"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 217: NĂM HI NINH THỨ 3 (CANH TUẤT, 1070)

Bắt đầu từ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 11, ngày Mậu Tý, mùng một, ban chiếu: “Dân đói ở Hà Bắc lưu lạc đến Kinh Tây[1], lệnh cho An phủ chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục ty yêu cầu quan chức các châu huyện phải cứu tế, an ủi dân chúng, đồng thời xem xét những kẻ hà khắc, hôn ám, lười biếng, không làm tròn chức trách để tâu lên.”

[2] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu cho Lưu Mông ở Châu Tân, Quản Sư Thường ở Châu Xử, Ung Chi Hạo ở Châu Lãng[2], Cổ Uẩn, Lý Quỳ ở Châu Gia, Chu Dĩnh ở Châu Cù, Hồ Yển ở Châu Tề, đều được ban tước Tiến sĩ xuất thân; Lý Hàng ở Phủ Thái Nguyên[3], Điền Tịch, Trương Điền[4], Đàm Lập Chi ở Châu Trung[5], Tôn Tiềm ở Châu Mi, Trần Thuấn Nhạc ở Châu Kiếm, Thượng Cảnh Thuần ở Phủ Đại Danh, Đậu Tuấn ở Quân Hán Dương, đều được ban tước Đồng Tiến sĩ xuất thân; Nhậm Thông Phu ở Châu Mi, Quốc Thái ở Châu Hình, Y Triện ở Kinh Nam, Ung Lâm Tông ở Châu Phổ, Trình Lễ ở Quân Lâm Giang, Chu Tự ở Quân Quảng Tế, đều được bổ nhiệm làm Thí Hiệu thư lang. Trước đó, trong chiếu thư đại xá Nam Giao, có yêu cầu tìm kiếm những người có tiết hạnh, tài năng, học vấn, các Giám ty ở các lộ đã tiến cử Lưu Mông và những người khác ứng chiếu, đưa đến Viện Xá nhân để khảo thí, rồi ban chiếu này. 《Cựu kỷ》 chép có 22 người được tiến cử[6]. 《Tân kỷ》 đổi thành “tiết hạnh chi sĩ”.

[3] Giảm một chức quan của Đô giám trú bạc ở hai châu Đồng và Thiểm. Vua cho rằng do việc dùng binh ở biên giới phía tây, binh lính tập trung nhiều ở biên cương mà trong nội địa lại có quá nhiều quan chức.

[4] Lễ viện tâu: “Người thân thuộc trong họ (thân thích) ra làm quan ngoài, nên ghi rõ họ. Nếu được ban sắc chỉ hoặc tự dâng biểu lên và khi trở về kinh đô, thì chỉ xưng là hoàng thân, không ghi họ.” Vua nghe theo.

[5] Ngày Canh Dần, Ngự sử đài tâu: “Theo chế độ cũ, các quan khi đến chầu từ tạ, trước hết phải đến chỗ các viên Ngự sử của ba viện ở triều đường, rồi lại đến chỗ Trung thừa làm lễ bái yết, để có thể xem xét người già yếu. Nay chỉ đến sảnh Ngự sử làm lễ đối bái với một viên, không những trái với chế độ cũ, mà còn e rằng không thể công khai kiểm tra. Xin theo chế độ cũ, khi có lệnh bãi triều thường, thì đến Ngự sử đài.” Vua nghe theo.

[6] Trước đó, Ngự sử Vương Tử Thiều[7] xin đổi phép chầu ở đài, đã được chấp thuận. Đến nay, Ngự sử đài lại cho là không đúng chế độ cũ, nên lại theo như cũ.

[7] Ngày Tân Mão, Ngự sử Tiết Xương Triều tâu: “Dân đói ở các lộ Thiểm Tây, Hà Bắc năm nay vào mùa thu hạ đến các châu Thương, Quắc, Tương, Đặng kiếm ăn, nhưng Tri châu Thương châu là Ngô Thế Trưởng không hề thương xót, đến nỗi bắt dân phải đóng cửa không bán thóc.” Vua xuống chiếu cho Tuyên phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty của Thiểm Tây điều tra tâu lên. Việc Ngô Thế Trưởng rốt cuộc nên phụ vào đây.

[8] Phát vận sứ các lộ Giang Hoài là Tiết Hướng và các quan tâu: “Các châu Thông, Nhuận, Tú và quân Liên Thủy, Vô Vi đều có kho lợi tức thuộc quyền Phát vận ty. Xin cho các Tri châu Thông, Thái, Hải[8], Nhuận, Tú châu do triều đình chọn; còn Tri quân Liên Thủy, Vô Vi và Thông phán các châu Thông, Nhuận, Tú thì xin cho bản ty tuyển cử.” Vua nghe theo.

[9] Ngày Nhâm Thìn, Vua phê: “Phán quan Tuyên phủ Thiểm Tây là Lã Đại Phòng và Quản câu cơ nghi văn tự là Lý Thanh Thần, vừa được bổ làm Kiểm chính quan Trung thư, nên đưa sắc chỉ vào dịch trạm trao cho, để tỏ ý trọng dụng.” Theo lời xin của Hàn Giáng. Việc theo lời xin của Giáng, căn cứ vào 《Ngự tập》.

[10] Xuống chiếu cho phép các cử nhân đã mãn tang ba tháng được dự thi.

[11] Thị ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu: “Thần gần đây từng định đoạt việc Lý Định truy phục mẹ đẻ, triều đình đã bổ nhiệm Định làm Thái tử Trung Doãn, hạ lệnh cho Hoài Nam Chuyển vận sứ ty bảo người láng giềng Lý Triệu khai lại xem bà họ Cừu có phải là mẹ đẻ của Định hay không. Thần thấy Định từng nói Lý Triệu là người láng giềng thuê nhà từ năm Gia Hựu thứ bảy, khó có thể tin được. Nay triều đình dù lấy lời khai của Triệu lần nữa, Định cũng chắc chắn không tin. Xét lại nguyên trạng của Định, có người làng bí mật báo với Định rằng bà họ Cừu là mẹ đẻ của Định, nhưng cha Định lại khẳng định không phải. Xin cho Định khai tên người làng đó, lệnh cho Chuyển vận ty điều tra, ắt sẽ rõ tình hình. Huống hồ việc Định truy phục liên quan đến lễ giáo, triều đình cần xác minh sự thật, không thiên vị. Thần cũng muốn làm rõ đúng sai, nên theo lời Định, chọn người có thể chứng minh. Xin triều đình dùng cách này để điều tra.” Chiếu cho Hoài Nam Chuyển vận sứ lấy lời khai của người làng để tâu lên. Ngày 19 tháng 10, hỏi Lý Triệu.

[12] Chiếu miễn trừ toàn bộ nợ lương thực của các bộ lạc ở bốn lộ biên giới Thiểm Tây.

[13] Phán Diên Châu Quách Quỳ tâu: “Nghĩa dũng Thiểm Tây đến biên giới chiến đấu và phòng thủ, từ nay cho họ tự mang theo lương thực một tháng, sẽ được khấu trừ vào thuế hộ sau này. Nếu không thể tự chuẩn bị, cho phép xin lương thực một tháng từ châu quân nơi xuất phát.” Triều đình đồng ý. Sau đó, Hàn Giáng tâu: “Mỗi người đã có lương khô do quan cấp và quần áo mang theo, nếu phải mang thêm đồ nặng, e rằng không tiện.” Vua phê: “Trước đây Phu Diên đã làm nhiều lần, nghe nói cả công tư đều thấy có lợi.” Bèn hạ chiếu cho nghĩa dũng miễn mang lương khô, lệnh tự mang lương thực, được khấu trừ thuế, như Quỳ đề nghị.

[14] Ngày Quý Tỵ, Triệu Tiết, quản câu cơ quan văn tự của Phủ Diên Tổng quản An phủ sứ, Thái thường bác sĩ, Hiệu lý tập hiền, được quyền phát khiển làm Đề điểm hình ngục Thiểm Tây. Lúc đó, Hàn Giáng đang bàn việc đại phát binh đánh chiếm Hoành Sơn, Triệu Tiết nói: “Đại quân vượt qua biên giới núi, toàn là sa mạc, thiếu nước và cỏ tốt, lại không có nơi hiểm yếu để khống chế, thần thấy rất nguy hiểm. Nếu nhờ uy binh chiêu dụ dân cư vùng núi đến ở nơi đất tốt, không chuẩn bị trước, không xây thành lũy, thì khó mà an định được. Nay nước Hạ thường bị Tây Phiên quấy nhiễu, nếu muốn nhân lúc họ suy yếu để đánh phá giặc, trước hết phải vạch kế hoạch khống chế vùng núi, sau đó mới chiêu hàng. Nếu không, hao tổn binh lực đánh xa, chưa thấy có lợi gì.” Lời bàn của Triệu Tiết về việc xuất binh chưa thấy có lợi, theo bản truyện và văn bia mộ, đều được ghi sau khi ông nhậm chức Hiến. Nay phụ chép vào đây.

[15] Đô chuyển vận sứ Thiểm Tây lộ là Trầm Khởi tâu: “Dân phiên bộ ở Kinh Nguyên lộ thiếu lương thực, xin ban thêm 500 tờ độ điệp để cứu tế; lại xin ban thêm 500 tờ nữa để phân phát cứu tế cho bốn lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên và Tần Phượng.” Vua đồng ý. Hai kỷ đều chép việc miễn thuế lương thực cho dân phiên bộ Thiểm Tây.

[16] Chiếu cho Thẩm hình viện và Đại Lý tự cùng xem xét kỹ ý nghĩa của pháp luật về việc tính gộp tang vật nặng và đầy đủ tang vật nhẹ, định ra một nghị quyết thống nhất. Thẩm hình viện tâu: “Phạm vào các loại tang vật khác nhau, không cần đợi tội đồng đẳng mới tính gộp, không chỉ dẫn đến việc áp dụng hình phạt nặng, mà còn rõ ràng là khó thông suốt ý nghĩa của luật. Xin hãy tạm thời dựa theo các điều lệ lâu nay để quyết định.”

Đại Lý tự tâu: “Luật quy định, phạm tội do tang vật, nếu phạm nhiều lần thì tính gộp lại. Nếu hình phạt không đồng đẳng, thì lấy tang vật nặng tính gộp vào tang vật nhẹ, mỗi loại đều tính gấp đôi. Nếu tính gộp mà không tăng nặng hình phạt, thì chỉ theo hình phạt nặng. Xem xét ý nghĩa của luật, đó là vì người phạm tội nhiều lần do tang vật, không thể áp dụng luật hai tội để xử theo tội nặng, nên mới quy định tích số để định tội; vì không phải là một lần phạm, nên quy định hai xích được tính một xích tội, đây là sự khoan hồng thứ nhất. Tuy quy định tính gấp đôi, nhưng có sáu loại tang vật, nặng nhẹ không đồng đẳng. Nếu phạm hai loại trở lên, không thể tính gộp nhẹ vào nặng, nên quy định tính gộp nặng vào nhẹ, đặc biệt đổi tang vật nặng theo pháp luật tang vật nhẹ, đây là sự khoan hồng thứ hai. Nếu tính gộp nặng vào nhẹ rồi chỉ theo hình phạt nặng[9], thì chỉ theo một hình phạt nặng, đó là vì tiến thì đổi theo pháp luật nhẹ, lùi cũng không đến mức dung túng gian tà, ý nghĩa rõ ràng, không có gì khó hiểu. Do Thẩm hình viện dựa vào giả thiết trong sơ nghị, đều là từng trường hợp tội đồng đẳng, nên quy định phải đạt tội đồng đẳng mới được tính gộp. Bản tự cho rằng sơ nghĩa đặt ra, chỉ là văn bản tạm thời như vậy, không phải là quy định phải đạt tội đồng đẳng. Nếu căn cứ vào tội đồng đẳng mà tính gộp hết, không đồng đẳng thì chỉ xử một tang vật, thì e rằng người biết luật sẽ đủ để làm gian, người không biết chỉ phụ thuộc vào may rủi lúc đó. Xét tình hình mà đặt ra cấm lệnh, e rằng vốn không phải như vậy, do đó có sự khác biệt, không thể định ra một nghị quyết thống nhất.” Trên đây là nghị quyết của Đại Lý tự, được chấp thuận.

[17] Hùng Châu tâu: “Ty Đề cử thường bình đã định xong việc sai dịch, đều đã lập ngạch. Hai huyện của bản châu ngoài ngạch có 18 người cung thủ thuộc diện phải giảm, nhưng người người đều có tài võ nghệ, xin được lưu lại.” Vua phê chuẩn ngay theo lời tâu. Lại ban chiếu rằng: “Từ nay những người làm dịch ở hai địa phương, không được giảm bớt một cách đồng loạt.”

[18] Ngày Giáp Ngọ, lấy Minh pháp Vương Duyễn làm người xem xét và cung ứng các điều khoản văn tự ở các phòng thuộc Biên sắc sở, theo lời thỉnh cầu của Tường định biên sắc sở.

[19] Thiểm Tây Thường bình thương ty tâu: “Xin rằng các trường vụ như thuế rượu do người nha tiền mua phó từ trước đến nay, khi hết hạn kỳ hiện tại, không được cho người khác mua phó nữa, mà đều thu về quan. Nửa năm trước, theo giá bán tư trước đây, ở nơi đông đúc dán bảng, hạn trong hai tháng gọi người đến mua. Nếu sau đó có người nộp đơn tăng giá, thì hỏi người nộp đơn trước, nếu không muốn tăng tiền, thì giao cho người sau. Không kể số người, cứ theo cách này mà hỏi. Nếu ngoài hạn mà tăng tiền, thì không được xử lý và giao cho. Số tiền đó chia làm ba kỳ trong ba mùa, nộp vào quân tư khố. Xin ban xuống cho bản lộ tuân theo thi hành.” Được chấp thuận. Điều này căn cứ theo sách biên lục của Lộ Châu, ngày 15 tháng 2 năm Hi Ninh thứ 5, thiếp của Hình bộ ghi ngày 7 tháng 11 năm thứ 2, trát tử của Trung thư, nay phụ vào ngày tháng này, ngày 9 tháng này có thể cùng khảo cứu. Ban đầu, việc mua phó phường trường, thực lục không thấy rõ ngày tháng, việc mua phó khắp thiên hạ thì vào ngày 22 tháng 2 năm thứ 5[10].

Theo 《Thực hóa chí》 ghi: Lợi từ rượu và men, so với các khoản thu khác là lớn nhất, chỉ có Tây Kinh là bán men mà thôi. Rượu trước đây cấm nấu tư, quan đặt ty, nấu thì đặt quan giám sát. Hoặc không đặt quan, thì dùng để thưởng cho nha tiền. Nha tiền làm việc công, thường phải bồi thường nhiều, tùy theo nhiều ít mà thưởng bằng ty rượu, để họ lấy lợi từ việc nấu rượu, bù lại chi phí lao động. Nhưng lại nhân đó mà sách nhiễu, nha tiền đến nỗi phá sản bỏ trốn, lợi từ việc nấu rượu không đủ bù đắp, công tư đều khốn đốn. Năm Hi Ninh thứ 3, bắt đầu ra lệnh các trường vụ thưởng cho nha tiền, đều do quan tự bán, thu tiền về Thường bình ty. Tất cả các khoản bồi thường của nha tiền và sự sách nhiễu của lại[11], đều bị cấm. Nha tiền tùy theo mức độ nặng nhẹ của việc làm, đều được thưởng bằng tiền từ việc quan tự bán trường vụ, lại được cấp lộc, dân bắt đầu tránh được nỗi lo phá sản vì việc nặng. Người phụng công ra sức được lộc để nuôi sống, mà lợi từ trường vụ, thu phần dư, lại dùng để cấp lộc cho lại trong công. Pháp này chiêu mộ dân muốn mua phường trường, cho tự định giá, niêm phong tờ khai giá, làm khóa, đến kỳ mở ra, xem ai giá cao thì giao cho. Sau này triều đình tăng lộc cho lại trong ngoài, mỗi năm chi hơn một triệu quan tiền, đều lấy từ đây. Điều 《Thực hóa chí》 ghi, không rõ ngày tháng mua phó phường trường. Nhân việc Thiểm Tây thương ty tâu xin mới phụ vào đây. Cần khảo cứu thêm.

[20] Ngày Ất Mùi, Trung thư biên tu điều lệ sở tâu rằng: “Quan chức triều đình từ cấp trở lên khi chịu tang cha mẹ xong, trước đây được cấp sắc cáo, nay xin ngoại trừ các quan đương nhiệm ở hai phủ vẫn theo chế độ cũ, còn lại các quan văn võ từ Đại lưỡng tỉnh, Đãi chế, Chính nhiệm Thứ sử trở xuống, do các cơ quan xét duyệt tâu lên, chỉ ban chiếu thư hoặc trát tử; những người khác thuộc quyền thì gửi văn thư, lệnh đến kinh đô yết kiến, không cấp sắc cáo riêng. Các quan xin bổ nhiệm thân thuộc, giao cho các cơ quan xét theo pháp luật. Các khoản mua sắm hàng năm của Tam ty, nếu có thể giảm bớt, chỉ lệnh mua tại kinh đô; hoặc những vật phẩm cần thiết hàng năm phải mua ở các châu quân bên ngoài, thì lập thành quy định; nếu ngoài quy định mà mua sắm bất thường, phải tâu xin chỉ dụ. Hình bộ xét duyệt việc ban thưởng, nếu không phải là thăng chức, thăng lương, bổ nhiệm do triều đình, giảm thời gian khảo hạch, thì gửi văn thư trực tiếp đến các cơ quan như Thẩm quan thi hành xong rồi tâu lên. Các vụ án của sứ thần, đều giao cho Xu mật viện xét xử; nếu trong vụ án có cả quan văn và sứ thần, thì sau khi xét xử xong ở Trung thư, giao cho Đại Lý tự tóm tắt, nêu rõ tội trạng và hình phạt của sứ thần[12], trình lên Xu mật viện để biết; việc sứ thần tâu xin bổ nhiệm, đều giao cho Xu mật viện thi hành.

Các quan khi lên điện trình tấu, không được cầu may, và việc dâng sớ lên Cáp môn đều bãi bỏ. Quan chức và quân nhân, mỗi khi gặp lễ tế giao đều được ban ân. Trước đây, những người được thăng chức lâu ngày, ngoài việc được thăng cấp vào ngày nhậm chức, đều do Trung thư cấp sắc cáo. Từ nay xin ngoại trừ tông thất và các quan văn võ từ Đại lưỡng tỉnh, Đại khanh giám, Chính nhiệm Thứ sử trở lên vẫn theo chế độ cũ[13]. Các quan văn từ Thiếu khanh giám, Hoành hành, Thăng triều quan, Kinh quan trở xuống, xét số lần được ban ân, khi thăng chức, thăng lương, hợp lệ được cấp sắc cáo, thì ban ân luôn. Những người được phong tặng, chỉ trình lên Quan cáo viện. Các quan chức triều đình chưa nhậm chức, phân ty, về hưu, không được ban ân. Các viên chức trong và ngoài kinh, trước đây khi gặp đại xá được ban ân, phong hàm Ngân thanh Quang lộc đại phu và các chức Kiểm hiệu quan, Hiến hàm, đều bãi bỏ.

Trung thư đường hậu quan được phong Triều tán đại phu, Chủ sự và các viên chức ở Ngũ viện được phong Du kích tướng quân, Lục sự trở xuống và các viên chức tại kinh đô, Ty thiên giám thừa, Chung cổ viện tiết cấp, Hàn lâm đãi chiếu y quan, được phong Tướng sĩ lang, đều ghi trong sắc bổ nhiệm; những người không do sắc bổ, đợi khi gặp đại xá được thăng cấp một lần; và những người trước đây khi gặp đại xá được thăng lên Thượng tá, Lặc lưu, Đồng chính vẫn theo chế độ cũ, còn lại không được thăng cấp, ban huân chương, kiêm nhiệm; các chức Thượng tá, Lặc lưu, Đồng chính tướng quân không được thăng cấp. Các quan dâng lễ tế, chỉ do Thẩm quan đông viện bổ nhiệm. Các bài chúc văn, công đức sớ, Phật văn, Trai văn, giao cho các quan có học vấn soạn thảo, gửi các cơ quan biên tập, khi tế lễ thì sử dụng. Các quan chức triều đình xin nghỉ chữa bệnh, nuôi dưỡng, theo quy định về hưu, chỉ lệnh các châu quân xét không có lẩn tránh, làm tờ bảo lãnh cho nghỉ việc rồi trình lên cấp trên; các chức Thông phán trở lên phải chờ chỉ dụ; các quan không phải là Tỉnh phó, Tri tạp trở lên, bãi bỏ việc tiến cử người thay thế.” Đều theo lời tâu.

[21] Ngày Quý Mão, sai Đồng tri Gián viện Đặng Oản cùng xét định việc biên soạn luật lệ. Ban đầu cử Trực Xá nhân viện Lý Thọ Bằng, nhưng ông từ chối vì kiêm nhiều chức vụ, nên đổi mệnh cho Oản.

[22] Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ, quyền Phu Diên Kiềm hạt Chủng Ngạc được phục chức Hoàng thành Phó sứ; Tác phường Phó sứ, Tri Hoàn châu Chủng Chẩn kiêm chức Cáp môn Thông sự Xá nhân, theo lời thỉnh cầu của Tuyên phủ sứ Hàn Giáng. Phần dưới có thể chép việc Ngạc mưu lấy đất Hoành Sơn. Ngày mùng 6 tháng 10, có chiếu chỉ lệnh Ngạc về kinh, nói rằng đã sai Ngạc giữ chức Phu Diên Kiềm hạt, quản câu Phiên bộ công sự. Ngày 21 tháng 12, theo lời thỉnh cầu của Hàn Giáng, Ngạc không phải về kinh. Bản truyện của Ngạc chép: Vua đã đổi Tuy châu thành Tuy Đức thành, gặp lúc Hầu Khả bàn về thủy lợi được vào chầu, Vua hỏi việc Tuy châu, Khả nói: “Chủng Ngạc vâng mật chỉ lấy Tuy châu rồi lại trị tội, từ nay về sau lấy gì để sai khiến người ta?” Vua cũng hối hận. Chưa đầy một năm, Ngạc được bổ làm Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ, Thương châu Đô giám, nhưng vì tang mẹ nên từ chối không nhận. Các tướng Kinh Nguyên, Tần Phượng cùng tiến cử, trong một năm ba lần bắt phải bỏ tang, nhưng Ngạc vẫn kiên quyết từ chối, cuối cùng được cho để tang đủ ba năm.

Theo mộ chí của Ngạc: Vua đổi Tuy châu thành Tuy Đức thành, vài tháng sau, Ngạc được bổ làm Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ, Thương châu Đô giám, nhưng vì tang mẹ nên không nhận chức. Năm thứ ba, đổi làm Tần châu Đô giám. Tướng Kinh Nguyên tiến cử làm Kiềm hạt bản lộ, tướng Tần Phượng tiến cử làm Đô giám bản lộ, ba lần hạ chiếu bắt bỏ tang, nhưng Ngạc càng kiên quyết từ chối, cuối cùng được phép để tang đủ ba năm. Chữ “năm thứ ba” nên sửa thành “năm thứ hai”. Hành trạng của Phạm Thuần Nhân chép: Ngạc được bổ làm Tần châu Đô giám, Thuần Nhân cho là không tiện. Nhật lục của Vương An Thạch ngày mùng 8 tháng 5 năm thứ hai chép: Chủng Ngạc hiện ở Khánh châu. Mộ chí của Chủng Chẩn chép: Chẩn trước làm Tri Hoàn châu, Thần Tông lên ngôi, đổi làm Bắc Tác phường sứ, sau kiêm chức Cáp môn Thông sự Xá nhân. Năm thứ hai được triệu vào chầu, lệnh cho giữ chức lâu dài, bổ làm Kiềm hạt bản lộ. Việc ông làm Thông sự, so với thực lục có chỗ trước sau khác nhau. Cần xem xét kỹ.

[23] Chiếu cho các lộ đề điểm hình ngục ty chọn quan cùng với quan đương chức xem xét kỹ những người bị biên quản về tội danh nguyên phạm, nếu thật sự là do châu quận biên quản ngoài pháp luật, thì lập tức thả cho về; những người có tình tiết nghiêm trọng thì xin chỉ. Những người đã được xét định biên phối mà tấu xin triều đình chỉ huy việc dời chỗ, cũng theo như thế.

[24] Vương Tồn, người thảo dã, dâng thư nói về những điều cơ mật lợi hại ở lộ Kinh Nguyên, được triệu về thi võ nghệ, được bổ làm Hạ ban điện thị, Tam ban sai sứ, Chỉ sứ ty Tuyên phủ.

[25] Ty Tuyên phủ tâu: “Gần đây bỏ huyện Hồ Thành thuộc lộ Thiểm Tây thành trấn, vì nơi đó dân cư đông đúc, nếu chỉ để cho sứ thần quản lý, e rằng không hiểu rõ việc dân. Xin xét xem nếu có những trấn tương tự, thì theo điều lệ của lộ Kinh Đông, giao cho Giám ty cử quan kinh triều thân dân quản lý, cho phép xử các việc công trong thành từ tội trượng trở xuống.” Triều đình nghe theo, lại lệnh cho các lộ xét xem những nơi cần bổ quan kinh triều giám trấn rồi tâu lên.

[26] Ngày Giáp Thìn, Quách Quỳ, quan phán trị Diên Châu, tâu rằng người Tây Hạ xâm phạm thành Đại Thuận, Đô giám Yến Đạt và các tướng dẫn quân ra khỏi biên giới, bắt giết có công, chia công làm ba bậc. Chiếu rằng: “Bậc ưu đẳng được thăng một bậc, đồng thời giảm thời gian khảo khóa, quan Hán giảm hai năm, quan Phiên giảm năm năm. Bậc nhất từ quan Phiên đến trưởng hành, mỗi người được thăng một bậc, đồng thời đều được ban thưởng, những người dũng cảm, hiệu dụng đều được ban lụa, đợi lập thêm công sẽ ban thưởng. Bậc nhì giảm thời gian khảo khóa, quan Hán là sứ thần giảm ba năm, nếu đã thuộc bảy năm khảo khóa thì giảm bốn năm, quan Phiên là điện thị giảm mười năm. Bậc ba giảm thời gian khảo khóa, quan Hán giảm hai năm, quan Phiên giảm năm năm, quan Phiên là chư ty sứ được thêm ban bạc và lụa. Lại có bậc nhất từ bộ Phiên đến các quân trưởng hành hai mươi bảy người, mỗi người được thăng một bậc, đồng thời lại được ban thưởng. Tróc sinh đô quân chủ được tăng bổng lộc[14], những người dũng cảm, hiệu dụng đều được ban lụa, đều đợi lập thêm công sẽ ban thưởng. Đô giám bản lộ, bậc nhất được thăng sứ ngạch năm bậc, bậc nhì giảm thời gian khảo khóa ba năm.” Lại tâu: “Mười một quan Phiên theo Đô giám Điền Thủ Độ chặn đường về của giặc, mười chín người theo Kiềm hạt Lý Ngung đánh giặc Tây Hạ, đều có công.” Chiếu đều ban thưởng hậu hĩ, đợi lập thêm công, sẽ lấy chỉ thăng mỗi người một bậc.

[27] Biên tu trung thư điều lệ Tăng Bố và các quan tâu rằng: “Vâng chiếu định việc bảo lãnh, bổ nhiệm, thi cử, thưởng phạt của lại viên trung thư: Khi có chức thủ đương quan trung thư khuyết, trước đây sai quan hai tỉnh khảo thí, gần đây không dùng phép thi, mà đường hậu quan dùng ân tình xin bảo lãnh, nên nhiều người được tiến cử bừa bãi. Nay định rằng đường hậu quan qua một lần tế Nam Giao, chủ sự hai lần, lục sự, chủ thư, thủ đương quan ba lần, được phép dẫn một người thân thuộc làm tư danh, học tập hai năm thì được dự thi, ba lần thi không đỗ thì bị đuổi ra ngoài giữ chỗ khuyết. Chức thủ đương quan khuyết, trước tuy có phép thi, nhưng chỉ lấy người có tài viết chữ, nay đã học tập công việc, thì nên lấy công việc đã học mà thi. Ghi chép công tội, người có công tùy mức độ nặng nhẹ mà thăng chức, giáng chức cũng vậy, công tội được phép bù trừ. Từ chủ sự trở lên đến đề điểm ngũ phòng công sự, đều lấy người có năng lực, không theo thứ tự bổ nhiệm. Đề điểm ngũ phòng ba năm thì bãi chức, đường trừ làm tri châu quân, đường hậu quan đường trừ làm thông phán, mười năm, cũng trừ làm tri châu quân, những người còn lại theo thứ tự bổ nhiệm, làm thành định chế vĩnh viễn, tổng cộng ba mươi chín điều. Các điều lệ cũ đều bãi bỏ.” Vua phê: “Theo như đã định.” Do đó, thủ đương quan trung thư Thời Thầm và các quan vì tâu xin điều lệ mới không hợp lý, xin ra làm quan ngoại, Thầm là người đứng đầu, bị cách chức; những người khác đều bị giáng cấp. Sử cũ chép: Định phép thi bổ và thăng giáng công tội của lại viên trung thư.

[28] Ngày Ất Tỵ, xuống chiếu bãi bỏ bốn trường bán gạo ở kinh thành, đợi khi giá gạo hơi cao, tâu xin chỉ.

[29] Ngày Bính Ngọ, Ty môn viên ngoại lang, Tài Hà bát phát Giả Thanh được bổ làm Đề điểm Kinh Tây lộ hình ngục, Thị ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn, Ngự sử Tiết Xương Triều, Lâm Đán đều tâu rằng Thanh tuổi trẻ, hành vi ô uế, bị sĩ phu khinh bỉ, không thể dùng làm giám ty. Vua không nghe. Thanh là con của Xương Triều.

[30] Chiếu rằng: “Các châu Thiểm Phủ, Giang Ninh, Vận, Thanh, Tề, Hàng, Việt, Tô, Vụ, Túc, Thọ, Tuyên, Hấp, Kiền, Hồng, Cát, Đàm, Quảng, Phúc, Kiến, chức Lục sự Tham quân là những nơi khó khăn phức tạp, từ nay về sau đều cử quan chức tri huyện và người được tiến cử làm Huyện lệnh, những người ở địa phương đó lương bổng nhiều mà không đủ tư cách xin nhận, đều cấp 15 nghìn tiền sao.”

[31] Lại chiếu rằng: “Các quan đương nhiệm ở kho tàng, ngoài việc được triều đình bổ nhiệm, không cho phép các nơi tiến cử sai khiển.”

[32] Ty Thường bình Hà Bắc tâu: “Các châu quân Đại Danh phủ mùa thu năm nay mùa màng kém, xin theo phép cũ chia làm hai đợt cấp tiền Thanh miêu[15], và cho phép các châu quân bị thiên tai được ứng trước.” Theo lời tâu, lại lệnh các lộ phân phát tiền Thanh miêu theo đợt[16], từ nay các quan đề cử chuyên trách xem xét và chỉ đạo.

[33] Sở Biên tu Trung thư điều lệ tâu: “Gần đây Khai Phong phủ cho phép bốn sương mỗi nơi đặt một quan, nhưng việc xét xử ở mỗi sương không nhiều. Xin chỉ cử hai viên quan kinh triều phân chia quản lý hai sương xét xử, vẫn giữ lại tất cả các sứ thần bốn sương cũ để phòng các việc sai phái khác.” Theo lời tâu.

[34] Ngày Đinh Mùi, sao khách xuất hiện ở phương Lâu. Cả 《Kỷ》 mới và cũ đều chép việc này theo 《Thực lục》, 《Thiên văn chí》 chép: Sao khách xuất hiện giữa sao Thiên Khuân, chủ về lo lắng hỏa hoạn ở kho tàng.

[35] Ngày Mậu Thân, Lễ tân sứ, Tri Ninh Châu là Tiêu Chú được phục chức Tây thượng các môn sứ, làm Kiềm hạt Thái Nguyên phủ, Đại Châu. Trước đó, hơn mười vạn quân Hạ xâm phạm biên giới, Lý Tín và Lưu Phủ bại trận ở Hồ Tử Lĩnh, tiến đến vây đánh Lệ Nguyên Bảo, các thành liền nhau đều cố thủ. Tiêu Chú ban đêm mở cửa thành, yến tiệc như thường ngày, khiến người dân yên tâm không sợ hãi. Tiêu Chú lại viết thư gửi Lý Phục Khuê, nói rằng giặc chắc chắn không dám tiến sâu, nên tạm thời cố thủ, đợi khi chúng muốn rút lui thì mới đánh. Phục Khuê không nghe, sai Quách Khánh đem mấy ngàn quân đến Đại Thuận Thành, toàn quân bị tiêu diệt. Do đó, Vua triệu Tiêu Chú về kinh, lệnh cho Chú thay Vương Khánh Dân quản câu quân mã Lộ Lân Phủ. Việc này căn cứ theo bản truyện. Thực lục chỉ ghi là phục chức, làm Kiềm hạt Tịnh Đại[17], không nói đến việc quản câu quân mã Lộ Lân Phủ. Đến ngày 16 tháng giêng năm sau, do Vương Khánh Dân vẫn giữ chức cũ, mới thấy ghi chép. Nay ghi chép kèm ở đây.

[36] Xu mật sứ Văn Ngạn Bác tâu: “Thần nghe rằng hình pháp của nước thái bình nên dùng điển chế trung dung. Từ cuối đời Đường đến đời Chu[18], qua năm đời loạn lạc, hình pháp dùng điển chế nặng để cứu vãn tình thế nhất thời, vì vậy ngoài luật pháp, tội nhẹ có khi bị xử nặng, tội lưu đày có khi bị xử tử. Dùng biện pháp tạm thời để ổn định tình hình loạn lạc của đất nước là được, nhưng đó không phải là ý nghĩa gốc của luật pháp, không thể dùng làm pháp luật thường xuyên thời thái bình. Đất nước ta thái bình đã trăm năm, nên dùng điển chế trung dung, nhưng hiện nay vẫn còn dùng pháp luật cũ, có những điều còn nặng hơn luật cũ[19]. Ví như tội giả mạo công văn, theo luật chỉ bị lưu đày hai ngàn dặm, nay lại xử tội thắt cổ; lại có trường hợp nặng hơn, do gần đây có quan viên dâng sớ xin, phàm tái phạm tội giả mạo ấn tín dù chưa đến mức tử hình cũng bị xử thắt cổ, đó là xử tử người không đáng chết. Nếu vì tội tái phạm mà trách cứ họ không chịu sửa đổi, thì như tội cướp có vũ khí, tang vật đủ năm tấm vải mới bị tử hình, nếu chỉ có bốn tấm, dù phạm năm bảy lần cũng không đến mức thắt cổ, huống chi tội cướp có vũ khí, bản thân luật pháp đã nặng hơn tội giả mạo ấn tín, nhưng cách dùng pháp luật hiện nay lại rất khác với văn bản luật.

Bệ hạ[20] nhân từ bao trùm muôn nước, luôn thương xót đến hình pháp, vừa ban chiếu cho quan tư pháp bàn luận về điển chế hình pháp, xin hãy xem xét kỹ từ đời Ngũ đại đến nay, những tội danh hiện đang được triều đình áp dụng mà nặng hơn luật cũ, như tội giả mạo ấn tín, đem so sánh với sắc lệnh và luật pháp, chọn dùng những điều thích đáng.” Chiếu đưa xuống Biên sắc sở.

[37] Chiếu rằng năm sau sẽ ban tặng bạc và lụa cho nước Hạ, lệnh cho Tuyên phủ ty xem xét, phân phát cho bốn lộ An phủ ty những nơi thiếu để phong trang. Do Tuyên phủ ty tâu rằng: “Sắp tới sẽ có người phương Tây đến quy phụ, cần chuẩn bị tiền vật để cứu tế và khao thưởng, xin lệnh cho Chuyển vận ty cấp mười vạn quan tiền đến Tần châu để phong trang.”

[38] Ngày Kỷ Dậu, xem xét việc cưỡi ngựa bắn cung của Tôn Hi và Hàn Liêm, phong cho Tôn Hi làm Ban Điện thị cấp Phi Đái; Hàn Liêm làm Ban Điện thị cấp Hạ, cùng làm Chỉ huy sứ ở lộ Tần Phượng. Tôn Hi và Hàn Liêm là người ở đâu, cùng vì sao được xem xét việc cưỡi ngựa bắn cung và được phong chức, cả sách thực lục mới và cũ đều ghi như vậy, cần xem xét thêm.

[39] Chiếu cho Ty Chuyển vận Thiểm Tây, dùng 20 vạn quan tiền mặt từ việc chuyển đổi vật phẩm của bốn lộ Tây Xuyên, để làm vốn cho trường in giấy muối của Ty Chế trí giải diêm. Tam ty tâu rằng, năm nguyên niên, lộ Thành Đô phủ có số tiền dư là 74 vạn quan, 19 vạn tấm lụa, 5 vạn tấm the, 13 vạn tấm vải, 6 vạn lạng tơ, 46 vạn lạng bông, 4.900 lạng bạc. Chiếu cho Chuyển vận sứ chọn quan cùng với Ty Chuyển vận Thành Đô phủ xem xét ngoài kế hoạch năm[21], số tiền hiện có để mua vật phẩm và các vật dụng còn lại, đều chuyển hết đến Ty Chuyển vận Thiểm Tây để đổi thành tiền mặt, làm vốn cho trường in giấy muối Tây Diêm, ngoài ra, phong trữ để phòng chi phí biên giới. Trước đó, Vương An Thạch tâu với Vua, dời vật phẩm từ Ba Thục đến Thiểm Tây để phong trữ, không chỉ tiết kiệm việc vận chuyển của người Thục[22], mà còn có thể tránh được chi phí chi trả từ kinh sư, nên có chiếu này. Ngày 5 tháng 11 năm thứ hai, cấp 10 vạn quan, nay tăng lên 20 vạn quan, đến ngày 24 tháng giêng năm thứ tư thì bãi bỏ việc mua giấy muối.

[40] Chiếu rằng: “Khai Phong phủ, huyện Trung Mâu tâu rằng, 17 chuồng ngựa có thể chiêu mộ 2-3 hộ dân gần đó trông coi, cho phép trồng trọt 2-3 khoảnh ruộng thượng đẳng trên đất chăn nuôi, miễn thuế, mỗi năm trồng cây du và liễu để làm vật liệu chuồng. Hộ thuộc đẳng thứ tư trở xuống, miễn sai dịch của đẳng đó. Từ nay về sau, không dùng hộ nộp thuế làm người trông coi chuồng ngựa.”

[41] Ngày Canh Tuất, ban chiếu rằng: “Các quan thăng triều, ngoài việc phong tặng cha mẹ theo lệ xá tội Nam Giao, không được dùng việc gia ân, chuyển chức, phẩm phục để trao lại hoặc phong tặng cho thân thuộc có tang hoặc không có tang. Các thể lệ trước sau đều bãi bỏ.”

[42] Xu mật viện tâu: “Các quân bản thành ở các lộ, có nơi số quân quá ít không đủ thành một chỉ huy, mỗi khi sai phái thì rất lẻ tẻ. Xin giao cho chuyển vận ty thu thập số quân hiện có ở các châu quân, trừ các quân bản thành phải luyện tập cùng các quân tráng thành, tác viện, đệ phố, lao thành khó hợp nhất, xin hợp các quân lẻ tẻ thành một chỉ huy trên 400 người, vẫn giữ nguyên lương cũ. Số quân viên dư ra thì bổ sung vào chỗ khuyết ở các châu quân khác.” Được chấp thuận. Ngày 12 tháng 10 năm thứ hai, lần đầu áp dụng ở Kinh Đông lộ, nay mở rộng ra các lộ. Bản Chu bỏ sự kiện ngày 12 tháng 10 năm thứ hai, chỉ giữ lại việc này, là không đúng. Nay giữ cả hai. Ngày 16 tháng 12, cần xem xét thêm.

[43] Ngày Tân Hợi, quyền phát khiển tam ty sứ Lý Túc Chi được bổ nhiệm làm quyền tam ty sứ. Túc Chi chưa đến, Vua nhiều lần thúc giục, đến chưa lâu lại có mệnh lệnh này.

[44] Ban chiếu rằng: Các công nhân ở cơ quan thu chi tiền lương thường bình nếu nhận hối lộ, dù đã có quy định xử phạt theo điều ước về việc thu nhận tiền vật khi sai phái nhân phu, nhưng vẫn lo chưa đủ răn đe, từ nay phạt trượng thì biên quản ở châu lân cận, phạt đồ trở lên thì thích chữ và đày vào lao thành bản châu. Cho phép người tố cáo, thưởng 50 ngàn tiền cho tội trượng, 100 ngàn tiền cho tội đồ.

[45] Thượng phê: “Gần đây do các công cụ phòng thủ ở các thành trại ngoài sông bị bỏ bê, tuy đã lần lượt trách phạt các quan lại đương chức, nhưng nghe nói trước sau không chỉ các sứ thần thành trại làm việc qua loa, mà ngay cả những người siêng năng trong công việc cũng thường bị các giám ty ngăn cản, những yêu cầu về binh lính, thợ thuyền và vật liệu không được đáp ứng ngay, dù muốn tự trình bày[23], cũng không thể được. Nay đã trừng phạt sự qua loa, khiến mọi người phải hết sức, nên bỏ lệnh cấm tự trình bày để tránh bị bế tắc, có thể bàn việc lập pháp.” Do đó, ban chiếu cho các ty Kinh lược, Chuyển vận Thiểm Tây, Hà Đông, nếu các quan lại thành trại xin binh lính, thợ thuyền, vật liệu và việc chuẩn bị chiến đấu, phòng thủ, thì phải nhanh chóng xem xét đáp ứng. Nếu nhiều lần xin mà không được trả lời, cho phép nơi đó trực tiếp tâu lên.

[46] Ngày Nhâm Tý, Giám tại kinh Chú (Kim tả) vụ Đặng Nhuận Phủ biên tu 《Trung thư điều lệ》. Nhuận Phủ là người Kiến Xương.

[47] Trứ tác tá lang, biên tu 《Trung thư điều lệ》 Trương Hổ làm Tập hiền hiệu lý.

[48] Ngày Quý Sửu, Xu mật viện tâu: “Trong số binh lính giản trung ở Vận châu có Chu Tín và hai người khác, vốn là quan thân tòng, xin lệnh cho Kinh Đông chuyển vận ty xét lại, nếu không phải là người phạm tội trong điện năm Khánh Lịch thứ 8 bị đày đến, thì theo lệnh tuyên mà tuyển chọn.” Thượng phê: “Điền vào Long Mãnh[24], Long Kỵ, vốn là quân cấm lữ ở kinh, về lý không tiện. Nay chỉ tuyển chọn để sử dụng ở vùng biên giới xa, dù là người phạm tội năm Khánh Lịch thứ 8 cũng không ngại, có thể lệnh tuyển chọn như nhau.”

[49] Ban chiếu định luật tránh thân cho quan lại trong và ngoài triều.

[50] Hộ bộ thị lang trí sĩ Bành Tư Vĩnh mất.

[51] Ngày Ất Mão, Vua xuống chiếu triệu Quách Quỳ, quan phán châu Diên, về kinh. Hàn Giáng dùng mưu của Chủng Ngạc, định đem quân chiếm Hoành Sơn. Quỳ nói: “Ngạc chỉ là kẻ cuồng vọng. Triều đình dùng y vì gia thế, thật là quá đáng. Ngày sau làm bại quốc sự, chắc chắn là người này.” Giáng bàn với Quỳ việc xuất quân, Quỳ hết sức nói không nên, sai mạc phủ[25] tranh luận với Quỳ. Quỳ nói: “Việc này không chỉ vô công, e còn sinh ra biến cố khác, để lại lo lắng cho triều đình.” Giáng tức giận, tâu rằng Quỳ cản trở quân sự[26], nên mới có mệnh lệnh này.

[52] Lại sai Hàn Giáng, Tuyên phủ sứ Thiểm Tây, làm Tuyên phủ sứ Thiểm Tây, Hà Đông; Lã Đại Phòng, quan phán, làm Tuyên phủ phán quan lộ Thiểm Tây, Hà Đông. Giáng lúc đó đang chỉ huy quân ở Phu Diên, muốn mở đường thông sang Hà Đông, nên mới có mệnh lệnh này.

[53] Tham tri chính sự Vương An Thạch và các quan tâu rằng:

[54] Theo tấu trình của Ty Chuyển vận lộ Tử Châu: “Lộ này thường lấy danh nghĩa vận chuyển vật phẩm nhỏ của quan lại để khởi phát các đoàn vận tải, gây lãng phí và khó khăn lớn cho các nha tiền. Ví dụ như Châu Nhung những năm gần đây khởi phát ba đoàn vận chuyển gân và sừng trâu, chở quan viên đến Kinh Nam, tổng cộng chở 45 cân gân trâu, 90 đôi sừng, điều động 55 binh lính, mượn hơn 100 tấm lụa, lĩnh, vải, 300 lạng bông, hơn 24 quan tiền lớn, và hơn 148 thạch gạo. Châu Lô phát tám đoàn vận chuyển gân và sừng trâu, số lượng vật phẩm chở đi và tiền, lương mượn cũng tương đương với Châu Nhung. Hơn nữa, binh lính được điều động mượn tiền, lương, bông, lụa thường không trả lại trong hơn một năm hoặc một năm rưỡi. Tiền và lương mượn dọc đường còn chưa tính đến. Các nha tiền được điều động áp tải các đoàn da trâu là công việc nặng nhọc và khó khăn nhất. Hiện nay đã ngừng việc vận chuyển gân và sừng từ bảy châu quân Xương, Phổ, v.v., chỉ gửi kèm theo các thuyền vận tải đường thủy từ phủ Thành Đô đến Kinh Nam. Còn bảy châu quân Tử, Toại, v.v., dùng thùng chứa, sai lính trạm gánh đến Châu Phượng giao nhận, không cần điều động thêm thuyền vận tải, hiện nay cũng không còn số lượng tồn đọng chưa phát. Đồng thời, hợp nhất các đoàn vận tải đường bộ, giảm tổng cộng 136 đoàn, và giảm định số lượng nha tiền tiếp đón các tri châu, thông phán, thiêm phán từ xa của các châu quân giám trong lộ, cũng như giảm bãi các nha tiền áp tải theo hộ tống các quan viên thay thế, tổng cộng 283 người; và giảm bớt 501 công nhân sai dịch của các châu quân giám huyện.

Đồng thời, kiểm tra các nơi như Tử Châu, thấy rằng từ trước đến nay, các nha tiền công sứ trù khố thường phải chịu chi phí lớn, gây khó khăn. Trong đó, Châu Toại mỗi năm có hơn 3.100 phần công việc nặng nhọc về vận tải, mà công sứ trù khố chiếm đến 2.700 phần; Tử Châu có trường rượu trong châu, hai giếng muối, là công việc nhẹ nhàng nhất, đều được dùng để bù đắp cho các phần công việc nặng nhọc của công sứ trù khố, và sai các trường vụ thứ yếu đảm nhiệm quản lý vận tải; còn các châu Quả, Vinh, Nhung, Lô, v.v., các nha tiền khổ sở vì chi phí cho công trù, nếu không thay đổi, thì về sau các nha tiền đầu danh sẽ không muốn nhận việc. Xin được cắt giảm, và sai quan lại định lại quy chế nha tiền các châu.”

[55] Xét thấy gần đây đã có nhiều chiếu chỉ yêu cầu các lộ Giám ty, Đề cử quan xem xét lợi hại của việc sai dịch, nhưng chưa thấy ai tâu trình điều gì. Những việc trước đây đều là những điều lâu nay gây hại cho cả công lẫn tư, nhưng các Giám ty lại thường làm việc theo lối cũ, bỏ qua lợi ích chung để nuôi dưỡng thanh danh, không chịu hết lòng lo việc chức trách, dẹp bỏ tệ nạn cũ. Nay riêng Chuyển vận ty lộ Tử Châu đã thấu hiểu ý bệ hạ lo lắng thương xót trăm họ, đi đầu các lộ tâu trình tiếp nhận chiếu chỉ, bàn bạc tìm hiểu lợi hại của việc trên, thực là công trung, nên được khen thưởng. Xin đặc biệt khen ngợi; những việc giảm bớt nha tiền và cương vận, cùng sai quan định lại quy chế nha môn, xin vẫn theo như lời tâu mà thi hành. Những việc về khoản chi phí dư thừa trong công sứ, trù khố cần phải cắt giảm và quy định, đều căn cứ theo bản tâu của ty này: “Hiện đang không ngừng thúc giục các châu, quân xem xét điều kiện nông điền thủy lợi, sai dịch, như cương vận và dịch nhân các châu huyện nếu có thể hợp nhất, cắt giảm, cùng sáp nhập hương ấp, cần phải giảm bớt dịch nhân, sẽ tâu riêng.” Xin đều giao cho lộ này nhanh chóng xem xét, vạch rõ từng điều tâu lên; trong đó việc giảm bớt dịch nhân các châu huyện, lại giao cho ty này xem xét, bảo đảm rõ ràng, lâu dài có gì trở ngại hay không. Việc giảm bớt dịch nhân, hợp nhất cương vận và cắt giảm chi phí bất hợp lý trong công sứ, trù khố, lại giao cho các lộ đều theo đây và chiếu theo các chỉ huy liên tiếp của triều đình, nhanh chóng tâu trình những việc cần quyết định.

[56] Bấy giờ, Vua ban chiếu rằng: “Việc binh dịch trong thiên hạ thường làm khốn khổ dân ta, đến nỗi khiến họ phải chịu đói rét mà không thể tự tồn tại, há phải là ý của Trẫm làm cha mẹ dân sao[27]! Trẫm đã nhiều lần ban chiếu thư, muốn giảm nhẹ binh dịch, nhưng việc chưa thực hiện được, đó là do quan lại thi hành chiếu chỉ của Trẫm không chuyên cần và xem xét dân tình chưa sâu sắc. Nay riêng Lộ Tử Châu có thể phát huy lợi ích cho dân và loại bỏ những điều hại, muốn ban thưởng, Trẫm có tiếc gì. Xem xét tấm lòng của chấp chính, há có khác gì với Trẫm? Chuyển vận sứ Hàn Thục cùng các quan, đã ban sắc thư khen ngợi, lại ban thêm mỗi người 200 tấm lụa[28], còn lại đều y theo lời tâu mà thi hành.” Thục là người Cấp. Năm Nguyên Hựu thứ hai có truyện. Cả sử cũ và mới đều chép chiếu này. Tri phủ Khai Phong Hàn Duy tâu rằng: “Phủ nha tiền giảm bớt việc nặng nhọc, tính ra tiền 181.000 quan, trước kia do dân đóng góp, nay đều được miễn, mọi người đều cho là tiện lợi.” Lại ban chiếu khen ngợi. Việc của Hàn Duy xảy ra vào tháng 9 ngày Ất Sửu.

[57] Tri châu Định Châu Đằng Phủ tâu: “Thần trộm nghĩ rằng binh lực của Trung Quốc và binh lực của Di Địch thường lo lắng về sự chênh lệch đông ít, nguyên nhân không gì khác, bởi binh lực Trung Quốc có số lượng cố định, còn dân thường thì vốn không được huấn luyện chiến đấu. Tục lệ của Di Địch, ai cũng biết đánh nhau, không phân biệt binh và dân, có việc thì cả nước đều đến, đó là lý do họ thường thắng. Nay các châu huyện Hà Bắc gần núi rừng, dân gian đều có các hội bắn cung và các hộ săn bắn, quen thuộc thuận tiện, không khác gì người Di. Xin hạ lệnh cho các châu huyện trong đạo, cho phép chiêu mộ các loại công nhân và dân chúng trong thành quách, thôn xóm có sức mạnh và muốn học bắn cung lập thành hội, mỗi năm vào mùa xuân, quan lại đến nơi bắn để khuyến khích và kiểm tra. Khi cấp bách tuy không thể điều động, nhưng cũng đủ để phòng thủ[29].” Vua nghe theo.

[58] Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Vương Khuê tâu: “Thần gần đây nghe nói về việc kinh chế Giao Chỉ. Thần trước đây từng nhận được bản tấu của Quảng Tây chuyển vận sứ Đỗ Kỷ về việc Giao Chỉ, trong đó nói rất chi tiết về thế thứ từ khi bọn giặc chiếm cứ, cùng với núi sông, đường sá, binh lính và dân chúng. Cuối cùng còn đề xuất kế sách giữ đất, rất đáng tham khảo. Nghe nói văn thư của Xu mật viện gần đây bị thất lạc nhiều, nên thần xin sao chép lại dâng lên, để bệ hạ tham khảo.” Vương Khuê tự chú rằng việc này xảy ra vào mùa đông năm Hi Ninh thứ ba.

Tháng 12 năm đó, ngày Đinh Mão, Vương Khuê được bổ nhiệm làm Tham tri chính sự. Sau đó, Vua giao bản tấu của Vương Khuê cho Tham tri chính sự Vương An Thạch.

An Thạch tâu: “Thần kính nhận chiếu chỉ, được xem bản tấu của Vương Khuê và bàn về việc Giao Chỉ. Thần thấy bệ hạ lấy việc làm giàu và yên dân làm trọng, đó là phúc của dân chúng. Tuy nhiên, việc bàn bạc từ xa vạn dặm, lúc đầu không thể không thận trọng. Ôn Cảo lo lắng về các châu Khâm, Liêm là đúng. Nhưng việc răn dạy quan biên giới và an ủi Giao Chỉ thì e rằng không cần thiết, vừa làm tổn thương uy tín của bệ hạ, lại có thể khiến Giao Chỉ nghi ngờ[30]. Triều đình trước đây chưa từng làm thế, nay lại làm, thì họ sao không nghĩ đến nguyên nhân? Xưa kia, nước Tần có việc, đãi ngộ hậu hĩnh Vua Nhung Nghĩa Cừ, nhưng lại bị Nghĩa Cừ phát hiện, dẫn đến bị xâm lấn. Thần e rằng nếu dùng kế của Cảo, thì e rằng Giao Chỉ sẽ phát hiện và tự phòng bị, thậm chí gây khó khăn ở biên giới, đó sẽ là chuyện giống như Tần và Nghĩa Cừ[31]. Những việc khác mà Cảo đề xuất, cùng với việc thay Phan Túc, Đào Bật, xin đợi sau khi nghỉ lễ sẽ xin chỉ dụ.

Thần nghe nói tiên vương có trí tuệ đủ để xét đoán đúng sai từ trước, dũng khí đủ để quyết định lợi hại về sau, nhân từ đủ để tha thứ cho người tốt, nghĩa khí đủ để trừng trị kẻ gian, trong triều đình không ai dám trái lệnh, để thỏa mãn tà tâm, thì man di không cần đánh cũng tự phục; nếu có đánh, thì lo gì không thắng? Từ trung thế trở lại, việc làm của bậc quân vương, lúc đầu thường quả cảm không sợ khó, nhưng về sau thường bị bọn thần hại công năng ngăn trở, dẫn đến không thành công mà cuối cùng không tỉnh ngộ. Người có kế trung thành lại bị tội, người có lời nói chính trực lại bị nghi ngờ, nên kẻ đại gian dám kết bè đảng, mượn danh nghĩa công luận để ngăn trở việc, người đại trung biết việc sẽ thất bại nên khó lòng tận lực. Như thế thì dù có người khởi xướng, ai dám hưởng ứng? Dù có người làm, ai dám theo? Bọn gian thần trong triều lấy lòng Vua, ngoài thì lừa dối, kẻ ngu muội tham lợi trước mắt mà không nghĩ đến họa về sau, đều không đáng tin cậy. Làm việc như thế, thì việc chưa phát động, người trí đã biết trước là không thành. Nỗi lo của thiên hạ, không phải ở biên giới[32], mà ở triều đình; không phải ở triều đình, mà ở tấm lòng của bậc quân vương. Vì thế, tiên vương chú trọng bàn về đạo lý mà xem nhẹ việc bàn bạc, coi trọng việc tu dưỡng tâm tính mà xem nhẹ việc trị người.

Thần ngu muội không đủ sức bàn việc, nhưng e rằng thiên hạ ngày nay nên lấy tiên vương làm gương, mà lấy bậc quân vương trung thế làm răn. Thần trong đám người, được bệ hạ ưu ái nhất, nên dám nói trước mọi người. Kính mong bệ hạ xem xét, thì thiên hạ may mắn lắm!”

(Ngày 18 tháng 2 năm thứ ba là tiết Thanh minh, ngày 2 tháng 11 là tiết Đông chí, Vương An Thạch nói đợi sau khi nghỉ lễ sẽ xin chỉ dụ[33], chắc là tiết Đông chí. Bản tấu của Vương An Thạch do Lục Điền ghi chép, không rõ thời gian, nay nhân bản tấu của Vương Khuê, phụ vào tháng 11. Xét rằng Ôn Cảo đến tháng 3 năm thứ tư mới được bổ nhiệm làm quan y học, giữ chức Quảng Tây kinh cán. Có lẽ Cảo trước đây ở Quảng Tây, từng vào đất man giết giặc, nên Tiêu Chú tiến cử, do đó vào mùa đông năm thứ ba có bàn luận, triều đình sau đó bổ nhiệm làm quan, cũng là lẽ đương nhiên. Lại nữa, Phan Túc từ tháng 11 năm thứ nhất làm Tri châu Quế, đến tháng 3 năm thứ tư chuyển làm chuyển vận sứ Hà Bắc[34]. Vương An Thạch trong bản tấu này muốn thay Túc, nên vào mùa đông năm thứ ba, Túc hẳn đang ở Quế Châu, do đó tháng giêng năm thứ tư dùng Tiêu Chú thay Túc. Lại nữa, Đào Bật từ tháng 8 nhuận năm Gia Hựu thứ 6 làm Tri châu Dung, năm Trị Bình thứ 3 từ châu Khâm chuyển làm Tri châu Ung, ở Ung Châu 5 năm rồi chuyển làm Tri châu Đỉnh, sau đó lại làm Tri châu Thần. Vào mùa đông năm thứ ba, Bật hẳn cũng đang ở Ung Châu, nên Vương An Thạch trong bản tấu muốn thay Bật. Bật sau đó chuyển làm Tri châu Đỉnh và Thần, đến tháng 2 năm thứ 9 mới lại làm Tri châu Ung.)

[59] Tháng đó, bãi bỏ châu Hiến, đem huyện Tĩnh Lạc thuộc về châu Lam. 《Tân kỷ》 ghi chép phụ vào cuối năm. Năm thứ 11 lại đặt lại[35].


  1. Chiếu dân đói Hà Bắc lưu lạc đến Kinh Tây, chữ 'tỉ' nguyên bản viết là 'đồ', căn cứ theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại.
  2. Ung Chi Hạo, các bản khác và 《Tống hội yếu》 quyển 34, mục 49 đều viết là 'Ung Chi Kỳ'.
  3. Lý Hàng, các bản khác đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 viết là 'Lý Kháng'.
  4. Trương Điền, các bản khác đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 viết là 'Trương Do'.
  5. Đàm Lập Chi, các bản khác đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 viết là 'Đàm Khâu Chi'.
  6. 22 người, 《Biên niên cương mục》 quyển 18 viết là '21 người'. 《Tống hội yếu》 quyển 34, mục 48 và bản sách này quyển 211 đều viết là '29 người'.
  7. 'Thiều' nguyên bản chép là 'Chiếu', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 329, truyện Vương Tử Thiều sửa lại.
  8. 'Hải' nguyên bản chép là 'Mai', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại.
  9. nếu tính gộp nặng vào nhẹ rồi chỉ theo hình phạt nặng, bản hoạt tự giống nhau. Các bản khác và 《Tống sử》 quyển 201, 《Hình pháp chí》 đều không có hai chữ 'chỉ theo', nghi ngờ là đúng.
  10. Ngày 22 nguyên là 'ngày 21', căn cứ theo quyển 220, 230 của sách này mà sửa.
  11. Tất cả các khoản bồi thường của nha tiền và sự sách nhiễu của lại, 'tiền' nguyên là 'môn', căn cứ theo bản các mà sửa.
  12. 'Cụ' nguyên bản là 'kì', theo bản khác sửa lại.
  13. 'Thứ sử' nguyên bản là 'Sắc sử', theo văn trên sửa lại.
  14. Tróc sinh đô quân chủ được tăng bổng lộc 'Tăng', các bản và bản hoạt tự đều viết là 'Tăng', có lẽ đúng.
  15. Xin theo phép cũ chia làm hai đợt cấp tiền Thanh miêu, chữ 'đợt' nguyên là 'khoa', theo các bản và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 53-11 sửa
  16. Tiền Thanh miêu theo đợt, chữ 'đợt' nguyên là 'khoa', theo sách trên sửa
  17. Chữ 'Tịnh' nguyên bản viết là 'Tính', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại.
  18. Từ cuối đời Đường đến đời Chu, chữ 'đến' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 Hình pháp một phần tám bổ sung.
  19. Có những điều còn nặng hơn luật cũ, chữ 'nặng' nguyên bản là 'dùng', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 Hình pháp một phần tám và 《Tống sử》 quyển 201 Hình pháp chí sửa lại.
  20. Bệ hạ, chữ 'Bệ' nguyên bản là 'Thăng', căn cứ vào bản trong các bộ sách, bản in hoạt tự và 《Tống hội yếu》 Hình pháp một phần tám sửa lại.
  21. Chiếu cho Chuyển vận sứ chọn quan cùng với Ty Chuyển vận Thành Đô phủ xem xét ngoài kế hoạch năm, sách 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa 24-5 ghi là 'lại chiếu cho Thiểm Tây chuyển vận chọn quan cùng với Ty Chuyển vận lộ Thành Đô phủ xem xét ngoài kế hoạch năm'.
  22. Vận chuyển, chữ 'vận' nguyên bản là 'luân', theo các bản khác và sách trên sửa lại.
  23. tuy muốn tự trình bày, chữ 'Đạt' nguyên là 'Kiệt', theo 《Tống hội yếu》 binh 28-9 sửa lại.
  24. Long Mãnh nguyên là 'Mãnh Hổ', theo các bản sửa lại.
  25. Chữ 'mạc' nguyên là 'mộ', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại.
  26. Chữ 'trở' dưới nguyên có thêm chữ 'tấu', theo các bản đã xóa.
  27. há phải là ý của Trẫm làm cha mẹ dân sao, chữ 'dân' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung
  28. lại ban thêm mỗi người 200 tấm lụa, chữ 'mỗi' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung
  29. phòng thủ, chữ 'phòng' nguyên bản viết là 'Hãn', căn cứ theo các bản và bản hoạt tự sửa lại
  30. 'khiến' nguyên văn là 'đến', theo các bản và bản hoạt tự sửa.
  31. 'đó sẽ là chuyện giống như Tần và Nghĩa Cừ' chữ 'dã' nguyên văn thiếu, theo các bản bổ sung.
  32. 'biên giới' nguyên văn là 'cương trường', theo nghĩa sửa.
  33. 'đợi sau khi nghỉ lễ sẽ xin chỉ dụ' nguyên văn là 'đợi mở lễ nghỉ xin chỉ dụ', chữ 'giả khai' ở đây có lẽ đảo ngược.
  34. 'chuyển' nguyên văn là 'đồ', theo các bản và bản hoạt tự sửa.
  35. 'lại đặt' nguyên bản là 'sau đặt', căn cứ theo các bản và 《Nguyên Phong Cửu Vực Chí》 quyển 4, 《Tống Triều Sự Thật》 quyển 18, 《Tống Sử》 quyển 86, phần Địa Lý Chí châu Hiến sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.