IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 106: NĂM THIÊN THÁNH THỨ 6 (MẬU THÌN, 1028)
Từ tháng giêng đến tháng chạp năm Thiên Thánh thứ 6 đời Nhân Tông.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Đinh Dậu mùng một, Mã quân Phó đô chỉ huy sứ, Vũ Xương tiết độ sứ Bành Duệ mất. Vua đến nhà ông làm lễ viếng, bãi triều một ngày, truy tặng chức Thị trung, sai quan giám sát việc tang lễ. Theo phép thì được ban thụy hiệu, nhưng gia đình ông tránh tốn kém việc tập hợp quan lại ở Đô tỉnh nên kiên quyết từ chối.
Ngày Canh Tý, Vua nói với các quan phụ chính: “Việc tang lễ của đại thần, sai quan giám sát là do ân lễ, nhưng gần đây tang gia tốn kém quá nhiều. Huống chi theo chiếu thư năm Tường Phù, từ chức Sứ tướng trở xuống đều có quy định số lượng. Nay nên tăng thêm một chút so với trước, nếu vượt quá thì lệnh cho các cơ quan Cáp môn, Ngự sử đài, Kim ngô nhai trượng ty xét xử. Những ai không muốn được chôn cất theo lệnh triều đình cũng được tùy ý.”
[2] Chiếu rằng: Từ nay, các chức Cáp môn chỉ hậu, nếu đã từng trải qua nhiệm vụ ở biên giới hoặc được cử đi sứ trong và ngoài nước, sẽ được đặc cách xét duyệt công trạng sau 5 năm, còn lại đều phải trình bày rõ công tội để xử lý.
[3] Ngày Tân Sửu, nước Khiết Đan sai Tả Thiên Ngưu vệ Thượng tướng quân Gia Luật A Quả, Khởi cư lang Tri chế cáo Lý Khuê đến chúc mừng lễ Trường Ninh tiết.
[4] Ngày Kỷ Dậu, bãi bỏ việc hai xứ Xuyên hàng năm cống tượng Phật dệt nhân dịp lễ Càn Nguyên và Trường Ninh tiết.
[5] Chiếu rằng: Từ nay, nếu trong lễ Nam Giao mà phần thưởng cho quân đội bị thiếu, các quan lại ở Tam ty đều bị xét tội và tâu lên.
[6] Trước đó, khi ban thưởng cho quân sĩ ở lễ Nam Giao, quân Quảng Dũng ở Phần Châu nhận được lụa ít hơn các quân khác, cả quân nổi loạn, bắt giữ các quan giữ chức ở dưới sảnh đường, uy hiếp họ, đòi phải ban cho lụa tốt mới tha. Trong thành giữ nghiêm phòng bị, sai quân vây doanh trại Quảng Dũng. Chuyển vận sứ Tôn Xung vừa đến, liền ra lệnh giải vây, bãi bỏ phòng bị, bày tiệc mở nhạc, bắt mười sáu kẻ cầm đầu chém, tình hình mới ổn định. Ban đầu, các quan giữ chức đã tâu lên việc quân loạn đòi lụa tốt, triều đình xuống chiếu ban lụa tốt. Sứ giả đến Lộ Châu, Tôn Xung thúc giục họ trở về, nói: “Vì nổi loạn mà đạt được điều mình muốn, đó là khuyến khích nổi loạn.” Cuối cùng không ban lụa. Sau đó, Vua hỏi Tam Ty về việc thưởng quân, Tam Ty tâu rằng Phần Châu trước đây dùng lụa trừu quyên của Hoài Nam để chiết tính ban cho quân sĩ, nhưng lụa trừu quyên không đủ, lại lệnh dùng vải thô địa phương thay thế, nên quân Quảng Dũng nổi loạn. Kẻ cầm đầu đã bị xử tử, những người còn lại đều bị đày đi các châu khác, và triều đình hạ chiếu này.
(《Thực lục》 chép việc ở Phần Châu hơi khác so với truyện Tôn Xung, nay theo truyện của Xung.)
[7] Ngày Giáp Dần, Thu quan chính Dương Khả của Ty Thiên tâu rằng sao Huỳnh Hoặc đi gần Thiên Nhai, lẽ ra phạm vào nhưng lại không phạm, xin ghi vào sử quán, Vua đồng ý. Tuy nhiên, có người bàn rằng: “Việc năm sao xâm phạm nhau, thấy trong sách chiêm nghiệm, không phải do tính toán mà biết được. Nay quan Ty Thiên nói lẽ ra phạm mà không phạm, là không đúng.”
[8] Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu cho các quan Đề điểm hình ngục là triều thần và sứ thần giao lại công việc của mình cho Chuyển vận sứ và Phó sứ, lại lệnh cho Ty Chuyển vận liệt kê những việc đã giảm bớt để tâu lên. Có người nói rằng các quan Đề điểm hình ngục làm phiền nhiễu quá mức, không có ích gì cho việc.
[9] Ngày Canh Thân, có người dâng thư lên rằng: “Các chức Tam ty phán quan, Khai Phong phủ suy phán quan trong những năm gần đây thường xuyên thay đổi, lại có nhiều người quyền thế xin bổ nhiệm. Xin từ nay chọn những người có tài năng và từng trải qua các chức vụ sứ giả để đảm nhiệm, đợi sau hai năm mới được bổ nhiệm làm Giám ty ngoại nhiệm. Các quan Kinh triều làm tri huyện hai nhiệm kỳ thì được thăng làm thông phán, lại hai nhiệm kỳ nữa thì làm tri châu. Các chức Tam ban sứ thần một nhiệm kỳ làm giám đương thì được vào làm giám áp, tuần kiểm, việc thăng chức quá nhanh, xin tăng thêm một nhiệm kỳ. Nếu có người được khen thưởng rõ ràng hoặc nhiều lần được tiến cử, thì cho Thẩm quan viện và Tam ban viện báo tên lên.
Lại nữa, các tiến sĩ đỗ đạt vốn dựa vào tài văn chương, nhưng gần đây nhiều người xin ban cho con cháu khoa danh. Lại có chức Cáp môn chi hậu, thời Thái Tông số lượng rất ít, đến thời Chân Tông đặt chức Đề điểm hình ngục phó sứ, nhân đó chiếu cho các quan cận thần tiến cử những người từng làm quan có công lao để bổ nhiệm, sau đó lại tăng số người được tiến cử lên đến bảy người, để khó khăn hóa việc thăng tiến. Nay các gia đình quyền thế thường viện dẫn ân điển, khiến nhiều người được tiến cử một cách bừa bãi, xin bãi bỏ hết. Các chức Tẩu mã thừa thụ ở các lộ, hết nhiệm kỳ nên được bổ làm Cáp môn chi hậu, chỉ nên thăng một chức.” Đều được chấp thuận, và ghi thành lệnh.
[10] Ngày Quý Hợi, miễn thuế hạ thu cho các hộ dân bị thiên tai ở các châu quân Hà Bắc trong một năm.
[11] Chiếu rằng: “Tất cả các vật phẩm công trong thiên hạ, lệnh cho các lộ Chuyển vận sứ chọn các quan Đồng phán hoặc Mạc chức trong bộ mình, trong vòng ba năm phải xử lý hết. Nếu trị giá trên một triệu mà trong năm xử lý được tám phần mười thì được thăng chức, dưới một triệu mà trong năm xử lý hết thì ghi nhận công lao, nếu quá hạn thì xét tội báo lên.”
[12] Ngày Giáp Tý, Kiến Châu quan sát sứ Khang Kế Anh xin dùng ân điển được gia tặng trong lễ Nam Giao để truy tặng cho ông nội là Tái Ngộ một chức, chiếu cho truy tặng ưu đãi.
[13] Tháng hai, ngày Tân Mùi, bổ nhiệm Tri Dương Châu, Từ bộ viên ngoại lang Đỗ Diễn làm Hình bộ viên ngoại lang. Trước đó, Diễn làm Đề điểm Hà Đông lộ hình ngục, tướng giữ Ninh Hóa quân xử án tử hình không đúng sự thật, Diễn đã sửa lại. Tướng giữ không phục, kiện lên triều đình, chiếu cho lập án xét lại, quả nhiên không đáng tội chết. Do đó, các quan hữu ty nói rằng theo pháp nên thưởng Diễn, nên đặc cách thăng chức.
[14] Các tể thần Vương Tăng và những người khác tâu rằng: “Ngày kỵ của Chân Tông, từ sau lễ Đại Tường, cấm thi hành hình phạt và không xử lý chính sự trước sau mỗi ba ngày, cấm âm nhạc mỗi năm ngày. Tuy nhiên, thời gian đã qua lâu, theo lễ có thể giảm bớt.” Chiếu chỉ rằng từ nay cấm thi hành hình phạt và không xử lý chính sự mỗi hai ngày, cấm âm nhạc mỗi ba ngày.
[15] Chiếu cho Thái thường tự thường xuyên kiểm tra và tu sửa các trai cung ở bốn hướng ngoại thành. Thiếu phủ giám phụ trách lễ phục tế tự, cử quan lại mang đến nơi tế lễ để cung cấp cho các quan tế tự. Quang lộc tự dâng lễ phục, lệnh cho giám tế sứ niêm phong và dâng lên cùng lúc.
[16] Phán Thái thường tự Tôn Thích tâu rằng: “Các đàn Hoàng địa kỳ và mười tám đàn khác đều có tường ngoại bao quanh, chỉ có đàn Nam Giao là không có. Người đi chăn thả và đốn củi có thể đi thẳng đến dưới đàn, làm mất sự tôn nghiêm. Theo đồ án, nên thiết lập ba lớp tường, nay xin xây tường ngoại, đồng thời xây tường thấp bên ngoài, bốn mặt đều đặt cửa Linh tinh. Khi hoàng đế thân hành tế lễ, dùng dây xanh và cột để đánh dấu ba lớp tường, để phù hợp với chế độ tế lễ ở giao đàn.” Được chấp thuận.
[17] Đồng tri Lễ viện Vương Hạo tâu: “Thụy là biểu hiện của hành vi, người có hành vi tốt thì được thụy hiệu tốt, người có hành vi xấu thì bị thụy hiệu xấu, nghe thụy hiệu thì biết được hành vi, dùng để khuyên răn. Theo Lục điển, Thái thường bác sĩ phụ trách việc định thụy hiệu cho các bậc vương công trở xuống, đều căn cứ vào công đức của họ để khen chê. Quan chức sự từ tam phẩm trở lên, quan tản từ nhị phẩm trở lên, thuộc hạ ghi chép hành trạng rồi trình lên Khảo công, gửi xuống Thái thường để định thụy hiệu, sau đó trình lên tỉnh để quyết định và tâu lên.
Gần đây, các quan viên qua đời, dù đủ điều kiện được định thụy hiệu, nhưng con cháu biết rõ cha ông mình không có hành vi tốt, sợ khi định thụy hiệu sẽ bị vạch rõ lỗi lầm, nên đều không xin thụy hiệu. Thần cho rằng phép định thụy từ thời Chu Công đến nay là điển chương không thể thay đổi, dùng để nêu rõ điều thiện, trừng trị điều ác[1], khích lệ điều trong sạch, bài trừ điều ô uế, để sau khi họ qua đời, việc đúng sai được rõ ràng, dùng để răn dạy. Nay nếu để họ trốn tránh, thì kẻ làm điều ác sẽ càng ngang ngược mà không biết hối cải.
Thần xin từ nay về sau, hễ có quan viên qua đời, không cần đợi gia đình xin thụy hiệu, mà đều do các cơ quan tiến hành. Như vậy, những kẻ có hành vi xấu sẽ bị ngăn chặn và khuyên răn. Nếu cho rằng phải có thuộc hạ ghi chép hành trạng rồi mới định thụy hiệu, thần xem qua sách vở, không thấy có chứng cứ rõ ràng. Chỉ có trong 《Xuân Thu》, khi Vệ công Thúc Văn Tử qua đời, con trai ông là Thú xin thụy hiệu với Vua, nói: ‘Ngày tháng đã định, sắp an táng rồi, xin hãy ban cho tên thụy.’
Thần cho rằng thời Xuân Thu[2], đức của nhà Chu suy yếu, lễ nhạc đổ nát, khi Thúc Văn Tử qua đời, các cơ quan không thể thực hiện đúng điển chương cũ, nên đến khi sắp an táng mới xin thụy hiệu với Vua[3].
Hơn nữa, theo chế độ nhà Chu, Thái sử phụ trách việc ban thụy hiệu cho các tang lễ nhỏ, Tiểu sử phụ trách việc ban thụy hiệu và đọc văn tế cho các gia đình khanh đại phu[4]. Từ đó có thể thấy, việc này vốn là trách nhiệm của các cơ quan, rất rõ ràng.” Lại tâu: “Anh em cùng làm quan, nếu gặp ân điển, đều được phong tặng cha mẹ. Ngoài Trung thư, Xu mật viện, xin cho phép họ được trình bày nguyện vọng, và trong cáo thân ghi rõ chức vị của anh em, đặc biệt ưu đãi hơn thường lệ.”
Chiếu đều theo lời tâu.
(Theo 《Hội yếu》, Hạo bàn về phép định thụy và việc phong tặng đều vào tháng 10 năm thứ 5. Nay đều theo 《Thực lục》, vì lời bàn của Hạo trước đã gửi xuống Lễ viện, đến lúc này, Lễ viện xin thi hành theo yêu cầu[5].)
[18] Giáng chức Nội viên phó sứ Vương Thế Dung làm Nội điện thừa chế, giám thuế ở Quắc Châu. Trước đây, con gái của Thế Dung gả cho Đông đầu cung phụng quan Thừa Hủ, nhưng hai người không hòa thuận. Thế Dung mượn cớ vợ ốm, tâu xin chiếu chỉ cho Thừa Hủ đến nhà mình, rồi say rượu, cùng hai con đánh Thừa Hủ. Pháp tự bàn rằng Thế Dung dâng thư gian dối, nên bị truất quan và cách chức. Vua đặc cách khoan hồng tội của ông, nhưng cũng bắt Thừa Hủ phải tham gia triều hội.
Thừa Hủ là con của Đức Quân; Thế Dung là con của Thừa Diễn.
[19] Ngày Giáp Mậu, ban chiếu cho tri huyện Kinh Dương thuộc Vĩnh Hưng quân kiêm quản câu Tam Bạch Cừ. Trước đó, Đô quan viên ngoại lang, giám thuế rượu ở trấn Chính Dương là Lý Đồng, tâu rằng nên đặt quy ước hạn chế nước ở Tam Bạch Cừ. Nhân đó, bổ nhiệm tri huyện, và có mệnh lệnh này.
[20] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu cho Thượng ngự dược, Cung phụng Lam Nguyên Dụng, Trương Hoài Đức, La Sùng Huân đều bãi chức Cung phụng, làm Thượng ngự dược.
[21] Ngày Mậu Dần, Vua nói với các phụ thần: “Ở Đăng Châu khai thác vàng, mỗi năm tăng thêm vài nghìn lạng, nên ban chiếu khen ngợi các quan lại đó.” Vương Tăng đáp: “Khai thác vàng nhiều thì nông dân đều bỏ nghề mà đuổi theo lợi, không nên khuyến khích thêm.” Vua nói: “Đúng như lời khanh nói. Nhưng quan lại chăm chỉ làm việc, cũng không thể không khuyến khích.”
[22] Ngày Canh Thìn, gió lớn, trời tối sầm.
[23] Khả hãn Bảo Quốc Dạ Lạc Cách của Cam Châu sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.
[24] Ngày Nhâm Ngọ, Công bộ thượng thư, Bình chương sự Trương Tri Bạch qua đời.
Tri Bạch giữ chức tể tướng, quý trọng danh vị, không có chút tư lợi nào. Ông thường lấy sự đầy đủ làm điều răn, dù hiển quý nhưng vẫn giản dị như một kẻ sĩ nghèo. Tuy nhiên, thể chất vốn yếu, lo sợ ngày càng tăng.
Khi ở Trung thư, ông đột nhiên bị chóng mặt, được đưa về nhà. Hoàng đế thân hành đến thăm, nhưng ông đã không thể nói được, rồi qua đời. Hoàng đế bãi bỏ yến tiệc, truy tặng ông làm Thái phó, Trung thư lệnh, Thái hậu cũng đến viếng. Gia đình ông từ chối tang lễ do nghèo khó, nhưng triều đình ra chiếu cấp đủ đồ tang lễ. Hoàng đế còn dụ Vương Tăng cùng các quan chăm lo gia đình ông.
Lễ quan Tạ Ráng đề nghị thụy hiệu là Văn Tiết, nhưng Ngự sử Vương Gia Ngôn cho rằng Ráng chỉ vì thấy xa giá đến thăm, chứng kiến nơi ở đơn sơ của ông mà cảm động, nên dẫn chuyện liêm khiết để đặt thụy hiệu, nhưng lại bỏ qua những điều lớn lao. Ông cho rằng Tri Bạch giữ đạo, tận tụy công việc, làm quan không khuất phục, xứng đáng được thụy hiệu Văn Chính. Vương Tăng nói: “Văn Tiết là thụy hiệu tốt rồi.” Nên không thay đổi.
Gia Ngôn là con của Vũ Xứng.
Có người nói Tri Bạch thân thiết với Ngu bộ viên ngoại lang Dương Thù. Khi Thù từ Tây Xuyên trở về, Tri Bạch muốn Thẩm quan trước tiên bổ nhiệm ông ta, nhưng Vương Tăng không đồng ý, nói: “Các chức vụ đều có thứ tự, sao Thù lại được ưu tiên?”
Không lâu sau, Vương Tăng vì bệnh xin nghỉ, Tham tri chính sự Lỗ Tông Đạo hiểu ý Tri Bạch, đề nghị bổ nhiệm Thù trước, Tri Bạch vui vẻ đồng ý. Sau đó, Tông Đạo lại tâu lên hoàng đế việc này, Tri Bạch kinh ngạc, tự trách mình, xin lỗi Vương Tăng, rồi buồn bã, vài tháng sau qua đời. Vì thế, Tri Bạch không ưa Tông Đạo, thường nói với mọi người: “Trong Thuyên tào, chọn một người kém cỏi nhất, trong quân tuần ngục, tìm một kẻ vô hạnh nhất, cũng hơn người này[6].”
(Việc bổ nhiệm Dương Thù trước, căn cứ vào 《Vương Tử Dung ngôn hành lục》. Việc ghét Lỗ Tông Đạo, căn cứ vào 《Tử Dung bách nhất biên》. Tuy nhiên, Tri Bạch vốn được coi là tể tướng hiền tài, Tông Đạo cũng có tiếng thẳng thắn, e rằng chưa chắc đã như vậy. Cần tham khảo thêm.)
[25] Ngày Bính Tuất, ban chiếu cho các binh sĩ vận chuyển muối và lương thực ở Giang Hoài mỗi năm được thay phiên một lần, mỗi năm đến tháng 11 thì cho về doanh trại, đến mùa xuân lại trở lại như cũ.
[26] Ngày Đinh Hợi, Địch Phỉ, chuyển vận sứ của Ích Châu lộ, tâu rằng Nhã Châu là vùng đất hẻo lánh, xin theo lệ của ba châu Duy, Mậu, Lê, cử người làm tri huyện trong lộ này làm tri châu. Vua đồng ý.
(Việc này xảy ra vào tháng 6 năm ngoái).
[27] Ngày Tân Mão, Vua dụ với Tam Ty rằng: “Chùa Thái Bình Hưng Quốc do Thái Tông xây dựng, đã lâu năm nên hư hỏng. Hãy dùng tiền minh và y phục của các tăng nhân đã mất từ các chùa tháp để tu sửa lại.”
[28] Ở Khai Phong, nhà giàu họ Trần giết người làm thuê rồi vu cho là tự tử. Khi việc bị phát giác, hắn bỏ trốn không bắt được. Phán quan, Thị ngự sử Lý Ứng Ngôn chỉ ra rằng hắn cậy thế cường hào kết thân với quyền thế, xin nghiêm ngặt truy bắt. Ngày Nhâm Thìn, Lý Ứng Ngôn được điều ra làm tri Hà Dương, việc này bèn bị chậm trễ. Ứng Ngôn sau đó được điều đến Thọ Châu.
(Tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 3, Lý Ứng Ngôn có phụ truyền nhưng không ghi rõ quê quán).
[29] Khang Hiếu Cơ, Ký thất tham quân của Định Vương phủ, Hình bộ lang trung, tâu rằng các quan lại trong cung trước sau đều được kiêm nhiệm chức vụ trong quán, xin xét lại điển cố, để được vào chốn sâu kín.
(Sự việc này ghi trong 《Hội yếu》 ngày 26 tháng 2 năm thứ 6, nhưng 《Thực lục》 không chép việc Hiếu Cơ tự tâu).
[30] Ngày Quý Tỵ, sai Tri chế cáo Từ Thích, Long đồ các đãi chế Khổng Đạo Phụ xóa bỏ các khoản nợ còn thiếu trong ba tháng.
[31] Ban chiếu rằng trong các ngày lễ Càn Nguyên, Trường Ninh, cấm xử tử tội nhân hai ngày trước và sau, các tội khác chỉ tạm ngừng trong ngày chính lễ.
[32] Ngày Giáp Ngọ, Hùng Châu tâu: “Vợ của dân họ Trương không có người thừa kế, ruộng đất theo pháp nên chia một phần ba cho con gái đã xuất giá, hai phần ba còn lại tuy có cháu trai cùng ở nhưng giá trị ước tính hơn một vạn quan tiền, xin tâu lên để nghe quyết định.”
Vua nói: “Đây đều là của cải mà dân biên hộ tự làm ra hàng ngày, không nên tịch thu, hãy chia đều cho họ.” Tể tướng Vương Tằng, Tham tri chính sự Lữ Di Giản, Lỗ Tông Đạo đều khen ngợi rằng: “Không phải là bậc chí nhân thì sao được như vậy!”
[33] Ngày Bính Thân đầu tháng 3, có nhật thực.
[34] Ngày Tân Sửu, ban chiếu miễn thuế qua đò cho dân ở Thiểm Tây, Hà Bắc, Kinh Tây bị thiên tai và lưu lạc.
[35] Ngày Nhâm Dần, triệu tập các phụ thần đến dãy phía tây điện Sùng Chính, xem Thị giảng Tôn Thích giảng sách 《Thượng Thư》.
[36] Ngày Mậu Thân, Thái hậu đến nhà của Lưu Mỹ, người được tặng chức Thị trung. Tả Ty gián Lưu Tùy dâng sớ khuyên can, Thái hậu nghe theo lời ông, từ đó không đến nữa.
(Việc này căn cứ theo bài minh văn trên mộ của Lưu Tùy do Tống Kỳ soạn. Có truyền rằng Thái hậu không nên thường xuyên đến nhà ngoại thích, e rằng sai, nay sửa lại.)
[37] Ngày Kỷ Dậu, Kinh Tây Chuyển vận sứ Dương Kiều tâu: “Cầu phao ở Châu Thiền dùng 49 chiếc thuyền, từ Châu Ôn đi qua hơn 20 đập và đê ở Lương, phải mất hai đến ba năm mới đến được Châu Thiền. Xin từ nay đốn gỗ ở các châu Tần, Lũng, Đồng, lấy sắt và vôi ở các châu Từ, Tương[7], đóng thuyền ngay tại châu đó.” Triều đình nghe theo.
Dương Kiều là con của Dương Lệ.
[38] Ngày Tân Hợi, ra chiếu rằng hàng năm điều động dân đinh các châu Vận, Tào, Bộc để tu sửa đê sông ở Châu Thiền, gây trở ngại cho nông nghiệp, từ nay phát lính các châu lân cận thay thế.
[39] Lại ra chiếu cho Ty An phủ vùng biên giới phía bắc rằng, những người Khiết Đan quy thuận từng nhận chức quan ngụy thì không được lưu lại.
[40] Truy phong hiệu Xung Tĩnh Tiên sinh cho xử sĩ Giang Nam là Sử Hư Bạch. Hư Bạch có tiết tháo cao thượng, giỏi văn chương, thời loạn lạc Ngũ Đại, ông ẩn cư trong núi, họ Lý nhiều lần mời mà không ra. Đến lúc này, cháu ông là Ôn Kỷ, chức Viên ngoại lang bộ Ngu, dâng tập văn của Hư Bạch lên triều đình, nên đặc cách truy tặng.
[41] Sau khi Trương Tri Bạch qua đời, Vua bàn bạc về người thay thế. Tể tướng Vương Tăng tiến cử Lữ Di Giản, Xu mật sứ Tào Lợi Dụng tiến cử Trương Sĩ Tốn.
Thái hậu thấy Sĩ Tốn địa vị cao hơn Di Giản, muốn dùng ông. Vương Tăng nói rằng chọn phụ tướng nên dựa vào tài năng, không nên xét địa vị, Thái hậu đồng ý dùng Di Giản. Di Giản nhân việc tâu bày, nói rằng Sĩ Tốn từ lâu đã phụng sự Vua ở Thọ Xuân phủ, lại có đức độ thuần hậu, xin được ưu tiên dùng ông. Thái hậu khen ngợi sự khiêm nhường của Di Giản.
Ngày Nhâm Tý, Xu mật phó sứ Trương Sĩ Tốn được phong làm Lễ bộ Thượng thư, Bình chương sự, theo lời của Tào Lợi Dụng.
Vương Tăng được thăng Lại bộ Thượng thư; Tào Lợi Dụng được thăng Bảo Bình Tiết độ sứ, tiến phong Vận Quốc công; Trương Kỳ đổi làm Thái Ninh Tiết độ sứ, phong Kỳ Quốc công; Tham tri chính sự Lữ Di Giản được thăng Hộ bộ Thị lang; Lỗ Tông Đạo được thăng Lễ bộ Thị lang; Xu mật phó sứ Hạ Tủng được thăng Cấp sự trung.
(Việc Vương Tăng và Tào Lợi Dụng tiến cử tướng được ghi trong 《Giang thị tạp chí》.
Lại theo 《Phùng thị Ngự sử đài ký》: Sau khi Trương Tri Bạch qua đời hơn một tháng, Vương Tăng ở lại triều đình bàn việc chọn tướng, Thái hậu muốn dùng Trương Sĩ Tốn, và nói rằng Sĩ Tốn địa vị cao hơn Di Giản. Vương Tăng nói: “Chọn tướng nên dựa vào tài năng, không nên xét địa vị.” Thái hậu đồng ý dùng Di Giản. Tối hôm đó, hai phủ lại tâu việc, Di Giản nhân đó ở lại triều đình nhường cho Sĩ Tốn, cuối cùng Thái hậu phong Sĩ Tốn làm tướng. Nay tham khảo cả hai sách.)
[42] Ngày Quý Sửu, phong Hữu Gián nghị đại phu, Tri Vĩnh Hưng quân Khương Tuân làm Xu mật phó sứ. Tuân giỏi về công việc quan lại, cai trị nghiêm khắc, giết hại nhiều người, đương thời gọi ông là “Khương Sát Tử”. Thái hậu sai nội thị Tăng Kế Sân đến Vĩnh Hưng quân xây chùa, Tuân theo ý Thái hậu, phá hủy các bia đá thời Hán, Đường để thay gạch ngói, lại giúp Kế Sân tự mình đốc thúc việc xây dựng. Sau khi hoàn thành, ông được triệu về triều. Kế Sân sau đó chết tại nơi xây tháp, người đời cho rằng quỷ thần trừng phạt.
[43] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu rằng các Điện thị phạm tội trượng khi áp tải trên sông, lệnh cho Chuyển vận ty và Phát vận ty xét xử theo quy định dành cho tướng lĩnh ba quân.
[44] Ngày Mậu Ngọ, lấy 8 người đỗ kỳ thi thân, ngôn, thư, phán là Chưởng Vũ Tích và những người khác làm quan kinh đô, còn 64 người còn lại đều được thăng chức theo lệ cũ. Vũ Tích là người huyện Yển Thành.
[45] Ngày Kỷ Mùi, Long Đồ các Trực học sĩ, Hữu Gián nghị đại phu, Quyền Tam ty sứ công sự Phạm Ung được bổ nhiệm làm Xu mật phó sứ, vẫn xếp trên Khương Tuân.
[46] Ngày Tân Dậu, lấy Xu mật trực học sĩ, Hữu Gián nghị đại phu, Tri Ích châu Tiết Khuê làm Long Đồ các Trực học sĩ, Quyền Tam ty sứ công sự; Hữu Gián nghị đại phu, Quyền Ngự sử trung thừa Trình Lâm làm Xu mật trực học sĩ, Tri Ích châu.
Hằng năm, Thành Đô mua hàng chục vạn tấm vải lụa để cung cấp cho quân đội Tần, Lũng[8], quan lại thường lén bớt xén làm việc gian dối. Khuê ra lệnh cho dân tự bảo lãnh lẫn nhau, ứng trước tiền mua, đến kỳ hạn thì nộp cho quan, dân thấy tiện lợi.
Có người đào đất được ấn trung thư thời Ngụy Thục, để trong túi gấm, đêm treo ở cửa tây thành, người giữ cổng sáng lấy trình báo, người xem theo có đến hàng vạn, đều xôn xao cho là việc lạ. Khuê bảo quan coi kho cất đi, không thèm xem.
Có người đàn bà kiện con bất hiếu, tra hỏi thì nói: “Nhà nghèo không có gì nuôi mẹ.” Khuê lấy bổng lộc của mình cho, răn rằng: “Nếu còn bất hiếu, ta sẽ không tha cho ngươi nữa.” Mẹ con họ từ đó sống hòa thuận như xưa[9].
Đêm Thượng nguyên thắp đèn, cùng thuộc hạ dự tiệc ở chùa, có lính canh giết người ở chợ, người chợ đều chạy tán loạn, Khuê bí mật sai bắt giết đi, khách ngồi không ai biết. Ông xử lý công việc cẩn trọng, quyết đoán, phần nhiều như vậy.
[47] Ngày Nhâm Tuất, Vua hạ chiếu xây dựng cung Tây Thái Nhất ở trấn Bát Giác ngoài cửa Thuận Thiên. Ty Thiên tâu rằng Ngũ Phúc Thái Nhất đang ở cung Hoàng Thất thuộc phân dã Ngô, Việt, đã 45 năm, nay nên từ cung Hoàng Thất chuyển đến cung Hoàng Đình thuộc phân dã Lương, Thục.
[48] Tháng 4 mùa hạ, ngày Bính Dần, mùng một, Vua hạ chiếu xét lại hình án. Vua bảo các đại thần: “Trời lâu không mưa. Hình ngục trong thiên hạ, có lẽ có oan khuất! Các khanh không thể không xem xét.”
[49] Ngày Mậu Thìn, Vua hạ chiếu cho các cơ quan Thẩm quan, Tam ban viện, Lại bộ Lưu nội tuyển, Quân đầu ty, mỗi nơi dẫn đối công việc. Từ khi Vua còn là Thái tử, các đại thần tham quyết việc các ty ở đường Tư Thiện, đến nay mới trả lại cho các ty.
[50] Ngày Canh Ngọ, Vua hạ chiếu: “Những người được xét duyệt ở Thẩm quan, Tam ban viện, Lại bộ Lưu nội tuyển, phải nộp trước một ngày bản kê khai công tội trong các nhiệm kỳ, đợi khi được phê duyệt, mới được dẫn đối ở điện Sùng Chính. Lại lệnh cho quan chủ phán xem xét kỹ, nếu có việc cần tâu lại, phải tâu trước để nghe quyết định.”
[51] Lý Tự, quyền trại chủ châu Thất Nguyên thuộc Ung Châu, chức Tam ban tá chức, tử trận khi giao chiến với Giao Chỉ, con trai ông là Lý Hòa được bổ làm Tam ban tá chức. Lý Công Uẩn tuy đã cử Lý Công Hiển đến cống nạp, nhưng lại sai con em và rể là Thân Thừa Quý đem quân xâm lấn.
[52] Ngày Nhâm Thân, Lý Tuân Miễn, Tri châu Thiền Châu, Tuyên Châu Quan sát sứ, Phò mã đô úy, từ chức, Vua đặt tiệc ở điện Trường Xuân. Theo lệ cũ, Quan sát sứ từ chức không đặt tiệc, đây là đặc ân.
[53] Vua hạ chiếu cho những người Hà Bắc ở biên giới trước đây bị rơi vào tay giặc nay trở về, được cấp tiền để trở về quê cũ.
[54] Ngày Bính Tý, Khiết Đan cử An Đông quân Tiết độ sứ Gia Luật Tích, Lợi Châu Quan sát sứ Lưu Song Mỹ đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.
[55] Ngày Đinh Sửu, Vua cử Khai Phong phủ Suy quan Giám sát ngự sử Vương Duyên, Tả thị cấm Cáp môn chi hậu Quách Lập đến các châu quân bị thiên tai ở Hà Bắc để thăm hỏi an ủi. Hạ sắc bảng miễn thuế ruộng năm nay cho những hộ bỏ trốn nay trở về, quan phát giống và lương thực, huyện hương không được quấy nhiễu. Dân các châu Hình, Triệu, Thương, Doanh, Hoài, Vệ bị đói kém nghiêm trọng, cần phát kho cứu tế ngay.
[56] Ngày Mậu Dần, xuống chiếu cho các tân binh cung thủ mới được tuyển ở Vị Châu và Trấn Nhung Quân xăm hình lên mu bàn tay trái để phân biệt, đồng thời cấp ruộng trong hào mới đào, thuế ruộng thu được hàng năm chia đôi, một nửa cho họ, còn lại sung vào công quỹ địa phương.
Lại xuống chiếu cho các chỉ huy Phiên Lạc ở Trấn Nhung Quân và Nguyên Vị Châu, gần đây được thăng làm cấm quân, theo lệ của quân Quảng Nhuệ và Kính Dũng, quan phủ cấp tiền mua ngựa.
(Đoạn này chỉ cần ghi việc xăm mu bàn tay, có lẽ là sự việc bắt đầu. Nếu không, có thể bỏ hết.)
[57] Ngày Canh Thìn, miễn tiền muối ăn cho dân châu Lộ.
[58] Tách đê Trương Thu ở châu Vận làm bãi Ba trăm bước, tăng thêm một viên sứ thần tuần hộ. Ba trăm bước (Tam bách bộ) là tên địa danh.
[59] Ngày Quý Mùi, sai Long Đồ các đãi chế Yến Túc và Trực sử quán Khang Hiếu Cơ cùng bàn việc miễn giảm các vật phẩm cung nạp hàng năm do Tam Ty đánh thuế. Phàm các vật dụng hàng năm ở kinh đô, Tam Ty căn cứ vào số lượng dự trữ trong kho mà định mức cho các lộ, các lộ xem xét phong thổ và tình hình dân sinh mà thu mua, gọi là khoa suất. Các lộ có chi tiêu không dự trữ trước cũng khoa suất từ dân. Nhưng việc dùng có cấp bách hay không, vật phẩm có nhẹ hay nặng, nên những thứ cần dùng ở trên, nhẹ lại thành nặng, rẻ lại thành đắt, dân chúng bị thiệt hại. Yến Túc nhận mệnh, tâu rằng kho tàng ở kinh đô dự trữ đủ dùng trong hai năm, xin đừng thu mua nữa, chiếu theo lời tâu. Sau đó trong chiếu xá cũng nhắc đến việc này.
(Việc đừng thu mua nữa xảy ra vào ngày Ất Mùi tháng 9, nay chép chung vào đây.)
[60] Ngày Giáp Thân, buổi sáng có ngôi sao lớn như cái đấu, từ phía bắc bay về tây nam, ánh sáng chiếu vào sân điện, tiếng như sấm, đuôi dài mấy trượng, một lúc sau tan thành mây trắng xanh.
[61] Ngày Ất Dậu, Diêm thiết phán quan, Thái thường bác sĩ, Trực sử quán Tiêu Quán làm Kinh Đông chuyển vận sứ. Bấy giờ có Đề cử tróc tặc Lưu Thuấn Khanh, giỏi bắt trộm cướp, hiệu là “Lưu Thiết Đạn”, cậy công làm càn. Trước sau sợ hắn hung hãn, không ai dám trị tội. Tiêu Quán đến, vạch tội, cách chức làm dân.
[62] Ngày Bính Tuất, đổi chức mới của Hồ Tắc, người vừa được bổ nhiệm làm Tri quân Vĩnh Hưng, thành chức Thiểm Tây đô chuyển vận sứ. Lưu Bình, Kinh Nguyên lộ kiềm hạt kiêm Tri châu Vị, tự tâu rằng: “Tắc là đồ đảng của Đinh Vị. Thần với Vị có hiềm khích, nay lại thuộc bộ của Tắc, e rằng sẽ bị bới móc để gây tội.” Triều đình ra chiếu chuyển Lưu Bình làm Tri châu Nhữ, nhưng rốt cuộc Hồ Tắc cũng không đến Thiểm Tây nhậm chức.
[63] Ngày Mậu Tý, vì có biến động về sao, triều đình sai các phụ thần chia nhau đến các chùa miếu để cầu đảo.
[64] Ngày Canh Dần, ban đức ân vì biến động sao, nhà Vua trai giới không coi chính sự trong năm ngày, giảm án tử hình cho tù nhân trong kinh kỳ, tha tội cho những người bị lưu đày trở xuống, đình chỉ các công trình xây dựng, cứu tế dân lưu tán từ Hà Bắc đi qua kinh sư.
[65] Lúc đó, triều đình sai tăng đạo làm lễ cầu đảo ở điện Văn Đức. Điện trung thị ngự sử Lý Hoành tâu rằng: “Điện Văn Đức là nơi bố cáo chính sự và họp triều, mỗi khi có tai dị lại tụ tập tăng đạo tụng niệm ở đó, làm sao để tỏ rõ với trong ngoài?”
[66] Hữu ty gián Lưu Tùy nhân biến động sao tâu rằng: “Quốc gia có nhiều chi nhánh, nhưng ngoài Định Vương, việc phong tước vẫn chưa được thực hiện. Mong chọn người hiền, theo lệ cũ nhà Đường, mở rộng việc phong tước cho các vương tự và quận vương, để ứng với ý của tổ tông.”
[67] Giám sát ngự sử Cúc Vịnh dâng lên năm việc ứng phó với biến động, lại tâu rằng Thái tử thiếu bảo trí sĩ Triều Huýnh tuy già nhưng có khí phách và kiến thức, nên được vời đến đối đáp, chắc chắn sẽ có ích.
[68] Tháng 5, ngày Bính Ngọ, huyện úy Chu Chất là Tôn Chu Hán bị đánh bằng gậy vào lưng và đày đi Lao thành Quảng Nam, vì tội đánh chết người khi mua bán.
[69] Ngày Đinh Mùi, ra chiếu tạm ngừng việc thi cử.
[70] Ngày Canh Tuất, ra chiếu các châu Ôn, Đỉnh, Quảng hàng năm cống cam, không được lấy danh nghĩa cống dư để biếu xén cho các cận thần. Ban đầu, Vương Tăng tâu với Vua, xin bãi bỏ việc cống dư. Vua nói: “Cống đã là vất vả, huống chi là cống dư.” Lập tức ra lệnh bãi bỏ.
[71] Xu mật phó sứ Khương Tuân tâu: “Dân Hàm Dương là Nguyên Thủ Lượng hàng năm cống lê, triều đình ban thưởng thường gấp đôi giá trị. Họ Nguyên vốn là hào phú, thường ỷ thế này khoe khoang trong làng, nhân đó ức hiếp kẻ yếu, xin bãi bỏ việc tiến cống.” Vua nói: “Trẫm không biết Thủ Lượng dám ỷ thế mà ngang ngược như vậy.” Ngày Tân Hợi, xuống chiếu bãi bỏ. Khương Tuân từ Trường An vào Xu phủ, mới tâu việc này.
(Bản truyện chép việc này trước khi được triệu dụng, là sai. Nay theo 《Thực lục》 và 《Bảo huấn》.)
[72] Tặng Lễ bộ Thượng thư, thụy An Huệ, Chu Khởi mất.
[73] Ngày Nhâm Tý, Tri Thanh Châu Lý Địch xin lấy Thái Ninh tiết độ suy quan Lưu Nhan làm Thanh Châu quan sát suy quan, Vua đồng ý.
[74] Ngày Ất Mão, Hà Bắc, Kinh Đông có nạn châu chấu.
[75] Ngày Đinh Tỵ, lấy Xu mật trực học sĩ, Công bộ Thị lang Lý Cập làm Ngự sử Trung thừa.
Lúc đó Lý Cập đang làm Tri Hà Nam, được triệu về kinh bổ nhiệm. Đỗ Diễn làm Đề điểm Kinh Tây lộ hình ngục, Lý Cập cùng Đỗ Diễn hội họp, bày tiệc rất đơn sơ. Một hôm, có vị trung quý nhân đang nắm quyền đến, cũng không tăng thêm món gì, Đỗ Diễn cảm thán về đức thanh liêm của ông.
Vợ Lý Cập là Trương thị, tính tình hung dữ hay ghen. Lý Cập từng sinh con, gửi nuôi ở ngoài, Trương thị nhất định xin được nuôi dưỡng. Một hôm, họp mặt thân thuộc, bà ta đem đứa con đập vào cột nhà, vỡ đầu chết, Lý Cập từ đó không có con.
(《Ký văn》 chép: Khi Chương Hiến thái hậu nhiếp chính, Nội thị tỉnh Đô tri Giang Đức Nguyên quyền thế lấn át thiên hạ. Em ông ta là Đức Minh đi sứ qua Hàng Châu, lúc đó Lý Cập làm Tri Hàng Châu, đối đãi y như thường lệ với các sứ giả trung nhân, không tăng thêm gì. Các thuộc hạ đều nói: “Anh của sứ giả Giang đang nắm quyền trong triều, hiện nay không ai sánh bằng, làm cho đại thần được vinh hay bị họa chỉ trong chốc lát. Mà sứ giả tinh nhuệ cũng chẳng kém ai, minh công đối đãi không tăng lễ, chẳng lẽ minh công không cầu phúc, lại chẳng sợ họa sao?” Lý Cập nói: “Ta đối đãi sứ giả Giang không dám khinh thường, cũng không dám quá đáng, như thế là đủ, cần gì thêm nữa!”
Sau đó Đức Minh bảo thuộc hạ của Lý Cập: “Lý công tuổi đã cao, sao không xin một châu nhỏ để an thân, lại cứ ở mãi nơi Hàng Châu nhiều việc phức tạp, làm sao xoay xở nổi?” Thuộc hạ chạy về báo với Lý Cập: “Quả nhiên! Lời sứ giả rất đáng lo.” Lý Cập cười nói: “Ta già rồi, nếu được châu nhỏ để nhàn nhã, có hại gì đâu.” Vẫn đối đãi như trước, không thêm gì. Sau đó Đức Minh cũng không làm hại được, người đương thời đều khen phẩm hạnh của ông. Xét Lý Cập nhậm chức Tri Hàng Châu vào tháng 3 năm Càn Hưng nguyên niên, tháng 9 năm Thiên Thánh nguyên niên dời về Nam Kinh, ở Hàng Châu chỉ hơn một năm, không thể nói là lâu, đây là nhầm lẫn. Nay không chép.)
[76] Xu mật viện xin chọn những người biết chữ trong các ban để bổ sung vào chỗ thiếu của quan lại biên giới, được mười người gồm Nội điện trực, Đô tri Nhậm Nghi. Ngày Kỷ Mùi, phong Nhậm Nghi làm Tác phường phó sứ, những người còn lại đều được thăng chức một cách ưu ái.
[77] Quảng Nam Tây lộ chuyển vận sứ tâu rằng, Giao Chỉ xâm lược, đã lệnh cho Đô đồng tuần kiểm dẫn quân và huy động dân đinh các động truy bắt những hộ khẩu bị cướp. Chiếu chỉ nếu không trả lại hết những người bị cướp, thì sẽ cùng với Tri châu Ung Châu hội quân đánh dẹp. Lúc đó, Văn Tư sứ Tiêu Thủ Tiết làm Tri châu Ung Châu, sai người vào Giao Chỉ, giảng rõ lợi hại, Lý Công Uẩn dâng biểu tạ tội.
(Việc của Thủ Tiết được ghi chép kèm theo.)
[78] Ban cho Quang lộc tự thừa, Tập hiền hiệu lý Lý Thục học vị Tiến sĩ cập đệ. Lúc đó, Thục tham gia biên soạn sử, các quan cùng biên soạn là Lưu Quân v.v. dâng tấu rằng Thục vốn có tài văn chương, được đương thời khen là tài giỏi. Triệu tập thi ở Học sĩ viện, bài sách luận rất xuất sắc, nên có mệnh lệnh này.
[79] Tháng 6, ngày Bính Dần, miễn thuế tiền lúa ở các châu Nhung, Lô v.v.
[80] Hùng Văn Nhã, huyện lệnh mới của huyện Phần Tây, tâu rằng cha là huyện úy huyện Vĩnh Xương Khả Tắc trước đây hy sinh vì việc nước, xin nộp lại chức huyện lệnh được bổ nhiệm để truy tặng. Ngày Đinh Mão, truy tặng Khả Tắc làm Đại Lý tự thừa, Văn Nhã vẫn giữ chức huyện lệnh như cũ.
[81] Ban tiền cho binh lính làm việc tu sửa thành trại Bình Xuyên ở châu Diên.
[82] Ngày Mậu Thìn, lấy Dương Tòng Giản, chủ bạ giả của huyện Ốc Dã thuộc Khiết Đan, làm chủ bạ huyện Bắc Hải. Tòng Giản người An Đức, từng đỗ Minh Kinh, sau đó cùng mẹ bị Khiết Đan bắt, đỗ Tiến sĩ. Đến đây, đem cả gia đình về nước, cha vẫn còn sống, Vua thương tình mà thu dụng.
[83] Sài Quý, thứ sử châu Quắc thời Chu, là em của Thế Tông, cháu là Sài Túc tự xin làm quan, Vua hỏi Vương Tăng: “Túc có thật là hậu duệ của họ Sài không?” Tăng đáp: “Xem tờ cáo thân của Quý thì đúng là vậy.” Vua nói: “Thế Tông mở mang bờ cõi, vì nước ta, hậu duệ của ngài sao có thể quên được!” Bèn phong làm Tam ban phụng chức.
(Sách《Bảo Huấn》 vừa có tên Túc, lại có tên Nguyên Hanh, nay chỉ theo 《Thực Lục》 ghi tên Túc, cần xem xét thêm.)
[84] Phòng ngự sứ Ninh Châu là Lý Doãn Tắc mất. Doãn Tắc từ Hùng Châu dời đến trấn nhậm, rồi từ trấn nhậm dời đến Lộ Châu, ở Hà Bắc trước sau hơn 20 năm, lập nhiều công lao nhất. Những phương lược và thiết chế của ông, tuy được thể hiện qua các cuộc du ngoạn, đình truyền, nhưng người đời sau cũng không dám phá hủy. Đến việc qua lại quốc thư, chi phí và nghi thức, phần lớn đều do ông quyết định. Những năm cuối đời, ông sống ở kinh thành, người Hán từ Khiết Đan trốn về đều được lệnh ở nhờ nhà Doãn Tắc. Sau khi Doãn Tắc mất, họ mới được ở tại doanh trại của đại trình quan Viện Xu mật.
[85] Ngày Giáp Tuất, ban áo cho lính phòng thủ sông, từ đó về sau lấy đó làm lệ thường.
(“Lấy đó làm lệ thường”, theo bản chí.)
[86] Ngày Kỷ Mão, Ty Chuyển vận Quảng Tây tâu rằng: Tiết độ sứ Tĩnh Hải, Đồng bình chương sự, An Nam đô hộ, Nam Bình vương Lý Công Uẩn mất, các con tranh nhau kế vị, xin tăng cường binh bị ở ba châu Ung, Khâm, Quảng. Chiếu cho Tuần kiểm, Đô giám các châu Quế, Nghi… dẫn quân bản bộ phòng giữ ở biên giới gần đó, việc xong thì rút về.
[87] Ngày Ất Dậu, xuất 20 vạn quan tiền từ kho Nội tàng, giao cho Ty Chuyển vận Kinh Tây mua lương thực dự trữ quân sự.
[88] Ngày Đinh Hợi, lấy Thái thường thừa, Trực sử quán Mã Quý Lương làm Long đồ các Đãi chế. Trước đó, Thái hậu muốn thăng Quý Lương lên chức Thị tòng, Vương Tăng ngăn lại. Nhân lúc Tăng bệnh, Thái hậu dụ cho Trung thư, lệnh phải nhanh chóng ban chức, các quan chấp chính vâng mệnh vội vàng, nên Quý Lương chỉ được lấy chức Tam thừa sung Đãi chế, vì Tam thừa chưa từng được dự vào chức thanh nhàn trong nội các, triều luận xôn xao, càng thêm kính trọng sự giữ gìn đạo chính của Tăng.
[89] Ngày Kỷ Sửu, truy phục Thái thường thiếu khanh Thích Luân làm Tả gián nghị đại phu. Luân bị cách chức rồi mất vào niên hiệu Thiên Hi, con ông là Thuấn Cử dâng lên các tấu nghị của Luân lúc sinh thời, chiếu cho phục chức.
[90] Chiếu cho Quang Châu tạm đặt một viên Thông phán, vì võ thần Thạch Phổ làm Tri châu.
[91] Mùa thu, tháng 7, ngày Giáp Ngọ mùng một, Phó sứ Chế trí phát vận Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ là Trương Luân được lĩnh chức Chiêu Châu thứ sử, Tiền Chuyển vận sứ Hoài Nam, Chủ khách lang trung Hồ Lệnh Nghi làm Kim bộ lang trung. Đê biển đã hoàn thành, nên có mệnh lệnh này. Ngày Đinh Hợi tháng 8 năm thứ 4, bắt đầu tu sửa đê.
[92] Ngày Ất Mùi, ban chiếu cho Hàn Lâm Viện rằng từ nay những người làm việc trong ngành y học, nếu từng có lỗi lầm, phải đợi đến mười năm mới được thăng chức.
[93] Vương Duyên, chức Khai Phong phủ Thôi quan, Giám sát Ngự sử, được bổ nhiệm làm Phó sứ Chuyển vận Hà Bắc[10].
Vương Duyên dâng tấu rằng: “Triều đình ta chế định về binh pháp và hình luật, chưa được như thời cổ. Từ khi người phương Bắc thông hảo ba mươi năm nay, hai biên giới thường đóng quân trọng yếu, ngồi không hao tốn quốc khố, mà chưa biết cách xử lý. Xin hãy huấn luyện dân tráng Hà Bắc để thay thế cho lính cấm quân thiếu hụt, bãi bỏ việc chiêu mộ quân Sương, đưa những người thừa thãi vào làm đồn điền. Thực hiện trong vài năm, dần dần sẽ giảm bớt, và dân tráng sẽ trở thành tinh binh.
Thời xưa có câu ‘Hình phạt nước bình yên, dùng điển chương trung dung’, nhưng gần đây dùng chiếu chỉ xử tội, thường nặng hơn luật. Luật dùng giá lụa để thay thế[11], luật phạt cạo đầu và đeo gông, chiếu chỉ thì xăm mặt và đày làm lính. Gần đây các châu dâng tấu, lính bị đày quá nhiều, không đủ cơm áo, có đến hơn bảy mươi châu xin đừng đày nữa.
Theo luật, họ đều không đến mức đó, chỉ vì văn tự rườm rà mà bị xử lý. Thành thật mong bỏ bớt văn tự phức tạp mà dùng luật chính, dùng tiền định tội thì theo giá lụa, xăm mặt và đày làm lính thì chỉ đeo gông bên trái, đó chính là cách ‘thắng tàn khứ sát’, không cần đợi trăm năm.”
(Tấu này được ghi chép thêm, không nhất thiết phải là lúc mới nhận chức Chuyển vận, cần xem xét thêm.)
[94] Ngày Kỷ Hợi, Độ chi Phó sứ, Công bộ Lang trung Đường Túc được cử làm sứ sinh thần vợ Khiết Đan, Nội điện Thừa chế, Các môn Chỉ hầu Cát Hoài Mẫn làm phó.
[95] Ngày Ất Tỵ, lấy Hộ bộ phán quan, Tả ty gián Lưu Tùy làm Tri châu Tế Châu. Lưu Tùy khi đương chức gián quan, đã dâng nhiều tấu chương. Hoàng đế đã quen việc triều chính, nhưng Thái hậu vẫn chưu trả lại quyền chính, Lưu Tùy xin việc quân quốc thường vụ đều do Hoàng đế quyết định, Thái hậu không vui, nhân dịp Lưu Tùy xin ra ngoài, bèn sai đi nhậm chức.
[96] Ban tên cho trại mới đặt ở Bình Xuyên, Diên Châu là Thừa Bình.
[97] Nội viên sứ, Liên Châu thứ sử, Tri châu Đại Châu Lưu Văn Chất mất. Chiếu ban tặng hậu hĩ cho gia đình, bổ dụng ba con trai của ông: Lưu Hoán làm Tướng tác giám chủ bạ, Lưu Hộ làm Tam ban phụng chức, Lưu Tuấn làm Tá chức.
Lưu Văn Chất vốn là người thân cận giản dị, lại có cha chết vì việc nước, nên trước sau được ban thưởng khác với các tướng khác. Chân Tông từng hỏi về chuyện cũ ở Bảo Tắc, Lưu Văn Chất dâng lên năm bức thư của Tuyên Tổ và Thái Tổ ban cho, Hoàng đế cũng năm lần ban thư cho ông. Tuy nhiên, tính tình ông cương trực, thích phê bình chê trách, đối với người quyền quý không nhún nhường, nên không được trọng dụng.
(Điều này căn cứ theo chính truyền, chính truyền cũng tham khảo bài minh trên bia mộ của Lưu Văn Chất do Tô Thuấn Khâm soạn.)
[98] Ngày Nhâm Tý, các phủ Giang Ninh, châu Dương, Chân, Nhuận đều tâu rằng nước sông dâng cao, làm hư hại nhà cửa quan và dân.
[99] Ngày Giáp Dần, sai Độ chi phán quan, Thái thường bác sĩ, Trực sử quán Cao Tốc và Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Lưu Vĩnh Chứng làm sứ thể lượng an phủ vùng Giang, Hoài, Lưỡng Chiết. Những vật dụng quan bị hư hại do nước lũ, đều phải kê khai số lượng tâu lên, những gia đình bị chết đuối, từ ba người trở lên được cấp hai ngàn tiền, ít hơn thì được một nửa.
[100] Ngày Bính Thìn, lấy Hàn lâm học sĩ, kiêm Thị độc học sĩ Thái Tề làm Long đồ các học sĩ, Tri phủ Hà Nam. La Sùng Huân thúc giục Thái Tề dâng bài ký về việc tu sửa chùa Cảnh Đức, nói: “Có thể được chức Tham tri chính sự.” Thái Tề cố ý trì hoãn không dâng bài ký, La Sùng Huân tức giận, gièm pha với Thái hậu, khiến Thái Tề bị điều ra ngoài. Tham tri chính sự Lỗ Tông Đạo cố gắng xin giữ lại nhưng không được. Sau đó, vì cha mẹ già, Thái Tề được đổi đến Mật Châu. Thái hậu dụ các tể tướng lấy bài ký, Thái Tề mới dâng lên[12].
[101] Mệnh nội thị Thái Tề Khanh đến thăm hỏi các châu quân bị lũ lụt ở Giang, Hoài, Lưỡng Chiết, những gia đình binh lính bị chết đuối, không thể thu xếp được, quan phủ sẽ chôn cất giúp. Chiếu lệnh Cao Tốc và những người đi theo không được vui chơi, cũng không được để quan lại đón rước, gây thêm phiền nhiễu.
Lúc đó, Đỗ Diễn ở Dương Châu, lo liệu việc quân có công, người trong châu nhớ ơn. Sứ giả trở về, vào chầu, chưa kịp nói gì khác, Thái hậu hỏi: “Đỗ Diễn có khỏe không?” Sứ giả đáp rằng ông ấy trị sự tốt. Thái hậu than rằng: “Ta biết lâu rồi!”
[102] Ban cho Xu mật sứ Trương Kỳ một khu đất ở phường Thường Lạc.
[103] Ngày Tân Dậu, Giám sát ngự sử Vương Gia Ngôn tâu: “Dân châu Tín là Trình Thượng dâng hai vạn năm nghìn lạng bột đá xanh để giúp tu sửa Thiền viện Hộ Quốc ở kinh đô, nhờ đó được miễn lao dịch. Thần e rằng dân chúng khắp nơi sẽ tranh nhau dâng cống để được may mắn, dần dần không thể ngăn được.” Chiếu lệnh Trình Thượng chỉ được miễn dịch hai năm.
[104] Khai Phong phủ tâu: “Có dân tên Phùng Hoài Tín, từng phóng hỏa, vợ ông ta hết sức khuyên can. Một hôm, ông ta lại bảo vợ đi trộm trái cây nhà hàng xóm, vợ không nghe, ông ta dùng dao đe dọa, vợ sợ hãi, tố giác chồng. Theo luật, tố cáo chồng tội chết thì phải lưu đày, nhưng Hoài Tín lại được miễn tội cùng ngày.” Vua nói: “Đây há phải là tình người sao?” Bèn hạ chiếu đánh trượng Hoài Tín và đày đi Lao thành Quảng Nam, còn vợ ông ta thì được tha.
[105] Ngày Nhâm Tuất, Tri chế cáo Từ Thích tâu, xét định các khoản nợ của Tam ty, tổng cộng xóa hai trăm ba mươi sáu vạn.
[106] Tháng đó, châu Hùng và châu Bá bị lụt lớn.
[107] Mệnh Giá bộ viên ngoại lang Diêm Di Khánh đốc thúc việc nạo vét sông Quảng Tế.
(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 tháng bảy.)
[108] Tháng tám, ngày Quý Hợi mùng một, ban tiền cho binh lính tham gia tu sửa đê và thành trì ở Hà Bắc.
[109] Ngày Giáp Tý, bãi bỏ một chức Đồng phán ở châu Lễ.
[110] Ngày Ất Sửu, ban chiếu miễn thuế thu năm nay cho các châu quân bị lũ lụt ở Hà Bắc. Ban đầu, Vua nói với các đại thần: “Gần đây sai nội thị đi xem xét tình hình lũ lụt ở vùng biên giới, nghe nói có rồng chắn ở cửa biển, khiến nước dâng cao không thoát được, nên sai quan đến cúng tế.” Vương Tăng nói: “Các quận biên giới nhiều lần bị lũ lớn, đó là điềm báo trong 《Hồng Phạm》 về việc nước không chảy xuống. Cửa biển e rằng không phải do rồng chắn, nên giảm nhẹ thuế cho dân để đáp lại thiên tai.” Vì thế có chiếu này.
[111] Ngày Bính Dần, Phó sứ Hộ bộ, Viên ngoại lang Độ chi Vương Tông được cử làm An phủ sứ các châu quân bị lũ lụt ở vùng biên giới Hà Bắc, Lục trạch sứ, Thứ sử Khang châu Lưu Thừa Nhan làm phó. Những nơi nước ngập làm hại ruộng dân, lệnh mỗi ngày phải báo cáo tình hình tăng giảm. Dân di chuyển sang châu khác được miễn thuế qua đường. Các tù nhân, cho quan trưởng xét xử nhẹ. Quan lại tham bạo thì bị hặc tội.
[112] Ngày Kỷ Tỵ, Từ bộ Viên ngoại lang, Trực tập hiền viện Đinh Độ được bổ làm Chuyển vận sứ Kinh Tây.
[113] Ty Thiên tâu rằng ở Vĩnh Xương lăng có khí trắng, xin đổi xây để trừ điềm xấu. Vua sai Đinh Độ đi xem xét. Đinh Độ tâu rằng thần đạo quý ở sự yên tĩnh, việc lăng miếu là lớn, không thể nghe lời thầy pháp mà dễ dàng thay đổi, nên việc này dừng lại.
(Khí trắng ở Vĩnh Xương lăng e rằng có thời điểm riêng, nên việc này không cần ghi chép.)
[114] Đồn điền Viên ngoại lang Trần Quán làm Tri châu Kinh châu, đốc thúc bắt trộm cướp, cấm chỉ những kẻ bất hiếu, sổ sách kho tàng, thuế má đều tự kiểm tra. Ông thường nói với thuộc hạ: “Coi của công như của mình, thì làm sao có gian dối được?” Người trong châu sợ sự nghiêm khắc của ông. Sau đó, ông được điều làm Chuyển vận sứ Lộ Lợi châu. Gặp năm đói kém, ông tự lấy lúa ruộng chức để cứu đói, lại bảo các nhà giàu tính theo nhân khẩu mà đóng góp lúa, phát hết số dư, cứu sống được mấy vạn người. Chiếu thư khen ngợi.
[115] Thượng lại phong cho Điện trung thừa Trần Chấp Trung làm Hữu chánh ngôn. Ngày Nhâm Thân, lấy Chấp Trung làm Tri quân Hán Dương, vừa mới phục chức được năm ngày. Năm Thiên Hi, con rể của Tào Lợi Dụng là Lô Sĩ Luân được bổ làm Chuyển vận sứ Phúc Kiến, sợ đường xa không đi ngay, Lợi Dụng xin giúp, nên đổi làm Kinh Đông. Khi ấy, Chấp Trung đang giữ chức ngôn quan, từng hặc tấu việc này. Đến lúc này, Lợi Dụng đang nắm quyền, nói rằng Chấp Trung kinh nghiệm còn non, nên thử thách việc trị dân, bèn sai ra ngoài giữ chức.
[116] Ngày Giáp Tuất, bổ nhiệm Hoài Nam Giang Chiết Kinh Hồ Chế trí phát vận sứ, Văn Tư sứ, Chiêu Châu thứ sử Trương Luân làm Tri châu Tần.
Luân cuối năm Thiên Hi làm Phó phát vận sứ, lúc ấy thuế muối thiếu hụt đã mười năm, Luân bèn tâu xin miễn nợ cũ cho các hộ làm muối ở ba châu Thông, Thái, Sở, quan giúp dụng cụ, muối nộp vào được trả giá cao, nhờ đó mỗi năm tăng thu hàng chục vạn. Lại đặt trường muối ở ba châu Hàng, Tú, Hải, mỗi năm thu thêm ba trăm năm mươi vạn. Sau ba năm, tăng thêm tám mươi vạn thạch gạo cung nạp.
Ở Giang, Hoài hơn sáu năm, làm nhiều việc lợi dân trừ hại. Tính thích bố thí, thấy nhiều lính vận tải chết đói rét dọc đường, Luân than rằng: “Đây là lỗi của quan lại, không phải là cách thể hiện lòng nhân của bề trên.” Bèn dùng bổng lộc mua hàng nghìn chiếc áo bông, cấp cho những người không tự lo được.
[117] Ngày Ất Hợi, châu Thiền báo sông Hoàng Hà vỡ đê Vương Sở Tảo, rộng ba mươi bước.
(Sách 《Lý Đức Thập triều cương yếu》 chép: Huy động dân phu và lính đắp đê ngăn lại.)
[118] Ngày Đinh Sửu, Vua nước Tam Phật Tề là Thất Ly Điệp Hoa sai sứ là Bồ Áp Đà La Yết và Á Gia Lô đến cống phương vật. Theo chế độ cũ, sứ nước phiên vào cống, ban cho đai bạc mạ vàng, lúc này đặc cách ban đai vàng nguyên khối.
[119] Ngày Mậu Dần, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ kiêm Long đồ các học sĩ Lưu Quân được bổ nhiệm làm Long đồ các học sĩ tri Lư Châu. Lưu Quân ba lần vào Hàn lâm, trong lòng mong được vào hai phủ, nhưng khi làm thừa chỉ, ông không vui, thường cáo bệnh không ra ngoài. Có người đùa với ông rằng: “Uống thanh lương tán ắt sẽ khỏi.” Vì chỉ có hai phủ mới được dùng thanh lương tán.
[120] Trước đây, Lưu Quân từng làm tri Lư Châu, yêu mến vùng đất này, nên xây nhà trong thành, dựng các gác để cất giữ sách vở được ban tặng trước sau. Vua viết chữ phi bạch đề tên gác là “Chân Tông Thánh Văn Bí Phụng Chi Các”. Khi trở lại Lư Châu, ông liền lo việc xây mộ, làm quan tài, tự viết minh văn khắc lên. Ba năm sau, ông qua đời tại thư các.
Lưu Quân ban đầu được Dương Ức tiến cử, sau này nổi tiếng ngang hàng với Dương Ức, được gọi là “Dương Lưu”. Ông tính tình không dễ dãi, xử sự sáng suốt, việc trị dân nghiêm khắc nhưng giản dị. Tuy nhiên, về già, ông vì người họ Lưu giàu có ở Dương Trạch tâu xin ân huệ, nên bị dư luận chê trách.
[121] Xu mật trực học sĩ, Cấp sự trung Khấu Giam được cử làm sứ thần sang mừng sinh thần chúa Khiết Đan, Nội điện sùng ban, Cáp môn chi hậu Khang Đức Dư làm phó sứ; Điện trung thị ngự sử, Phán tam ty Khai sách ty Chu Gián làm sứ thần chánh đán, Cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Tào Vinh làm phó sứ; Khai Phong phủ phán quan, Điện trung thị ngự sử Trương Dật làm sứ thần chánh đán thê tử chúa Khiết Đan, Nội thị cấm, Cáp môn chi hậu Lưu Vĩnh, Lưu Chiêu làm phó sứ.
Tào Vinh đổi tên thành Anh. (Việc đổi tên này có lẽ là để kiêng húy Khiết Đan, cần xem xét thêm.)
[122] Ngày Giáp Thân, Vua hạ chiếu cho Tiền Duy Diễn cùng 55 người từ chức Ngự sử tri tạp trở xuống tiến cử mỗi người một người có tài võ nghệ, mưu lược, hiểu biết việc biên giới từ chức Điện trực trở lên. Những người chưa từng làm quan dân sự hoặc là thân thích của hai phủ, Tẩu mã thừa thụ, Cáp môn chi hậu thì không được tiến cử.
[123] Khi Yến Thù bị điều đi, ban đầu Vua không muốn như vậy, định dùng lại ông. Nhân lúc Lý Cập qua đời, ngày Ất Dậu, Vua triệu Yến Thù từ Nam Kinh về, bổ nhiệm làm Ngự sử trung thừa, và lệnh cho ông đứng trên hàng Hàn lâm học sĩ.
[124] Đường Trung thư lệnh Trương Cửu Linh, cháu chín đời là Trương Tích, đem theo tờ cáo thân của Trương Cửu Linh và bản phê đáp của Minh Hoàng đến dâng.
Vua nói với các quan phụ chính: “Trương Cửu Linh là danh tướng đời Đường, nên khen ngợi con cháu của ông.” Liền cho làm thử chức Quốc tử Tứ môn trợ giáo. Vương Tăng nói: “Khi An Lộc Sơn chưa bộc lộ ý phản nghịch, chỉ có Trương Cửu Linh nhìn thấy trước, xin giết hắn, nhưng Minh Hoàng không nghe. Đến khi An Lộc Sơn làm phản, Minh Hoàng từ Thục sai sứ đến tế ở Khúc Giang, dù hối hận cũng không kịp. Nay ghi nhận con cháu của ông, đủ để khuyến khích lòng trung vậy.”
[125] Ngày Đinh Hợi, xuống chiếu cho Viện Thẩm quan tuyển chọn quan lại làm tri châu các châu Chân, Sở, Tứ.
[126] Ban thưởng tiền cho binh lính tham gia đào sông ở Nam Kinh.
[127] Xu mật viện tâu rằng trong các tướng hiệu quân đội, có nhiều người buông lỏng không thể kiểm soát được quân sĩ, xin triệu Điện tiền Mã bộ quân Phó chỉ huy sứ Dương Sùng Huân, Hạ Thủ Uân, bí mật điều tra, liệt kê tên để tâu lên, chờ chỉ dụ. Lúc này đang chuẩn bị chuyển đổi nhân sự.
[128] Tháng 9, ngày Nhâm Thìn mùng một, bãi bỏ một chức Mạc chức quan ở các châu Quảng, Quế.
[129] Ngày Bính Thân, Hà Bắc chuyển vận sứ Vương Duyên tâu: “Ở Càn Ninh, Tín An quân, Bá châu có công nhân bỏ trốn[13], liền tùy tiện sai người thay thế. Sau thiên tai lũ lụt, dân chúng càng thêm khốn khổ, xin đợi năm được mùa rồi khôi phục như cũ.” Vua đồng ý.
[130] Ngày Kỷ Hợi, xuống chiếu: “Theo chế độ gần đây, quan Kinh triều trải qua ba nhiệm làm tri huyện thì được bổ làm Đồng phán, lại qua ba nhiệm nữa thì được làm tri châu. Từ nay, nếu trong nhiệm kỳ có năm người cùng tội tâu cử, thì giảm một nhiệm.”
[131] Ngày Tân Sửu, Tây Thái Nhất cung hoàn thành.
[132] Ngày Nhâm Dần, miễn thuế bồi, cá cho các gia đình bị lũ lụt ở các châu Hùng, Bá.
[133] Xuống chiếu cho Viện Thẩm quan tuyển chọn quan lại làm tri phủ Hưng Nguyên và châu Lợi.
[134] Ngày Quý Mão, Vua đến Tây Thái Nhất cung.
[135] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu: Dân bị thiên tai ở Hà Bắc từng đem ruộng dâu cầm cố cho nhà giàu, nay đều trả lại, đợi năm được mùa sẽ hoàn trả tiền vay.
[136] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu rằng các tường thành ở Hà Bắc bị nước phá hủy, khí giới của các châu quân trong thiên hạ lâu ngày không sửa chữa, sai 17 sứ thần đến các châu để đốc thúc việc tu sửa, riêng Hà Bắc giao cho Chuyển vận sứ tuần tra các địa phương để thi hành.
[137] Ngày Bính Ngọ, Thái thường thiếu khanh, Trực Chiêu văn quán Trần Tòng Dịch được bổ làm Tả ty lang trung, Binh bộ lang trung, Tập hiền viện tu soạn Dương Đại Nhã, cùng làm Tri chế cáo.
[138] Từ niên hiệu Cảnh Đức về sau, văn chương chuộng sự trau chuốt, học giả đương thời đều hướng theo, riêng Tòng Dịch vẫn giữ phong cách không đổi, cùng Đại Nhã rất thân thiết, đều ưa thích cổ học và giữ gìn đạo đức, không a dua theo ai.
Đầu niên hiệu Thiên Hi, Đại Nhã làm Đề điểm Hình ngục Hoài Nam, tuần tra dọc sông, qua địa giới Kim Lăng, gặp gió làm lật thuyền, được quân lính cứu, lên bờ thì áo mũ đều mất. Lúc đó Đinh Vị trấn thủ Kim Lăng, sai người đem tặng một bộ quần áo, Đại Nhã từ chối không nhận, Đinh Vị lấy làm áy náy. Vương Khâm Nhược làm Tể tướng cũng không ưa ông. Triều đình muốn sửa đổi tệ nạn văn chương, nên cùng thăng Tòng Dịch và Đại Nhã, để làm gương cho thiên hạ.
Đại Nhã tên ban đầu là Khản, vì phạm húy của Chân Tông khi còn ở phủ đệ, nên được chiếu đổi tên. Theo 《Thực lục》, Tòng Dịch, Đại Nhã cùng với Độ chi phán quan, Hữu ty gián, Trực sử quán, Đồng tu khởi cư chú Trương Quan, ba người đều làm Tri chế cáo.
(Nay chỉ theo 《Chính sử》 chép sự tích hai người, bỏ Quan không ghi.)
[139] Ngày Mậu Thân, Vua ngự ở điện Sùng Chính xem xét việc chuyển viên của các quân, kéo dài ba ngày.
[140] Ngày Canh Tuất, ban chiếu rằng những người xuất thân từ chức Đãi chiếu ở Ngự thư viện, từ nay không được làm quan văn.
[141] Ngày Quý Sửu, phong Tài nhân họ Trương làm Mỹ nhân. Lúc đó Trương thị đã bị bệnh, năm ngày sau thì mất.
[142] Lưu Thừa Nhan, Kiềm hạt Ích Châu tâu: “Thương nhân vào Thục, không có giấy tờ công khai, phần nhiều đi theo đường tư ở Gia Manh. Xin đặt cửa quan như Kiếm Môn, lại lệnh các nơi cấp giấy tờ công khai, đến nơi thì kiểm tra.” Chiếu theo lời xin.
[143] Ban chiếu rằng các tửu trường trong thiên hạ lợi nhuận ít, thuế năm không đủ 100 quan, từ nay không được tăng thuế, theo lời xin của Ngự sử trung thừa Yến Thù.
[144] Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm Tuất, mùng 1, tách châu An thuộc lộ Kinh Hồ Bắc sáp nhập vào lộ Kinh Tây[14]. Trước đó, chuyển vận sứ lộ Kinh Tây tâu rằng lộ này chi phí cung ứng nhiều mà thu nhập từ thuế ít, nên có đề nghị này, được chấp thuận.
[145] Ngày Mậu Thìn, phong nhũ mẫu là phu nhân họ Lâm, quận Nam Khang làm Tương quốc phu nhân.
[146] Ngày Nhâm Thân, đô đại tuần kiểm đê sông Biện Hà là Khang Đức Dư tâu: “Đi xem xét cầu Dương Vũ và trấn Vạn Thắng, nên giữ lại cửa đập. Ba cửa đập ở Lương Cố nên bỏ đi. Ở bờ bắc giới Tường Phù, xin làm thêm một cửa cống để phân chia giảm bớt dòng chảy tràn.” Đều được chấp thuận. Câu đương cửa sông Biện là Vương Trung Dung xin tăng thêm đá ngăn ở thôn Tôn, cũng được chấp thuận.
(Việc này căn cứ theo bản chí, nhưng chỉ ghi là câu đương cửa sông Biện là Khang Đức Dư, sang năm mới được làm đô tuần kiểm, khác với thực lục. Nay theo thực lục để ghi chức quan.)
[147] Ngày Quý Dậu, xuống chiếu cho phủ Khai Phong đem các văn thư, giấy tờ mà Thái Tông và Chân Tông từng xử lý khi làm doãn phủ Khai Phong dâng lên cung cấm.
[148] Chuyển vận sứ Hà Bắc tâu rằng, các trường vụ trong thiên hạ có thuế khoá hàng năm từ ba nghìn quan trở lên, xin cử sứ thần đến giám sát. Vua nói với các quan phụ chính: “Thu nhập hàng năm không nhiều mà lại tăng thêm quan chức, há chẳng phải là gây phiền nhiễu sao?” Ngày Giáp Tuất, xuống chiếu rằng những nơi có thuế khoá gấp đôi số đó mới được tăng thêm sứ thần.
[149] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu rằng võ thần không được bổ nhiệm người giàu làm chức Giáo luyện sứ, Nha nội, Tri khách, Tử thành sứ, chỉ những người đi theo mới được bổ nhiệm.
(《Hội yếu》 chép vào tháng 10 năm thứ 5 có lời thỉnh cầu chi tiết của thần liêu, nay chỉ theo thực lục.)
[150] Ngày Quý Mùi, giáng chức Tri châu Vận Châu, Khảo công lang trung Đỗ Nghiêu Thần làm Tế Châu đoàn luyện sứ[15]. Nghiêu Thần tính tàn bạo, thuộc hạ bị đánh chết rất nhiều, mua bán trong quận làm thiệt hại giá cả, mượn xe, trâu của dân giàu để chở gạch ngói gỗ về xây dựng nhà riêng, nên bị giáng chức.
[151] Ngày Giáp Thân, miễn trừ tiền nợ quan trang cho dân Phúc Châu[16]. Trước đây, họ Vương chiếm cứ Phúc Châu, có hơn nghìn mẫu ruộng, gọi là quan trang. Từ niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, cấp giấy cho dân cày cấy, mỗi năm chỉ nộp thuế mà thôi.
Năm Thiên Thánh thứ 2, Phát vận sứ Phương Trọng Tuân tâu: “Đây là ruộng công, bán đi có thể thu được lợi lớn.” Sai Đồn điền viên ngoại lang Tân Duy Khánh đảm nhiệm việc này, tổng cộng bán được hơn 35 vạn quan tiền, chiếu giảm một phần ba số tiền, hạn trong 3 năm phải trả xong.
Giám sát ngự sử Chu Gián cho rằng việc này làm hại dân, không nên, chiếu cho phép người nghèo yếu được gia hạn. Sau đó hạn kỳ đã hết, số tiền chưa trả là hơn 12 vạn 8 nghìn quan, Tri châu sự Chương Tần tâu lên. Vua nói: “Dân phương xa nghèo khó, mà quan phủ đòi hỏi quá khắt khe, nên miễn trừ hết cho họ.”
(Truyện của Chương Tần ghi chép số liệu không thống nhất, lại chép việc không rõ đầu đuôi, thực lục cũng vậy. Nay lấy bản chí và 《Hội yếu》 bổ sung sửa chữa.)
[152] Ngày Ất Dậu, bãi bỏ hạn ngạch thuế rượu mua bán dọc theo sông biên giới ở Hà Bắc.
[153] Tháng 11, ngày Nhâm Thìn, miễn cho dân hai huyện Quy Tín và Dung Thành thuộc Hùng Châu khỏi phải đóng góp làm nha tiền quân tướng.
[154] Ngày Canh Tý, chiếu cho Ty bộ thự Thiểm Tây, các sứ thần và thủ lĩnh các bộ lạc biên giới nếu phạm tội bị phạt dê, đều phải tự mình nộp, không được bắt dân trong bộ lạc đóng góp thay, người vi phạm sẽ bị xử nặng.
[155] Ngày Nhâm Dần, Tam ty tâu rằng việc tuần tra bắt giữ phèn tư, xin áp dụng chế độ thưởng phạt như pháp lệnh về trà và muối tư, được chấp thuận.
[156] Chiếu rằng: “Nghe nói các trường cỏ ở kinh thành nhận nộp lương thực của dân, thường bị trì hoãn. Nên lệnh cho Tam ty và Khai Phong phủ cử mỗi nơi một viên Phán quan và Suy quan, tự đến trường kiểm tra, hễ cỏ đủ tiêu chuẩn cho ngựa ăn thì lập tức nhận.”
[157] Ngày Quý Mão, Hàn lâm học sĩ Tống Thụ cùng các quan dâng lên bộ sách 《Thiên Thánh Lỗ Bạ Ký》 gồm 10 quyển. Trước đây, trong lễ tế giao, Thụ tạm giữ chức Thái bộc khanh, đi theo xe ngọc. Hoàng đế hỏi về nghi thức và điển cố, Thụ ứng đối trôi chảy, nên được lệnh cùng các quan biên soạn sách này. Hoàng đế khen ngợi sự chi tiết và đầy đủ, ban chiếu thưởng vật phẩm theo thứ bậc.
[158] Ích Châu dâng lên một loài hoa lạ, giống hoa đào, có bốn cánh và hàng trăm nụ kết thành chùm. Các bậc lão thành ở Thục nói rằng loài hoa này đã không nở hơn 60 năm, khiến hoàng đế rất ngạc nhiên, sau này gọi là “Thái Bình Thụy Thánh Hoa”.
[159] Ngày Giáp Thìn, chiếu cho Viện Thẩm quan rằng những quan chức kinh triều được bổ nhiệm do ân điển, nếu giữ chức Giám đương đủ 8 năm mà không phạm tội tư, thì dù lợi nhuận tăng giảm thế nào cũng được coi là thân dân.
[160] Ngày Ất Tỵ, bãi bỏ các trường nấu muối do quan quản lý ở bốn huyện Liên Giang, La Nguyên, Ninh Đức và Trường Khê thuộc Phúc Châu, giao ruộng muối cho dân nghèo.
[161] Ngày Quý Sửu, Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Niếp Quán Khanh tâu: “Các tấu trạng trong thiên hạ, dù là tội trượng hay tội si đều phải báo cáo, nhưng tội đồ và tội lưu nếu không bị giam thì lại không báo. Điều này không phù hợp với ý nghĩa thương xót trong hình phạt. Xin từ nay bãi bỏ việc báo cáo tội trượng và tội si, còn từ tội đồ trở lên dù không bị giam cũng phải phụ tấu.” Được chấp thuận[17].
[162] Ngày Đinh Tỵ, rước tượng thần Thái Nhất vào Tây Thái Nhất cung, Tể tướng Trương Sĩ Tốn làm Phụng an sứ.
[163] Tháng này, vùng Kinh Tây báo giá lúa mỗi đấu là 10 tiền.
[164] Lấy cháu của Thái úy Vương Đán là Khác, làm quan ở kinh đô không có lương, theo lời tâu của con Vương Đán là Ung.
[165] Tháng 12, ngày Quý Hợi, Vua đến cung Tây Thái Nhất.
[166] Ngày Giáp Tý, lấy Đại Lý bình sự Phạm Trọng Yêm làm Bí các hiệu lý.
Ban đầu, Trọng Yêm chịu tang mẹ, dâng thư lên chấp chính, xin chọn quận thủ, cử huyện lệnh, đuổi kẻ lười biếng, bỏ kẻ tham nhũng, chọn người tài, chú trọng giáo dục, nuôi dưỡng tướng tài, củng cố biên phòng, bảo vệ trung thần, đuổi kẻ nịnh thần, khiến triều đình không sai lầm, dân chúng không oán hận, để ngăn chặn kẻ gian hùng, tất cả hơn vạn lời. Vương Tăng thấy vậy khen ngợi, cũng biết Trọng Yêm là khách của Yến Thù.
Bấy giờ, Thù tiến cử người khác làm quan trong quán, Tăng nói với Thù: “Ông thực sự biết Trọng Yêm, bỏ mà tiến cử người này sao? Đã vì ông không làm, nên tiến cử Trọng Yêm.” Thù nghe theo.
[167] Ngày Bính Thân, bỏ giám ngựa ở Lạc Dương, Tây Kinh.
[168] Ngày Đinh Mão, ban thụy cho xử sĩ Lâm Bô ở Hàng Châu là Hòa Tĩnh tiên sinh, lại ban cho nhà ông 50 thạch gạo, 50 tấm lụa. Bô lúc sắp mất làm thơ, có câu: “Mậu Lăng ngày sau tìm di cảo, còn mừng chưa từng có sách phong thiền.” Khi mất, châu dâng tấu lên, Vua thương tiếc, nên có lệnh ban này.
Ban đầu, Bô từng làm khách ở Lâm Giang, Lý Tư lúc đó đang thi tiến sĩ, chưa ai biết đến, Bô nói với mọi người: “Đây là người có tài làm quan lớn.” Khi Bô mất, Tư vừa làm thủ châu, mặc áo tang, cùng môn đệ để tang bảy ngày, chôn cất, khắc câu thơ di cảo đặt trong quan tài.
[169] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu cho Thẩm hình viện, từ nay cử các quan thường tham từng trải qua các ty hình pháp ở kinh đô làm Tường nghị quan; các chức Đại Lý tường đoạn quan, Hình bộ tường phúc quan, Pháp trực quan, cử các quan mạc chức, châu huyện từng xem xét pháp lệnh để đảm nhiệm.
[170] Ngày Nhâm Thân, Hữu gián nghị đại phu, quyền phán Lại bộ lưu nội thuyên Hồ Tắc vì tội thiếu sót trong việc bảo đảm, bị giáng làm Thái thường thiếu khanh, tri châu Trì châu.
[171] Ngày Mậu Dần, Ngự sử trung thừa Yến Thù tâu: “Các chức đô giám, đô tuần kiểm, các môn chi hậu và nội điện sùng ban trở lên từng làm công nhân, bộc lệ, từ nay không được ngồi cùng với quan cũ từng phục vụ. Nếu có liên quan đến chức vụ, thì phải chuyển đến châu khác. Các chức tam ban sứ thần trở xuống giám sát công việc, đều được phép tham gia công việc.” Được chấp thuận.
[172] Ngày Tân Tỵ, có người dâng thư xin đánh thuế tiền mẫn để giúp kinh phí, Vua nói: “Lợi ích của tiền tệ là để lưu thông khắp thiên hạ, thông suốt có không, sao có thể tính toán được.” Không cho phép.
[173] Ngày Quý Mùi, miễn thuế tiền nền đất của Thư viện Ứng Thiên phủ.
[174] Ngày Ất Dậu, Khiết Đan phái Bảo An quân tiết độ sứ Gia Luật Toại Anh, Vệ úy thiếu khanh Vương Thừa Tích đến chúc mừng ngày Chính đán của Thái hậu.
[175] Ngày Bính Tuất, phái Chương Thánh quân tiết độ sứ Tiêu Tố, Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân Mã Bảo Vĩnh đến chúc mừng ngày Chính đán.
[176] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu từ nay trong gia trạng của các quan kinh triều được tuyển cử, ngoài việc ghi rõ quê quán, những người có quê quán ở châu khác phải ghi thêm bằng chữ đỏ tên châu quân.
[177] Ngày Mậu Tý, ban chiếu cấp tiền 300 quan mỗi tháng cho lính Thanh Hà ở cửa Biện.
[178] Tháng này, ban chiếu: “Các sứ thần tẩu mã được sai đi các lộ phần nhiều không đúng người. Nên lệnh cho Tam ban viện từ nay chọn những người từng được các thần liêu cùng tội tấu cử[18], và từng trải qua chức binh mã giám áp[19] hoặc tuần kiểm, trại chủ, tri huyện chưa từng phạm tội tham ô để bổ nhiệm.”
[179] Sông Quảng Tế dẫn nước từ sông Hà[20], từ Khai Phong đi qua Trần Lưu, Tào, Tế, Vận, rộng năm trượng, cũng gọi là sông Ngũ Trượng. Năm đó, Viên ngoại lang bộ Hộ là Diêm Di Khánh tâu: “Sông chảy từ trấn Hợp Thái của châu Tế, thông với đầm Lương Sơn. Gần đây sông lớn vỡ đê, làm ngập ruộng dân, phá hỏng đường sông, từ Hợp Thái trở xuống, nước tràn lan không thông thuyền bè. Xin trị sông Hoàng Hà, dẫn nước vào đó.”
Nhân đó sai Di Khánh cùng với Lý Thủ Trung, người phụ trách sông ngòi, cùng với chuyển vận sứ Kinh Đông ước tính công phí, dựng cầu, đắp đập, hơn một năm thì xong, thăng chức cho Di Khánh. Những huyện có thay đổi, giao cho lệnh tá chuyên trách kiểm tra bảo vệ, chỗ cạn thì nạo vét, bờ mỏng sụt lở thì đắp thêm, trồng cây du liễu để giữ chắc, còn liễn vận sứ thì tổng quản việc xử lý những chỗ không đúng phép và ghi chép những việc làm có thành tích.
(Việc nạo vét sông Quảng Tế, căn cứ theo 《Hội yếu》 là vào tháng 10 năm Thiên Thánh thứ 6, nhưng bản chí không ghi tháng, nên theo 《Hội yếu》 mà phụ vào cuối tháng 7. Ngày 3 tháng 10 năm Hi Ninh thứ 7, lại nạo vét sông Quảng Tế.)
- nêu rõ điều thiện, trừng trị điều ác: 'nêu rõ' nguyên văn là 'ích', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và Tống hội yếu Lễ 58/2, Tống sử quyển 124 Lễ chí sửa lại. ↵
- Thần cho rằng thời Xuân Thu: 'Thần' nguyên văn thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, Tống hội yếu Lễ 58/3 và Tống sử bổ sung. ↵
- nên đến khi sắp an táng mới xin thụy hiệu với Vua: 'đến' nguyên văn là 'trí', căn cứ vào sách trên sửa lại. ↵
- Tiểu sử phụ trách việc ban thụy hiệu và đọc văn tế cho các gia đình khanh đại phu: 'đọc' nguyên văn là 'bao', căn cứ vào Các bản và 《Chu Lễ》 Xuân quan Tiểu sử sửa lại. ↵
- đến lúc này, Lễ viện xin thi hành theo yêu cầu: 'đến lúc này Lễ viện' nguyên văn thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung. ↵
- 'Người' nguyên là 'con', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và Biên niên lục quyển 4 sửa lại. ↵
- Chữ 'thạch hôi' nguyên bản viết là 'thạch thán', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu phương vực 13-21 sửa lại. ↵
- 'Hàng chục vạn' trong các bản Tống, Tống toát yếu, các bản đều ghi là 'hàng chục vạn'. ↵
- 'Mẹ con' nguyên bản là 'con mẹ', theo 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 quyển 26 《Tư chính điện học sĩ Thượng thư Hộ bộ Thị lang Giản Túc Tiết công mộ chí minh》 và 《Tống sử》 quyển 286 《Tiết Khuê truyện》 sửa lại. ↵
- Khai Phong phủ Thôi quan Giám sát Ngự sử Vương Duyên làm Phó sứ Chuyển vận Hà Bắc. Hai chữ 'Thôi quan' vốn bị thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống Toát Yếu và truyện trong 《Tống sử》 quyển 300 bổ sung. ↵
- Luật dùng giá lụa để thay thế, theo truyện trong 《Tống sử》 ghi: 'Dùng giá lụa để định tội, chiếu chỉ dùng giá tiền để thay thế.' Bản gốc thiếu sáu chữ 'cổ tội giả sắc dĩ mẫn' dưới chữ 'lụa'. ↵
- Chữ 'thủy' trong câu 'Thái Tề thủy thượng chi' vốn bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Biên niên cương mục quyển 9, Tống sử toàn văn quyển 7 thượng bổ sung. ↵
- 'Càn Ninh' nguyên bản viết 'Càn Hưng', 'Công nhân' nguyên bản viết 'Công văn', theo bản khác sửa lại. Xét Càn Ninh quân, thấy chép trong 《Hoàn Vũ ký》 quyển 68, 《Cửu vực chí》 quyển 2, 《Tống hội yếu》 phương vực 5 chi 28, 《Tống sử》 quyển 86 địa lý chí. ↵
- Chữ 'lệ' trong câu 'tách châu An thuộc lộ Kinh Hồ Bắc sáp nhập vào lộ Kinh Tây' ban đầu bị lẫn vào trước 'châu An'. Theo 《Cửu vực chí》 quyển 6, 《Dư địa kỷ thắng》 quyển 77, và 《Tống sử》 quyển 88, phần Địa lý chí đều ghi rằng châu An vào năm Thiên Thánh thứ nhất thuộc lộ Kinh Tây, nay căn cứ để sửa lại cho đúng. ↵
- Các bản đều ghi giáng chức Tri châu Vận Châu, Khảo công lang trung Đỗ Nghiêu Thần làm Tế Châu đoàn luyện sứ. Xét 《Tống hội yếu》 chức quan 64-28 chữ 'sứ' viết là 'Phó sứ', theo chế độ nhà Tống, người bị giáng chức đoàn luyện nên là 'Phó sứ', nghi rằng 《Hội yếu》 là đúng. ↵
- Chữ 'dân nợ' vốn thiếu, căn cứ vào 《Thập triều cương yếu》 quyển 5, 《Tống sử》 quyển 9 phần Nhân Tông kỷ và 《Tục thông giám》 quyển 37 bổ sung. ↵
- Chữ 'tòng' trong 'tòng chi' vốn bị thiếu, căn cứ vào các bản khác và 《Thông Khảo》 quyển 166, 《Hình Khảo》 bổ sung. 《Tống Sử》 quyển 199, 《Hình Pháp Chí》 chép năm Thiên Thánh thứ 6 Niếp Quán Khanh xin bãi bỏ việc báo cáo tội trượng và tội si, và nói: 'Từ tội đồ trở lên dù không bị giam cũng phải phụ tấu. Chiếu theo lời tâu.' Cũng có thể chứng minh. ↵
- Nghi lệnh Tam ban viện từ nay chọn những người từng được các thần liêu cùng tội tấu cử 'Kim' nguyên tác 'Kinh', theo các bản và Tống hội yếu chức quan 41-122 sửa. ↵
- Và từng trải qua chức binh mã giám áp 'Binh mã' nguyên tác 'Binh bộ', theo các bản và Tống hội yếu sửa. ↵
- Sông Quảng Tế dẫn nước từ sông Hà, 'Hà thuỷ' nguyên bản là 'Hà thuỷ', căn cứ theo các bản và 《Tống sử》 quyển 94 chí về sông ngòi, 《Khốn học kỷ văn》 quyển 16 mục về sông Ngũ Trượng, 《Phương dư kỷ yếu》 quyển 46 dẫn từ 《Cửu vực chí》 mà sửa lại ↵