IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 110: NĂM THIÊN THÁNH THỨ 9 (TÂN MÙI, 1031)
Từ tháng giêng đến tháng chạp năm Thiên Thánh thứ 9 đời Nhân Tông.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Tân Hợi, xuống chiếu cho các quan chuyển vận phán quan từ chức Viên ngoại lang trở lên ở các lộ, khi gặp lễ Nam Giao thì được phép cho con em mình tham dự.
[2] Ngày Quý Sửu, nước Khiết Đan sai Tả Giám môn vệ Thượng tướng quân Tiêu Khả Thân và Hữu Tán kị Thường thị Triệu Lợi Dụng sang chúc mừng lễ Trường Ninh tiết.
[3] Ngày Bính Thìn, lễ Trường Ninh tiết, các quan lần đầu tiên dâng lễ chúc thọ Hoàng thái hậu ở điện Hội Khánh.
[4] Ngày Kỷ Mùi, nước Quy Tư và châu Sa Châu đều sai sứ sang cống vật địa phương.
[5] Ngày Canh Thân, Tư chính điện học sĩ Yến Thù tâu rằng: “Các nước Chiêm Thành, Quy Tư, Sa Châu và bộ tộc người Man ở Cung Bộ Xuyên thường có người đem cả gia đình sang cống. Xin theo lệ cũ triều trước, giao cho sứ quán bạn hỏi han về đường đi, phong tục và vẽ hình người cùng y phục để trình lên sử quan.” Vua nghe theo.
[6] Điều động 5 vạn dân đinh ở kinh thành và các châu lân cận để nạo vét sông Biện.
[7] Ngày Tân Dậu, lấy Thượng thư Hình bộ, Tri châu Hứa Châu là Trương Sĩ Tốn làm Định Quốc tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái phó. Lúc đó, Sĩ Tốn về triều, mong được phục chức Tể tướng. Thiên Chương các Đãi chế Cúc Vịnh tâu rằng: “Tào Lợi Dụng lộng quyền, Sĩ Tốn cùng làm việc với hắn, thân thiết và được tiến cử lên chức Tể tướng. Bệ hạ chỉ vì ông ta từng là thuộc hạ ở Đông cung mà dùng. Thần mong bệ hạ dứt bỏ ân cũ, thi hành công đạo, sai ông ta về trấn.” Sĩ Tốn bèn về Hứa Châu.
[8] Ngày Bính Dần, xuống chiếu cho phép dân chúng trong kinh thành khi gặp hỏa hoạn mà quân tuần kiểm chưa đến thì được tập hợp láng giềng dập lửa.
[9] Ngày Đinh Mão, lấy Từ bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý, Đồng tu Khởi cư chú là Triều Tông Xác làm Tri chế cáo. Tông Xác là con của Triều Huýnh. Tống Thụ từng nói rằng từ đời Đường đến nay, chỉ có Dương Ư Lăng là người thấy con mình là Dương Tự Phục kế tục giữ chức soạn thảo chiếu thư, nay mới có họ Triều.
[10] Xuống chiếu cho châu Thư Châu điều động binh lính và dân phu đắp đê Trường Phong Sa.
[11] Ngày Tân Mùi, đổi Tiền Duy Diễn, vốn được bổ nhiệm làm phán quan ở Trần Châu, sang làm phán quan ở Hà Nam phủ.
Lúc đó, Duy Diễn giả bệnh ở lại kinh thành lâu ngày, sau khi được bổ nhiệm làm phán quan ở Trần Châu, lại trì hoãn không đến nhậm chức, còn mưu cầu chức tể tướng. Thiên Chương các đãi chế Phạm Phúng tâu rằng: “Duy Diễn từng làm Xu mật sứ, vì là thân thuộc của Hoàng thái hậu nên bị cách chức, để tỏ rõ với thiên hạ rằng không thiên vị. Nay không thể dùng lại.” Điện trung thị ngự sử Quách Khuyến cũng xin thúc giục Duy Diễn lên đường. Duy Diễn tự nói rằng mộ tổ tiên ở Lạc Dương, mong được coi giữ chìa khóa cung điện. Vì thế, Vua ra lệnh cho Duy Diễn giữ chức ở Hà Nam, thúc giục ông lên đường.
Một hôm, Phạm Phúng vào chầu, Thái hậu nói: “Duy Diễn đã đi rồi.” Phạm Phúng đáp: “Nô bộc của Duy Diễn đều được làm quan, không đi thì còn làm gì nữa!” Lúc đó, em của Duy Diễn là Xử Châu quan sát sứ, tri Định Châu Duy Tế cũng được thăng làm Vũ Xương lưu hậu, tri Thiền Châu, sau lại về tri Định Châu. Quách Khuyến lại tâu: “Duy Diễn không nên vì em mình mà xin thăng chức, lại còn xin nắm quyền binh, xin bãi chức.” Không được trả lời.
[12] Hàn lâm học sĩ Thịnh Độ xin cho con trai mình là Phụng lễ lang Thân Phủ vào quán các đọc sách, được chấp thuận.
[13] Ra chiếu giảm thuế ruộng và các khoản thu khác của dân trong kinh thành mỗi thứ một phần mười.
[14] Tháng hai, ngày Canh Dần, bổ nhiệm sáu người là Cố Tường, nguyên là Phụng Quốc tiết độ suy quan, cùng những người khác đã qua kỳ thi thân ngôn thư phán làm quan kinh thành.
[15] Đại Lý tự tâu: “Từ nay cử quan xét án, phải là người có xuất thân, đã từng làm lệnh lục, mạc chức quan, từng trải qua chức lục sự tham quân đương nhiệm hai năm trở lên[1], có một giám ty hoặc hai thường tham quan cùng tội bảo cử; người từng xin thi luật, phải đủ năm khảo trở lên, mới được cử.
Phàm thi luật nghĩa ba đề, sớ hai đề, đạt ba đồng là hợp cách, hai đồng cũng được lưu. Thi riêng án vừa và nhỏ ba đề, mỗi đề khoảng ba điều hình danh, nếu xử án trọng tội đạt một đồng hoặc hai thô, thì được bổ làm kinh quan; nếu đạt một thô hoặc văn bản khá dùng được, thì gửi về tự thi xử án ba mươi đề, bảo đảm rõ ràng để tâu lên.
Pháp trực quan ngoài thi luật nghĩa, lấy ba án cũ, tính theo mười phần hình danh, đạt sáu phần là hợp cách[2], nếu dùng pháp không đạt sáu phần, ước luật không đạt hai đồng thì bãi chức. Lại lệnh hai viên thẩm hình tường nghị quan, phán Đại Lý tự hoặc thiếu khanh cùng thi tại Ngự sử đài.”
Theo lời tâu. Sau đó chiếu cho Hình bộ cử quan theo như vậy.
(Việc Hình bộ cử quan là việc cuối tháng ba, nay ghi phụ vào.)
[16] Ngày Nhâm Thìn, chiếu rằng vợ con quân sĩ bỏ trốn bị giam tại doanh, nếu được ân xá, cho tùy ý đi lại.
[17] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu rằng: “Ruộng chức vụ vốn để ban ơn cho quan lại liêm chính, nhưng kẻ tham nhũng lại lợi dụng để tư lợi, xâm hại dân chúng, gây thêm tai họa. Trước đây đã ban chiếu cho các cơ quan bãi bỏ ruộng chức vụ, nhưng nghe nói những quan lại chăm chỉ làm việc, bổng lộc ít ỏi không đủ tự nuôi thân, Trẫm rất thương xót. Nay khôi phục lại ruộng chức vụ, nhưng nếu ai chiếm nhiều ruộng hoặc không có ruộng mà bắt người khác nộp tô, sẽ bị xử theo luật pháp.”
Trước đó, đã giao cho Tam Ty thu thập số thu nhập hàng năm từ ruộng chức vụ, tính giá trị rồi chia đều, nhưng chưa thực hiện được. Vua xem xét các vụ án từ khắp nơi, thấy nhiều vụ do hối lộ mà thất bại, nên ban chiếu này.
[18] Chiếu rằng trước và sau ngày giỗ Chân Tông, cấm hành hình hai ngày, nên như ngày lễ Thiên Khánh, những tội nhẹ bị phạt trượng trở xuống được tha.
[19] Ngày Kỷ Hợi, cấm dân gian chế tạo đồ dùng màu đỏ tươi.
[20] Ngày Canh Tý, chiếu rằng các quan lớn ở hai tỉnh ra làm quan ngoại quận, không được tiến cử người cùng chức, và các châu cũng không được bảo cử người đang giữ chức đồng phán.
[21] Ngày Ất Tỵ, phong Vua man di Cung Bộ Xuyên là Lê Tại làm Bảo Nghĩa tướng quân, lại phong cho bộ tộc của ông làm Lang tướng, Ty qua, Ty hậu, tổng cộng hơn ba mươi người.
[22] Ngày Bính Ngọ, Châu Đăng tâu rằng Yến Đoan cùng 184 người nước Nữ Chân xin quy phụ, chiếu đưa họ đến Châu Hào cấp ruộng cho ở.
[23] Tháng ba, ngày Nhâm Tý, Lại bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế Cúc Vịnh mất. Một hôm, Vua yến tiệc với các quan cận thần, nói với Phạm Phúng: “Khanh cùng Cúc Vịnh được bổ nhiệm cùng lúc, nay ông ấy đã mất, Trẫm rất nhớ.”
[24] Ngày Giáp Dần, đưa tượng Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông vào thờ tại Hội Thánh cung trên núi Phượng Đài, Tây Kinh.
[25] Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho các quán các tăng thêm năm mươi thư lại để chép sách.
[26] Ngày Quý Hợi, điều chuyển Hà Bắc chuyển vận sứ, Hình bộ lang trung Trương Tông Hối làm Tri châu Từ Châu; Hà Đông chuyển vận sứ, Kim bộ lang trung Hồ Lệnh Nghi làm Tri châu Kinh Châu; Điện trung thị ngự sử Chu Gián làm Tri châu Diệu Châu, đều vì tội điều phát quấy nhiễu dân.
Trước đây, Tông Hối làm Phán quan phủ Khai Phong, Giám sát ngự sử Vương Duyên tấu rằng Tông Hối ham rượu bỏ bê công việc. Đến lúc này, Duyên đang chịu tang mẹ ở Vệ Châu, Tông Hối bèn tố cáo Duyên mượn thuyền quan để buôn bán, triều đình ghét việc này, nên nhân việc công mà cùng Lệnh Nghi đều bị cách chức.
Phạm Trọng Yêm viết bia thần đạo cho Lệnh Nghi: Lệnh Nghi vì mượn dân chở lương thực để làm đầy biên quận, có người dèm pha việc này không tiện, triều đình nghi ngờ, điều ông giữ Hồi Trung. Sau đó, người thay thế lại thi hành ý kiến trước, Lệnh Nghi được minh oan, đổi làm Tri châu Phượng Tường[3].
(Việc này cần xem xét thêm. Lại không rõ việc của Chu Gián là gì, cũng cần xem xét.)
[27] Ban sách 《Cửu Kinh》 cho châu học Thanh Châu, theo lời thỉnh cầu của Vương Tăng.
[28] Ngày Bính Dần, điều chuyển Lợi Châu lộ chuyển vận sứ, Đồn điền lang trung Lý Dịch làm Hà Bắc chuyển vận sứ.
Lúc đó, kinh phí Hà Bắc không đủ, Vua hỏi các quan phụ tá ai có thể đảm đương, Tham tri chính sự Tiết Khuê tiến cử Dịch có tài, nên bổ nhiệm ông. Dịch là con của Nhược Chuyết, từng làm Tri châu Hoa Châu.
Dân huyện Bồ Thành là Lý Uẩn tố cáo rằng kẻ trộm giết cháu mình rồi bỏ trốn. Dịch hỏi: “Nhà ngươi có thù oán gì không?” Đáp: “Không.” Hỏi: “Có mất mát gì không?” Đáp: “Không.” Dịch nói: “Ta biết rồi, ngươi cứ về đi.” Rồi sai người điều tra kín, thì ra Uẩn có tội kín, sợ việc bại lộ nên giết người để bịt miệng.
Dịch lại làm Hà Bắc đề điểm hình ngục, quyền Tri châu Bối Châu. Gặp năm hạn hán, dân chúng thất nghiệp, Dịch mua nhiều củi và cỏ dùng cho việc nấu rượu hàng năm, khiến người nghèo có thể kiếm sống bằng cách đốn củi, mà quan phủ cũng có dư tích, nhờ đó bãi bỏ việc dùng cỏ nuôi trâu phòng thành hơn mười vạn bó mỗi năm, dân rất được lợi.
[29] Ngày Kỷ Tỵ, Hàn lâm Thị giảng học sĩ Tôn Thích, Thí Thái thường Bác sĩ Quốc tử giám Trực giảng Giả Xương Triều, Bí thư Thừa Chư vương phủ Thị giảng Triệu Hi Ngôn, Điện trung Thừa Quốc tử giám Trực giảng Quách Chẩn, Tả Tán thiện Đại phu Quốc tử giám Trực giảng Dương An Quốc giảng thuyết ở Trung thư.
Thích trước kia từng làm Phán Quốc tử giám, khi hội họp với các Bác sĩ giảng thuyết, chỉ khen Xương Triều là có phép tắc của bậc thầy. Một hôm, viết sách 《Lộ Tùy》, 《Vi Xử Hậu》 truyền lại cho Xương Triều xem và nói: “Ngươi nên dùng kinh thuật để tiến thân, như hai vị này.” Đến khi thí ở Trung thư, Chẩn cố từ chối, còn Xương Triều cũng vì có quan hệ thân thích với Tham tri chính sự Trần Nghiêu Tá nên bị bãi chức[4].
(《Long Xuyên Biệt Chí》 chép: Người đời khen Thích biết người, nhưng Xương Triều cùng Lộ, Vi danh vị đều tương tự, mà tà chính thì khác nhau. Nếu chỉ biết được quý tiện, thì đây chỉ là việc mà các thầy tướng có thể làm được.)
Hi Ngôn là người Vũ Thành.
[30] Chiếu tạm ngừng thi cử.
[31] Mùa hạ, tháng tư, ngày Mậu Dần, giáng chức Đồn điền viên ngoại lang, Đồng phán Lũng Châu Tôn Tế làm Tham quân Lôi Châu; Quân sự phán quan Lý Cẩn Ngôn, Suy quan Lý Khuếch, Tư lý tham quân Nghiêm Cửu Linh, Huyện úy Lũng An Đổng Nguyên Hanh đều bị tước chức, phát phối làm lính ở nha môn Quảng Châu.
Trước đó, dân huyện Lũng An là Bàng Nhân Nghĩa vu cáo Mã Văn Thiên, Cao Văn Mật và năm người khác là bọn cướp, Nguyên Hanh liền bắt giam Văn Thiên và những người kia, Nhân Nghĩa còn dạy vợ và thiếp của mình nhận tội ăn cắp. Sau đó, Văn Mật bị đánh chết trong ngục, những người còn lại đều bị ép nhận tội. Cha của Văn Thiên kiện lên châu, Tế tạm quyền lĩnh châu sự nhưng không xử lý. Văn Thiên và những người kia đã bị xử tử, sau đó Tần Châu bắt được kẻ cướp thật sự. Tế và những người kia vốn được hưởng ân xá, nhưng Vua tức giận, đặc cách giáng chức xa, ngục lại ở Tư lý viện bị đánh bằng gậy và phát phối ra đảo Sa Môn, lại ở huyện bị thích chữ và phát phối đến lao thành Quảng Nam, năm nhà của Văn Thiên và những người kia đều được ban tiền và gạo, miễn thuế dịch trong ba năm.
Vua hạ chiếu rằng: “Lũng Châu xử tử năm người dân thường vì tội cướp, người chủ trì tuy được ân xá nhưng đã bị xử lý. Từ nay, các quan chức gần dân coi việc ngục phải xem xét kỹ tình hình vụ án, nếu có oan uổng, tất sẽ bị phạt không tha.”
[32] Ngày Tân Tỵ, Tam ty xin định mức thu nhập tiền muối mạt ở Kinh sư là 1.803.000 quan, trà ở chợ Kiến Châu là 500.000 cân, trà ở kho chuyển vận Chân Châu là 250 cương mỗi năm. Vua hạ chiếu giảm 50.000 cân trà ở Kiến Châu, còn lại theo lời xin.
[33] Ngày Đinh Hợi, Khiết Đan phái Tả Thiên Ngưu vệ Thượng tướng quân Tiêu Thăng, Trấn quốc quân Tiết độ sứ Diêu Cư Tín đến chúc mừng lễ Càn Nguyên.
[34] Ngày Mậu Tý, Vua hạ chiếu rằng các cận thần đã dùng ân điển tế giao để tiến cử người thân, gặp lễ Càn Nguyên thì tạm ngừng.
[35] Đặt một viên Tuần kiểm ở ba châu Hàng, Việt, Tú.
[36] Ngày Tân Mão, Vua hạ chiếu rằng ruộng chức điền trong thiên hạ có đất đai màu mỡ và cằn cỗi không đều, nên lệnh cho các nơi ghi rõ số mẫu và thu nhập hàng năm, ghi vào sổ lịch của từng quan, trình lên Thẩm quan, Tam ban viện, Lưu nội tuyển, những nơi đã có thu nhập cao thì không được chuyển đến nơi khác tốt hơn.
[37] Ngày Đinh Dậu, ban chiếu cho Thái thường tự rằng: Khi Thái hậu ngự điện, nhạc lúc thăng tọa và giáng tọa gọi là khúc Thánh An; khi công khanh vào cửa và dâng rượu gọi là khúc Lễ An; khi chúc thọ gọi là khúc Phúc An. Lúc đầu, khi nâng rượu gọi là khúc Ngọc Chi, múa điệu Hậu Đức Vô Cương; lần thứ hai nâng rượu gọi là khúc Thọ Tinh, múa điệu Tứ Hải Hội Đồng; lần thứ ba nâng rượu gọi là khúc Kỳ Mộc Liên Lý.
Ban đầu, sai Hàn lâm thị giảng học sĩ Tôn Thích soạn tên các khúc nhạc, Tư chính điện học sĩ Yến Thù soạn lời nhạc, đến nay dâng lên, lại đổi tên Hậu Đức Vô Cương thành Đức Hợp Vô Cương[5]. Con của Yến Thù là Cư Hậu, chức Chính tự ở Bí thư tỉnh, và cháu của Tôn Thích là Duy Trực, chức Chủ bạ ở Tướng tác giám, đều được thăng làm Phụng lễ lang.
(Việc thăng chức diễn ra vào ngày Giáp Thân tháng sáu, nay ghi chung lại.)
[38] Ngày Ất Tỵ, Vua cùng Hoàng thái hậu ngự ở điện Thừa Minh, xem đại nhạc, ban thưởng tiền và lụa cho các nhạc công theo thứ bậc khác nhau. Trước đó, Thái thường tự cho rằng từ thời Chân Tông, niên hiệu Cảnh Đức, đã từng thân hành xem xét đại nhạc, sau đó có nhiều ý kiến đề nghị tăng thêm chế độ, nên xin Vua đến xem.
[39] Thời tổ tiên, rất coi trọng việc cấm trộm bóc vỏ cây dâu và cây chạ. Cây khô tính theo thước, tích 42 thước là một công, ba công trở lên thì xử tử. Điện trung thừa Ứ Đại Thành xin được xét giảm tội chết, giao cho các quan pháp quan bàn bạc, cho rằng nên giữ như cũ, nhưng Vua đặc biệt muốn khoan hồng. Tháng năm, ngày Đinh Mùi, mùng một, ban chiếu rằng những người phạm tội chết phải tâu lên để xét xử.
[40] Ngày Nhâm Tý, ban chiếu rằng: “Nghe nói ở Kinh Hồ có kẻ giết người để tế quỷ, từ nay những kẻ chủ mưu hoặc tham gia hành động đều bị xử lăng trì. Ai tố giác sẽ được thưởng toàn bộ gia sản của tội nhân. Quan lại bắt được thì thưởng như bắt được cả bọn cướp.”
[41] Ngày Quý Sửu, điều Tri Tần châu, Long đồ các trực học sĩ Vương Bác Văn làm Tri Phượng Tường phủ. Tẩu mã thừa thụ Giả Đức Xương vào triều, nói xấu Bác Văn, nên điều đi. Bác Văn ở Tần châu chưa đầy một năm.
[42] Ngày Kỷ Mùi, ban chiếu rằng: Tăng đạo trong dịp tiết Trường Ninh, theo chế độ cũ, 300 người cho phép một người xuất gia, nay tăng lên 400 người; 100 người cho phép một người xuất gia, nay tăng lên 200 người.
[43] Tri phủ châu Chiết Duy Trung tâu rằng, châu này phong tục hỗn tạp giữa người Hán và người Phiên, trước đây dùng nha hiệu để quản lý hình ngục, gần đây có chiếu dùng Tư pháp Vương Định của châu này làm Tư lý Tham quân, nhưng không am hiểu tình hình người Phiên, xin tạm theo chế độ cũ, Vua đồng ý.
[44] Ngày Canh Thân, bổ nhiệm bốn người được tuyển chọn qua kỳ thi thư phán bạt tụy là Lý Đôn Dụ và những người khác làm quan kinh, võ cử nhân Lý Thiệm làm Tam ban Tá chức.
Đôn Dụ là cháu của Lý Chí.
[45] Ngày Ất Sửu, Vua ngự tại điện Sùng Chính xét các tù nhân bị giam.
[46] Ngày Mậu Thìn, ra chiếu rằng những người làm chức Trực giảng ở Quốc tử giám đã đổi làm quan kinh được năm năm, cho phép bổ nhiệm làm quan ngoại.
[47] Ngày Kỷ Tỵ, Bí thư thừa, Tri huyện Trần Lưu là Vương Xung bị đày đến châu Lôi để biên quản. Trước đây, nội thần La Sùng Huân đến huyện xin ruộng công không được, bèn sai lính Hoàng thành vu cáo Xung mua bán vật phẩm có lợi nhuận bất chính, Thái hậu sai Sùng Huân điều tra, Xung không thể tự minh oan, nên bị trừng phạt nặng. Em của Xung là Tường nghị quan của Thẩm hình viện, Điện trung thừa là Độc bị giáng làm Giám thuế châu Thái, cháu là Trứ tác lang, Trực Hiền viện là Nghiêu Thần bị điều ra làm Tri châu Trạch, đều vì liên quan đến Xung.
[48] Ngày Nhâm Thân, ra chiếu rằng tiền từ các điếm cửa hàng bị tịch thu của Tào Lợi Dụng đều được trả lại cho gia đình ông.
[49] Ngày Ất Hợi, dời Tu sử viện đến Tuyên Huy viện. Ban đầu viện này ở sảnh thứ nhất của Trung thư, sau khi biên soạn xong sử, tiếp tục biên soạn 《Hội yếu》, nên dời đi.
[50] Tháng 6, ngày Đinh Sửu mùng một, ra chiếu rằng từ nay các chức Hành quân Phó sứ, Thượng tá, Văn học Tham quân của các châu không được tự ý rời khỏi nơi bị biếm, lệnh cho Đăng văn cổ viện không được tùy tiện thông tấu trạng. Lúc đó các quan bị biếm giáng thường hay vu cáo triều đình, đã ra lệnh giám sát đưa về bản châu, lại còn răn dạy thêm.
[51] Khiết Đan chủ Long Tự bị bệnh tiêu khát ngày càng nặng[6], triệu Đông Bình vương Tiêu Hiếu Mục và Thượng Kinh lưu thủ Tiêu Hiếu Tiên đến, giao phó việc phò tá con trai là Mộc Bất Cô lên ngôi, đồng thời dặn dò không được làm mất lòng tin và lời thề của triều đình. Ngày Kỷ Mão, ông qua đời tại sông Đại Phủ.
Long Tự thông hiểu âm nhạc, thường cùng thuộc hạ uống rượu thâu đêm, tự hát và nhảy múa. Hàng năm dâng cống vật, ông đều tự mình xem xét, đảm bảo mọi thứ đều đẹp đẽ và vừa ý, giữ lời hứa rất kiên định, chưa từng gây ra xung đột biên giới. Ông trị vì 24 năm, thọ 61 tuổi, được truy tôn thụy hiệu là Thánh Tông.
(Sách 《Thập Triều Cương Yếu》 của Lý Đức chép: Khiết Đan chủ Long Tự băng hà, trị vì 50 năm, thụy hiệu là Thiên Phụ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông.)
[52] Thê tử của ông có hiệu là Tề Thiên Hoàng hậu, thiếp hiệu là Thuận Thánh Nguyên phi.
Tề Thiên là con gái của Bình Châu tiết độ sứ Tiêu Tư Ổi, cháu của Gia Luật Long Vận, có nhan sắc, được Long Tự yêu quý đặc biệt. Bà hầu hạ Yến Yến rất cẩn thận, Yến Yến cũng vì tình cảm với Long Vận mà rất yêu quý bà. Sau khi Yến Yến qua đời, Tề Thiên tham gia việc triều chính, quyền thế rất lớn, lập ra cơ quan Cung Vi Ty, bổ nhiệm quan lại, ban bố mệnh lệnh, được phong thêm hiệu là Nhân Từ Dực Thánh Tề Thiên Chương Đức Hoàng hậu, ngày sinh được đặt là Thuận Thiên tiết, nhưng các con đều không nuôi được.
Nguyên phi sinh được con trai, con trưởng là Mộc Bất Cô, con thứ là Đạt Thư Lí, và hai con gái là Sở Quốc Công chúa và Yến Quốc Công chúa. Yến Yến gả Sở Quốc Công chúa cho em trai là Tiêu Đồ Cô Tát, xây thành cho họ ở, gọi là Mục Châu, hiệu là Trường Khánh quân, di dân một vạn hộ đến đó, gọi là Tòng Giá hộ.
Tề Thiên giỏi đánh tỳ bà, thông thạo nghề tỳ bà cùng với thợ Yên Văn Hiển, Lý Hữu Văn[7], Nguyên phi nhiều lần nói về tội của họ, nhưng Long Tự không trị tội. Lại viết thư nặc danh bỏ vào chỗ ngủ của Long Tự, Long Tự nhặt được, nói: “Việc này chắc chắn là do Nguyên phi làm.” Rồi sai đốt đi.
Long Tự di chiếu lệnh lấy Tề Thiên hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, Thuận Thánh Nguyên phi làm Hoàng thái phi. Nguyên phi giấu chiếu đi, tự xưng là Hoàng thái hậu, cùng với thầy thuốc dưới trướng là Gia Luật Hí Tôn mưu tính, sai người vu cáo Tề Thiên mưu phản, dùng xe nhỏ chở đi, giam ở Thượng Kinh, không lâu sau thì bắt thắt cổ chết, giết hơn trăm người tả hữu, chôn theo lễ thứ dân ở núi Bạch Mã, châu Tổ.
Ban đầu, khi Long Tự sắp chết, dặn dò Mộc Bất Cô rằng: “Hoàng hậu phụng sự ta bốn mươi năm, vì không có con nên ta lệnh cho ngươi kế vị. Sau khi ta chết, mẹ con ngươi tuyệt đối không được giết bà.” Sau này, Mộc Bất Cô đi săn qua núi Bạch Mã, nhớ lại lời cha, khóc bên mộ, rồi dời mộ chôn bên cạnh mộ A Bảo Cơ.
Mộc Bất Cô là con thứ tám của Long Tự, ban đầu phong làm Lương vương, sau lập làm Hoàng thái tử. Khi lên ngôi, đổi tên là Tông Chân, đổi niên hiệu là Cảnh Phúc, việc quân quốc đều do mẹ ông chuyên quyền, sau đó tôn hiệu là Pháp Thiên Hoàng thái hậu.
Hàng năm, vào thượng tuần tháng giêng, người Khiết Đan đi săn bắn, kéo dài sáu mươi ngày. Sau đó, cùng nhau đục băng trên sông Thát Lỗ để câu cá, khi băng tan thì thả chim ưng đi bắt ngỗng, nhạn.
Mùa hè ở núi Thán Sơn hoặc Thượng Kinh để tránh nóng.
Thượng tuần tháng bảy, lại vào núi săn hươu, nửa đêm sai thợ săn thổi tù và bắt chước tiếng hươu kêu, khi hươu tập trung lại thì bắn.
Họ khác thì bị coi thường, chỉ coi trọng họ Gia Luật và Tiêu.
Quan chức có Khiết Đan Xu mật viện và Hành cung đô tổng quản ty, gọi là Bắc diện, vì nằm ở phía bắc trướng, để quản lý việc của người Khiết Đan; lại có Hán nhân Xu mật viện, Trung thư tỉnh, Hành cung đô tổng quản ty[8], gọi là Nam diện, vì nằm ở phía nam trướng, để quản lý việc của người Hán. Chức Dịch ẩn là người tông thất; Di li tất là Tham tri chính sự; Lâm nha là Hàn lâm học sĩ; Di li cân là Thứ sử.
Quan chức trong ngoài phần nhiều mô phỏng theo Trung Quốc.
Các thuộc hạ thì có Xưởng sử, Mộc cổ, chữ “Cổ” nghi là chữ “Trực”, cần xem xét thêm. Tư nô cổ, Đô nô cổ, Đồ nô cổ. Phân chia quản lý binh mã thì có Thống quân, Thị vệ, Khống hạc ty, Nam vương, Bắc vương, Hề vương phủ năm trướng phân chia Đề thất ca, Đông Tây đô tỉnh Thái sư binh. Lại có Quốc cữu, Kiềm hạt, Dao liễn, Thường cổn các ty, Nam Bắc bì thất hai mươi bộ tộc Tiết độ, Tần tất lí, Cửu khắc, Hán nhân, Bột Hải, Nữ Chân năm Tiết độ, Ngũ trị Thái sư, một trăm, sáu trăm, chín trăm nhà Hề.
Quan chức trong ngoài đến một trăm, sáu trăm, chín trăm nhà Hề, đều là được tăng thêm.
Phàm dân từ 15 tuổi trở lên đến 50 tuổi trở xuống, đều được ghi vào sổ để làm lính. Khi chuẩn bị xuất quân, tất phải giết trâu xám, ngựa trắng để tế trời đất, mặt trời và thần núi Mộc Diệp.
Đúc phù bằng vàng hình cá để điều động quân mã. Khi bắt ngựa và truyền lệnh thì có 200 tấm bài bằng bạc. Chỗ quân đóng trại, có ngựa thám thính xa, ban đêm nghe tiếng người và ngựa.
Mỗi khi Vua lên ngôi, tập hợp những hộ dân bị cướp bóc, ngựa, trâu, vàng, lụa cùng những người bị bắt làm nô lệ hoặc phạm tội bị tịch thu, lập thành hành cung riêng để quản lý. Xây dựng châu huyện, đặt quan chức.
Khi Vua chết, dựng lều lớn, đúc tượng vàng.
Vào ngày sóc, vọng, tiết lễ, ngày kỵ[9], đều tổ chức tế lễ. Xây đài cao hơn một trượng, dùng chậu đốt thức ăn[10], gọi là “thiêu phạn”.
Mười cung đều có hộ dân, xuất binh mã, cung của A Bảo Cơ gọi là Hồng Nghĩa cung, cung của Đức Quang gọi là Vĩnh Hưng cung, cung của Ngột Dục gọi là Tích Khánh cung, cung của Thuật Luật gọi là Diên Xương cung, cung của Minh Ký gọi là Chương Mẫn cung, cung của Đột Dục gọi là Trường Ninh cung, cung của Yến Yến gọi là Sùng Đức cung, cung của Long Tự gọi là Hưng Thánh cung, cung của Long Khánh gọi là Đôn Mục cung, cung của Long Vận gọi là Văn Trung vương phủ.
Lại có bốn lầu, ở Thượng Kinh gọi là Tây lầu, ở núi Mộc Diệp gọi là Nam lầu, ở châu Long Hóa gọi là Đông lầu, ở châu Đường gọi là Bắc lầu.
Phàm khi nhận sắc phong, chất củi lên cao, tập hợp người Phiên ở dưới, xong rồi đốt củi để cáo trời, người Hán không được tham dự.
Có bộ Hỗn Tử gồm 100 người, ban đêm chia làm 50 người thay phiên canh gác. Khi canh tư sắp hết, hát trước trướng, gọi là “Quát trướng”.
Mỗi khi đến núi Mộc Diệp, bắn cành liễu, Hỗn Tử hát bài ca Phiên, người dẫn đầu gảy đàn hồ cầm hòa theo, xong việc thì thôi.
[53] Ba năm một lần thi tiến sĩ, Cống viện dùng giấy dài hai tấc viết tên người đỗ cấp cho họ, gọi là “hỉ thiếp”. Ngày hôm sau, dâng án mà ra, nhạc nổi lên; đến cửa, đánh mười hai chiếc trống, nói là để bắt chước tiếng sấm.
(Chính sử chép đoạn này ở cuối truyện Khiết Đan, so với thực lục chỉ thêm “nội ngoại quan đến sáu trăm lẻ năm nhà Hề”[11], tổng cộng hơn trăm chữ, nay theo thực lục, vẫn phụ vào sau khi Long Tự mất.)
[54] Ngày Canh Thìn, sai Nội thị áp ban Giang Đức Minh tập hợp các quan Ty Thiên trình bày sơ lược về lịch pháp để tâu lên.
[55] Hàn lâm học sĩ Tống Thụ, Tây thượng các môn sứ Tào Tông, Hạ Nguyên Hanh dâng lên sách mới biên soạn về nghi chế của Hoàng thái hậu gồm năm quyển, chiếu đặt tên là 《Nội đông môn nghi chế》.
[56] Cấm hai châu Kiến, Tín dùng tiền mới. Trước đây, có người dâng thư nói hai châu này tiếp giáp nhau, lại đặt trường mua đồng, lại lưu hành tiền mới, dân gian nhân đó đúc tiền giả nhiều, nên cấm.
[57] Ngày Tân Tỵ, Xu mật phó sứ Phạm Ung hết tang, bỏ chức khởi phục.
[58] Ngày Giáp Thân, Điện trung thị ngự sử Dương Giai tâu rằng ngoài cửa Kim Diệu có miếu thờ cát, lại bên cầu Bích Lan có thần gỗ, nhiều người đến cầu khấn, đều mượn danh quỷ thần để mê hoặc dân chúng, xin cấm chỉ, theo lời tâu.
Giai là người Trung Bộ. Thuở nhỏ theo học với Chủng Phóng ở núi Chung Nam[12], đỗ tiến sĩ. Làm Quân sự phán quan ở Hán Châu, trên đường gặp một thuật sĩ nói: “Ông có biết đời có người biến ngói đá thành vàng không?” Liền thử với Giai, đã nghiệm, muốn truyền phương thuật. Giai nói: “Ta đang theo quan lộc, cần gì phải biến vàng?” Thuật sĩ nói: “Chí ông như thế, không phải ta theo kịp.” Ra cửa, bỗng mất tăm.
[59] Ngày Đinh Dậu, Lý Đức Chính nước Nam Bình sai Tri Hoạn châu thứ sử Lý Ốc Thuyên, Tri Ái châu thứ sử Sư Nhật Tân đến tạ ơn gia ân. Phong Ốc Thuyên làm Kiểm hiệu Tư đồ, Hoan châu thứ sử, An Nam Tĩnh Hải hành quân Tư mã; Nhật Tân làm Kiểm hiệu Tư không, Trân châu thứ sử, An Nam Tĩnh Hải tiết độ phó sứ.
[60] Ngày Mậu Tuất, cách chức Quảng Nam Tây lộ chuyển vận sứ Chương Tần, điều làm Tri Nhiêu châu. Trước đây, Tần đã tố cáo Thủ châu Nghi tham bạo, phạm pháp, nhưng sau khi bị cách chức, Tần lại kiện con trai của mình là Hứa từng bị tội đồ hình nhưng lại mạo tấu làm Hiệu thư lang, nên bị cách chức.
[61] Ngày Kỷ Hợi, Hữu đồn vệ Đại tướng quân, quyền phán Hữu kim ngô nhai trượng ty Lý Phúc được điều về Nam Kinh. Lý Phúc nhiều lần bị kiểm tra, nếu không có gì thì sẽ bị bãi chức.
[62] Hùng châu báo tin Khiết Đan chủ qua đời.
(《Tống triều yếu lục》 chép: Khiết Đan Gia Luật Long Tự qua đời.
Khiết Đan vốn là giống Đông Hồ, đất cũ của Tiên Ty. Thời Nguyên Ngụy, Khiết Đan ban đầu chia làm tám bộ, suy một người làm chủ, ba năm thay một lần. A Bảo Cơ mạnh không chịu thay, xưng quốc hiệu là Đại Liêu.
A Bảo Cơ chết, con là Đức Quang lên ngôi. Đức Quang chết, con của Đột Dục là Ngột Dục lên ngôi, bị anh họ là Yến Vương hại chết.
Con của Đức Quang là Thuật Luật lên ngôi, bị đầu bếp giết.
Năm Khai Bảo thứ hai, con của Ngột Dục là Minh Ký bị bệnh phong, việc nước đều do vợ là Yến Yến quyết định.
Minh Ký chết, con là Long Tự lên ngôi, tôn mẹ là Yến Yến làm Thừa Thiên Hoàng thái hậu, đổi quốc hiệu Đại Liêu thành Đại Khiết Đan.)
[63] Ngày Tân Sửu, ngừng thiết triều bảy ngày. Ở kinh đô và các vùng biên giới Hà Bắc, Hà Đông cũng cấm âm nhạc bảy ngày.
Lệnh Ngự sử trung thừa Vương Tùy làm Tế điện sứ, Tây thượng các môn sứ Tào Nghi làm phó; Long đồ các đãi chế Khổng Đạo Phụ làm Hạ đăng vị sứ, Sùng nghi phó sứ Tôn Kế Nghiệp làm phó; Long đồ các đãi chế Mai Tuân làm Quốc mẫu điếu ủy sứ, Chiêu châu thứ sử Trương Luân làm phó; Diêm thiết phó sứ, Ty phong viên ngoại lang Vương Tông làm Quốc chủ điếu uỷ sứ, Nội điện thừa chế, Các môn chi hậu Hứa Hoài Tín làm phó.
[64] Mùa thu, tháng 7, ngày Bính Ngọ mùng một, Khiết Đan phái Phụng Lăng quân Tiết độ sứ Gia Luật Khất Thạch đến báo tang. Vua mặc tang phục ở điện trướng cửa Đông trong cung, dẫn sứ giả vào cửa Tả Dịch, qua cửa Tả Thăng Long, vào cửa bên tây triều đường. Đến cửa điện Văn Đức, Phụng thư bác sĩ tán đạo từ thềm tây đến dưới thềm cửa Tây Thượng Cáp, hướng bắc, quỳ giao thư cho Cáp môn sứ, Cáp môn sứ trao cho Nhập nội đô tri để dâng lên. Sau đó dẫn sứ giả vào yết kiến ở điện trướng, Vua hướng về nước họ khóc năm tiếng rồi thôi[13]. Hoàng thái hậu khóc theo nghi thức như trên. Sai cận thần đến quán khách viếng thăm, mặc thường phục, đai đen, đi giày, không đeo ngọc.
[65] Ngày Bính Thìn, xuống chiếu cho các châu Hà Bắc không được dùng hộ thượng đẳng phường quách bổ làm Nha tiền quân tướng, Thừa dẫn khách ty. Lúc đó có người dâng thư nói Hà Bắc thường sai hộ thượng đẳng phụ trách kho tàng công dụng, đến nỗi có người bị phá sản, nên quy định lại.
[66] Ngày Mậu Ngọ, lệnh cho Xu mật trực học sĩ Khấu Giam làm Hạ Khiết Đan đăng vị sứ. Đổi Hạ đăng vị sứ Khổng Đạo Phụ làm Khiết Đan mẫu sách lễ sứ, Tây nhiễm viện sứ Ngụy Chiêu Văn làm phó. Khiết Đan mẫu sách lễ sứ bắt đầu từ đây.
[67] Ngày Đinh Mão, giáng chức Quyền Tam ty sứ, Cấp sự trung Hồ Tắc làm Tri châu Trần; Điện trung thị ngự sử Vương Duyên đợi hết tang, cho làm Tri châu nơi nhỏ hẻo lánh. Trước đây, Tắc làm Đô chuyển vận sứ Hà Bắc, Duyên từng mượn thuyền quan của Tắc buôn muối, lại dùng tên con mình xin mua trường rượu. Trương Tông Hối tố cáo việc này. Triều đình tuy trách Tông Hối, nhưng lại giao việc này cho Chuyển vận ty xét, xác thực, nên Tắc và Duyên đều bị trị tội.
[68] Ngày Nhâm Thân, cho con của Tả thị cấm, Toàn Thiệu đẳng châu Đồng tuần kiểm sứ Lưu Hàn là Thủ Thanh làm Tam ban tá chức, vì Hàn tử trận khi đánh giặc Man.
[69] Ngày Quý Dậu, lấy Hàn lâm Thị giảng học sĩ, kiêm Long đồ các học sĩ, Binh bộ Thị lang Tôn Thích làm Công bộ Thượng thư, nhậm chức Tri Duyện châu.
Mỗi khi Vua ngự kinh diên, đặt giá sách hướng ra ngoài để tiện cho các quan hầu giảng đọc. Thích tuổi cao mắt mờ, nếu trời âm u thì dời chỗ ngồi của Vua ra ngoài điện. Khi Thích giảng đến chuyện các Vua loạn đời trước mất nước, thường nhắc đi nhắc lại để khuyên răn, Vua chăm chú nghe. Thích từng vẽ bức tranh “Vô dật đồ” dâng lên, Vua đặt ở nơi giảng đọc.
Vua và Thái hậu mỗi khi gặp Thích đều đối đãi rất trọng hậu. Thích ba lần xin nghỉ hưu, Vua triệu vào điện Thừa Minh khuyên nhủ, Thích khóc nói mình đã hơn bảy mươi tuổi, Vua cũng động lòng. Vua sai Thích cùng Phùng Nguyên giảng ba chương sách “Lão Tử”, mỗi người được thưởng hai trăm tấm lụa. Vì không được nghỉ hưu, Thích xin về nhậm chức ở quận gần, nên Vua ban cho chức này, lại sai đợi sau buổi yến tiệc mới lên đường.
[70] Ngày Giáp Tuất, Quyền Độ chi Phán quan, Hữu Chánh ngôn Trần Chấp Trung thôi chức Độ chi Phán quan, đến Viện Gián làm việc. Triều đình kế thừa tệ nạn từ thời Ngũ đại, quan chức không giữ đúng chức phận, nên quan, chức và sai khiển tách làm ba. Quan chức hiện nay chỉ dùng để định bổng lộc, không thực sự đảm nhiệm công việc. Các chức Gián nghị đại phu, Tư gián, Chánh ngôn đều phải có chiếu chỉ riêng cho phép đến Viện Gián làm việc mới được gọi là quan gián.
[71] Tháng 8, ngày Đinh Sửu, Thái tử Thiếu bảo về hưu, được tặng chức Hữu Bộc xạ là Mã Lượng mất. Lượng có mưu trí, nhanh nhạy trong việc chính sự, nhưng không có tiếng thanh liêm. Lữ Di Giản lúc trẻ theo cha làm huyện lệnh Phúc Châu, Lượng thấy lấy làm lạ, gả con gái cho. Vợ Lượng là Lưu giận nói: “Gả con gái cho con trai huyện lệnh sao?” Lượng nói: “Ngươi không hiểu được.” Khi Lượng mất, Di Giản đang làm tể tướng, Hữu ty đặt thụy là Trung Túc, nhưng mọi người không cho là đúng.
[72] Ngày Tân Tỵ, lấy Thiên chương các Đãi chế Phạm Phúng làm sứ sang chúc mừng Khiết Đan đăng quang, vì Khấu Giam bệnh không đi được. Phúng đi qua phía bắc U Châu, thấy đồng bằng rộng rãi, cảm khái nói: “Đây là đất chiến trận, chẳng phải cũng tốt sao!” Người phương Bắc nhìn nhau không dám đáp.
[73] Ngày Nhâm Ngọ, xuống chiếu tha chết cho dân Lưu Ngọc ở châu Đơn, đánh trượng, đưa đi quản thúc ở châu Tế. Trước đây, cha của Ngọc bị dân Vương Đức đánh chết, nhưng Đức được tha tội, Ngọc bèn giết Đức để báo thù cho cha, theo luật phải xử tử, nhưng đặc cách tha chết.
[74] Ngày Bính Tuất, xuất 60 vạn tấm lụa từ kho nội phủ, cấp cho Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà Đông để mua lương thảo.
[75] Ngày Mậu Tý, xuống chiếu rằng những người giữ chức Tiết độ Hành quân Tư mã kiêm Thư châu sự, được xếp trên các quan chức trong mạc phủ, từ nay không bổ nhiệm người phạm tội nữa.
[76] Ngày Nhâm Thìn, Hồ Tắc, Tri châu Trần, Cấp sự trung, được bổ làm Công bộ Thị lang, Học sĩ Viện Tập hiền. Thị ngự sử tri tạp sự Lưu Tùy tấu rằng Tắc gian tà tham lam nổi tiếng khắp thiên hạ, trước đây được lệnh làm Tri châu Trì nhưng không chịu đi, làm Tam ty sứ rồi bị cách chức vì tội lỗi; nay lại được bổ nhiệm chức vụ tốt đẹp, làm sao khuyến khích được người đương chức! Điện trung Thị ngự sử Quách Khuyến xin thu hồi chức vụ của Tắc. Đều không được trả lời.
[77] Ghi chép con trai của Lật Thủ Trực, Hữu thị cấm, Đô tuần kiểm sứ châu Toàn, Thiệu, Vĩnh là Hóa Thành làm Tam ban tá chức, vì Thủ Trực tử trận khi giao chiến với người Man.
(Cần xem xét cùng sự kiện Lưu Hán tử chiến.)
[78] Ngày Bính Thân, ban cho Phạm Kháng, Điện trung thừa, học vị đồng Tiến sĩ xuất thân. Kháng là anh của Phạm Ung, Xu mật phó sứ, từng thi đỗ Tiến sĩ, được học vị Đồng học cứu xuất thân, lúc này Viện Thẩm quan xét khóa trình nên được thăng chức, Ung xin nộp chức vụ được thăng để đổi lấy học vị, nên đặc cách ban cho.
[79] Ngày Mậu Tuất, lại xuất 50 vạn quan tiền từ kho nội phủ để mua lương thảo ở Hà Bắc.
[80] Ngày Tân Sửu, xuống chiếu rằng từ nay ở châu Tần, nếu người Phiên phạm tội đã xử mà không chịu cải tạo thì lập tức giết chết, không cần tâu báo.
[81] Tháng 9, ngày Bính Tý, Tôn Chiêu, Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu, Đô đại Tuần kiểm đê sông Biện, xin đắp bờ gỗ ở cửa Tưu, huyện Ung Khâu để ngăn dòng nước, được chấp thuận.
[82] Ngày Quý Hợi, tế ở cung Tây Thái Nhất, ban trà và lụa cho những người cày ruộng bên đường.
[83] Ngày Kỷ Tỵ, Trình Lâm, Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, được bổ nhiệm làm Cấp sự trung, quyền Tri Khai Phong phủ. Khấu Giam qua đời, Vua sai Trình Lâm thay thế.
Con của Vương Mông Chính là Vương Tề Hùng đánh chết một lão binh, vợ và con của người này khai bệnh, xin không khám nghiệm tử thi. Trình Lâm thấy lời nói và sắc mặt của họ có điều khác thường, bèn lệnh cho quan chức khám xét, phát hiện ra tình trạng bị đánh chết. Vương Mông Chính là người thân của Thái hậu, Thái hậu nhân lúc Trình Lâm vào chầu, nói: “Tề Hùng không phải là kẻ giết người, chỉ là tên nô tì của hắn đã đánh người đó thôi.” Trình Lâm đáp: “Nô tì không có quyền tự chuyên, mà việc sai khiến cũng giống như tự mình phạm tội.” Thái hậu im lặng, sau đó xử án theo pháp luật.
Người họ hàng ngoại thích là Ngô thị bỏ chồng là Lý Hàm Hi, đem con gái và cháu gái về nhà mình. Lý Hàm Hi kiện lên phủ, Trình Lâm lệnh trả lại con gái, nhưng Ngô thị nói: “Đã đưa vào cung rồi.” Trình Lâm liền tâu lên Vua, và nói: “Nếu thần không nói, e rằng các quan ngự sử sẽ có lời bàn về bệ hạ.” Vua vội vàng ra lệnh trả lại con gái.
(Hai việc này được ghi chép thêm.)
[84] Vua xuống chiếu lấy 60 vạn tấm lụa từ kho Nội tàng, giao cho Hà Bắc để đổi lấy lương thực dự trữ quân sự. Từ hộ loại ba trở lên, cứ mỗi hộ nộp thuế một thạch thì phải đóng góp năm đấu.
[85] Ngày Canh Ngọ, bổ nhiệm Vương Tăng, Lại bộ thượng thư, Tri Thiên Hùng quân, làm Chương Đức tiết độ sứ, vẫn giữ chức Tri Thiên Hùng quân. Sứ giả Khiết Đan đi qua đây, đều phải chỉnh đốn xe ngựa rồi mới đi qua, không ai dám hò hét lớn tiếng. Dân chúng yêu mến chính sự của ông, vẽ tranh và lập đền thờ sống.
[86] Ngày Quý Dậu, lấy nơi ở của Bốc Tòng Thâm ở khe Tử Nham, châu Lộ làm Huệ Tế viện, và cho Tòng Thâm làm tăng, mỗi năm độ năm đứa trẻ làm tăng. Ban đầu, Tòng Thâm ở khe Tử Nham, bắc cầu dài 20 trượng, xây hơn 30 gian nhà, chưa từng bước chân vào thành thị, chỉ ăn rau cỏ, nguyện đem nhà mình xây dựng làm chùa, nên Vua đặc biệt ban tặng.
[87] Vua xuống chiếu cho các châu quân ở biên giới phía Tây, từ nay chọn quan Đồng phán là những người đã từng làm quan ở kinh đô, có tâm lực và thanh liêm.
[88] Tháng 10, mùa đông, ngày Mậu Dần, Vua xuống chiếu rằng các quan ở Quán các từ ngoài trở về, chưa đầy một năm, không được xin bổ nhiệm ra ngoài.
[89] Ngày Kỷ Mão, lấy Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc học sĩ Tống Thụ làm Long đồ các học sĩ, tri ứng Thiên phủ.
Lúc bấy giờ Thái hậu vẫn xưng chế, năm ngày một lần ngự ở điện Thừa Minh, buông rèm quyết định việc, mà Vua chưa từng một mình tiếp đối quần thần. Tống Thụ tâu: “Vào niên hiệu Tiên Thiên đời Đường, Duệ Tông làm Thái thượng hoàng, năm ngày một lần chịu triều, xử lý các việc trọng yếu quân quốc, bãi miễn quan tam phẩm trở lên, quyết án trọng hình; Minh Hoàng mỗi ngày nghe triều, bãi miễn quan tam phẩm trở xuống, quyết án đồ hình. Nay nên ước theo chế độ thời Tiên Thiên, lệnh cho quần thần đối ở tiền điện, những việc không phải quân quốc đại sự và bãi miễn, đều ở tiền điện xin chỉ dụ.”
Tấu chương dâng lên, trái ý Thái hậu, nên bị mệnh ra ngoài giữ chức. Thị ngự sử tri tạp sự Lưu Tùy, Điện trung thị ngự sử Quách Khuyến đều tâu rằng Tống Thụ có tài văn chương, nên lưu lại triều đình, không nên để ra ngoài[14], nhưng không được nghe theo.
(Bản truyện của Quách Khuyến còn nhắc đến Đỗ Diễn, và nói rằng Đỗ Diễn đang ở Giang Lăng. Lúc này Đỗ Diễn đang làm Hộ bộ phó sứ, đến khi Đỗ Diễn được bổ làm tri Kinh Nam, thì Quách Khuyến đã ra ngoài, nên bỏ không chép. Lưu Tùy giữ Tống Thụ lại, căn cứ theo minh văn mộ chí của Lưu Tùy.)
[90] Ngày Nhâm Ngọ, xuống chiếu: “Các châu tri châu, đồng phán đứng trên các quan bản châu, Binh mã đô giám hoặc các ty phó sứ trở lên, được phép cùng đồng phán xếp thứ tự. Nội điện thừa chế, Sùng ban, Các môn chi hậu đứng dưới triều thần đồng phán, trên kinh quan đồng phán. Chính viên trưởng lại[15], Tư mã, Biệt giá, đứng trên Lục sự tham quân. Khi gặp trưởng quan, Lục tào đồng tá quan, Y bác sĩ đứng dưới Nhiếp tư mã. Tam ban sai sứ, Điện thị, Tán viên ngoại điện thị, Tán viên ngoại điện trực đứng dưới mệnh quan, trên Nhiếp trưởng lại, những người tạm quyền làm quân hiệu, theo nghi thức quân hiệu.”
[91] Ngày Ất Dậu, lấy Độ chi viên ngoại lang, Tri chế cáo Trịnh Hướng làm sứ sinh thần sang Khiết Đan, Cung bị khố sứ Quách Tuân Phạm làm phó; Hoài Nam Giang Chiết Kinh Hồ chế trí phát vận sứ, Từ bộ lang trung Nhậm Bố làm sứ chánh đán sang Khiết Đan, Tả tàng khố phó sứ Vương Tuân Phạm làm phó; Độ chi phán quan, Điện trung thị ngự sử Trần Diễm làm sứ chánh đán sang Khiết Đan, Tây nhiễm viện phó sứ, Cáp môn tuyên sự xá nhân Vương Khắc Trung làm phó.
[92] Thị ngự sử tri tạp sự Lưu Tùy tâu: “Những năm gần đây, các quan nhỏ mọn thường cầu may xin xỏ, hoặc khi được gặp mặt thì khóc lóc cầu xin ân huệ, hoặc công lao rất ít mà khoe khoang đòi thưởng. Cũng có những bậc đại thần ở biên cương, địa vị cao quyền trọng, mà biểu chương không khiêm tốn, tấu xin không biết chán. Các cơ quan án sát thì an nhàn ngó ngàng, lấy việc bao che kẻ gian làm đại thể, lấy việc làm tròn chức trách là cầu danh, lấy sự xảo trá làm hiền, lấy sự nhàn nhã làm vụng, đến nỗi kẻ tham tàn thì tham lam của cải[16], kẻ già yếu thì không biết dừng đủ. Xin hãy cảnh cáo răn đe.”
Ngày Bính Tuất, có chiếu rằng: “Công khanh đại phu, nên giữ gìn danh tiết để làm dày phong hóa, mà có kẻ tự làm mình uổng để cầu danh, làm điều nguy hiểm để giữ lấy ân sủng, vu cáo chấp chính, can nhiễu cơ quan, bề tôi ở biên cương thì nhiều điều thỉnh cầu, sứ giả thì lơ là việc giám sát, mưu lợi riêng chiếm lộc, Trẫm còn trông mong gì nữa! Tất cả các quan tại chức, hãy cố gắng tu tỉnh, đừng sa vào tà vạy, để nghiêm minh phép nước.”
[93] Ngày Ất Mùi, ban chiếu rằng các quan thường tham tri được bổ nhiệm ra ngoài, không được tâu cử người được tuyển làm quan kinh đô. Vương xưng trong 《Đông Đô Sự Lược》 nói: “Trẫm tuân theo mưu kế của các bậc thánh trước, nhận sự dạy bảo của từ thần, đến nay đã tám năm rồi. Thế mà trong hàng ngũ sĩ đại phu, danh tiết chẳng được khuyến khích. Kẻ tự phụ công lao thì cướp lấy vẻ đẹp để gần danh, kẻ mong tiến thân thì làm việc nguy hiểm để cầu lấy ân sủng. Vu cáo chấp chính, can nhiễu các cơ quan. Kẻ được phân phong làm bình hàn thì có người xin tấu không biết chán, kẻ chủ trì việc án sát thì có người lấy sự khoan dung làm đắc sách. Tham lam mà không biết xấu hổ, chỉ lo mưu cầu tư lợi, già cả mà không có tài năng, chẳng biết lui về. Do liêm sỉ chưa được tu dưỡng, nên phong hóa chưa được thuần hậu.
Đây há phải là điều Trẫm mong đợi sao! Nay dựa vào lời dạy của điển huấn, nghiêm khắc răn bảo mọi người. Nếu có chút gì vi phạm quan châm, sẽ tự đưa mình vào công hiến. Hãy bố cáo khắp nơi, để hiểu ý Trẫm.”
[94] Ngày Nhâm Dần, bãi chức chuyển vận phán quan của các lộ Ích, Tử, Quảng Nam.
[95] Ban chiếu rằng vào tiết Trường Ninh, các chùa quán trong thiên hạ có cất giữ thư ngự bút của Thái Tông, nếu hợp lệ độ tăng đạo thì làm như tiết Càn Nguyên.
[96] Tháng 10 nhuận, ngày Bính Ngọ, giáng chức Xu mật trực học sĩ, Cấp sự trung Lý Tư làm Tả gián nghị đại phu, vì tội thất trách bảo lãnh.
[97] Ngày Kỷ Dậu, Khiết Đan sai Công bộ thượng thư Tiêu Đức Thuận, Sùng lộc khanh Lý Khả Phong đem vật phẩm di lưu của Long Tự đến dâng.
[98] Ngày Quý Sửu, ban chiếu cho Ngự sử đài rằng từ nay sứ Khiết Đan đến yết kiến hay từ biệt, nếu gặp ngày nghỉ hoặc ngày chẵn, đều coi là thường triều.
[99] Ngày Đinh Tỵ, miễn trừ thóc vay của dân châu Từ.
[100] Ngày Canh Thân, Trình Lâm tâu: “Thần cùng Triệu Tư đều là Xu mật trực học sĩ. Tư ở triều trước từng nắm chế cáo trong cung, xin cho Tư đứng trên thần.” Theo lời tâu.
[101] Ngày Nhâm Tuất, Ty thiên giám dâng lịch Sùng Thiên đã tu sửa lại.
[102] Ngày Quý Hợi, Diêm thiết phó sứ Tư phong viên ngoại lang Vương Tông và Hộ bộ phó sứ Hình bộ viên ngoại lang Đỗ Diễn đều được bổ nhiệm làm Thiên Chương các đãi chế.
Trước đây, Mã Quý Lương từng đề xuất: “Thương nhân ở kinh sư thường dùng giá rẻ để mua lại giấy giao dịch trà và muối, xin triều đình đặt cơ quan thu mua.” Lúc đó, Quý Lương đang nắm quyền, các cơ quan không dám trái ý ông, chỉ có Tông phản đối, nói: “Cạnh tranh lợi ích với dân, đâu phải là quốc thể!”
Sau đó, Vua gặp Tông, khen ngợi: “Việc quan mua giấy giao dịch, nhờ khanh dũng cảm nói mà bãi bỏ, rất tốt. Các cơ quan xử lý việc nên như vậy.”
Tiết Nhan chết, gia đình nhờ Diễn viết văn bia mộ, nhưng Diễn từ chối. Khi Diễn ở Tam ty, nhân dịp tâu việc, Vua nói với Diễn: “Tiết Nhan có hành vi xấu, khanh không viết văn bia mộ cho ông ta, thật là sáng suốt.” Từ đó, Vua có ý trọng dụng Diễn.
(Sách 《Bảo Huấn》 chép rằng lời Vua nói lúc đó là khi Diễn làm Hộ bộ phó sứ, nay ghi chép kèm theo đây.)
[103] Ngày Mậu Thìn, Tôn Thích, người giữ chức Tri Duyện Châu, Hàn lâm thị độc học sĩ, Công bộ thượng thư, xin từ chức.
Vua mở tiệc ở Thái Thanh lâu, triệu tập Triều Huýnh, Thái tử thiếu bảo đã về hưu, cùng các quan cận thần đều tham dự. Vua viết chữ lớn kiểu phi bạch ban tặng cho hai phủ, còn chữ nhỏ ban cho các học sĩ, riêng Tôn Thích và Triều Huýnh được ban cả chữ lớn và nhỏ. Vua ra chiếu cho quần thần làm thơ ngay tại chỗ.
Vua hỏi Triều Huýnh về tuổi tác và phương pháp dưỡng sinh, ông đáp: “Tuổi của thần đã 81, chưa từng dùng thuốc kim thạch, không ngờ già yếu lại được diện kiến long nhan. Con trai thần là Tông Xác lại được hầu hạ bên cạnh, cùng dự yến tiệc, thật là cơ hội ngàn năm có một.” Vua bèn cho Triều Huýnh ngồi ở phía nam Ngự sử trung thừa. Thái hậu đặc biệt lấy ra những bảo vật trong cung[17] để mời Tôn Thích và Triều Huýnh uống rượu, ban thưởng rất hậu.
Hôm sau, Tôn Thích vào tạ ơn, lại được lệnh giảng 《Lão Tử》, ban cho áo mặc, đai vàng, ngựa có yên cương. Khi lên đường, lại được ban tiệc ở vườn Thụy Thánh, ban thơ, ra chiếu cho các quan cận thần đều làm thơ. Theo chế độ cũ, khi ban tiệc thì Ngự sử trung thừa không được dự, Vương Tùy lúc đó đang làm Ngự sử trung thừa, nói: “Đây là việc lớn, ta không thể không tham dự.” Bèn dâng sớ xin dự, Vua đồng ý. Việc của Vương Tùy, cần xem xét thêm, chuyện này căn cứ theo 《Ký văn》.
[104] Ngày Nhâm Thân, châu Thi nói rằng người Man ở động Khê là Đàm Ngạn Oản[18] cùng đồng bọn cướp phá trại Vĩnh Ninh.
[105] Tháng 11, ngày Mậu Dần, điều động dân phu nạo vét sông Thanh Câu bên phải huyện Oan Cù, châu Tào, theo yêu cầu của Kinh Đông chuyển vận ty.
[106] Ngày Kỷ Mão, ra chiếu cho phủ Hà Nam, ruộng mộ của dân dưới 7 mẫu thì miễn thuế.
[107] Ngày Tân Tỵ, dời Tam quán về Sùng Văn viện. Trước đây, Tam quán và Bí các nằm trong cửa Tả Dịch, ngoài cửa Tả Thăng Long. Năm Đại Trung Tường Phù thứ 8, trong cung xảy ra hỏa hoạn, tạm thời dời ra ngoài cửa Hữu Dịch. Đến lúc này, việc tu sửa Sùng Văn viện hoàn thành, lại dời về. Lữ Di Giản, Chiêu Văn quán đại học sĩ, dâng biểu tạ ơn.
[108] Ngày Đinh Hợi, bãi bỏ lệnh cấm khai thác phèn ở hai xuyên.
[109] Tôn Chính, chức Quyền Châu Phòng ngự sứ, Long Thần Vệ Tứ Sương Đô Chỉ huy sứ, được đổi làm Nghi Châu Phòng ngự sứ, Bối Châu Bộ thự, bị cách chức quản quân vì Ngự sử tâu rằng ông già yếu không đảm đương được công việc.
[110] Ngày Kỷ Sửu, cầu tuyết ở Hội Linh Quán.
[111] Ngày Nhâm Thìn, tuyết rơi.
[112] Ngày Ất Mùi, ban chiếu rằng các quan giám sát kho tàng ở kinh thành không được tái nhiệm.
[113] Trước đây, Lưu Tòng Đức, chức Thái Châu Đoàn luyện sứ, Tri Tương Châu, vì bệnh được triệu về kinh, qua đời trên đường, hưởng thọ 42 tuổi[19], được truy tặng chức Bảo Ninh Tiết độ sứ, phong tước Vinh Quốc công, thụy hiệu Khang Hoài.
Thái hậu thương xót ông rất nhiều, cho ghi chép hơn 80 người thân thích, môn khách và gia nô của ông. Anh rể của Tòng Đức là Mã Quý Lương, chức Long Đồ các Trực học sĩ; anh của mẹ ông là Tiền Duy Diễn, con trai là Tiền Ái, chức Tập Hiền Hiệu lý; cha vợ là Vương Mông Chính, đều nhờ di tấu mà được thăng hai cấp. Đái Dung, chức Đồn Điền Viên ngoại lang, từng giúp Tòng Đức ở Vệ Châu, được làm Độ chi Phán quan.
Thị Ngự sử Tào Tu Cổ, Điện trung Thị ngự sử Quách Khuyến, Dương Giai, Suy trực quan Đoàn Thiếu Liên dâng sớ luận tội. Thái hậu nổi giận, giao sớ cho Trung thư.
Các đại thần xin cách chức Tu Cổ, bổ nhiệm làm Tri Cù Châu, còn lại đều bị giáng chức. Thái hậu cho rằng hình phạt quá nhẹ, ngày Đinh Dậu, giáng Tu Cổ làm Công bộ Viên ngoại lang, Đồng phán Hàng Châu; Khuyến và Giai làm Thái thường Bác sĩ, Khuyến giám sát thuế Duy Châu, Giai giám sát thuế Thư Châu; Thiếu Liên làm Bí thư Thừa, giám sát thuế Liên Thủy quân.
Tu Cổ sau đó được đổi làm Tri Hưng Hóa quân. Thiếu Liên là người Khai Phong.
[114] Con trai của Mã Quý Lương, chức Long Đồ các Trực học sĩ, là Mã Trực Phương, chức Tướng tác Giám chủ bạ, Quán các Độc thư, được bổ nhiệm làm Đại Lý Bình sự. Quý Lương từ chối chức vụ được thăng, nên bổ nhiệm Trực Phương thay thế.
[115] Tháng 12, ngày Bính Ngọ, Khiết Đan phái Quảng Đức quân Tiết độ sứ Gia Luật Lệ, Tứ phương quán sứ Cao Duy Hàn đến tạ lễ sách phong.
[116] Ngày Giáp Dần, xuống chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển, những người được tuyển chọn có cha mẹ từ 80 tuổi trở lên, cho phép tạm bổ nhiệm vào chức vụ gần.
[117] Ngày Canh Thân, Tả ty gián, Long đồ các Đãi chế Khổng Đạo Phụ ra làm Tri châu Tuyên Châu, sau đó đổi làm Từ Châu, rồi lại đổi làm Hứa Châu. Việc Đạo Phụ ra ngoài giữ chức, ắt có nguyên do, cần xem xét.
(Tháng 2 năm sau đổi làm Từ Châu, tháng 3 đổi làm Hứa Châu, nay ghi chép kèm theo.)
[118] Ngày Tân Dậu, gió lớn kéo dài ba ngày rồi ngừng.
[119] Ngày Bính Dần, Khiết Đan phái Chiêu Tín quân Tiết độ sứ Gia Luật Uất, Tây thượng các môn sứ Mã Bảo đến chúc mừng ngày Chính đán của Hoàng thái hậu.
[120] Ngày Đinh Mão, lại phái Chương Vũ quân Tiết độ sứ Tiêu Cách, Tả giám môn vệ Đại tướng quân Triệu Quả đến chúc mừng ngày Chính đán.
[121] Xuống chiếu cho các chức An phủ phó sứ, Đô giám và các sứ thần cùng quản lý công việc An phủ ty ở các lộ dọc biên giới Hà Bắc, Hà Đông, từ nay khi đến kinh đô tâu việc, chỉ được ở lại mười ngày; lệnh cho các môn và Nội thị tỉnh thúc giục lên đường, nếu gặp việc khẩn cấp thì không bị hạn chế này.
[122] Năm đó, thiên hạ báo lên Hộ bộ: chủ hộ là 5.978.065, nhân khẩu là 13.210.924; khách hộ là 3.402.742, nhân khẩu là 5.725.142.
- từng trải qua chức lục sự tham quân đương nhiệm hai năm trở lên, 'lục sự tham quân' nguyên bản là 'lục sự tham quan', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 15-39 sửa lại. ↵
- đạt sáu phần là hợp cách, chữ 'hợp' nguyên bản khuyết, theo sách trên bổ sung. ↵
- Chữ 'tri' nguyên là 'chi', theo 《Văn Chính Công tập》 quyển 11, bài minh bia thần đạo Hồ Công thời Tống, sửa lại. ↵
- mà Xương Triều cũng vì có quan hệ thân thích với Tham tri chính sự Trần Nghiêu Tá nên bị bãi chức, chữ 'thân' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung ↵
- Đổi Hậu Đức Vô Cương thành Đức Hợp Vô Cương, 'Đức Hợp' nguyên bản là 'Hợp Đức', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa lại. ↵
- 'Bệnh' nguyên bản là 'Tật', căn cứ theo sách trên đã sửa ↵
- Lý Hữu Văn trong bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 《Khiết Đan quốc chí》 quyển 8 đều chép là 'Lý Văn Phúc'. ↵
- Chữ 'Quản' trong 'Hành cung đô tổng quản ty' vốn bị khuyết, căn cứ theo phần trên của sách này 'Hành cung đô tổng quản ty' và quyển 23 sách 《Khiết Đan quốc chí》 về chế độ quan chức bổ sung. Xét 《Khiết Đan chí》 chép: 'Lại có Hán nhân Xu mật viện, Trung thư tỉnh, Hành cung đô tổng quản ty, gọi là Nam diện, vì nằm ở phía nam trướng, để quản lý việc của người Hán.' 《Liêu sử》 quyển 47 phần Bách quan chí thì liệt kê Hán nhân Xu mật viện, Trung thư tỉnh dưới Nam diện triều quan; Hành cung đô bộ thự ty dưới Nam diện cung quan, bộ thự ty chính là tổng quản ty. ↵
- Ngày sóc, vọng, tiết lễ, ngày kỵ: hai chữ 'thần', 'kị' ban đầu bị đảo, căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản các và sách 《Khiết Đan quốc chí》 sửa lại cho đúng. ↵
- Dùng chậu đốt thức ăn: sách 《Khiết Đan quốc chí》 chép là 'dùng chậu đốt rượu và thức ăn'. ↵
- Nội ngoại quan đến sáu trăm lẻ năm nhà Hề: Xét theo phần trên và chú thích của bản này đều ghi là nội ngoại quan 'đến một trăm, sáu trăm, chín trăm nhà Hề', chỗ này nghi có sai sót. ↵
- Thuở nhỏ theo học với Chủng Phóng ở núi Chung Nam: Chữ 'ư' nguyên bản khuyết, theo 《Tống sử》 quyển 300 truyện Dương Giai bổ sung. ↵
- Vua hướng về nước họ khóc năm tiếng rồi thôi: 'Ngũ cử ai', các bản đều chép là 'Ngũ cử âm', bản Tống và bản Tống Toát Yếu đều thêm chữ 'Khốc' trước 'Ngũ cử âm'. Theo 《Tống hội yếu》 Lễ 41-10 chép: 'Đợi Thái thường khanh tâu xin, liền hướng về nước họ mà khóc, năm tiếng rồi thôi.' Câu này trong sách nên theo bản Tống. ↵
- Không nên để ra ngoài 'để' nguyên tác là 'xuất', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và Biên niên cương mục quyển 9, Tống sử toàn văn quyển 7 trên sửa lại. ↵
- Chính viên trưởng lại 'trưởng lại', nghi là 'trưởng sử'. ↵
- 'Tàn' nguyên bản là 'Tiện', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Tống sử》 quyển 297, Lưu Tùy truyện sửa lại. ↵
- Thái hậu đặc biệt lấy ra những bảo vật trong cung, chữ 'đặc' nguyên bản là 'thời', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Biên niên cương mục quyển 9 sửa lại. ↵
- Đàm Ngạn Oản nguyên bản là 'Đàm Ngạn Oản', căn cứ theo 《Thập triều cương yếu》 quyển 5 và 《Tống sử》 quyển 493, truyện Man Di sửa lại. ↵
- Theo 《Tống sử》 quyển 463, truyện Lưu Tòng Đức, ông mất năm 24 tuổi; khi cha là Lưu Mỹ mất, Tòng Đức mới 14 tuổi. Cùng quyển, truyện Lưu Mỹ, Lưu Mỹ mất năm Thiên Hi thứ 5, đến năm Thiên Thánh thứ 9 khi Tòng Đức mất, vừa đúng 10 năm. Nghi ngờ '42 tuổi' là sai, nên sửa thành '24 tuổi'. ↵