển. Nay xin cùng các quan lễ bàn bạc, xin đổi tôn hiệu là Nguyên Đức hoàng hậu, thăng phối vào tông miếu của Thái Tông.” Các quan cận thần và văn võ bách quan liên tiếp dâng biểu xin, chiếu theo lời tâu.

Các quan hữu ty tâu: “Theo điển lệ nhà Đường năm Tiên Thiên thứ nhất, phối thờ Chiêu Thành và Túc Minh hai hoàng hậu ở miếu Nghi Khôn, Túc Minh tuy được lập làm phi khi Duệ Tông còn ở phiên trấn, nhưng Chiêu Thành là mẹ của hoàng đế nên được đặt trước. Nay xin thăng phối Nguyên Đức hoàng hậu lên trên Minh Đức hoàng hậu.”

Chiếu rằng: “Đạo tôn thân, là đạo cực kỳ quan trọng, trong việc thăng giáng, không dám tùy tiện bàn luận. Chỉ lấy thời gian phối thờ làm thứ tự hợp hưởng. Kính nghĩ rằng thần chủ của Nguyên Đức hoàng hậu sẽ được phối thờ sau Minh Đức hoàng hậu.”

(Vương Củng Thần nói với Tư Mã Quang rằng, thời Chân Tông, các quan xin đặt Nguyên Đức lên trên Minh Đức, Vua phê rằng: “Nói về thân phận, đều là mẹ. Nói về tôn quý, đều là thái hậu. Trẫm không dám đặt nặng nhẹ giữa hai người, xin kính theo điển lễ.” Quang ghi chép trong 《Hà Lục》.)

[14] Tam ty tâu rằng ở Hà Bắc tích trữ rất nhiều vải, xin cho các nơi Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Đông, Hà Bắc nộp thuế hạ thu bằng lương thực, bãi bỏ việc nộp bằng vải, nếu cần vải may quần áo thì chở từ Hà Bắc đến. Hướng Mẫn Trung tâu rằng Hà Bắc chỉ sản xuất vải, nếu quan phủ không thu nạp, e rằng dân gian khó buôn bán, mong cho vẫn giữ như cũ, các nơi khác thì theo lời tâu.

[15] Ngày Tân Tỵ, Thái thường bác sĩ Tề Cách tâu rằng dân Thục lấy nghề săn bắn làm kế sinh nhai, dân gian tư tích trữ cung tên, xin cấm tuyệt. Vua nói: “Bình thường dân gian có thể dùng để phòng trộm cướp, không cần cấm.”

(Tề Cách, chưa rõ lai lịch.)

[16] Ngày Nhâm Dần, Thái thường tự xin cho trai lang trải qua ba lần đại tế mới được tham gia tuyển chọn, nếu anh em họ hàng đi xa, đều phải tâu xin chỉ dụ triều đình, Vua đồng ý.

[17] Trước đây, Tri châu Tân Châu Lữ Di Giản tâu xin miễn thuế nông cụ ở Hà Bắc. Vua nói: “Chăm lo nông nghiệp khuyến khích cày cấy, là đạo xưa, há chỉ riêng Hà Bắc sao!” Ngày Quý Mão, xuống chiếu cho các lộ không đánh thuế nông cụ. Sau đó lại sai Lữ Di Giản làm Đề điểm hình ngục lộ Lưỡng Chiết.

[18] Ngày Đinh Mùi, xuống chiếu cho các phu dịch nấu muối ở giếng muối, gặp các ngày lễ Thiên Khánh v.v. đều được nghỉ.

[19] Ngày Mậu Thân, Bảo An quân tâu rằng dân thục hộ đánh bại hơn hai trăm tên giặc Phiên, cướp được trâu ngựa, đốt trại sách của chúng. Vua nói: “Việc này không có lợi cho nước, chỉ sinh sự mà thôi! Nên bảo họ cẩn thủ biên giới, không được khinh suất.” Vua lại nói: “Nghe nói các nha hiệu của Triệu Đức Minh đi qua, các châu quân khao thưởng mà quan lại lại khinh thường họ. Quốc gia vốn nghĩ đến người phương xa, cấp phát đầy đủ lương thực, nếu không đối đãi bằng lễ, ắt sinh lòng khinh mạn, nên khắp nơi răn dạy họ.”

[20] Ngày Kỷ Dậu, quan lại và bô lão ở Bạc Châu gồm 3.360 người đến cửa khuyết[4], xin xa giá đến triều yết Thái Thanh cung. Vua triệu họ vào đối ở điện Sùng Chính, ban ơn và ban thưởng.

[21] Ngày Tân Hợi, xuống chiếu rằng: “Từ nay, thuế trà, muối, rượu và các vật ở các trường, vụ, gộp cả một năm làm một, so sánh với mức định trước[5], nếu có thiếu hụt thì tính theo tỷ lệ. Các chức Tri châu quân, Thông phán, giảm một bậc so với chức Giám lâm quan để xử phạt, các đại thần và võ thần làm Tri châu quân thì chỉ phạt Thông phán trở xuống.” Lúc đó, có người dâng thư nói rằng các lộ có thuế hàng năm tăng thêm, các chức Tri châu, Thông phán đều được ghi vào sổ là hạng nhất, nếu có thiếu hụt thì không bị phạt, nên xin ban hành điều ước[6].

[22] Ngày Nhâm Tý, xuống chiếu rằng: “Từ nay, các quan văn võ đặc biệt vâng chiếu chỉ, có quyền xử phạt riêng, tức là đích thân nhận mệnh, nếu phạm tội thì xử theo tội vi chế. Còn lại những người nhận chiếu sắc và điều ước thông thường, nếu không có quy định hình phạt cụ thể thì xử theo luật. Nếu không có điều khoản nào thì xử theo tội vi chế thất.” Trước đó, pháp luật về tội vi chế, nếu vô tình phạm tội thì thường bị xử tội đồ hai năm, Hàn lâm học sĩ, Tri Thẩm hình viện Vương Tăng kiến nghị, nên ban chiếu này.

Không lâu sau, có người phạm tội, Vương Tăng xử theo tội vi chế thất, Vua không vui, nói: “Nếu như vậy thì sẽ không còn ai vi phạm chế độ nữa.” Vương Tăng nói: “Thiên hạ rộng lớn, làm sao mọi người đều biết rõ chế thư, nếu như lời bệ hạ nói, thì cũng sẽ không còn ai phạm lỗi nữa.” Vua cho là phải. Từ đó, những người bị xử tội đồ giảm bớt, Vua thường khen ngợi Vương Tăng trước mặt các cận thần là hợp lý.

Vương Tăng làm Hàn lâm học sĩ, một hôm, ngồi ở điện Thừa Minh đến tối, Vua triệu vào đối đáp lâu. Khi lui ra, sai người truyền lời rằng: “Trẫm nhớ khanh lắm, nên không kịp mặc triều phục.” Ông được Vua đối đãi như vậy.

[23] Ngày Quý Sửu, ban chiếu cho các quân ở kinh thành tuyển chọn lính thủy quen sông nước ở Giang, Hoài đến Kim Minh Trì để tập luyện thử thuyền chiến, lập thành quân Thủy Hổ Dực, đặt doanh trại bên cạnh hồ. Các châu ở Giang, Chiết, Hoài Nam cũng được lệnh theo đó tuyển lính và đặt doanh trại. Ban đầu, Thái Tổ lập ra quân Thần Vệ thủy quân, nhưng sau khi Giang, Hoài được bình định, quân này không còn được chấn chỉnh. Vua cho rằng việc phòng bị quân sự không thể bỏ bê, nên lại lập ra quân này.

[24] Ngày Giáp Dần, ra lệnh cấm các quan trong và ngoài triều mua bán ruộng đất, nhà cửa của quan lại.

(Vì gọi là “cấm lại”, nên trước đó đã có lệnh cấm rồi. Cần xem xét thêm.)

[25] Quân Bảo An báo cáo rằng nước sông dâng cao đột ngột, tràn vào thành lũy, phá hủy nhà cửa. Vua ban chiếu cho thu nhặt và chôn cất những quân dân chết đuối không có người thân, đồng thời cử sứ giả đến làm lễ tế.

[26] Ngày Đinh Tỵ, các quan văn võ dâng biểu xin Vua đến Bạc Châu viếng Thái Thanh cung, Vua chấp thuận.

[27] Ngày Kỷ Mùi, triệu tập các quan phụ chính đến xem lúa trong vườn thượng uyển.

[28] Ban chiếu: “Từ nay, những người thuộc chức Nội cung phụng trở xuống trong Nhập nội nội thị tỉnh và Nội thị tỉnh, cùng các chức Ký ban, nếu có xin được bổ nhiệm, đều phải gửi đến các tỉnh để xem xét, quyết định và xin chỉ thị. Sau khi có quyết định, sẽ gửi đến Xu mật viện để xem xét và bổ nhiệm.”

[29] Xu mật phó sứ Vương Tự Tông tâu xin khôi phục lại chế độ bổng hộ cho các quan chức mạc phủ và châu huyện. Vua nói: “Những năm trước, Dương Lịch và Hạ Hầu Kiều từng nói rằng lập bổng hộ tiện lợi cho quan viên, cũng không gây hại gì cho quốc gia, nên cũng muốn làm. Nhưng lo ngại rằng có người vượt quá quy định mà thu thuế, khiến bổng hộ không đảm đương nổi, gây thiệt hại cho dân, thành ra phiền nhiễu. Trung thư hãy xem xét lại điển lệ, rồi làm theo cách lâu dài.” Vương Đán tâu: “Việc này e chưa thể làm ngay, xin đợi xem xét kỹ rồi tâu lại.”

[30] Tháng 8, ngày Canh Thân, mùng một, xuống chiếu định sang xuân năm sau sẽ thân hành đến yết bái Thái Thanh cung ở Bạc Châu, trước hết đặt đàn ở Đông Kinh, khi trở về sẽ làm lễ cung tạ trời đất, theo nghi thức lễ Nam Giao.

[31] Ngày Tân Dậu, lấy Tham tri chính sự Đinh Vị làm Phụng tự kinh độ chế trí sứ, Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm phó[7]. Vị vẫn kiêm quản Bạc Châu. Lại sai năm sứ cùng phái người tính toán cỏ lương, xét định nghi thức, tu sửa hành cung và đường sá, tăng thêm quan thuộc ở Bạc Châu, theo chế độ như khi đến Phần Âm.

[32] Ngày Giáp Tý, đem bức tranh lúa tốt ở vườn sau ra cho bá quan xem.

[33] Ngày Ất Sửu, cấm con em trong quân đội ở vùng biên giới tập hát xướng, vì có người dâng thư nói rằng việc đó làm phiền nhiễu.

[34] Ngày Bính Dần, cấm chặt củi trong phạm vi năm dặm quanh Thái Thanh cung[8]. Tội nhân ở Bạc Châu bị xử tử thì giao cho châu lân cận xét xử.

[35] Ngày Kỷ Tỵ, bổ nhiệm Khởi cư xá nhân, Tri chế cáo Trần Nghiêu Tư làm Công bộ lang trung, Long đồ các trực học sĩ, Tri Vĩnh Hưng quân phủ.

Trường An có nhiều gia đình quan lại, con cháu ỷ thế cậy quyền, quan lại địa phương ít ai trị nổi. Có viên Đại giám họ Lý[9] là bạn cũ của Nghiêu Tư, con trai ông ta lại càng hung bạo. Một hôm, vì có việc nên tự đến phủ đường. Nghiêu Tư hỏi thăm cha anh ông ta làm quan ở đâu, có nhận được thư từ bình an không, lời lẽ rất ân cần. Sau đó, ông trách mắng rằng: “Ngươi hư đốn, vô lại như thế, gia pháp không thể dạy bảo ngươi, pháp luật cũng không trị được ngươi, rốt cuộc ngươi sẽ không biết xấu hổ. Ta với cha anh ngươi thân thiết như ruột thịt, nên thay cha anh ngươi dạy dỗ ngươi.” Bèn dẫn vào chỗ ngồi riêng, tự tay đánh đòn. Từ đó, những kẻ vô lại trong con cháu các gia đình đều sợ hãi.

Tuy nhiên, ông dùng hình phạt quá tàn khốc, có kẻ đánh bạc, sau khi đánh đòn thì xiềng xích bêu ở chợ, đặt xác ngựa chết bên cạnh, mùi hôi thối xông vào vết thương khiến họ chết. Những người đến sau bị trói chân vào chân người chết trước[10]. Sự tàn nhẫn của ông là như vậy.

[36] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu tôn thêm hiệu cho Trinh Nguyên hoàng đế là Thái Thượng Lão Quân Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế.

[37] Đổi Ty Tường định ở Viện Khởi cư thành Lễ nghi viện, cử Binh bộ thị lang Triệu An Nhân và Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên cùng làm Tri viện sự. Ban đầu đặt Ty Tường định, liền cử Bành Niên đứng đầu, lúc đó Bành Niên đang tu sửa sách Khởi cư chú, nên đặt Ty Tường định ở Viện Khởi cư, sau đó dời Viện Khởi cư đến Tam quán.

(Ty Tường định được đặt từ tháng 4 năm Nguyên niên, đến nay đổi tên thành Lễ nghi viện.)

[38] Ngày Nhâm Thân, Xu mật sứ Vương Khâm Nhược cùng các quan dâng lên bộ sách mới biên soạn về sự tích của Vua tôi gồm 1.000 quyển. Vua tự viết lời tựa, ban tên là 《Sách Phủ Nguyên Quy》, các quan biên soạn đều được ban thưởng. Tả Chánh ngôn, Trực sử quán Trần Việt đã mất trước đó, không có con, các đồng liêu tâu lên việc này. Vua thương xót, ban cho anh trai ông là Hàm được xuất thân đồng Tam truyền. Theo lệ cũ, các chương biểu của Trung thư đều do Xá nhân soạn thảo. Sau khi đông phong, triều đình có nhiều lễ khánh, Xá nhân hoặc vì bận việc khác nên chọn quan ở Tam quán, Bí các là Thịnh Độ, Lộ Chấn, Lưu Quân, Hạ Tủng, Tống Thụ và Việt phân công soạn thảo. Tể tướng thường đem tên họ tâu lên, sau này họ đều lần lượt nắm giữ chế cáo bên ngoài, chỉ có Việt không kịp được thăng chức, người đương thời đều tiếc cho ông.

[39] Ngày Giáp Tuất, xuống chiếu cho các châu quân được phép dùng lúa thu để chiết nạp số thuế lúa mạch lớn nhỏ còn thiếu của năm nay.

[40] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu rằng trên đường đi tế lễ, các hạng người không được dùng đồ tinh xảo, chạm khắc, trang sức quý giá để dâng lên.

[41] Tham tri chính sự Đinh Vị dâng lên bộ 《Tân Tu Từ Phần Âm Ký》 gồm 50 quyển.

[42] Lễ nghi viện xin vào ngày triều yết Thái Thanh cung, bày cung huyền hai mươi giá, nha bàn, tố soạn, tôn lôi, biên đậu, đều theo chế độ cung tạ ở điện Triều Nguyên. Ngọc dùng tứ khuê có để, lụa dùng màu xanh, một lần dâng rượu cầu phúc. Các quan trưởng lại ở châu lân cận, người thi đỗ cống cử ở châu Bạc, đạo sĩ trong cung đều tham dự. Chiếu đổi dùng ngọc thương bích, chuẩn bị ba lần dâng rượu, để tỏ lòng tôn kính, các việc khác đều theo đó. Lại nói sách bảo thánh hiệu, xin đặt dưới đài Thiên Bảo ở đàn tế, dùng hòm đá bí mật phong kín, trong đặt hòm ngọc, dài rộng hai thước, cao như vậy. Nắp dày một tấc hai phân, khắc năm đường dây vàng[11], phong bằng bùn vàng, đóng ấn bằng bảo Thụ mệnh. Hòm đá ba tầng, mỗi tầng dài năm thước ba tấc, tầng dưới cao hai thước, tầng giữa bằng một nửa, tầng trên làm nắp. Đều khắc sâu bốn phân, lấp bằng bùn đá, đóng ấn bằng bảo “Thiên hạ đồng văn”, tấu xin được chấp thuận.

[43] Ngày Canh Thìn, Kinh nguyên kiềm hạt Tào Vĩ cùng các quan tâu rằng công việc đào hào từ quân Trấn Nhung đến châu Nguyên đã hoàn thành, chiếu khen thưởng. Ban tiền cho các sứ thần và quân hiệu giám sát công việc, số lượng có khác nhau.

[44] Ngày Bính Tuất, ban ra ba quyển 《Tĩnh cư tập》 do Vua soạn cùng lời tựa 《Pháp bảo lục》 cho Vương Đán và các quan xem. Trước đó, Triệu An Nhân theo chiếu biên soạn tạng kinh, dâng biểu xin ban tên và soạn lời tựa, chiếu theo lời xin, ban tên là 《Đại Trung Tường Phù Pháp Bảo Lục》.

(Tháng 7 năm thứ 8, 《Pháp bảo lục》 mới hoàn thành.)

[45] Ngày Mậu Tý, Long Quang Tiến, Đô bộ thự châu Nghi Tây Nam cùng hơn một nghìn năm trăm người đến cống.

[46] Tháng 9, ngày Canh Dần, mùng một, ban tiền cho quân sĩ châu Nhung, Lộ và con em Bạch Truỵ. Chiếu cho Vương Hoài Tín cùng các quan, người man ở Khê Động không phải kẻ ác, cần đặc biệt an ủi. Lại sai sứ mang phương thuốc nổi tiếng đến châu Ích, giao cho Lăng Sách chọn thầy thuốc, cấp thuốc men, đến quân trung ứng phó.

[47] Ngày Tân Mão, ban chiếu rằng: “Nghe nói dân gian cầm cố, bán nhà cửa, mà những nhà quyền thế lân cận giữ lại khế ước để gây khó khăn. Cần ban bố rõ ràng điều ước, không để việc này tái diễn.”

[48] Sai sứ tu sửa miếu Quảng Lợi Vương ở Nam Hải.

[49] Ngày Nhâm Thìn, ban chiếu rằng các hộ người Thục và bộ lạc Phiên ở Khánh Châu, Diên Châu có thân tộc trong địa giới của Triệu Đức Minh, không được bí mật liên lạc.

[50] Ngày Quý Tỵ, châu Nghi tâu rằng thủ lĩnh người Man Phủ Thủy là Đô chỉ huy sứ Mông Đãn dẫn gia tộc về quy thuận. Ban chiếu cấp ruộng đất ở châu Nghi và châu Quế cho họ ở.

[51] Ngày Ất Mùi, ban cho Sướng Lượng ở huyện Lạc Bình, châu Nhiêu[12] tước Công sĩ, 2 vạn tiền, ngoài thuế thường lệ, được miễn lao dịch 3 năm, vì đã dẫn gia nhân bắt được bọn cướp.

[52] Ngày Bính Thân, châu Hoàn tâu rằng thủ lĩnh tộc Vượng Gia là Thứ sử châu Xuân Đô Tử, trước bị bộ lạc Phiên châu Hạ bắt giữ, nay trở về, lại có 3 tộc khác đi theo. Ban chiếu sai sứ đến ban thưởng.

[53] Trước đó, có chiếu chọn người thông hiểu kinh điển bổ nhiệm làm quan giáo dục.

Bởi vì Huyện úy Giang Âm, Phùng Nguyên tự nhận thông thạo cả năm kinh. Bấy giờ Hữu Gián nghị đại phu Tạ Bí phụ trách việc tuyển chọn, cười nói: “Người xưa học một kinh, có khi đến già mới thông, ngươi có thể thông hết được sao?” Đáp rằng: “Người thông đạt lấy một mà suy ra vạn.” Bí khen ngợi câu trả lời, bèn hỏi những chỗ khó hiểu, Nguyên đều phân tích rõ ràng. Bèn bổ làm Giảng thư ở Quốc tử giám. Sau đó thăng làm Đại Lý bình sự, Kiểm thảo ở Sùng Văn viện, Trực giảng ở Quốc tử giám.

Nguyên là người Quảng Châu.

[54] Ngày Đinh Dậu, đem giống lúa Chiêm Thành trong vườn thượng uyển cho các quan xem.

[55] Ngày Nhâm Dần, lấy Tri châu Lệ, Thái thường bác sĩ Tôn Xung làm Điện trung thị ngự sử, Đô giám, Nội điện sùng ban Vệ Thừa Khánh làm Nội điện thừa chế, để khen thưởng công lao tu sửa thành lũy phòng thủ sông.

[56] Ngày Quý Mão, Tri Kinh Nam phủ Chu Tốn bị phạt 20 cân đồng, Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ Mai Tuân bị tước một nhiệm, Thông phán Tương châu. Tội là do tự ý phát ngựa trạm cho con của Tri Quảng châu Thiệu Diệp để về thăm bệnh người thân, nhưng ngựa chết. Trước đó, Tốn giữ chức Tri chế cáo kiêm Quần mục sứ, sau ra trấn thủ phiên quận, vẫn kiêm nhiệm như cũ, đến lúc này mới bị giải chức. Từ đó về sau, không còn có người ngoại nhiệm kiêm lĩnh chức vụ nữa.

[57] Ngày Bính Ngọ, An phủ ty Hà Bắc tâu rằng sứ giả Khiết Đan đi lại qua Ký châu, xin chọn võ thần làm thủ lĩnh. Do đó, lệnh cho Trạch châu Đoàn luyện sứ Ngụy Vinh thay thế Thái thường bác sĩ Tề Cách.

[58] Ngày Đinh Mùi, chiếu rằng: “Việc nhập trung bố ở Hà Bắc quá nhiều, dùng để mua lương thực cũng không tiện. Từ nay trừ việc buôn bán với Bắc giới vẫn như cũ, còn lại đều bãi bỏ.”

[59] Đường Lô châu Thứ sử Lục Bật có miếu ở núi Bạch Nhai, huyện Xạ Hồng, ngụy Thục từng phong tước Vương, Canh Tuất, đổi phong làm Linh Tế công.

(Theo bia miếu Lục Bật, thì Bật là người thời Tiêu Lương, nhưng Thực lục và Bản chí đều ghi là Đường, cần xem xét lại.)

[60] Ngày Tân Hợi, Vua nói với các phụ thần: “Quan chưởng pháp nên cầu trung đạo, không dùng người hay dùng luật sâu. Nghe nói có quan thân dân dùng hình phạt khắc nghiệt để cầu danh tiếng, việc này rất vô nghĩa. Các khanh nên xem xét và điều chuyển họ.”

[61] Ngày Nhâm Tý, chiếu rằng từ nay thay thế dê sống ban cho quần thần bằng dê chín trong tám tiết. Có người nói việc này quá tàn nhẫn.

[62] Ngày Ất Mão, lấy Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh làm sứ sinh thần của quốc chủ Khiết Đan, Sùng nghi phó sứ Vương Hi Phạm làm phó sứ; Long đồ các đãi chế Tra Đạo làm sứ chánh đán, Cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Uất Tín làm phó sứ.

Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Trước đây, khi đi phong thiện ở phía đông và tế lễ ở phía tây, đều sai sứ mang thư đến báo cho Khiết Đan. Nay đến yết kiến Thái Thanh cung, gần kinh sư, việc sai sứ là quan trọng, nên để Huýnh và các người mang ý này báo cho họ là được.”

Huýnh và các người đi sứ trở về, nói rằng khi mới đến Trường Bạc, nơi đây có nhiều ngỗng trời và vịt trời, Liêu chủ đi săn, dẫn các kỵ binh dưới trướng đánh trống biển đi quanh bạc[13], làm kinh động ngỗng và vịt bay lên[14], rồi thả chim ưng Hải Đông Thanh đuổi theo, hoặc tự mình bắn. Người Liêu đều đeo kim ngọc chùy, gọi là chùy giết ngỗng giết vịt. Mỗi khi bắt được, liền nhổ lông cắm vào, lấy trống làm chỗ ngồi, rồi uống rượu thỏa thích. Họ coi đó là niềm vui lớn nhất. Lại thích dùng đồng và đá làm chùy để đánh thỏ. Mỗi mùa thu, họ mặc áo lông màu nâu, gọi hươu đến rồi bắn. Mùa hè thì dùng vải thay cho trướng nỉ[15], ngồi trên cỏ đánh cờ vây hoặc đánh bài, hoặc giăng lưới bắt chim ưng ở khe sâu.

(Điều này căn cứ vào Khiết Đan truyện và hội yếu. Vương Hi Phạm là con của Hiển. Uất Tín, không rõ.)

Có người nói rằng Huýnh cùng người Liêu uống rượu đùa giỡn, Đạo say rồi lên xe, đều có thể trị tội. Vua nói: “Việc này tuy không có hại, nhưng đi sứ nơi xa xôi, người ngoài nhìn vào, một chút không đúng mực, cũng là mất thể diện.” Vương Đán nói: “Đại để đi sứ xa quý ở chỗ cẩn trọng, còn việc uống rượu thì không nên quá chén.” Vua cho là phải.

(Điều này căn cứ vào Bảo huấn.)

[63] Ngày Đinh Tỵ, lệnh cho các châu quan lại mỗi khi đến các đại tiết Thiên Khánh, Tiên Thiên, Giáng Thánh thì lập đạo trường, tán trai, trí trai, theo quy chế của đại tế. Đây là theo lời thỉnh cầu của Vương Khâm Nhược.

[64] Chiếu rằng các học sĩ và trực học sĩ của Long Đồ các sẽ xếp thứ bậc trên chức vụ hiện tại. Ban đầu, Đỗ Hạo và Trần Bành Niên khi giữ chức này, thứ bậc lại xếp dưới chức vụ. Đến nay, Trần Nghiêu Tư dâng lời kiến nghị, nên thay đổi lại.

[65] Mùa đông, tháng 10, ngày Tân Dậu, rước linh vị của Nguyên Đức hoàng hậu vào thờ chung trong Thái Tông thất. Một ngày trước đó, Nhiếp Thái úy Vương Đán đã dâng sách bảo đến hậu miếu để tôn thêm tên hiệu, sửa lại bài vị thần chủ. Hôm đó, rước vào Thái miếu. Lễ xong, trăm quan đến Cáp môn chúc mừng. Cơ quan hữu trách tâu rằng điện thờ ở hậu miếu nên phá bỏ, Vua ra chiếu cho Tông chính khóa chặt lại. Vua làm thơ 《Khánh Thăng Phụ Lễ Thành》[16], ban cho các cận thần họa theo.

[66] Ngày Nhâm Tuất, hợp 11 chỉ huy của Long Mãnh thành 8.

[67] Chiếu rằng khi người man ở Tây Nam vào triều cống trở về, những binh khí mang theo sẽ do cơ quan hữu trách chuyển giao qua các trạm dịch, đến biên giới man rồi trao lại. Trước đây, người man tự mang theo giáo mác, trên đường say rượu, thường gây ồn ào với quan lại trạm dịch, nên có lệnh này.

[68] Ngày Giáp Tí, chiếu rằng từ nay các quan hành lễ tế tự ở Thái Phủ tự phải đến Nội thị tỉnh xin hương phong của Vua.

[69] Ngày Ất Sửu, chiếu rằng từ khi rời kinh đến trước lúc tế lễ ở Thái Thanh cung, không được cử nhạc, các châu huyện đi qua cũng không được cho nhạc công đến đón.

[70] Chiếu rằng: “Nghe nói ở các lộ, trước các tiết lễ như Tiên Thiên, Giáng Thánh, Thừa Thiên, thường tập hợp nhạc công một tháng trước để tập luyện ở Ty Lý viện, gây cản trở việc xét án. Từ nay chỉ cho tập luyện trước 7 ngày, ai vi phạm sẽ bị trị tội.”

[71] Chuyển vận sứ Hà Bắc Lý Sĩ Hoành dâng tơ lụa, bông, lụa mỏng, vải mỗi loại 20 vạn để giúp việc tế lễ, Vua ban chiếu khen thưởng.

[72] Ngày Bính Dần, chiếu rằng việc thu thuế mùa thu ở các kho trong kinh thành phải được thực hiện công bằng, không được chậm trễ hay quấy nhiễu, giao cho Khai Phong phủ giám sát.

[73] Ngày Đinh Mão, Tam ty mượn 50 vạn tiền và lụa từ Nội tàng khố để chuẩn bị ban thưởng cho việc tế lễ.

[74] Châu Bạc tâu rằng cây bách ở Thái Thanh cung mọc lại, huyện Chân Nguyên có lúa và lúa mạch chín hai lần. Vua làm thơ cho các cận thần xem.

[75] Ngày Quý Dậu, Vua đến yết kiến ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Viện Lễ Nghi xin Vua thân hành lễ ở điện Thái Sơ Minh Khánh, thân đốt hương ở điện Thần Ngự, các điện từ Tử Vi trở xuống sai quan dùng đồ chay dâng cúng, điện Tập Linh và các Dực Thánh sai quan đốt hương. Vua xuống chiếu lệnh cho các quan cận thần phân loại dâng lễ, từ đó trở thành quy thức vĩnh viễn.

[76] Ngày Giáp Tuất, Vua sai quan Trực Tập Hiền Viện là Thạch Trung Lập cùng các quan khác biên soạn bộ 《Đồ Kinh》 về những nơi xa giá đi qua, để phòng khi cần tham khảo.

[77] Quan Long Đồ Các Đãi Chế là Tôn Thích dâng sớ nói: “Bệ hạ phong thiện ở Thái Sơn, tế tự ở Phần Âm, thân đến yết kiến lăng tẩm, nay lại sắp tế tự ở Thái Thanh Cung.

Bên ngoài bàn tán xôn xao, cho rằng Bệ hạ việc gì cũng muốn bắt chước Đường Minh Hoàng, lẽ nào cho rằng Minh Hoàng là bậc chúa tể có đức tốt sao? Thật không phải vậy! Dấu vết tai họa và suy bại của Minh Hoàng đủ để làm gương cảnh giác sâu sắc, không chỉ riêng thần biết được, mà các quan cận thần không nói ra, đó là vì họ mang lòng gian trá để phụng sự Bệ hạ. Minh Hoàng vô đạo, cũng không ai dám nói, đến khi chạy đến Mã Ngôi, quân sĩ đã giết Dương Quốc Trung, xin trị tội giả mạo chiếu chỉ, bấy giờ mới tỏ ra hiểu lý lẽ không rõ, giao phó nhiệm vụ không đúng chỗ. Lúc đó tuy có lời tự trách tội mình, nhưng giác ngộ đã muộn, còn kịp gì nữa.

Thần mong Bệ hạ sớm tự giác ngộ, giảm bớt hư danh, xua đuổi kẻ gian nịnh, ngừng xây dựng công trình, không theo dấu vết nguy loạn, để khỏi hối hận không kịp như Minh Hoàng. Đó là điều may mắn của thiên hạ, phúc của xã tắc vậy.”

Vua cho rằng: “Phong thiện ở Thái Sơn, tế tự ở Phần Âm, lên lăng, tế tự Lão Tử, không phải bắt đầu từ Minh Hoàng. Lễ Khai Nguyên hiện nay vẫn được tuân theo, không thể vì loạn Thiên Bảo mà cho là sai. Nhà Tần vô đạo lắm, nhưng nay tên quan chức, chiếu chỉ, quận huyện vẫn theo lối cũ của Tần, lẽ nào vì người mà bỏ lời nói hay sao?” Vua soạn bài 《Giải Nghi Luận》 để cho quần thần xem. Tuy nhiên, Vua biết Tôn Thích là người trung thực chất phác, nên dù lời nói thẳng thắn, vẫn dung nạp mà không trách cứ.

[78] Ngày Đinh Sửu, Vua xuống chiếu khen thưởng thủ lĩnh động man ở Nhung Châu, Lô Châu là Nữu Quảng. Vì quan Chuyển Vận Sứ là Khấu Giam tâu rằng họ khống chế đường sá, giúp ngăn chặn ngoại di.

[79] Ngày Kỷ Mão, Vua làm 60 bài 《Bộ Hư Từ》 giao cho đạo môn, để dùng trong các buổi pháp tiếu.

[80] Ngày Tân Tỵ, chim thần tụ tập ở đạo trường điện Chân Du.

[81] Ngày Đinh Hợi, quan Tri Kinh Nam là Chu Tốn[17] tâu rằng: “Đô đầu thổ đinh huyện Lô Khê, châu Thần là Ngụy Tiến Vũ cùng những người khác, dẫn theo người Dao từ núi đến quấy nhiễu thành trại. Đã sai quan Tri châu và Giám áp của châu này đem quân đi đánh úp.”

Vua nói: “Quan thủ thành và quan binh không nên cùng đi ra ngoài.” Lập tức dụ Chu Tốn để lại một người ở lại châu. Lại sai sứ mang chiếu dụ Ngụy Tiến Vũ và những người khác bảo họ trở về trong động, nếu có điều gì muốn tâu, giao cho châu này xem xét giải quyết; nếu vô cớ tụ tập, thì tùy nghi trấn áp, rồi tường trình lên. Nhân đó, lệnh cho quan Tri Hồng Châu là Mã Lượng đổi chức với Chu Tốn.

[82] Chiếu rằng: “Năm nay tiết thu được mùa, nghe nói các lộ việc thu mua lương thực không đều, dân chúng bị phiền nhiễu nhiều[18]. Có thể lệnh cho các ty Chuyển vận Hà Bắc, Thiểm Tây, Kinh Đông và Kinh Tây mỗi nơi miễn giảm một nửa, còn hộ trung đẳng trở xuống thì miễn hẳn.”

[83] Quyền phán Lại bộ Lưu nội tuyển Thận Tòng Cát tâu: “Cách thức ty dùng 《Thập đạo đồ》 để xét các quận huyện theo thứ bậc thượng, hạ, khẩn, vọng, nhằm định mức bổng lộc, các quan xử án cũng dùng để định tội. Tuy nhiên, số hộ khẩu hàng năm có tăng giảm mà chưa từng tu chỉnh, dẫn đến nhiều sai sót trong việc xếp hạng. Xin sai quan lấy 《Thập đạo đồ》 từ Cách thức ty, Đại Lý tự, Hình bộ cùng các bản đồ kinh sách trong quán các để hiệu đính thành bản mới[19], giao cho các ty thi hành.” Chiếu cho Bí các hiệu lý Thận Dung, Thiệu Hoán, Tập hiền hiệu lý Yến Thù hiệu đính, Hàn lâm học sĩ Vương Tăng tổng lĩnh việc này.

(Năm Thiên Hi thứ 3, sách hoàn thành, gồm 3 quyển, chiếu giao cho hữu ty.)

Ban đầu, những người được tuyển chọn thi xử án thường ngồi trực tiếp trên đất, Tòng Cát dùng tiền công mua chiếu trúc cấp cho họ. Ông xử lý công việc nhanh nhẹn, tận tâm với việc công, đến đâu cũng chú trọng xem xét kỹ lưỡng, nhiều lần xin đối đáp tâu việc, được Vua khen ngợi vì sự thẳng thắn.

Thận Dung là con của Tòng Cát.

(Thiệu Hoán, chưa rõ lai lịch, tháng 7 năm Tường Phù thứ nhất được bổ làm hiệu lý.)

[84] Tháng 11, ngày Quý Tỵ, sai sứ đi ngựa trạm đến Thiểm Tây, cùng với chuyển vận sứ tính toán những nơi thiếu lương quân, tăng giá mua thóc.

[85] Ngày Giáp Ngọ, chiếu cho các nha hiệu ở Xương Châu, ai nguyện dẫn con em giúp đánh giặc man thì chờ lập công sẽ ban thưởng theo thứ bậc.

[86] Do lụt lội, miễn thuế trâu cho Tân Châu, Lệ Châu một năm.

[87] Đô quan viên ngoại lang, Tri thành châu Lưu Thịnh, Suy quan Thời Quần, Lục sự tham quân Tôn Nhữ Bật đều bị cách chức. Ban đầu, vợ của dân huyện Đồng Cốc là Câu Tri Hữu tên là Trương đã treo cổ giết chồng mình. Con dâu là Đỗ nhân dịp về thăm nhà đã kể lại việc này với cha mình, cha bèn báo lên châu. Châu tra hỏi, Trương nhận tội. Lưu Thịnh và những người khác luận tội Đỗ tố cáo cha mẹ chồng, phạt lưu đày 3000 dặm, lại bắt ly hôn. Trương cũng tự thú, nên được tha tội. Chuyển vận ty chuyển sang châu lân cận xét xử[20], Trương theo luật bị xử trảm, còn Đỗ vô tội.

Chiếu chỉ truy xét Lưu Thịnh và những người khác, Pháp tự tâu rằng nên phạt tiền chuộc tội[21]. Vua nói: “Quan cai trị dân mà dùng hình phạt sai lầm đến mức này.” Đặc biệt cách chức họ, lại công bố sự việc để răn dạy các đạo.

[88] Ngày Đinh Mùi, Tam ty mượn 20 vạn tiền từ kho nội tàng.

[89] Ngày Đinh Dậu, chiếu rằng: “Quân lính xây dựng đàn tế trời đất ở Thanh Thành đang trong mùa đông giá rét, lại phải ở ngoài trời, nên cấp nhà quan cho họ ở.”

[90] Ngày Quý Mão, bãi bỏ việc mua lương thực ở Hoài Nam, vì mấy năm liền mất mùa, năm nay mới được mùa.

[91] Ngày Đinh Mùi, chiếu rằng: “Khi xa giá tuần du, những việc về binh lính, ruộng đất, giặc cướp ở các châu quân gần kinh thành, giao cho Đông Kinh lưu thủ đảm nhiệm. Các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam thì giao cho các phiên trấn, tri châu đảm nhiệm.”

[92] Ngày Canh Tuất, sai sứ đi thăm hỏi Tuần kiểm Nhung châu, Lô châu là Vương Hoài Tín và những người khác, lại ban thưởng yến tiệc.

[93] Ở điện Thái Sơ Minh Khánh trong cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng có xá lợi xuất hiện. Vua nói với tể tướng rằng: “Ba giáo được lập ra, ý chỉ đều giống nhau, đại để đều khuyên người ta làm việc thiện. Chỉ có người thông suốt mới có thể thấu hiểu được. Nếu cố chấp, thiên kiến, nhìn đâu cũng thấy khác biệt, thì sẽ xa rời đạo lý.” Bèn viết bài luận “Cảm ứng” để ghi lại việc này.

[94] Ngày Quý Sửu, ban cho Ngự sử đài bộ “Cửu kinh” và các bộ sử, theo lời thỉnh cầu của họ.

[95] Ngày Giáp Dần, Đinh Vị từ Bạc châu về triều, dâng 37.000 cây cỏ linh chi.

[96] Khiết Đan phái sứ giả là Trưởng Ninh quân Tiết độ sứ Gia Luật A Quả, Phó sứ Tả Vệ Đại tướng quân Thạch Bật đến chúc mừng lễ Thừa Thiên.

[97] Ngày Ất Mão, sứ giả tiến cống của nước Cưu Tư là Lý Diên Khánh cùng 36 người vào chầu ở điện Trường Xuân, dâng các vật phẩm như cung tên quý, yên ngựa, ngọc tròn, hương liệu, được ban chiếu khen ngợi đáp lễ.

[98] Ngày Bính Thìn, bổ nhiệm Đông đầu Cung phụng quan Trương Luân làm Đô Tuần kiểm sứ châu Thần, chiêu dụ người Man, Nội thị Điện đầu Giang Đức Nguyên làm phó. Trương Luân là người huyện Nhữ Âm.

(Theo sử liệu, việc chiêu dụ người Man này có lẽ là nhằm vào Ngụy Tiến Vũ và đồng bọn. Bản truyện của Trương Luân lại chép rằng người Man họ Bành ở Khê Động làm phản, nên cử Trương Luân làm Tri châu Thần. Trương Luân đến nơi, cho xây dựng đường dịch trạm Bồng Sơn, khiến giặc không thể qua lại, bèn bỏ chạy. Việc này có vẻ khác với ghi chép trong thực lục, có lẽ bản truyện dựa theo thần đạo bi của Phạm Trọng Yêm. Cần tra cứu thêm vào tháng 3 năm Thiên Hi thứ hai.)

[99] Lệnh cho các quan trong Cáp môn chuẩn bị danh sách các chức vụ từ Nội chư ty sứ trở xuống để tiến cử, chuẩn bị bổ nhiệm.

[100] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu cho các châu quân gần kinh thành tăng thêm quân đồn trú, cấp thêm tiền công dụng để chuẩn bị yến tiệc khao thưởng.

[101] Lệnh cho các thuyền bè đặt tại các sông thuộc phủ Trưởng công chúa chỉ được miễn sai dịch, còn thuế quan chợ vẫn thu theo quy định, nhằm tuân theo chế độ cũ.

[102] Tháng 12, ngày Mậu Ngọ mùng một, có nhật thực.

[103] Ngày Canh Thân, Khả hãn nước Hồi Hột là Dạ Lạc Hột phái sứ giả đến tiến cống.

[104] Kinh Nguyên Kiềm hạt Tào Vĩ tâu rằng đã phát binh vượt qua châu Vị vào ban đêm, tập kích tộc Tàng Tài ở địa giới châu Nguyên, trừng phạt kẻ chống lệnh, bắt giữ được rất nhiều người.

[105] Ngày Bính Dần, bổ nhiệm Binh bộ Thượng thư Khấu Chuẩn làm Quyền Đông Kinh Lưu thủ, Nhập nội Đô tri Diêm Thừa Hàn làm Đô đại Quản cú Đại nội công sự, Quyền Tam ty sứ Lâm Đặc làm Hành tại Tam ty sứ.

[106] Ngày Kỷ Tỵ, Thiên thư Phù thị sứ Triệu An Nhân cùng các quan dâng lên xe cộ, nhạc cụ, nghi trượng mới chế tạo để phụng sự Thiên thư. Vua ngự ở điện Sùng Chính, triệu tập tông thất và tể tướng đến xem.

[107] Ngày Tân Mùi, đem cỏ linh chi do Đinh Vị tiến cống (theo 《Tống triều yếu lục》 có hơn 37.000 cây) bày ở sân điện Văn Đức để tuyên thị cho bá quan xem, theo lời thỉnh cầu của Khấu Chuẩn.

[108] Ngày Nhâm Thân, làm lễ dâng rượu tế Thiên thư ở điện Triều Nguyên, sau đó cáo yết ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng và Thái Miếu.

[109] Ngày Canh Thìn, Ngự sử đài tâu rằng: Trong các điều lệ về việc quan thường tham tri thất lễ, như nói cười ồn ào, vào cửa chính nha cầm hốt không ngay ngắn, đến hàng đứng không ngay thẳng[22], dự yến tiệc nói chuyện lộn xộn, cử động không nghiêm trang, xin đều xử tội tư, Vua đồng ý. Lại xin các quan tế tự trong ngày trai giới phải đến sớm nơi trai giới, gặp lễ tế lớn, quan hành lễ và quan bồi tế[23], đều phải tập trung ở triều đường trước giờ Ngọ để túc trai, ai vi phạm sẽ bị trị tội, Vua chuẩn tấu.

[110] Ngày Tân Tỵ, lấy Hàn lâm học sĩ Vương Tăng kiêm Ngự sử đại phu làm Khảo chế độ sứ, Hình bộ viên ngoại lang kiêm Thị ngữ sử tri tạp sự Đoàn Diệp kiêm Trung thừa làm phó. Tri chế cáo Tiền Duy Diễn cùng các quan biên soạn danh sách các bậc phụ lão nghênh giá và tù nhân các châu huyện, Hữu gián nghị đại phu Thận Tòng Cát cùng các quan xét định các tờ tấu. Chỉ không biên soạn danh sách cống phẩm.

[111] Tri phủ Thiên Hùng quân Châu Khởi tâu: “Các nhà sư ở Ngũ Đài Sơn chạm khắc gỗ, trang trí vàng làm mũ, trên đặt tượng Thích Ca, lừa dân để xin tiền. Từ nay về sau, xin cấm chỉ những việc như vậy.” Vua đồng ý.

[112] Ngày Nhâm Ngọ, Đô tuần kiểm sứ Nhung Châu, Lô Châu là Vương Hoài Tín cùng các quan tâu rằng giặc Man đã dẹp yên. Vua ban chiếu khen thưởng, lệnh ghi tên các tướng sĩ lập công để tâu lên.

Trước đó, Vương Hoài Tín cùng các tướng chia quân các châu và binh lính Bạch Trụy, men theo khe núi tiến vào Hợp Than, đến thôn Đẩu Mãn thuộc địa giới phía nam, gặp hơn hai nghìn quân man tặc, liền đánh nhau, giết và làm bị thương năm trăm người, cướp được thương, khiên mây. Đến chiều tối, thu quân về giữ trại, hơn ba nghìn quân man chia làm hai đường, giương cờ hò hét tiến đến áp sát. Hoài Tín xuất quân đánh, chúng đều tan vỡ. Tiến quân đóng đồn ở Sa Bà, gặp hai nghìn quân Di ở thôn La Cố Mộ, lại đánh bại chúng. Đuổi đến thôn Đẩu Hành, lên núi Bình Phong, liên tiếp phá được bốn trại. Một ngày ba trận, bắt sống và chém được hơn trăm người, cướp được năm nghìn thạch lương thực, vạn chiếc thương đao và đồ dùng, đốt cháy ba nghìn ngôi nhà ở hơn ba mươi thôn như La Cố Mộ, Đẩu Dẫn.

Hoài Tín lại dẫn quân đến thôn Đẩu Hành, đuổi đánh qua La Vân, bắn ngã hơn ba trăm người, đốt cháy hàng nghìn rào chắn. Phái bộ hạ đến các thôn La Cá Giáp, La Năng Lạc Vận và núi Long Nga đánh úp, thu được nhiều vũ khí, chém được nhiều thủ cấp và những người bị thương nặng nhảy xuống vực chết[24], đốt cháy hàng nghìn ngôi nhà và vạn thạch lương thực tích trữ. Hai cánh quân hội tại Kính Than, đóng trại. Chuyển vận sứ Khấu Giam và Hoài Tín bàn bạc, phái Khang Huấn dẫn quân đào hào sửa đường Kính Than để đại quân đi qua, chẳng may bị quân man phục kích, đánh không lợi. Huấn ngã xuống vực, tử trận. Hoài Tín dẫn quân đánh gấp, đại bại quân địch, đuổi chém đến hẻm Kính Than, đóng trại ở cửa sông Yến.

Giam và Phù Thừa Huấn dò biết quân man định đánh úp Yến Giang ban đêm, vội báo cho Hoài Tín, Hoài Tín lập tức rút quân từ Kính Than đến ứng cứu. Khi đến núi phía bắc Yến Giang[25], hơn vạn quân man từ phía đông nam hợp lực áp sát trại Hoài Tín, Hoài Tín dùng nỏ mạnh bắn vòng quanh trại[26], Giam chỉnh đốn quân lên cao hỗ trợ, quân man sợ hãi rút lui, hợp lực đánh bại chúng, giết và làm bị thương hơn nghìn người. Thủ lĩnh man là Cương Vọng lại chia quân làm ba đường đến đánh, lại bị quân quan đại bại, bắn chết vài trăm người[27], chết đuối trên sông không kể xiết. Quân man kinh sợ, đến quân đầu hàng, nộp trâu dê, trống đồng, khí giới. Giam theo chiếu dụ hàng, rút quân về Dục Tỉnh. Cương Vọng và các thủ lĩnh thôn khác đều đến quân tự thú, xin tha tội chết, thề không xâm phạm biên giới nữa, giết ba con vật làm lễ thề, lời lẽ rất khẩn thiết, liền ban rượu thịt khao thưởng, họ cảm kích vui vẻ ra về.

(Theo 《Hội yếu》 và 《Tây Nam phiên truyền》, từ việc thủ lĩnh man Cương Vọng chia quân ba đường đến đánh trở xuống đến việc họ cảm kích ra về, đều là sự việc tháng giêng và tháng hai năm sau, nhưng theo 《Thực lục》 thì tháng mười Hai năm nay, Vương Hoài Tín[28] đã tâu báo giặc man đã dẹp yên, 《Bản kỷ》, 《Kê cổ lục》 cũng giống, nay theo 《Thực lục》 ghi chép lại.)

[113] Đại Lý tự tâu: “Theo chế độ cũ, các chức Thẩm hình tường nghị quan, Đại Lý thiếu khanh, Tường đoạn quan, sau ba năm mãn nhiệm, nếu không có sai sót, sẽ được khảo khóa và cải bổ. Trong niên hiệu Cảnh Đức, có chiếu rằng nếu trong một năm bị phạt bốn lần, Thẩm quan viện sẽ tâu lên, xét mức độ nặng nhẹ để giáng chức hoặc điều động. Nếu xét án đúng đắn, sẽ được ưu đãi thăng thưởng.

Trước đây, các chức Thẩm hình tường nghị quan, dù có bị phạt khi mãn nhiệm, vẫn được ưu đãi điều động. Còn các chức Tường đoạn quan của bản tự, nếu bị phạt dưới bốn lần, chỉ được bổ làm tri huyện. Như vậy, thứ bậc của Tường đoạn quan không khác gì các chức giám sát trường vụ. Huống chi, các quan kinh triều giữ chức Hình bộ tường phúc quan, Khai Phong phủ chư tào tham quân, khi mãn nhiệm đều được bổ làm thông phán các châu.

Nay bản tự hàng ngày có việc kiểm đoạn[29], hiếm khi không bị liên lụy, mong rằng những người bị phạt dưới bốn lần khi mãn nhiệm được bổ làm thông phán các châu, để khuyến khích quan thuộc.”

Chiếu rằng từ nay những người bị phạt hai lần mà tình tiết nhẹ, sẽ tâu xin chỉ thị.

(Bản chí chép việc này vào tháng 10 năm ngoái, lại nói chiếu rằng những người bị phạt hai lần mà tình tiết nhẹ được làm thông phán các châu nhỏ. Nay theo thực lục.)

[114] Binh bộ lang trung, Long đồ các đãi chế Tôn Thích tự tâu rằng cha ông đã 82 tuổi, đang ở nhà tại Vận châu, xin được nhậm chức ở quận gần để tiện phụng dưỡng. Ngày Quý Mùi, được lệnh làm tri Mật châu. Thích xin được theo hầu rồi mới đến nhậm chức, được chấp thuận.

[115] Khiết Đan phái sứ Thủy Bình quân tiết độ sứ Gia Luật Viễn Ninh, phó sứ Khởi cư xá nhân Triệu Vi Ki đến chúc mừng năm mới.


  1. Chỉ ngày có ấn tín, các bản đều giống nhau. Xét 《Tống sử》 quyển 466, truyện Lưu Thừa Khuê chép là 'ngày dâng ấn'
  2. lại rước thần chủ của Hoàng hậu Túc Minh lên Thái Miếu, 'Túc Minh' nguyên bản viết là 'Túc Chiêu', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và văn cảnh sửa lại.
  3. Đậu thị, Tống bản và Tống toát yếu bản đều viết là 'Đậu hậu'.
  4. Bản gốc chép '2.000 người', nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tống sử》 quyển 104, 《Lễ chí》 sửa lại.
  5. Chữ 'tổ' nguyên bản viết là 'tô', nay căn cứ vào các bản khác và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 17-16 sửa lại.
  6. Chữ 'hành' nguyên bản thiếu, nay căn cứ vào sách trên bổ sung.
  7. Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm phó: Chữ 'Viện' dưới chữ 'Hàn lâm' nguyên bản thừa, theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 20 《Yết Thái Thanh cung》, 《Tống sử》 quyển 287 bản truyện mà bỏ.
  8. Cấm chặt củi trong phạm vi năm dặm quanh Thái Thanh cung: Chữ 'nội' nguyên bản thiếu, theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử》 quyển 8 《Chân Tông kỷ》 mà bổ sung.
  9. Nguyên bản viết 'Lý Thái giám', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại.
  10. Chữ 'giả' trong câu 'Hậu lai giả hệ ư tiên tử giả chi túc' nguyên bản thiếu, theo Tống bản và Tống toát yếu bản bổ sung.
  11. khắc năm đường dây vàng 'đường năm' Hai chữ nguyên đảo, theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và quyển 104 chí Lễ trong 《Tống sử》 sửa lại.
  12. Chữ 'bình' trong 'Nhiêu Châu Lạc Bình huyện' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Hoàn Vũ Ký》 quyển 107, điều về châu Nhiêu, và 《Tống Sử》 quyển 88, phần Địa lý chí để bổ sung.
  13. dẫn các kỵ binh dưới trướng đánh trống biển đi quanh bạc 'dưới' nguyên là 'trung', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và Tống hội yếu phiên di nhị chi bát sửa lại.
  14. làm kinh động ngỗng và vịt bay lên 'bay lên' nguyên là 'chạy', theo sách trên sửa lại.
  15. mùa hè thì dùng vải thay cho trướng nỉ 'thay' nguyên là 'mặc', 'trướng nỉ' hai chữ nguyên đảo, theo sách trên sửa lại.
  16. Chữ 'thượng' trong câu 'thượng tác khánh thăng phụ lễ thành thi' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các sách và 《Tống Hội Yếu》 Lễ 10-3 để bổ sung.
  17. Chu Tốn, Tri Kinh Nam, nguyên bản ghi là 'Kinh Châu', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5-79, cùng với phần biên soạn tháng 9 ngày Quý Mão trong quyển này, đã sửa lại. Xét các tài liệu địa lý, Kinh Châu thời Tống gọi là phủ Giang Lăng, quận Giang Lăng, tiết độ sứ Kinh Nam. Năm Kiến Viêm thứ 2, thăng làm Súy phủ; năm thứ 4, đổi thành phủ Kinh Nam. Sau đó lại nhiều lần thay đổi. Vì vậy, chữ 'Kinh Nam' ở đây nên hiểu là tiết độ sứ quân Kinh Nam. 《Tống hội yếu》 dẫn trên ghi là 'Kinh Nam quân phủ' và phần biên soạn tháng 9 ngày Quý Mão trong quyển này ghi là 'phủ Kinh Nam', thực chất đều là một việc. 《Dung Trai Tùy Bút》 quyển 4, phần 'Phủ danh quân ngạch' có viết: 'Quân ngạch của Kinh Châu gọi là Kinh Nam, phủ gọi là Giang Lăng, còn quan thủ thần thì gọi là Tri Kinh Nam, thông phán gọi là Thông phán Kinh Nam; các quan lại, mạc huyện khác thì gọi là phủ Giang Lăng. Đến năm Thuần Hi thứ 4, mới thống nhất gọi là Giang Lăng.' Có thể dùng làm chứng cứ.
  18. Năm nay tiết thu được mùa, nghe nói các lộ việc thu mua lương thực không đều, dân chúng bị phiền nhiễu nhiều. Xét 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa 39-7, chỗ này ghi là 'Nghe nói các lộ thu mua lương thực đều từ dân chúng, nên gây nhiều phiền nhiễu.' Căn cứ theo đoạn dưới của sách này ghi 'hộ trung đẳng trở xuống được miễn', thì có lẽ ý của 《Tống hội yếu》 ghi 'đều từ dân chúng' là hợp lý hơn.
  19. Xin sai quan lấy 《Thập đạo đồ》 từ Cách thức ty, Đại Lý tự, Hình bộ cùng các bản đồ kinh sách trong quán các để hiệu đính thành bản mới. Chữ 'hiệu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 11/77 bổ sung.
  20. Chuyển vận ty chuyển sang châu lân cận xét xử: 'Chuyển vận ty' nguyên bản là 'Chuyển vận sứ', theo Tống bản, Các bản sửa lại
  21. Pháp tự tâu rằng nên phạt tiền chuộc tội: 'Pháp tự' nguyên bản là 'Pháp ty', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại
  22. 'đến' nguyên bản là 'thẳng', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và Tống hội yếu nghi chế 8-27 sửa lại.
  23. 'bồi' nguyên bản là 'bộ', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác sửa lại.
  24. Chữ 'cập' trong câu 'Trảm thủ cấp cập trọng thương đầu nhai tử giả pha chúng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phiên di 5-18 và 《Tống sử》 quyển 496, man di truyện bổ sung.
  25. Chữ 'bắc' trong câu 'Tỷ chí yến giang bắc sơn' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung.
  26. Chữ 'nỗ' trong câu 'Hoài tín cấu cường nỗ hoàn trại xạ tặc' nguyên bản viết là 'cung', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  27. Chữ 'sát' trong câu 'Xạ sát số bách nhân' nguyên bản viết là 'tử', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phiên di 5-19 và 《Tống sử》 sửa lại.
  28. Chữ 'vương' trong câu 'Vương hoài tín' nguyên bản viết là 'chí', căn cứ theo bản trong các bản sửa lại.
  29. 'Kim' trong 'Kim bản tự nhật hữu kiểm đoạn' nguyên là 'lệnh', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 15-36 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.