"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 158: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 6 (BÍNH THÂN, 1046)

Từ tháng giêng đến tháng 6 năm Khánh Lịch thứ 6 đời Nhân Tông.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Mậu Tý, Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Hộ bộ lang trung, Tri chế cáo Vương Nghiêu Thần bị miễn chức Tam ty sứ, được bổ làm Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, kiêm Đoan minh điện học sĩ, Quần mục sứ.

Nghiêu Thần phụ trách kế toán suốt ba năm, người tiền nhiệm là Diêu Trọng Tôn đã mượn vài trăm vạn tiền từ kho nội phủ, lâu ngày không thể trả được, Nghiêu Thần liền căn cứ sổ sách mà trả hết, nhưng chi phí quân quốc vẫn dư dả, vì chưa từng tăng thuế dân. Các chuyển vận sứ ba lộ Ích, Tử, Quỳ đều xin tăng thuế muối, mỗi năm có thể thu thêm hơn mười vạn tiền, nhưng Nghiêu Thần kiên quyết không đồng ý. Vua hỏi lý do, ông đáp: “Dung, Thục là vùng xa xôi hẻo lánh, ơn Vua ít đến, nhưng cống nạp thường gấp đôi, sức dân vì thế mà kiệt quệ. Triều đình chưa có biện pháp cứu tế, lại còn mưu lợi, đó là làm khổ dân thêm. Tuy có lợi nhỏ, nhưng chắc chắn sẽ gây tổn hại lớn.” Vua khen ngợi lời đáp của ông.

Tuy nhiên, do quyền thần ghen ghét, ông thường bị chèn ép, trong kinh thành nhiều lần có lời đồn thổi, và những người thân cận của Vua cũng thường gièm pha khuyết điểm của ông, nhưng Vua đều không để ý, còn Nghiêu Thần vẫn ung dung tự tại. Sau đó, ông tâu với Vua: “Tài năng của thần chỉ đến thế này thôi. Hơn nữa, mẹ thần đã già, xin được giải nhiệm việc nặng nhọc.” Sau khi bị miễn chức, Vua an ủi ông. Nghiêu Thần cúi đầu nói: “Không phải do tài năng của thần, mà là nhờ bệ hạ tin dùng thần mà thôi.”

Trước đây, các học sĩ Tô Dịch Giản và Đinh Độ từ chức Lang trung được thăng làm Trung thư xá nhân sung Thừa chỉ, đến khi Nghiêu Thần làm Thừa chỉ thì không được thăng quan, đó là do Tể tướng Giả Xương Triều chèn ép.

[2] Trước đó, nước Hạ sai Dương Thủ Tố mang biểu và bản đồ đến dâng chín thành trại Ngọa Thượng Bàng, Ngô Di, Dĩ Bố, cùng đòi lại hơn bốn trăm hộ dân vượt biên giới. Tuy nhiên, các thành trại dâng lên đều thuộc đất Hán, chỉ dùng tiếng Phiên để gây rối, còn các hộ dân biên giới chạy sang cũng vốn thuộc đất Hán, không nên trả lại. Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu dụ Vua nước Hạ, lại thêm điều khoản thề ước, từ nay ai vượt biên giới, dù trước là dân biên giới, cũng không được dung nạp, còn biên giới phía bắc chỉ lấy nội dung trong chiếu thư thề ước làm chuẩn.

[3] Ngày Nhâm Thìn, quan Phán châu Tịnh là Hạ Tủng xin thân chinh dẫn quân tuần tra biên giới, bàn việc Tây Bắc, được chấp thuận. Ngày Quý Tỵ, bổ nhiệm Như Kinh phó sứ, Nội thị áp ban Thạch Toàn Bân làm Kiềm hạt châu Tịnh và Đại, theo Hạ Tủng tuần tra biên giới.

[4] Chiếu cho Điện tiền ty, từ nay dẫn người thi võ nghệ, con cháu quan văn võ được bổ làm Ban hàng, nếu là quân nhân thì cho phép thăng chức trong quân tịch[1].

[5] Tặng Thái tử Thái sư, thụy Trung Hiến, Phạm Ung mất. Ung trị dân khoan dung, thích mưu lược nhưng ít thành công, khi ở Thiểm Tây từng xin đặt giám đúc tiền ở Thương, Quắc, nhưng cuối cùng không thực hiện được. Lại thu gom trâu khắp các lộ để khai khẩn ruộng đồn điền, nhưng cũng bị bãi bỏ. Ông rất biết người, thích tiến cử kẻ sĩ[2], sau này nhiều người được làm đến công khanh. Địch Thanh lúc đầu làm Tiểu hiệu, phạm tội đáng chém, Ung tha cho.

(Việc đúc tiền ở Thương, Quắc cuối cùng không thực hiện được, tháng 6 năm thứ 8 chưa rõ chi tiết.)

[6] Ngày Giáp Ngọ, sai Hàn lâm học sĩ Tôn Biện quyền chức Tri cống cử.

[7] Ngày Bính Thân, Hàn lâm học sĩ, Lễ bộ lang trung, Tri chế cáo, Sử quán tu soạn Tô Thân được bổ làm Lại bộ lang trung, Hàn lâm thị độc học sĩ, Tập hiền điện tu soạn, tri Hà Dương.

Tô Thân ham mê tiến thủ, giỏi hãm hại người khác, các quan đều sợ hãi. Có người dâng tấu tố cáo việc này, nên ông bị điều ra ngoài. Tô Thân từ Dương Châu trở lại Hàn lâm chưa đầy ba tháng. Năm đó, ông mất tại Hà Dương. Tô Thân cùng Lương Thích đều ở trong cấm đình, người đời cho là họ xảo quyệt, nên có câu: “Cỏ đầu gỗ chân, hãm người ngã ngửa.” Chính truyện chép: Tô Thân âm thầm dâng sớ nói Vương Đức Dụng “nhà nằm trên gò cao, tướng mạo giống Vua Nghệ Tổ.” Vua ghét điều này, giấu sớ không hạ xuống, rồi đuổi Tô Thân.

(Xét Vương Đức Dụng bị bãi chức Xu mật vào tháng 5 năm Bảo Nguyên thứ hai, lúc đó Tô Thân chưa vào Hàn lâm. Khi Tô Thân vào Hàn lâm, Vương Đức Dụng đã không còn ở Xu mật viện. Lời nói về nhà và tướng mạo, Khổng Đạo Phụ cũng từng dâng tấu về Vương Đức Dụng, không riêng gì Tô Thân. Phụ truyền chỉ chép rằng có người tố cáo Tô Thân ham tiến thủ nên bị đuổi, không nhắc đến việc dâng sớ về Vương Đức Dụng, nay theo đó.

Sách 《Ngụy Thái tạp ký》 chép: Nhân Tông sau khi đuổi Lâm Vũ, nói với các quan chấp chính: “Các khanh cho rằng Lâm Vũ đi rồi thì triều đình không còn tiểu nhân sao?” Các quan chưa hiểu ý Vua, Nhân Tông nói: “Tô Thân có thể làm Thị độc học sĩ, tri Hà Dương.” Xét Lâm Vũ bị đuổi vào tháng 2 năm Khánh Lịch thứ hai, Tô Thân đến tháng 7 năm thứ ba mới từ chức Hàn lâm đổi làm Long đồ các học sĩ, tri Dương Châu[3], còn việc tri Hà Dương là vào tháng giêng năm thứ sáu, Ngụy Thái sai lầm nhiều, nay không theo.)

[8] Chiếu rằng giặc Dao ở Đạo Châu, Quế Dương Giám chưa yên, tạm đặt một chức Đô tuần kiểm sứ.

[9] Ngày Đinh Dậu, Triệu Chấn, Đô giám ở Hứa Châu, Tả Đồn Vệ Đại tướng quân, lĩnh chức Giải Châu Phòng ngự sứ, được bổ làm Khiêm hạt ở Hiệp Châu. (Tháng 12 năm ngoái, ông được bãi chức trí sĩ và làm Đô giám ở Hứa Châu, nay lại được thăng chức, không rõ lý do. Cần xem xét lại, hoặc bỏ đi.)

[10] Ngày Quý Mão, Viện Cống ở Lễ bộ xin từ nay thi Tiến sĩ cũng theo lệ như các khoa khác, in đề kinh nghĩa ra, được chấp thuận.

[11] Chiếu rằng binh lính tự túc lương thực ở Thiểm Tây, Hà Đông[4], nếu ngựa mua từ xã trước đây bị chết, thì đều cấp cho chỉ huy đó để mua lại, nhằm hỗ trợ việc mua ngựa[5].

[12] Ngày Ất Tỵ, Dương Nhật Nghiêm, Long đồ các học sĩ, Cấp sự trung, quyền Tri Khai Phong phủ, bị bãi chức ở Khai Phong; Điền Kinh, Phán quan, Từ bộ Viên ngoại lang, được bổ làm Tri châu ở Thái Châu; Dương Tư, Suy quan, Thái thường Bác sĩ, Bí các Hiệu lý, được bổ làm Tri châu ở Bộc Châu. Tất cả đều bị cách chức vì tội giam tù nhân rồi để họ chết trên đường áp giải.

[13] Ngày Mậu Thân, chiếu cho Ty Chuyển vận Khiêm hạt ở Quảng Nam Đông lộ, hiện nay dịch bệnh đang bùng phát, binh lính đồn trú ở biên giới tạm thời dời đến nơi tốt hơn để trú đóng.

[14] Ngày Canh Tuất, ghi công Trừng, quân sĩ ở Định Tắc, cháu trai của Hồ Nguyên, người bắt giặc man ở Hồ Nam, được phong làm Thập tướng; vợ là Lưu thị và con gái đều được gia phong ấp, lại ban thêm 300 tấm lụa; Quách Chính, con trai là Ỷ được phong làm Tam ban tá chức, Bảo được phong làm Tam ban sai sứ Điện thị; Triệu Đỉnh, con trai là Lương Khanh và Lương Thần đều được phong làm Tam ban sai sứ Điện thị; Vương Hiếu Tiên, con trai là Vĩnh Long được phong làm Trà tửu ban Điện thị.

[15] Tháng 2, ngày Nhâm Tý, mùng một, ban cho Trương Sĩ Tốn, Thái phó đã về hưu, lương tháng 100 quan.

[16] Ngày Quý Sửu, Ty Thiên giám báo rằng sẽ có nhật thực vào ngày mùng một tháng 3. Vua nói với các quan phụ chính: “Nhật thực là điềm trời cảnh cáo nhà Vua, mong tội lỗi quy về Trẫm, chứ không liên quan đến thần dân. Phàm những nỗi khổ của dân, càng phải suy xét kỹ để giúp họ an cư lạc nghiệp.” Tể tướng Giả Xương Triều đáp: “Bệ hạ phát lời đức ý, đủ để ứng phó với trời và ngăn biến cố, thần đâu dám không dốc lòng sớm hôm, để đáp ứng ý nguyện thương dân của bệ hạ.”

[17] Xu mật sứ, Bảo Ninh tiết độ sứ Vương Di Vĩnh được gia chức Đồng bình chương sự; Tuyên huy Nam viện sứ, Bảo Tĩnh tiết độ sứ, phán Tương châu Vương Đức Dụng được gia chức Đồng bình chương sự; Tuyên huy Nam viện sứ, Hà Dương Tam Thành tiết độ sứ, phán Tịnh châu Hạ Tủng được gia chức Đồng bình chương sự, phán Đại Danh phủ; Hà Bắc an phủ sứ, Tư chính điện đại học sĩ, Công bộ thượng thư, tri Đại Danh phủ Trình Lâm được bổ làm Vũ Xương tiết độ sứ, Thiểm Tây an phủ sứ, tri Vĩnh Hưng quân.

[18] Ngày Canh Thân, Thái thường thiếu khanh, tri Quảng châu Ngụy Quán được bổ làm Hữu gián nghị đại phu, tái nhiệm.

[19] Ngày Quý Hợi, Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận sứ Chu Hãng tâu rằng: “Lộ này giặc Man chưa yên, mà quân lính phải đồn trú lâu ngày, xin mỗi năm cấp một ngàn quan tiền công sứ để khao thưởng tướng sĩ.” Triều đình đồng ý. Hãng lại tâu: “Giặc Man vừa thắng nên kiêu căng, khó lòng khuất phục, nên đợi mùa thu đông mới tiến quân. Đất Man hiểm trở, khí độc, người Man dũng mãnh, giỏi dùng giáo và khiên, quân phương Bắc không thể địch nổi, xin chọn ba ngàn người từ ba châu Ung, Nghi, Dung, cùng quân Trừng Hải, Trung Cảm, những người biết rõ địa hình và thuần thục kỹ năng chiến đấu, đánh thẳng vào sào huyệt, còn lại bố trí quân chặn chân núi, khi chúng xuất hiện thì bắt giữ, đợi khi chúng kiệt sức mới chiêu dụ.”

Triều đình dùng kế sách này, cuối cùng dẹp yên giặc Man. Chu Hãng dâng sách bình Man, theo bản truyện của Hãng ghi chép thêm.

[20] Ngày Đinh Mão, Thị ngự sử Lưu Thục tâu: “Gần đây nghe nói Thạch Nguyên Tôn nhờ đại xá mà được dời đến Tương châu. Nguyên Tôn thất bại trong quân sự, làm nhục mệnh lệnh, triều đình tha tội chết, nay nếu theo lệ mà dời đi, thì lấy gì khuyến khích những người tận tụy? Xin vẫn cho quản thúc ở Toàn châu như cũ.” Triều đình đồng ý.

[21] Bãi bỏ chức Kinh lược an phủ sứ các lộ Thiểm Tây, Đô bộ thự ty được tùy nghi hành sự, nếu giặc cướp bất ngờ xâm nhập, cần ứng biến kịp thời mà không kịp xin chỉ thị từ trung ương, thì được phép tự quyết.

[22] Ngày Mậu Thìn, chiếu rằng: Trước khi Kinh lược ty Thiểm Tây dùng binh, biên giới đã nhiều lần để lọt người không trở về, chạy sang phương Tây, nên bí mật dụ các quan lại biên giới và các bộ lạc phiên, cùng các xạ thủ cung tên, nếu ai có thể bắt được những kẻ đó, sẽ được thăng chức không theo thứ tự.

[23] Ngày Mậu Dần, Thanh châu xảy ra động đất.

[24] Chiếu cho Kinh lược an phủ và Chuyển vận ty Thiểm Tây: “Triều đình mở cửa tiếp nhận Hạ quốc, vốn muốn khoan thư tài lực và cho dân nghỉ ngơi. Từ khi họ nhận phong tước và dâng lời thề, đã được một năm, nhưng việc điều động vẫn không giảm so với thời chiến tranh. Nay hãy bàn bạc cắt giảm các khoản chi phí và những quan viên, chỉ sử, sứ thần được tăng thêm mà hiện không cần dùng đến, tất cả đều phải tâu lên.” Đây là theo lời của Xu mật phó sứ Bàng Tịch.

(Bản truyện của Tịch chép: Tịch tâu rằng từ khi Thiểm Tây dùng binh, công tư đều khốn đốn, xin hợp nhất và giảm bớt quan thuộc, rút quân ở gần biên giới[6], về nội địa để ăn, nhờ đó chi phí biên giới giảm được nhiều.)

[25] Ngày Kỷ Mão, điều Đô giám Hoa Châu, Lạc Uyển sứ Tương Giai làm Kiềm hạt Kinh Hồ Nam lộ.

[26] Quyền đồng tri Lễ bộ cống cử Trương Phương Bình tâu rằng: “Sự biến đổi của văn chương thông với chính trị. Nay đặt khoa thi để chọn nhân tài, chuyên lấy văn từ nghệ thuật, kẻ sĩ chỉ dựa vào tư chất thông minh, mà học vấn để bồi đắp, nên đạo nghĩa tích lũy trong lòng, anh hoa phát ra ngoài. Vậy thì lấy văn chương để chọn kẻ sĩ, là để đánh giá bên ngoài mà xét cái chất chứa bên trong, nói mà không có chừng mực, thì xem xét gì được? Nay quy chế của Lễ bộ, định từ triều trước.

Từ đầu niên hiệu Cảnh Hữu, có người nhờ biến đổi thể văn mà được đỗ cao, người sau bắt chước, đều quên hết lối học cũ, từ đó văn thể ngày càng mất đi cái cũ, mỗi người đưa ra ý mới, ganh đua kỳ lạ. Đến khi Thái học được xây dựng thịnh vượng, quan giảng là Thạch Giới lại càng đề cao, theo sở thích của họ, dần thành phong trào, lấy sự quái đản chê bai làm cao, lấy sự phóng túng tạp nhạp làm phong phú[7], vượt quy củ, làm lầm lạc kẻ hậu học.

Triều đình ghét điều đó, nhiều lần hạ chiếu, dặn dò răn bảo, nhưng kẻ học trò thích buông thả, ít ai tự sửa đổi. Nay thí sinh ở Cống viện, có người học lối văn mới, bài phú dài hơn 800 chữ, mỗi câu có đến 16, 18 chữ, bài luận có đến hơn 1200 chữ, bài sách bỏ qua câu hỏi mà tự do phô bày ý kiến[8], trình bày việc khác. Nếu đánh trượt thì văn lý còn thô thiển, nếu lấy đỗ thì trái với ý chiếu. Làm tổn hại nặng nề đến phong tục, khích động sự phù phiếm, coi thường mệnh lệnh trên, há phải là ý của triều đình muốn chọn người hiền tài để dùng vào việc trị nước sao! Những người học lối văn mới mà dài dòng không hợp quy chế, đều đã bị đánh trượt. Xin ban chiếu trước, công bố rõ ràng.”

Chiếu theo lời tâu. Lúc đó, Ngự sử Vương Bình lại xin bài phú không được quá 400 chữ, nhưng Lễ bộ lại cho rằng việc chọn tài năng[9], chỉ vì một chữ nhiều mà bị đánh trượt, e không hợp tình người. Từ đó lại lấy số chữ cũ làm giới hạn.

(《Bản chí》 ghi lời tâu này của Phương Bình vào năm thứ 8, là sai, nên theo 《Thực lục》.)

[27] Tháng ba, ngày Tân Tỵ mùng một, có nhật thực. Vua ngự điện Sùng Chính, xét tù nhân, những người phạm tội tử hình trở xuống đều giảm một bậc, tội đánh trượng trở xuống thì tha.

[28] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu rằng: “Kinh Hồ Nam Lộ Chỉ huy, Lạc Uyển sứ Tưởng Giai trước đây làm Tri châu Nguyên, đốt phá hơn tám nghìn trại của bộ lạc, bắt giết tàn nhẫn. Nay đặc biệt chọn để lo việc trấn áp man di, phải ra sức tuyên bố ân đức để chiêu dụ, nếu chúng còn chống mệnh thì xuất quân đánh bắt, không được quá hành hung bạo.”

[29] Ngày Kỷ Sửu, Vua bảo các quan phụ chính rằng: “Nghe nói Giao Châu Lý Đức Chính gần đây chiếm Chiêm Thành, lo rằng dần dần có mưu đồ gian ác, gây họa cho Ngũ Lĩnh, nên hạ lệnh cho Quảng Tây Chuyển vận ty lo liệu trước rồi tâu lên.” Do đó, Xu mật viện tra xét các đường thủy bộ thông với Giao Chỉ từ đời Đường đến nay, tổng cộng mười sáu chỗ, lệnh cho Chuyển vận sứ Đỗ Kỷ bí mật đi xem xét, đặt quân đồn trú.

[30] Ngày Canh Dần, châu Đăng động đất, núi Cự Ngu sụp đổ. Từ đó động đất không ngừng, mỗi năm động đất thì dưới biển có tiếng như sấm.

[31] Ngày Tân Mão, thủ lĩnh Mạc Xuyên là Thôi Tư La sai người đến dâng sản vật địa phương[10].

[32] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu rằng từ nay các chùa quán có tượng Vua và điện Thiên Hưng ở cung Cảnh Linh, đều đặt chiếu ở sân, hướng tây, lệnh cho quan Lễ tán lễ lên xuống.

[33] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu cho Tứ Lộ Kinh lược ty Thiểm Tây, phàm những việc lợi hại của dân và việc biên giới, đều báo cho Vĩnh Hưng quân Thiểm Tây An phủ sứ Trình Lâm biết.

[34] Ngày Mậu Tuất, xuống chiếu cho Đề điểm Hình ngục Thiểm Tây Lộ, Thái thường bác sĩ Tào Dĩnh Thúc và Chuyển vận sứ Liễu Hạo, giao cho các lộ xem xét giảm bớt chi phí biên giới. Hạo là cháu của Khai, không biết Dĩnh Thúc là người nào.

[35] Ngày Canh Tý, xuống chiếu cho các lộ Chuyển vận ty, phàm việc chuyển đổi thuế hạ thu, từ nay đều phải yết bảng báo trước nửa năm. Dân có điều gì bất tiện, cho phép đến nơi mình thuộc về nộp đơn trình lên Chuyển vận ty xem xét thi hành.

[36] Ngày Nhâm Dần, Vua ngự điện Sùng Chính, ban cho Tiến sĩ Giả Ám cùng 230 người đỗ đệ nhất giáp, 190 người đỗ đệ nhị giáp, 117 người đỗ đệ tam giáp. Ám là người Nhương. Ngày Quý Mão, ban cho 415 người đỗ các khoa đệ nhất giáp và đệ nhị giáp. Ngày Giáp Thìn, ban cho 702 người đỗ đặc cách các khoa đệ tam giáp cùng các chức Trưởng sử, Tư mã, Văn học ở các châu.

[37] Ngày Bính Ngọ, Thái thường bác sĩ, Giám sát ngự sử lý hành Tôn Kháng bị cách chức Giám sát ngự sử lý hành, đi nhận chức Tri phủ Phục Châu. Trước đây, Kháng nhận mệnh đi an phủ Hồ Nam, tâu việc không hợp ý Vua, dâng sớ tự hặc tội mình, nên bị cách chức. Ngự sử trung thừa Trương Phương Bình tâu rằng hình phạt dành cho Kháng quá nhẹ, xin bổ nhiệm ông vào chức nhỏ để giám sát, nhưng không được trả lời.

[38] Chuyển vận phán quan Kinh Hồ Nam Lộ Lý Thượng Giao được bổ làm Tri châu Quân Châu, vì ở bộ làm việc quá khắt khe.

[39] Hàn lâm thị độc học sĩ Diệp Thanh Thần đi nhậm chức ở Trì Châu, qua kinh sư, nhân đó xin được yết kiến, nhưng không hòa hợp với Tể tướng Trần Chấp Trung, nên bị đuổi đi giữ biên giới, và còn nói xấu Chấp Trung. Ngày Đinh Mùi, đổi mệnh cho Thanh Thần làm Tri châu Thiền Châu, sau lại đổi làm Tri châu Thanh Châu.

(Sách 《Ký văn》 chép rằng Thanh Thần và Chấp Trung có hiềm khích, vì việc soạn chiếu chỉ, xét ra không hợp, đã thấy ở tháng 11 năm ngoái, nay không chép.)

[40] Mùa hạ, tháng tư, ngày Nhâm Tý, quyền Ngự sử trung thừa Trương Phương Bình tâu: “Thần trước đây ở Hàn lâm làm học sĩ, thấy vào năm Thiên Thánh, số lượng quan viên hai chế, hai tỉnh chưa đến ba mươi người, nay đã hơn năm mươi người. Khi thần nhận chức Ngự sử trung thừa, thấy sổ sách của đài này vào năm Thiên Thánh, số quan triều đình ở kinh chưa đến hai nghìn người, nay đã hơn hai nghìn bảy trăm người. Lại từng nhận chức ở Tam ban viện, thấy vào năm Cảnh Hựu, số sứ thần chưa đến bốn nghìn người, nay đã sáu nghìn người. Lại nhận chức ở Lại bộ lưu nội thuyên, ước tính số người được tuyển chọn gần đến một vạn người, do đó mỗi nơi đều phải dùng chức vụ khuyết trong khoảng một năm rưỡi[11], so với việc bãi nhiệm chờ bổ nhiệm, trong vòng năm sáu năm chưa hoàn thành một nhiệm kỳ. Hơn nữa, những người được nuôi dưỡng không phải là người được sử dụng, nếu có một nơi quan trọng và phức tạp, không tránh khỏi phải nhanh chóng đề bạt người. Nếu vẫn giữ nguyên không thay đổi, e rằng trong vài năm tới, tình trạng quan lại quá nhiều sẽ không thể chịu đựng được những tệ nạn. Các chức quan được đặt ra tạm thời từ khi dùng binh ở Trung thư, Xu mật viện, xin trước hết hãy cắt bỏ.” Vua nghe theo.

Phương Bình lại tâu: “Thần nghe nói gần đây có chỉ dụ ân điển, từ nay về sau, vào dịp Thánh tiết, các quan từ chức Đại khanh, Giám trở lên, nếu xin ân trạch, đều theo lệ cũ. Năm Khánh Lịch thứ tư, Phạm Trọng Yêm tâu xin định chế độ cho con em quan lại được bổ nhiệm, trong đó có những điều khó thực hiện, như việc ở Quốc Tử Giám, Thượng Thư tỉnh, đều đã được sửa đổi, chỉ còn lệ ân điển vẫn được thi hành. Hiện nay, từ chức Tri tạp Ngự sử trở lên, có công lao gì với quốc gia mà mỗi năm được tiến cử bổ nhiệm một viên chức Kinh quan? Thời tổ tông chưa từng có việc này, gần đây tích tụ thành tệ nạn, trở thành phép tắc xấu. Điều Phạm Trọng Yêm xin, nên giảm bớt một phần, xét theo đạo lý, đã là thích hợp. Thần gần đây từng trình bày số lượng quan viên văn võ từ thời Thiên Thánh, Cảnh Hữu đến nay, so với thời Cảnh Hữu, số Kinh quan hiện nay đã tăng hơn bảy trăm viên, kế hoạch lâu dài, nên xử trí thế nào? Xin tạm theo chế độ mới để thuận tiện, nếu triều đình bàn luận, chỉ nên nghe theo điều đúng, không nên vì người mà bỏ lời nói.”

(Tấu chương của Phương Bình được ghi chép kèm theo, trong đó có những điều khó thực hiện, như việc ở Quốc Tử Giám, Thượng Thư tỉnh đều đã được sửa đổi, việc sửa đổi cần được khảo cứu. Lại không rõ lời tâu của Phương Bình được chấp nhận hay bác bỏ, cùng với việc ghi chép ngày Mậu Ngọ tháng này, đều cần khảo cứu. Tháng ba năm thứ tám, ngày Giáp Dần, Phương Bình trả lời sách vấn của Vua, vẫn nói rằng từ chức Thiếu khanh, Giám trở lên mỗi năm được tiến cử con em, như vậy lời tâu của Phương Bình ban đầu không được chấp nhận, hoặc lời tâu này được đưa ra sau tháng ba năm thứ tám, cần xem xét kỹ hơn.)

[41] Ngày Quý Sửu, bãi bỏ việc chiêu mộ Điện thị ở phủ Khai Phong và các đạo, lệnh cho các nơi tự chiêu mộ và tuyển chọn.

[42] Ngày Giáp Dần, Vua nói với các quan phụ chính: “Man Dao chưa bình định, quân lính đóng đồn lâu ngày, phương Nam vào khoảng giao mùa hạ thu, thường bị khổ sở vì chướng khí, nên lệnh cho Viện Y quan định phương thuốc, cử sứ giả đem thuốc đến cấp phát.”

[43] Giáng chức Tân Hà Đông chuyển vận sứ, Hình bộ lang trung, Tập hiền viện hiệu lý Lý Chiêu Cấu làm Tri châu Trạch[12], vì tội khi đi sứ Khiết Đan, người đi theo đã trộm cốc bạc của địch. Người đi theo của Chiêu Cấu đã bị đánh chết, chiếu lệnh đưa cốc bạc trả lại cho địch. Các quan bàn rằng kẻ trộm đã bị xử tử, việc trả lại cốc bạc là tổn hại thể diện, Phán quan Đại danh Hạ Tủng cũng tấu xin bãi bỏ việc trả lại, nhưng không được chấp thuận. Tri châu Hùng Châu Vương Nhân Húc đem cốc bạc nộp thẳng vào quân tư khố, mọi người khen là hợp lẽ. (Việc này căn cứ theo 《Giang Hưu Phục tạp chí》.)

[44] Ngày Ất Mão, phong Tả kim ngô vệ đại tướng quân, Thư Châu đoàn luyện sứ Tòng Ái làm Dĩnh Quốc công. Trước đó, Tòng Ái được phong nhầm, sau đó bị tước phong để trao cho Thủ Tốn, đến lúc này Thủ Tốn đã mất nên lại phong cho Tòng Ái. Thủ Tốn mất vào ngày Ất Mùi tháng 3, việc phong nhầm xảy ra vào tháng 8 năm thứ 4.

[45] Ngày Mậu Ngọ, chiếu rằng từ chức Sứ tướng, Tiết độ sứ trở xuống, Chính thứ sử, Điện tiền đô chỉ huy sứ đến Long thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, mang chức Dao quận đoàn luyện sứ trở lên, khi tiến cử quan lại được hưởng ân lệ, từ nay trở đi đều theo chế độ cũ, còn lại theo các điều lệ trước sau mà thi hành.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》, 《Thực lục》 không ghi, chắc là sửa lại điều lệ do Phạm Trọng Yêm và các quan định ra vào tháng 11 năm thứ 3, nhưng sử không ghi rõ. Còn lại đều theo các điều lệ trước sau, có thể liên quan đến lời tâu của Trương Phương Bình vào ngày Nhâm Tý tháng này rằng không thể vì người mà bỏ lời, cần xem xét thêm.)

[46] Ngày Tân Dậu, Quốc mẫu nước Khiết Đan sai Bảo an tiết độ sứ Tiêu Đức, Nghiêm Châu đoàn luyện sứ Diêu Cư Hóa, Khiết Đan sai Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Tiêu Thân, Thái bộc khanh Lý Vân sang chúc mừng lễ Càn Nguyên tiết.

[47] Ngày Tân Mùi, tiến phong mẹ nhân họ Trương là An Định quận quân họ Tào làm Thanh Hà quận phu nhân.

[48] Chiếu ban thuốc hạ cho sứ thần ba lộ, không được nhận vàng lụa do biên thần tặng.

[49] Ngày Nhâm Thân, sai quan cầu mưa.

[50] Lấy Hồ Nam đô giám, Cung bị khố phó sứ Tống Thủ Tín kiêm chức Tri giám Quế Dương, đợi khi giặc Dao dẹp xong thì bãi chức.

[51] Hạ quốc chủ xin đem việc cấm quan biên giới nhận dân phiên vượt biên giới vào chiếu thệ. Ngày Giáp Tuất, chiếu theo lời xin ấy.

[52] Tây Phiên Ma Chiên Giác sai sứ đến cống vật phương xa.

[53] Ngày Bính Tý, Tứ phương quán sứ, Thứ sử Vinh châu, Tri Định châu Vương Đức Cơ được làm Vệ châu Đoàn luyện sứ, Tri Hùng châu, kiêm Duyên biên An phủ sứ. Ban đầu, quan giữ thành sợ sinh sự, chưa từng đi săn, Đức Cơ đến bèn thả ngựa săn bắn ở biên giới. Dân cư trong thành rất đông, nhưng tường thành cũ đổ nát[13], lâu nay không ai dám sửa, Đức Cơ điều động binh lính sửa chữa xong. Hằng năm, Khiết Đan sai sứ dâng quả bánh, đều thay áo để tiếp kiến, Đức Cơ tiếp đãi theo lễ thường, và mỗi khi có văn thư đến, thường do quan quận đón tiếp, đến nay dùng chỉ sử thay thế.

(Việc này theo 《Phụ truyền》 của Đức Cơ, đều là việc khi Đức Cơ làm Tri Hùng châu, nay đều chép vào đây.)

[54] Ngày Kỷ Mão, Quyền Ngự sử trung thừa Trương Phương Bình tâu: “Trung thư, Xu mật viện những năm gần đây bổ nhiệm, thường phê sẵn thánh chỉ, đợi nửa năm hoặc một hai năm sau thì thăng chuyển hoặc đổi chức. Thể chế thăng chuyển, thường có quy củ, nếu vì có công lao đáng thưởng mà thăng cấp không theo thứ tự, ai dám nói không đúng. Nhưng việc do may rủi, dù kéo dài thời gian, sao tránh được lời bàn tán. Ví như người buôn bán ở chợ, lập khế ước, đợi ngày trả nợ, không chỉ làm tăng thêm ân điển bừa bãi, mà thực sự cũng làm tổn hại thể chế trị nước. Xin từ nay, văn võ quan nào dẫn việc trước mà mong thăng chuyển, đều rõ ràng xử phạt giáng chức.” Theo lời tâu.

[55] Tháng 5, ngày Giáp Thân, kinh thành có mưa đá, động đất.

[56] Ngày Ất Dậu, Tri Đàm châu Lưu Quỳ tâu đánh bại giặc Dao Đường Hòa thượng ở Ngân Giang Nguyên. Quỳ mới đến, sai người dụ thủ lĩnh man đầu hàng, không nghe, bèn đem quân đánh. Hòa thượng đã thua, bèn tiến đánh phá sào huyệt, giặc man chạy xa. Trước đây, tướng dùng lụa mua đầu giặc man, đến nay có kẻ cầm đầu đến lấy thưởng, tra hỏi thì là giết dân thường, bèn xử tử và bỏ việc mua đầu, châu huyện được yên.

[57] Ngày Bính Tuất, Vua ngự tại điện Sùng Chính, xét lại tù nhân, giảm tội từ tội chết trở xuống một bậc, tội đánh trượng trở xuống thì tha.

[58] Ngày Đinh Hợi, sai Hộ bộ phó sứ, Công bộ lang trung Hạ An Kỳ đến Thiểm Tây, cùng với Đề điểm hình ngục Tào Dĩnh Thúc bàn việc lập đồn điền ở vùng biên giới.

[59] Ngày Mậu Tý, ban tiền đặc biệt cho quân sĩ đánh giặc Man ở Hồ Nam.

[60] Giảm số tiền thuế muối hàng năm ở các giếng muối Châu Cung một trăm vạn quan. Thuế muối ở bốn lộ Xuyên Hạp[14], là nguồn thu chính của quan huyện, nhưng nguồn muối có lúc nhiều lúc ít, mà thuế vẫn thu như cũ, những người phụ trách thường cố tăng thuế để lập công, thường để lại hậu họa cho người sau. Triều đình rất quan tâm đến việc giảm bớt khổ cực cho dân, đặc biệt là người ở vùng xa, khi các cơ quan có liên quan tâu lên, đều được miễn giảm, trước sau không kể xiết, đến cả chiếu thư cũng thường nhắc đến việc này.

Ban đầu, thuế muối được phép đóng bằng năm phần bạc, lụa, lĩnh, một cân muối tính từ 20 đến 30 quan tiền, một lạng bạc, một tấm lụa lĩnh, đổi từ 900 đến 1200 quan tiền. Sau đó từng có chiếu cho phép đóng thuế bằng vàng bạc theo giá thị trường, do đó Chuyển vận ty lộ Tử Châu xin tăng giá bạc, lụa, lĩnh. Giao xuống Tam ty bàn, cho rằng giá bạc, lụa, lĩnh so với trước tuy tăng đến hơn 3000 quan, nhưng giá muối cũng không như trước, bán ra thị trường, một cân là 140 quan, thì dân chưa thấy bị hại, không nên nghe theo[15]. Sau đó Châu Cung cũng tâu lên, Tam ty cũng lấy lý do này để bác bỏ, do đó Châu Cung được phép giảm một phần bạc, lụa, lĩnh, người bàn luận cho rằng mỗi năm triều đình mất hơn hai vạn quan tiền.

[61] Ngày Tân Mão, Kinh lược ty Tần Phượng tâu: “Vâng chiếu bàn việc sửa chữa trấn Tịch Dương ở Châu Tần.

Tần là nơi thịnh vượng nhất vùng Quan Lũng, nhưng lại ở một góc xa xôi, bọn giặc hiểm ác đã lâu có ý đồ xâm chiếm, chúng thường ở phía bắc trại, toàn là nơi cư trú của các bộ lạc phiên thuộc, cách biên giới phía tây chỉ hơn trăm dặm, không có địa hình hiểm trở.

Nếu quân giặc bất ngờ vượt qua phục kích ở phía nam, chặn đường vào châu, thì sẽ mất đi sự hỗ trợ từ phía sau, có nguy cơ không lường trước được.

Trấn Tịch Dương Hạ ở phía đông cách châu sáu mươi dặm, hàng năm tích trữ lương thảo nhưng không có tường thành và vũ khí phòng thủ, nếu giặc đến chỉ có thể bỏ lại để chúng chiếm đoạt. Lại thêm năm dặm về phía tây bắc có trấn Tịch Dương Thượng, nằm ở nơi hiểm yếu của hai con đường Vĩnh Ninh, xưa có nền thành còn sót lại.

Nếu dựa trên trấn Thượng mà lập một trại, đặt quân đồn trú, khi có việc khẩn cấp, có thể thu nhận người già trẻ và gia súc của các bộ lạc lân cận vào bảo vệ, thực sự là lợi ích lâu dài.”

Triều đình nghe theo.

[62] Ngày Nhâm Thìn, đặt chức Lộ phân đô giám ở Thanh Châu và Vận Châu, lấy Tri châu Đăng Châu, Thứ sử Cát Châu Lưu Hoán kiêm chức Thanh Châu Lộ đô giám, Nội điện Sùng ban Đậu Thuấn Khanh làm Vận Châu Lộ đô giám. Lúc đó có người dâng thư nói rằng quân Vũ Vệ và Tuyên Nghị ở Kinh Đông đều là người địa phương, có nhiều kẻ hung hãn, xin chọn đặt mỗi nơi một chức Lộ phân đô giám ở Thanh Châu và Vận Châu để huấn luyện họ thường xuyên.

Thuấn Khanh là người An Dương.

[63] Ngày Bính Thân, ra chiếu cho Hạ An Kỳ cùng Tứ lộ Kinh lược ty chiêu dụ các bộ lạc phiên thuộc đem ngựa phiên đến nộp.

Cùng ngày, xử chém ngang lưng Tiến sĩ Kinh Đông Lưu Quán[16], Ngũ kinh Lưu Miễn, Hồ Tín tại chợ đô thành, phong Lưu Hiểu, người giảng sách ở Truy Châu làm Hữu ban Điện trực, và Tôn Tá Long, người học cứu Thượng thư làm Tam ban Phụng chức, vì Quán và những người khác mưu phản, còn Hiểu và Tá Long là người tố cáo.

[64] Ngày Mậu Tuất, ra chiếu cho Hoàn Khánh Kinh lược ty rằng gần đây quân mã nước Hạ nhiều lần đến Hậu Kiều, Tiêu Hao Bảo, Thập Nhị Bàn để xây dựng lại các bảo cũ. Những nơi đó tuy thuộc lãnh thổ Hán do dùng binh mà có được, nhưng nước Hạ nay đã quy phục xưng thần, không muốn xuất binh ngăn cản, nên để các hộ phiên thuộc ở đó tiếp tục cư trú như cũ, và vẽ rãnh làm ranh giới.

[65] Ngày Nhâm Dần, đổi tiền giám ở huyện Tây, phủ Hưng Nguyên thành Tề Viễn giám.

[66] Dời quân sĩ đóng ở Thiểm Tây, những người được cấp tiền lương nhiều hàng tháng, đồn trú ở các châu quận gần kinh thành.

[67] Ngày Quý Mão, Đông Bình quận vương Triệu Đức Văn mất. Đức Văn về già bị bệnh chân, không thể vào chầu, nhưng tính tình vốn cẩn thận, sợ hãi. Khi bệnh nặng, Vua thân hành đến thăm, đích thân dâng thuốc do thái y điều chế. Nghe tin báo tang, Vua lại đến khóc. Tặng chức Thái uý, Trung thư lệnh, phong tước Thân vương, thụy hiệu là Cung Khác.

[68] Ngày Bính Ngọ, phong Tả Kim Ngô vệ Đại tướng quân, Tế Châu phòng ngự sứ Triệu Thừa Giản làm Từ Quốc công. Thừa Giản là cháu của Triệu Đình Mỹ, con của Triệu Đức Quân.

[69] Ngày Đinh Mùi, Vua nói với các quan phụ tá: “Các nước Tân La, Cao Ly những năm trước vào cống, thuyền bè của họ đều đi lại từ bờ biển Đăng Châu. Nghe nói Nữ Chân, Tam Hàn đã bị Khiết Đan thôn tính, nếu họ bất ngờ tấn công, thì các quận ở Kinh Đông lấy gì để ứng phó? Nên hạ lệnh cho Đăng Châu điều tra đường xá xa gần của các nước ngoài biển, cùng tìm hiểu kế sách phòng thủ rồi tâu lên.”

[70] Ngự sử trung thừa Trương Phương Bình tâu rằng: “Thần nghe nói ở Thiểm Tây có hạn hán, hai vụ lúa mạch không thu hoạch được, gần đây tuy có nơi được mưa, nhưng ruộng mùa thu cũng chưa chắc có thể trông mong. Dân đã khó khăn về lương thực, nhiều người phải di cư, biên cảnh tuy yên tĩnh, nhưng binh lính vẫn còn đông, nếu gặp nạn đói kém, tình hình thật đáng lo ngại, việc vận chuyển lương thảo là việc cấp bách nhất. Triều đình tuy đang khoan dung với giặc Hạ, vốn là để nghỉ binh yên dân, nhưng nếu phí tổn lao dịch không giảm, tất sẽ thấy sức dân ngày càng kiệt quệ, kế sách lâu dài e rằng không thể duy trì được.

Lại gần đây các châu liên tiếp báo cáo động đất, xét các điềm xấu, là do âm khí quá thịnh. Âm là đạo của vợ, đạo của bề tôi, của dân, của rợ Di Địch. Lúc này hậu cung không có gì quá mức, triều đình không có kẻ quyền thế, điều cần phải cảnh giác là dân và rợ Di Địch mà thôi, trong yên dân ngoài đối phó với rợ Di Địch, cốt yếu là phải chuẩn bị đủ tiền của và sức lực. Nay các đồn trại trên biên giới, binh lực phân tán yếu ớt, nếu giặc đến, tất không thể xuất chiến, nếu chỉ phòng thủ, thì người địa phương mỗi nơi tự có thể đủ dùng. Huống chi vào mùa xuân hạ, quân rợ chắc chắn không có hành động lớn, nếu từ tháng ba trở đi, các đạo quân đóng ở biên giới đều rút về nội địa để ăn, đến tháng tám chín lại phái đi đồn trú.

Lại nữa, việc cung cấp một con ngựa ở biên thành, bằng ba người lính bộ, ngựa phần nhiều gầy yếu, không thể dùng để đánh giặc, bình thường chỉ tốn cỏ lương, mỗi khi hành quân lại phải thêm người vận chuyển. Nếu từ nay về sau, các đạo quân ngựa đóng ở biên giới, ước lượng đủ để tuần tra, thì dùng lính bộ thay thế, giảm bớt điều động, đó là đại lược vậy.

Gần đây nghe nói triệu hồi Tào Dĩnh Thúc, Đề điểm hình ngục Thiểm Tây về kinh, muốn cho giản tỉnh kế hoạch biên phòng. Thần đã hai lần gặp Dĩnh Thúc, căn cứ vào những điều ông ta trình bày, cũng e rằng sẽ thực hiện một cách hời hợt. Hiện nay các quan ở biên giới chỉ lo giữ quân, triều đình không ai dám nhận trách nhiệm, đại kế mênh mông, biết làm sao đây? Ắt phải trong ngoài đồng lòng, cùng lo lắng vui buồn, nhân lúc biên cương tạm yên, hết lòng lo nghĩ ngày đêm. Nếu xét kỹ nguồn gốc lợi hại, vẫn còn những ý kiến khác nhau, muốn quyết đoán một mình, ắt phải nhờ thánh chỉ.

Dĩnh Thúc lần này đi, mỗi việc xin rõ ràng phân xử, những khoản chi phí không cần thiết, nên cắt giảm sâu, nếu e rằng thế lực của ông ta nhẹ, việc khó một mình đảm đương, hoặc cử chọn một viên quan gần đây vâng mệnh đi cùng. Còn bốn lộ Thiểm Tây, xin ban cho mỗi nơi một chiếu thư, để họ hiểu rõ ý này, cùng với Dĩnh Thúc bàn bạc chung. Còn Chuyển vận sứ Thiểm Tây, cũng xin xét lời thần trước đây, sớm ban chỉ chọn người khác thay thế.”

[71] Tháng 6, ngày Canh Tuất mùng một, ban sắc chỉ xuống cho Hạ An Kỳ và các quan, trước đã lệnh cho bàn với các lộ Kinh lược An phủ ty Thiểm Tây về việc cắt giảm chi phí biên phòng[17], hãy hết lòng lo liệu, để tạo lợi ích lâu dài cho triều đình.

[72] Chiếu cho Hạ Tủng, Phán Đại Danh phủ, cùng Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục ty xét duyệt các quan lộ và các châu trưởng lại không đủ năng lực để tâu lên, còn các chức phó thì lệnh cho chủ tướng mỗi nơi cử người có năng lực thay thế.

[73] Ngày Quý Sửu, Vua xuống chiếu cho Giám sát ngự sử Đường Tuân không phải đến Lư Châu. Tuân là con của Đường Túc.

Trước đây, Ngô Dục ở Hàn Lâm đã tiến cử Tuân làm Ngự sử, nhưng Tuân chưa đến nhận chức thì mẹ mất. Sau khi mãn tang, Dục vừa tham gia chính sự, còn tể tướng Giả Xương Triều lại có thân tình với Tuân. Dục nhiều lần nói với Xương Triều rằng Tuân theo lệ cũ nên bãi chức, Xương Triều đành phải cho Tuân làm Tri châu Lư Châu, lúc đó là tháng 4 ngày Ất Mão. Thông thường, quan lại được điều ra ngoài đều được miễn triều từ, nhưng riêng Tuân được phép vào yết kiến. Trung thừa Trương Phương Bình nhân đó tấu rằng Tuân tài chất tốt đẹp, nên lưu lại để giữ chức ngôn quan. Vua đồng ý, Dục tranh cãi nhưng không được[18]. Từ đó, Tuân oán Dục mà theo Xương Triều. Phương Bình giữ Tuân lại, lại còn gièm pha Dục, người đời đều cho rằng đó là ý của Xương Triều. (Phương Bình nương theo ý Xương Triều, theo truyện của Phương Bình.)

[74] Ngày Bính Thìn, Vua sai Độ chi phán quan, Thị ngự sử Trọng Giản đến Thiểm Tây để mua lương thực quân dụng.

[75] Ngày Đinh Tỵ, sao băng xuất hiện ở phía nam sao Doanh Thất, lớn như cái chén, ánh sáng rọi xuống đất, có tiếng kêu ầm ầm, bay về hướng bắc đến sao Vương Lương rồi biến mất. Chiêm tinh cho rằng đây là điềm binh đao.

[76] Ngày Tân Dậu, Vua xuống chiếu cho Kinh lược sứ Hà Đông Trịnh Tiển cắt giảm chi phí biên giới của đạo mình rồi tâu lên.

[77] Lại xuống chiếu cho Tam ty, Khai Phong phủ, Ngự sử đài rằng, phàm tù nhân bị án tử hình sắp bị xử, mà ngục lại dám cho uống thuốc độc hoặc dùng cách phi lý khác khiến họ chết trước, thì cho phép người khác tố cáo, sẽ được thưởng 10 vạn tiền.

[78] An phủ sứ Hà Bắc Hạ Tủng tâu rằng, vâng chiếu xem xét việc ước thúc ở sông biên giới, xin từ nay người phương bắc không có lý do mà vượt sông sang nam thì bắt giao cho Khiết Đan, còn người đánh cá bị gió sóng đưa dạt thì cho họ tự về, Vua đồng ý.

[79] Ngày Nhâm Tuất, Vua xuống chiếu cho Xu mật viện rằng, phàm thần liêu vâng chiếu tâu cử sứ thần, thì lệnh cho Tam ban viện ghi chép tên họ, đến cuối năm chép thành một bản dâng lên.

[80] Ngày Quý Hợi, Vua nói với các đại thần phụ chính rằng: “Gần đây có người dâng tấu về việc sao biến, tuy quốc gia không có thiên tai dị thường, nhưng cũng nên tu sửa và cảnh giác, huống chi lại có điềm trời cảnh báo! Trời khiển trách bậc quân vương, khiến họ sợ hãi mà tu đức, cũng giống như bậc quân vương biết lỗi của bề tôi, trước hết ra lệnh răn dạy, để họ tự sửa mình, không sa vào tội lỗi.” Giả Xương Triều và các đại thần đều nhận lỗi và lạy tạ.

[81] Ngày Bính Dần, ban chiếu rằng phủ Khai Phong hạn hán lâu ngày, dân chúng nhiều người chết vì nắng nóng, hãy cho đào thêm giếng ở những nơi xa giếng quan trong kinh thành. Do đó, tám sương đã đào tổng cộng 390 giếng.

[82] Ngày Đinh Mão, Đông Nhiễm viện sứ Hướng Thụ bị tước quan chức, xóa tên khỏi sổ quan viên, và bị đày đến Đàm Châu.

Trước đây, Thụ làm tri châu Vĩnh Tĩnh Quân, làm nhiều việc phi pháp, nghi ngờ thông phán Giang Trung Lập tố cáo việc bí mật của mình với giám ty, bèn dựng án để dùng luật nghiêm khắc hãm hại Trung Lập, khiến Trung Lập phải tự vẫn. Thụ là cháu của tể tướng cũ Hướng Mẫn Trung, Giả Xương Triều ngầm bảo vệ, tri thẩm hình viện Cao Quân Nột chiều ý Xương Triều, muốn xử nhẹ, nhưng Ngô Dục tranh luận rằng: “Không giết Thụ, thì thiên hạ sẽ không còn pháp luật.” Cuối cùng giảm tội chết một bậc, đày đi phương Nam.

[83] Ngày Mậu Thìn, ban chiếu rằng các châu thuộc Quảng Nam Tây Lộ tiếp giáp với Giao Chỉ, kiểm soát các bộ lạc man di, hãy cho chuyển vận sứ xem xét các quan lại già yếu không đủ năng lực để tâu lên.

[84] Ngày Tân Mùi, tri châu Ích Châu Văn Ngạn Bác tâu rằng năm châu Ích, Bành, Cung, Thục, Hán không phải là nơi dùng ngựa, mà các châu này lại đồn trú hơn hai nghìn quân kỵ, xin đổi toàn bộ thành bộ binh. Chiếu chỉ đổi một phần ba.

[85] Ngày Nhâm Thân, ban chiếu rằng các quân ở Hà Bắc luyện tập, đều dùng trận pháp cũ của tổ tiên, các trận đồ thay đổi sau này cũng cho các tướng lĩnh luyện tập[19]. Lúc đó, phán châu Tương Châu Vương Đức Dụng tâu rằng trận pháp dạy ở Hà Bắc đã thuần thục mà lại thay đổi, e rằng khó ứng phó với địch. (Bản truyện của Đức Dụng lại nói: Xin không ban trận đồ, khác với chỗ này, cần xem xét thêm.)

[86] Ngày Giáp Tuất, ban áo quần cho binh lính làm việc ở Hoàng Hà.

[87] Ngày Ất Hợi, ban chiếu rằng từ nay tang lễ của hoàng tộc đều do quan phủ lo việc may tang phục. Trước đây, gián quan Lý Kinh tâu rằng khi hoàng thúc Đức Văn qua đời, những người thân thuộc trong cung từ hàng ti ma trở lên đều không được cấp tang phục, nguyên nhân là do những năm gần đây việc cắt giảm chi tiêu dẫn đến tình trạng này, điều đó rất không phù hợp với đạo lý tôn trọng thân tộc và thể hiện lòng thương xót. Chiếu chỉ giao cho Thái thường lễ viện bàn bạc rồi khôi phục việc cấp tang phục.

[88] Kinh lược sứ Hà Đông Trịnh Tiển tâu: “Nghĩa dũng hương binh của bản lộ trước đây theo kiến nghị của Minh Hạo, khi có việc biên cương khẩn cấp thì triệu tập. Đến nay đã hai năm, chưa từng được tập luyện, e rằng võ nghệ sẽ mai một, xin cho mỗi năm vào tháng chín lúc nông nhàn, tùy số lượng chia thành từng đợt, trước hết tập luyện nửa tháng tại huyện mình, rồi lên châu cũng như vậy.” Được chấp thuận.

[89] Đô kiềm hạt lộ Cao Dương Quan, nhập nội áp ban Dương Hoài Mẫn kiêm quản câu duyên biên an phủ ty sự. (Việc này căn cứ theo 《Bách quan biểu》 là sự việc ngày Ất Hợi, 《Thực lục》 không ghi chép.)

[90] Ngày Bính Tý, phong Tả Long Vũ đại tướng quân, Trì Châu đoàn luyện sứ Thừa Hiển làm Khang Quốc công, là con trưởng của Đức Văn.

[91] Có người dâng thư tâu rằng, việc tập luyện các quân vào mùa hè nóng nực, ẩm ướt, việc kéo cung nỏ không thuận tiện, xin từ nay vào ba tháng mùa hè chỉ tập luyện thương đao. Được chấp thuận.

[92] Tham tri chính sự Ngô Dục và tể tướng Giả Xương Triều không hòa hợp, giám sát ngự sử Đường Tuân vốn oán Dục, bèn theo ý Xương Triều dâng tấu rằng:

“Hiền lương phương chính, trực ngôn cực gián, mậu tài dị đẳng là các khoa cử từ thời Hán đến thời Đường đều không thường xuyên tổ chức. Nếu trời xuất hiện tai dị, chính sự có thiếu sót, thì ban chiếu cho các quan tại chức tiến cử.

Triều đình ta noi theo văn chương cũ, đến đời Chân Tông, ba lần mở khoa này. Khi bệ hạ lên ngôi, tăng số khoa lên sáu, lệnh cho hai tỉnh hoặc các quan thiếu khanh, giám trở lên tấu cử. Sau đó lại chỉ dùng hai khoa hiền lương và mậu tài, tổ chức cùng với khoa tiến sĩ, những năm gần đây thường không dùng quan chức bảo đảm, mà đều tự xưng danh khoa mục. Vả lại, danh hiệu hiền lương phương chính, mậu tài dị đẳng rất đẹp, nếu tiến cử mà làm được, còn có thể nói là gần với cổ nhân, nhưng tự chuyên lấy cái đẹp đó, thì chưa từng nghe thấy.

Lại có những người đã từng qua kỳ thi trước do các cơ quan tổ chức, mà đề thi đều dùng các con số và danh mục trong kinh sử, đến khi đối đáp chiếu sách, chỉ là liệt kê các nghĩa lệ, tra cứu hợp với chú giải, chủ yếu dựa vào trí nhớ mạnh và kiến thức rộng, lời lẽ hư từ mà thôi. Nếu bàn về quốc thể, trình bày đạo trị nước, thì chưa thấy có ích gì. Ban đầu ứng chiếu chỉ có vài người, sau tăng lên hơn mười người, nay gần đến ba mươi người. Một khi đỗ khoa này, chưa đầy vài năm, đều lên đến chức quan hiển hách. Dù không phải người tài, cũng không thể ngăn cản. Huống chi trực ngôn cực gián, không phải là việc vô sự mà tìm kiếm, mậu tài dị đẳng, há phải là tuyển chọn theo lệ thường, tệ nạn như vậy, đáng phải lo lắng.

Nay xin trình bày các sự việc thời Hán. Năm Kiến Nguyên thứ nhất đời Hán Vũ Đế, chiếu cho Thừa tướng, Ngự sử, Liệt hầu, Trung nhị thiên thạch, Nhị thiên thạch, Chư hầu tướng tiến cử người hiền lương phương chính, thẳng thắn can gián. Năm Nguyên Phong thứ 5, vì các danh thần văn võ đều đã mất, chiếu cho các châu quận xét lại dân có tài năng xuất chúng có thể làm tướng. Tổng cộng 54 năm, một lần tiến cử hiền lương, một lần tiến cử mậu tài.

Năm Thủy Nguyên thứ 5 đời Hiếu Chiêu, chiếu cho Tam phụ, Thái thường tiến cử hiền lương mỗi nơi hai người. Năm Địa Tiết thứ 3 đời Hiếu Tuyên, lệnh cho các quận nội tiến cử người hiền lương phương chính có thể gần gũi dân. Năm Nguyên Khang thứ 4, sai Đại trung đại phu Cương cùng 12 người đi tuần hành thiên hạ, xét lại việc trị dân được mất, tiến cử người mậu tài xuất chúng. Tổng cộng 25 năm, hai lần tiến cử hiền lương, một lần tiến cử mậu tài.

Sau đó, năm Sơ Nguyên thứ 2 đời Hiếu Nguyên có động đất, năm Vĩnh Quang thứ 2 có nhật thực; năm Kiến Thủy thứ 3 đời Thành Đế tai dị liên tiếp xảy ra, năm Hà Bình thứ 4 có nhật thực, lụt lội, năm Hồng Gia thứ 2 nhiều lần gặp lụt hạn, năm Nguyên Diên thứ nhất có nhật thực, sao rơi; năm Kiến Vũ thứ 6, 7 đời Quang Vũ có nhật thực; năm Kiến Sơ thứ nhất đời Chương Đế có động đất, năm thứ 5 có nhật thực; năm Vĩnh Nguyên thứ 6 đời Hòa Đế có nạn đói; năm Vĩnh Sơ thứ nhất đời An Đế có nhật thực, năm thứ 5 có nhật thực, động đất; năm Diên Quang thứ 4 đời Thuận Đế kinh sư có dịch lớn, năm Vĩnh Hòa thứ 6 có nhật thực, hoặc chiếu cho Thừa tướng, Ngự sử, hoặc chiếu cho các quận quốc thủ tướng, Tư lệ châu mục, hoặc chiếu cho Đại tướng quân, tiến cử hiền lương, thẳng thắn 16 lần, tiến cử mậu tài chỉ một lần. Triều ta chỉ dùng tên gọi thời Hán mà không dùng chế độ thời Hán, xin từ nay không cùng lúc với khoa tiến sĩ, nếu vì tai dị mà tiến cử không đúng thời, nên theo lệ cũ thời Hán, tự mình hỏi về những việc cần kíp đương thời, bỏ kỳ thi ở Bí các.”

Tờ tấu dâng lên, Vua xóa tên người ấy giao cho Trung thư. Dục dâng sớ bác bỏ rằng: “Từ ba đời trở lại, việc tuyển chọn nhân tài thịnh vượng không đâu bằng Hán, Đường. Năm thứ 15 đời Hán Văn Đế, có chiếu kén chọn người hiền lương, văn học, Vua thân ra đề thi, thì có người như Triệu Thác xuất hiện, lúc đó không phải vì có tai dị mà kén chọn. Năm Kiến Nguyên thứ nhất đời Hán Vũ Đế, có chiếu kén chọn người hiền lương, phương chính, thẳng thắn can gián, năm Nguyên Quang thứ nhất ra chiếu cho người hiền lương ứng đối, thì có người như Đổng Trọng Thư, Công Tôn Hoằng xuất hiện, việc kén chọn cũng không phải vì tai dị. Chỉ là trong bài thi có đề cập đến, cũng là một khía cạnh của việc trình bày sự việc mà thôi.

Tháng 6 năm Khai Nguyên thứ 2 đời Đường, ngày Giáp Tý, có chế rằng ai có tài năng xuất chúng đều cho phép tự tiến cử[20]. Năm đó đặt khoa trực ngôn cực gián. Đến thời Hiến Tông niên hiệu Nguyên Hòa, các khoa chế càng thịnh, có người như Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị đều là nhân tài xuất chúng.

Xem những điều được hỏi trong các đề thi thời đó, đều là những đạo lý trọng yếu của bậc đế vương, những việc lớn của quốc gia, có thể xem lại, vốn không chuyên về tai dị. Đó là những chuyện cũ đời Hán, Đường có đủ căn cứ. Trong đó có lúc nhân thiên biến, lại không phải lúc Vua thân ra đề thi, thì cũng có. Về sau, có vị Vua thường ngày nhàn hạ, cho rằng chính sự không có gì sai sót, đến khi thiên tai đã rõ, mối họa đã lộ, rồi mới hạ chiếu kén chọn, muốn cứu vãn khi sự việc đã xảy ra[21], đó là tệ đoan trong việc tuyển chọn nhân tài, là việc làm cuối đời của các vị Vua sau, há đáng noi theo sao?

Bệ hạ tự khôi phục chế khoa, đến nay đã nhiều năm, tùy theo kỳ thi cống cử mà mở, số lượng vừa phải. Nếu nhất định phải đợi có tai dị rồi mới hạ chiếu mở khoa thi, không chỉ làm mất đi ý nghĩa ban đầu của việc thiết lập khoa cử, mà còn có ba điều không nên: Một là khiến những người hiền tài trong thiên hạ bị chậm trễ, phải đợi có tai dị mới được tiến cử, như vậy không phải là cách nuôi dưỡng liêm sỉ; hai là bình thường không hỏi han, đến khi có tai dị mới hỏi, như vậy không phải là cách để răn sợ thiên tai; ba là dễ dàng thay đổi mệnh lệnh, khiến thiên hạ thấy rằng không có lòng khao khát tìm người tài, như vậy không phải là cách mở rộng con đường cho người hiền.

Hơn nữa, các khoa thi Hiếu liêm và Tiến sĩ thời Hán, Đường đều được tổ chức hàng năm, nên chế khoa không cần mở theo.

Nay Lễ bộ tổ chức thi Tiến sĩ vài năm một lần, nên mở chế khoa theo đó, như vậy là hợp lý, không gây hại gì, cần gì phải thay đổi. Huống chi tai dị xuất hiện không có thời hạn cố định, có khi nhiều năm không có, thì việc mở khoa thi này để làm gì, có khi năm nào cũng có, thì việc này quá phiền phức. Không dựa vào thiên tai, cũng không theo kỳ thi cống cử, mà nói là mở khoa thi không đúng thời, mơ hồ không rõ ràng, như vậy chẳng phải là bỏ hẳn khoa thi này sao?

Nếu hỏi han sơ qua, thì con đường ngôn luận có chỗ gửi gắm; nếu bỏ đi lễ vật tế thần, thì ý nghĩa của lễ đều bị quên lãng. Nay không có lý do gì mà thay đổi, khiến những người tài bị tuyệt vọng, làm tổn thương quốc thể, chẳng phải là quá lớn sao? Xin hạ lệnh cho hai chế thảo luận và quyết định rõ ràng.”

Thượng nghe theo lời của Dục, không hạ lệnh cho hai chế nữa, liền hạ chiếu cho Lễ bộ, từ nay chế khoa sẽ mở theo kỳ thi Tiến sĩ và cống cử, và ghi thành luật, vẫn cần có các đại thần gần gũi tiến cử, không được tự tiện tiến cử. Thượng nhân đó nói với các phụ thần: “Những người dâng sớ kia, xin theo nội phê mà thi hành, nay mới biết là lừa dối.”

Dục lại tấu rằng: “Những kẻ âm tà ngăn cản việc công, cần phải minh xét rõ ràng. Bề tôi nói đến việc cơ mật, muốn đem công đức về cho Vua, hoặc dâng kế sách, làm nên việc tốt cho nước, những việc như vậy có thể công khai danh tính ra ngoài. Chế sách là việc công của thiên hạ, việc bãi bỏ hay thiết lập có thể nói rõ, sao lại ngầm ngăn cản thay đổi, muốn tự mình thi hành? Đây chính là hành vi gian trá, nếu không được thánh thượng minh xét, thì những kẻ gian tà làm hại nước, còn gì mà không dám làm. Xin công khai danh tính để xét xử, để thi hành quốc pháp.”

Dục vốn được tiến cử qua chế khoa, Vua nhiều lần khen ngợi là người hiền, cho rằng đã chọn được người tài. Vì thế, Tuân ra sức bài bác, ý muốn nhắm vào Dục chứ không phải chế khoa. Em trai Dục lấy em gái Lý Tuân Húc, sinh được sáu con rồi góa. Tuân lại tấu rằng vợ em Dục góa lâu mà không cho cải giá, muốn dùng việc này để nương tựa họ Lý mà tiến thân. Đại để là để chiều ý Xương Triều, đồng thời trả thù mà thôi, nhưng Vua rốt cuộc không nghe theo.


  1. 'Tức' nguyên là 'Lang', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 32-3 sửa
  2. 'Hỉ' nguyên là 'Thiện', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 288, truyện Phạm Ung sửa
  3. 'Đổi làm Long đồ các học sĩ' ba chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ vào Tống bản và Tống toát yếu bản bổ sung, 《Tống sử》 quyển 294, truyện Tô Thân chép: 'vào Hàn lâm làm học sĩ', sau 'đổi làm Long đồ các học sĩ, tri Dương Châu', cũng có thể chứng minh.
  4. 'Sĩ binh' nguyên bản viết là 'thổ binh', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại.
  5. 'Hỗ trợ mua ngựa' trong 《Tống sử》 quyển 198, phần Mã chính viết là 'hỗ trợ giá ngựa'.
  6. 'tắc' nguyên là 'trại', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Tống sử》 quyển 311, truyện Bàng Tịch sửa lại.
  7. Lấy sự phóng túng tạp nhạp làm phong phú: chữ 'phiền' nguyên là 'toả', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách 《Lạc Toàn tập》 quyển 20 《Cống viện thỉnh giới lệ thiên hạ cử nhân văn chương》 sửa.
  8. Bài sách bỏ qua câu hỏi mà tự do phô bày ý kiến: chữ 'vọng' nguyên là 'vong', theo các bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách trên sửa.
  9. Lễ bộ lại cho rằng việc chọn tài năng: chữ 'vị' nguyên là 'vi', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các sửa.
  10. Thủ lĩnh Mạc Xuyên là Thôi Tư La sai người đến dâng sản vật địa phương 'Xuyên' nguyên là 'Châu', theo bản khác sửa.
  11. 'Một' nguyên bản là 'hai', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Lạc toàn tập》 quyển 25, mục 'Thỉnh nghị lại viên sự' sửa lại.
  12. Chữ 'viện' trong chức Tập hiền viện hiệu lý vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và truyện Lý Chiêu Cấu trong quyển 265 sách 《Tống sử》 để bổ sung.
  13. mà tường thành cũ đổ nát 'nát' nguyên là 'phế', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tục thông giám》 quyển 48 sửa lại.
  14. 'Hạp' nguyên là 'Thiểm', 'Tứ' nguyên là 'Tây', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Tống sử》 quyển 183, 《Thực hóa chí》 hạ 5 sửa lại
  15. 'Không nên nghe theo', chữ 'nên' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống bổ sung
  16. 'Quán' nguyên bản là 'Ung', căn cứ theo 《Thập triều cương yếu》 quyển 6 và 《Tống sử》 quyển 11, phần Nhân Tông kỷ sửa lại, các phần sau cũng tương tự.
  17. trước đã lệnh cho bàn với các lộ Kinh lược An phủ ty Thiểm Tây về việc cắt giảm chi phí biên phòng 'ty' nguyên là 'sứ', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Tục thông giám》 quyển 48 sửa lại.
  18. Dục tranh không được, chữ 'được' vốn thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống sử》 quyển 303, truyện Đường Tuân bổ sung
  19. Cũng cho các tướng lĩnh luyện tập 'chủ' nguyên bản là 'chư', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa
  20. 'Hàm lệnh tự cử', chữ 'hàm' nguyên là 'hoặc', theo bản Tống và 《Tống hội yếu》 quyển 10, trang 27 mà sửa
  21. 'Dục cứu ư lâm sự', chữ 'sự' nguyên là 'thời', theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống, bản các và 《Tống hội yếu》 trên mà sửa

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.