"

I. TỐNG THÁI TỔ

QUYỂN 2: NĂM KIẾN LONG THỨ 2 (TÂN DẬU, 961)

Từ tháng giêng năm Kiến Long thứ hai đến tháng chạp cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Thân (mùng 1), Đế ngự tại điện Sùng Nguyên nhận lễ chúc mừng triều thần, mặc áo cổn đội mũ miện, bày nhạc cung đình, nghi trượng cung kính. Sau đó rời đi, các quan đều đến cửa cung Hoàng Thái Hậu dâng lời chúc mừng. Đế mặc thường phục, ngự tại điện Quảng Đức, tất cả các quan dâng lời chúc thọ, dùng nhạc của giáo phường.

[2] Ngày Canh Tý, nước Chiêm Thành cử sứ giả đến tiến cống sản vật địa phương.

[3] Ngày Nhâm Dần, Đế đến xem việc tập luyện thủy chiến tại cơ quan đóng thuyền.

[4] Ngày Mậu Thân, ban chiếu lấy hành cung Dương Châu làm chùa Kiến Long.

[5] Thái bộc thiếu khanh Vương Thừa Triết vì tiến cử quan viên không đúng sự thật, bị giáng chức làm điện trung thừa.

[6] Ngày Kỷ Dậu, Đế ngự tại cửa Minh Đức xem đèn, yến tiệc cùng các quan, sứ giả của Giang Nam và Ngô Việt đều tham dự. Trước lâu đài bày núi đèn cây lửa, trên sân khấu diễn nhạc, trình diễn trăm trò. Khách các nước đều dâng lễ ca múa của nước mình, sau đó được ban rượu thịt.

[7] Ngày Nhâm Tý, châu Thương báo về việc chuột ăn lúa mạ, ban chiếu miễn giảm thuế thường niên.

[8] Ngày Quý Sửu, Đế đến cửa Huyền Hóa khao thưởng dân phu đang sửa chữa sông.

[9] Cuối thời Chu Hiển Đức, triều đình sai các quan thường tham tri đến các châu đo đạc ruộng đất của dân, nhưng nhiều người bị dân kiện cáo, nên bị cách chức. Vua muốn noi theo chế độ của Thế Tông, trước tiên ra lệnh cảnh cáo, bèn nói với các quan hầu cận: “Trước đây sai sứ đo đạc ruộng đất, vốn là muốn chăm lo cho dân, nhưng dân lại càng khổ hơn, há chẳng phải do sứ thần mưu cầu công trạng, mong được thăng tiến, nên mới dẫn đến tình trạng này sao? Nay nên chọn lựa kỹ càng người thực hiện, để đáp ứng ý Trẫm.”

(Việc sai quan đo đạc ruộng đất, theo ‘Thực hóa chí’, nói rằng triều đình tiếp nhận mệnh trời, phần nhiều noi theo chế độ nhà Chu, nhưng việc Thường Chuẩn và Thôi Tốn bị cách chức đều được ghi vào tháng giêng năm thứ hai, vậy thì năm đầu hẳn đã từng sai quan rồi. ‘Bản kỷ’ và ‘Thực lục’ lại không ghi hai việc này. Ngày Nhâm Tý tháng giêng năm thứ hai, ‘Thực lục’ mới bắt đầu ghi lời nói “nay nên chọn lựa kỹ càng người thực hiện”. Ngày Đinh Tỵ tháng giêng, ‘Bản kỷ’ mới bắt đầu ghi việc phân sai các quan thường tham tri đến các châu đo đạc ruộng đất.

Căn cứ vào ‘Thực lục’ và ‘Bản kỷ’, thì ‘Thực hóa chí’ đã nhầm. Thôi Tốn từ chức Lệnh Y Dương được thăng làm Thái tử tẩy mã vào ngày Đinh Hợi tháng tư năm đầu. Thường Chuẩn bị tước hai chức quan vào ngày Giáp Ngọ tháng tư năm thứ hai. Nhưng ‘Thực hóa chí’ lại gộp hai việc này lại, có lẽ người soạn chí vì tiện lợi mà không tra cứu thứ tự thời gian, nên mất đi sự chính xác. Vậy thì thực tế chưa từng sai quan, lời Thái Tổ nói “nên chọn lựa kỹ càng người thực hiện”, có lẽ là chỉ những người được sai trước đây không phù hợp, như Thôi Tốn vậy. ‘Thực lục’ lại nói Thôi Tốn bị cách chức ở Y Dương, chưa đầy một năm lại được thăng làm tẩy mã, nói “chưa đầy một năm”, thì việc cách chức hẳn là vào cuối thời Hiển Đức, nếu vào đầu thời Kiến Long, thì mới hơn ba tháng, không nên nói “chưa đầy một năm”. Xét ‘Vương Nhân Hạo truyền’ chép: Giữa thời Hiển Đức, Quốc tử bác sĩ Thượng Quan Toản đo đạc ruộng đất ở Hà Trung, định tăng thuế nặng, khiến dân chúng oán hận, Nhân Hạo tâu xin bãi bỏ. Có lẽ lúc đó, những người bị cách chức vì đo đạc ruộng đất không chỉ mình Thôi Tốn. Nay đều bỏ tên họ, chỉ ghi chung là “nhiều người bị dân kiện cáo, nên bị cách chức”, để tránh mâu thuẫn.)

Ngày Đinh Tỵ, triều đình phân sai các quan thường tham tri đến các châu đo đạc ruộng đất của dân.

(Điều này theo ‘Bản kỷ’, còn ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ đều không ghi.)

[10] Chiếu chỉ huy động hàng vạn dân phu từ Kinh Kỳ, Trần, Hứa, do Hữu lĩnh quân vệ Thượng tướng quân Trần Thừa Chiêu đốc suất, đào sông Mẫn từ Tân Trịnh hợp với sông Thái, chảy qua Kinh Sư, về phía nam qua Trần, Dĩnh, đến Thọ Xuân, để thông thuyền bè từ bờ phải sông Hoài. Thừa Chiêu là người Giang Biểu.

(Thừa Chiêu, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ tư, không rõ quê quán, nay theo bản truyện.)

[11] Ngày Kỷ Mùi, Vua đến xưởng đóng thuyền.

[12] Ngày Giáp Tí, chém Trạch châu Thứ sử Trương Sùng Hỗ. Trước đây, Sùng Hỗ làm Tứ châu Thứ sử, khi Lý Trọng Tiến ra trấn thủ Hoài Nam, Sùng Hỗ đã đón tiếp và bày kế hoạch tích trữ lương thực. Sau khi Trọng Tiến thất bại, việc này bị phát giác, nên bị xử tử.

[13] Giám tu quốc sử Vương Phổ cùng các quan dâng lên bộ ‘Đường hội yếu’ gồm 100 quyển. Thời Đường Đức Tông, Tô Miện soạn ‘Hội yếu’ 40 quyển. Đến thời Vũ Tông, Thôi Huyền lại tiếp tục biên soạn thêm 40 quyển. Phổ cùng các quan thu thập sự tích từ thời Tuyên Tông trở về sau, biên soạn thành 100 quyển. Chiếu chỉ lưu trữ tại Sử quán, ban thưởng vật phẩm khác nhau.

[14] Tháng hai, ngày Bính Dần, Vua đến doanh trại quân Phi Sơn để xem xe bắn đá.

[15] Ngày Canh Ngọ, Vua đến xưởng đóng thuyền.

[16] Ngày Nhâm Thân, sai Cấp sự trung Phạm Dương Lưu Tải đến Định Đào đốc suất 3 vạn dân phu từ Tào, Đơn, nạo vét kênh Ngũ Trượng (theo ‘Tống sử’ ghi là sông Ngũ Trượng), từ phía bắc kinh thành qua Tào, Tế đến Vận, để thông thuyền bè từ phương Đông. Vua bảo các quan rằng: “Những việc phiền dân để phụng sự bản thân, Trẫm nhất định không làm. Việc đào kênh rạch để cứu giúp Kinh ấp, thực là bất đắc dĩ.”

[17] Ngày Quý Dậu, Quyền tri cống cử Đậu Nghi tâu lên danh sách 11 người đỗ tiến sĩ.

[18] Ngày Giáp Tuất, Vua đến phía nam thành xem việc sửa chữa hồ chứa nước.

[19] Ngày Đinh Sửu, Đường chủ Cảnh sai sứ đến chúc mừng lễ Trường Xuân.

[20] Ngày Kỷ Mão, sai Thông sự xá nhân Vương Thủ Chính đi sứ Giang Nam, thăm hỏi việc Đường chủ dời đô.

(Thủ Chính, không rõ lai lịch.)

[21] Trước đây, các phiên trấn thường cử thân lại đến giám sát việc thu thuế của dân, tăng thêm số lượng, công khai lấy phần dư thừa. Phù Ngạn Khanh tại Thiên Hùng quân thu thuế của dân càng tận thu. Vua nghe tin, liền cử các quan thường tham gia việc triều chính đến phụ trách việc này, dân chúng mới không còn bị khổ sở vì thuế nặng. Sau đó, Vua xuất lương thực công ban cho Ngạn Khanh để làm ông hổ thẹn.

(Sách ‘Sóc ký’ ghi việc ban lương thực này vào tháng 5 năm đầu tiên, sau khi lệnh cho Vương Trọng giám sát các kho ở kinh đô, nay theo ‘Thực lục’.)

[22] Theo chế độ cũ, kẻ trộm cắp tang vật đủ ba tấm lụa sẽ bị xử tử. Ngày Kỷ Sửu, đổi thành ba nghìn đồng tiền, mỗi mân tiền tám mươi đồng.

[23] Ra lệnh từ tháng 2 đến tháng 9, dân không được bắt cá, bắn chim, các cơ quan hàng năm phải nhắc nhở việc này.

[24] Ngày Tân Mão, Vua đến vườn Nghênh Xuân dự tiệc và bắn cung.

[25] Tháng đó, Đường chủ bắt đầu dời đến Nam Đô, lập Ngô Vương Tòng Gia làm Thái tử, giám quốc. Để lại Tả bộc xạ Nghiêm Tục làm Tri Xu mật viện sự, Thang Duyệt phụ tá. Duyệt tức là Ân Sùng Nghĩa, người Trì Châu, vì họ phạm húy của Tuyên Tổ nên đổi tên.

(Việc của Tục theo ‘Cửu quốc chí’. Việc của Duyệt theo bản truyện.)

[26] Tháng 3, Đường chủ đến Nam Đô. Thành ấp chật hẹp, cung phủ và dinh thự chỉ chứa được một phần mười, công việc tuy nhiều nhưng không thể thi triển tài năng, quần thần ngày đêm mong trở về. Đường chủ hối hận và tức giận, muốn giết những người chủ mưu ban đầu. Xu mật phó sứ, Cấp sự trung Đường Hạo phát bệnh mà chết.

(Sách ‘Giang Nam dã lục’ chép rằng Hạo tự tử, nay theo ‘Ngũ đại sử’. Hạo, lần đầu xuất hiện vào tháng 7 năm Hiển Đức thứ 6, không rõ quê quán.)

[27] Ngày Bính Thân, xưởng rượu trong cung bị cháy. Xưởng này tiếp giáp với tam ty, đêm xảy ra hỏa hoạn, thợ làm rượu đột nhập vào nha môn. Vua lên lầu nhìn thấy, cho rằng quan coi xưởng rượu là Tả Thừa Quy và phó sứ Điền Xử Nham dung túng thuộc hạ làm trộm cướp, nên đều xử tử. Năm mươi thợ rượu bị lệnh chém ở các cổng thành. Các tể thần hết lời can gián, cơn giận của Vua dần nguôi, liền sai người bắt gấp thả ra, nhưng chỉ có mười hai người được thoát.

(Sách ‘Tống triều đại sự ký’: Tháng 3 năm Kiến Long thứ hai, Lâm Đức Tụng viết: “Trong Kinh Dịch, quẻ Càn tượng trưng cho Vua. Đức của quẻ là đức của Vua. Trời lấy sự cứng rắn làm đức, đức của Vua mà không mạnh mẽ, thì sao trị được thiên hạ? Thái Tổ của ta lập quốc, từ thiên hạ đã tan nát không thể cứu vãn, một mạch dẹp yên. Kẻ mạnh phục tùng, kẻ cứng đầu thuận theo, cúi đầu nghe mệnh, chỉ sợ chậm trễ. Đặt phiên trấn làm vệ binh, mà phiên trấn không dị nghị, giao quyền cho thủ thần mà thủ thần không ý khác. Đây là do đâu mà được vậy? Anh vũ từ trời, quyết đoán như thần.” Năm Khai Bảo thứ sáu, sai Tri châu Lợi Châu là Lý Chú làm Thông phán ở thành Đô phủ. Quân xuyên ban vu cáo, cả ban bị giải tán. Quân Hùng Vũ cướp bóc, giết đến trăm người. Lính làm việc đột nhập vào bộ, chủ tướng cũng bị xử tử. Kẻ quan lại tham nhũng bị chém, quan từ chức vì việc đục khoét bị cách chức. Uy lệnh khó lường như vậy, ai dám trái ý Vua?)

[28] Ban đầu, sông Ngũ Trượng bị bùn lấp, không thuận tiện cho thuyền bè, Vua xuống chiếu cho Tả giám môn vệ tướng quân là Trần Thừa Chiêu ở phía tây kinh thành, dọc sông Biện xây cửa đẩy, từ Huỳnh Dương đào kênh hơn trăm dặm, dẫn nước sông Kinh và sông Sách thông ra hào thành vào cửa đẩy, dẫn dòng chảy vào sông Biện, đổ về phía đông vào sông Ngũ Trượng, để thuận tiện cho việc vận chuyển ở đông bắc. Ngày Giáp Thìn, cửa nước mới hoàn thành, Vua đến xem.

[29] Ngày Ất Tỵ, ban cho Xu mật phó sứ Triệu Phổ một khu nhà.

[30] Ngày Tân Hợi, lấy Hùng Vũ tiết độ sứ, giữ chức Thái Bảo, kiêm Trung thư lệnh, Thái Nguyên quận vương là Vương Cảnh làm Phượng Tường tiết độ sứ, kiêm chức Tây diện duyên biên đô bộ thự.

Vương Cảnh, người đất Dịch, (Vương Cảnh, lần đầu xuất hiện vào năm Thiên Phúc thứ ba). Ông khởi nghiệp từ quân ngũ, tính cách khiêm tốn, hạ mình đối đãi với kẻ sĩ, mỗi khi sứ giả triều đình đến, dù là chức vị thấp cũng đều đón tiễn, tiếp đãi đầy đủ lễ nghi. Tả hữu có người nói: “Vị vương cao quý, không nên quá tự hạ mình[1].” Vương Cảnh đáp: “Bề tôi coi trọng mệnh lệnh của Vua, vốn đúng như vậy, ta chỉ sợ không thận trọng mà thôi.”

Đầu niên hiệu Kiến Long, ông được phong làm quận vương. Triều đình cử Lại bộ Thượng thư Trương Chiêu làm sứ giả, Vương Cảnh càng đối đãi trọng thị, tặng Trương Chiêu hơn vạn xâu tiền. Tả hữu cho rằng quá hậu, Vương Cảnh nói: “Ta từng nghe danh tiếng của Trương Thượng thư, nay ông đến với ta, đó là quốc gia đối đãi hậu với ta, há có thể lấy lệ cũ làm giới hạn?” Vì thế, ông từ Tần châu về triều, được Vua đối đãi ưu ái, ban yến tiệc hậu hĩnh, rồi lại sai trấn thủ Phượng Tường.

[31] Tể tướng Phạm Chất và Vương Phổ lần lượt bị bệnh, Vua sai Hàn lâm y quan là Vương Tập và Mễ Quỳnh đến thăm khám, cả hai đều khỏi bệnh. Vua vui mừng, bèn phong Vương Tập làm Quang lộc tự thừa, Mễ Quỳnh làm Đô thủy giám chủ bạ.

[32] Bắc Hán xâm phạm Lân châu, Phòng ngự sứ Dương Trọng Huân đánh đuổi được. Trọng Huân, tức là Trọng Huấn, đổi tên để tránh húy của Chu Cung Đế.

(Năm Quảng Thuận thứ hai, Trọng Huấn lần đầu xuất hiện. Tháng 10 năm Hiển Đức thứ tư, Trọng Huấn đem Lân châu của Bắc Hán hàng, liền được phong làm Phòng ngự sứ.)

[33] Lệnh cho các quan văn võ, quan đã về hưu, tăng đạo và bách tính, từ nay về sau, vào dịp Trường Xuân tiết và các lễ khánh hạ khác, không được tự tiện dâng cống hiến.

[34] Ngày Quý Hợi, Vua bước từ cửa Minh Đức, đến xưởng thợ để yến tiệc và bắn cung. Khi rượu đã ngà say, Vua nhìn về phía cựu Tiết độ sứ Phượng Tường, kiêm Trung thư lệnh người Lâm Thanh là Vương Ngạn Siêu (Ngạn Siêu lần đầu xuất hiện vào năm Khai Vận thứ 3) nói: “Khanh trước kia ở Phục Châu, Trẫm đến nương nhờ, sao khanh không tiếp đón Trẫm?” Ngạn Siêu bước xuống thềm, cúi đầu tâu rằng: “Bấy giờ thần chỉ là một Thứ sử nhỏ, nước trong chén nhỏ sao có thể chứa được rồng thần? Nếu thần tiếp đón Bệ hạ, Bệ hạ đâu có được ngày hôm nay!” Vua nghe xong cười lớn rồi thôi.

Tháng 3 nhuận, ngày Giáp Tý mùng 1, Ngạn Siêu dâng biểu xin chịu tội ở nhà riêng. Vua sai trung sứ đến an ủi, rồi nói với các quan hầu: “Say sưa trong rượu chè, làm sao xứng đáng là người? Trẫm đôi khi vì yến tiệc mà say, đêm qua chưa từng không hối hận.” Các quan hầu đều lạy tạ hai lần.

(Sách ‘Bản kỷ’ cùng ‘Cựu lục’ đều ghi việc này vào ngày Giáp Tý tháng nhuận. Giáp Tý là mùng 1, liền kề với ngày Quý Hợi, có lẽ vì Vương Ngạn Siêu đã dâng biểu xin chịu tội nên mới ghi như vậy. Còn ‘Tân lục’ lại chép vào ngày Kỷ Tỵ, e là sai, nay không theo.)

[35] Điện tiền đô điểm kiểm, Tiết độ sứ Trấn Ninh quân Mộ Dung Diên Triệu bị miễn chức, giáng làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây đạo; Thị vệ thân quân đô chỉ huy sứ Hàn Lệnh Khôn bị miễn chức, giáng làm Tiết độ sứ Thành Đức. Từ đó, chức Điện tiền đô điểm kiểm không còn được phong nữa.

[36] Ngày Kỷ Tỵ, Vua đến vườn Ngọc Tân.

[37] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu cho Khai Phong phủ tập hợp dân chúng, dùng gậy đánh chết tăng nhân Hoàng Kiến viện là Huy Văn, còn Tăng lục Quỳnh Ẩn cùng 17 người khác đều bị đánh gậy rồi lưu đày. Trước đó, khi Vua từ Dương Châu trở về, tăng đạo hai bên đường ra đón, Huy Văn cùng những người kia mang phụ nữ đến nhà trọ uống rượu say sưa, bị đồng đảng tố cáo. Sau khi bắt giữ, tra khảo xác thực, nên mới có lệnh này.

[38] Ngày Nhâm Thân, Đường chủ sai sứ đến cống nạp 2.000 lượng đồ vàng, 10.000 lượng đồ bạc, 2.000 tấm gấm lụa, để tạ ơn việc ban thưởng ngày sinh thần.

[39] Ngày Đinh Sửu, dân chúng Kim, Thương, Phòng ba châu đói kém, Vua sai sứ đi cứu tế.

[40] Ngày Quý Mùi, Vua đến vườn Nghênh Xuân để yến tiệc và bắn cung.

[41] Ngày Bính Tuất, Hàn Lệnh Khôn và Mộ Dung Diên Chiêu từ biệt, được mở tiệc ở điện Quảng Chính. Từ đó, mỗi khi Tiết độ sứ trở lên ra ngoài nhậm chức, đều tổ chức yến tiệc theo nghi lễ.

[42] Mùa xuân, Vua ban chiếu nhắc lại lệnh năm Hiển Đức thứ ba đời Chu, bắt dân trồng trọt, mỗi huyện chia dân thành năm hạng. Hạng nhất trồng một trăm cây, mỗi hạng sau giảm hai mươi cây, còn dâu và táo thì một nửa. Nam nữ từ mười bảy tuổi trở lên[2], mỗi người trồng một luống hẹ, rộng một bước, dài mười bước. Nơi không có giếng, hàng xóm phải đào giếng giúp. Quan lại phải đi tuần tra vào mùa xuân và mùa thu, khi mãn nhiệm kỳ thì báo cáo, cơ quan có thẩm quyền sẽ xếp hạng công trạng để khen thưởng hoặc trách phạt. (Theo bản chí, sự việc này xảy ra vào tháng 2, không rõ ngày, nay ghi chép sau tháng nhuận.) Lại ban chiếu rằng từ nay, nếu có dân bỏ trốn, châu đó phải báo cáo số hộ và diện tích đất, rồi kiểm tra ngay, không để người thân hoặc hàng xóm phải nộp thuế thay.

(Theo bản chí ghi chép, không rõ tháng ngày, cần tra cứu thêm.)

[43] Mùa hạ, tháng 4, ngày mùng 1 Quý Tỵ, có nhật thực.

[44] Ngày Giáp Ngọ, Cấp sự trung Thường Chuẩn bị tước hai chức quan, được bổ làm Binh bộ lang trung rồi miễn chức. Trước đó, dân Quách Chí ở Quán Đào, Đại Danh đến kinh đô tố cáo việc đo đạc ruộng đất không công bằng, Vua sai quan huyện khác đi kiểm tra, phát hiện số ruộng bị giấu đều đúng sự thật. Vua nổi giận, lệnh cho huyện lệnh là Trình Địch bị đánh trượng và lưu đày ra đảo. Chuẩn vốn là sứ đo đạc ruộng đất, nên bị trách phạt.

(Thường Chuẩn, không rõ lai lịch.)

[45] Dĩnh Châu đoàn luyện sứ Phạm Tái Ngộ xin về hưu, được phong làm Tả kim ngô vệ đại tướng quân, lại ban sắc thư khen ngợi. Tái Ngộ vốn là tướng cũ nhà Đường, đã hàng và dâng thành Tứ Châu.

(Tái Ngộ, xuất hiện năm Hiển Đức thứ 4.)

[46] Ngày Nhâm Dần, Vua ban chiếu: “Lăng tẩm của các Đế Vương đời trước, lệnh cho châu phủ sở tại cử người dân gần đó trông coi. Mộ phần của các bậc tiền hiền nếu bị hư hỏng thì phải tu sửa ngay.”

[47] Dân huyện Vô Lệ, châu Thương là Triệu Ngộ giả xưng là em của Vua, bị giao cho cơ quan hữu trách tra xét, xác thực, bị chém ở chợ Đông.

[48] Ngày Kỷ Mùi, huyện lệnh huyện Thương Hà là Lý Dao bị đánh chết, Tả tán thiện đại phu Thân Văn Vĩ bị tước bỏ tịch tịch, trở thành dân thường. Văn Vĩ vâng chiếu đi kiểm tra ruộng đất, Dao nhận hối lộ, Văn Vĩ không phát hiện, nên bị dân trong vùng tố cáo.

[49] Hữu thần vũ tướng quân Lý Hoài Tiết được cử làm quan ở châu Phường, khi thay người về kinh, đi qua châu Hoa, tức giận người hầu là Vương, nhân lúc say đã chém chết, bị đồng đảng tố cáo, giao cho quan lại tra xét. Ngày Ất Mão, bị giáng làm Suất phủ suất.

[50] Thời đầu nhà Hán, người phạm tội buôn bán rượu lậu đều bị xử tử, đến thời Chu Tổ mới quy định từ năm cân trở lên mới bị xử tử. Vua cho rằng luật nhà Chu còn quá nghiêm khắc, ngày Nhâm Tuất, ban chiếu rằng dân phạm tội buôn bán rượu lậu từ mười lăm cân, hoặc đưa rượu lậu vào thành từ ba đấu trở lên, mới bị xử tử, còn lại tùy mức độ mà xử tội; buôn bán rượu lậu, giảm một nửa so với người sản xuất.

Vua lại cho rằng luật muối triều trước quá nghiêm khắc, ngày hôm đó, ban lệnh: “Quan muối nhập vào đất cấm buôn bán từ mười cân, hoặc nấu muối từ ba cân trở lên, mới bị xử tử. Dân mang muối tằm vào thành từ ba mươi cân trở lên, phải tâu lên xin xét xử.”

(Sách ‘Thái Tông Thực lục’ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ hai chép: Trước đây, quan bán muối cho dân, khi việc tằm xong, dùng tơ lụa trả lại cho quan, gọi là muối tằm, lệnh cho dân nộp tiền theo thuế hạ thu. Sách ‘Thực hóa chí’ chép: Thời Đường có muối tằm, đều thu từ dân, thu tiền lụa theo thuế hạ. Có chút khác biệt với Thực lục, cần xem xét.)

[51] Tháng 5, ngày Quý Hợi mùng một, Vua ngự ở điện Sùng Nguyên nhận triều, mũ Thông Thiên, áo ráng sa, nghi trượng đầy đủ.

[52] Ban ân xá, giảm tội tử hình, tù lưu đày trở xuống được tha. Lúc đó Hoàng thái hậu bệnh nặng, Vua lo lắng, nên ban ân xá khắp thiên hạ để cầu phúc trời.

[53] Ngày Ất Sửu, sao Thiên Cẩu rơi về phía tây nam, lịch Khâm Thiên tính toán có chút sai lệch, ban chiếu cho Ty thiên thiếu giám người Lạc Dương là Vương Xử Nột cùng các quan khác nghiên cứu lại. Lịch Khâm Thiên vừa hoàn thành, Xử Nột từng nói với Vương Phác rằng: “Lịch này không lâu sẽ sai.” Rồi chỉ ra chỗ sai để Phác xem, Phác rất tán đồng.

[54] Lúc đầu, Chu Thế Tông sai Quốc tử tư nghiệp kiêm Thái thường bác sĩ người Lạc Dương là Nhiếp Sùng Nghĩa (Sùng Nghĩa, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ 4) hiệu đính các khí vật ngọc báu dùng trong tế lễ ở giao miếu. Sùng Nghĩa bèn tham khảo các bản vẽ cũ trong ‘Tam Lễ’, đối chiếu sự giống và khác, biên soạn thành bản vẽ mới gồm 20 quyển. Ngày Bính Dần, ông dâng lên Vua, Vua xuống chiếu khen ngợi và ban thưởng, đồng thời lệnh cho Thái tử chiêm sự người Nhữ Âm là Doãn Chuyết tập hợp các quan văn tham gia bàn bạc. Chuyết đã nhiều lần phản bác và vặn hỏi, Sùng Nghĩa lại dẫn kinh điển giải thích, sau đó đều đưa xuống cho Công bộ thượng thư Đậu Nghị, xử lý sao cho hợp lý rồi mới ban hành.

[55] Nước Tam Phật Tề sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.

[56] Ngày Giáp Tuất, lệnh cho các cơ quan Điện tiền, Thị vệ cùng các châu trưởng kiểm tra binh lính dưới quyền, người dũng cảm thì được thăng chức, kẻ yếu đuối hèn nhát thì bị loại bỏ. Lần đầu tiên thiết lập chức thặng viên để xử lý việc giải ngũ. (Chỉ lệnh cho các châu loại bỏ binh lính yếu kém. Việc tuyển chọn người khỏe mạnh để bổ sung vào hai cơ quan Điện tiền và Thị vệ là việc xảy ra vào tháng 8 năm Càn Đức thứ 3. Sách ‘Binh chí’ và ‘Kinh vũ thánh lược’ đều ghi chép lẫn lộn, không chính xác, nay theo ‘Thực lục’).

[57] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu lấy muối từ hai ao An Ấp và Giải Huyền cung cấp cho dân chúng các châu Từ, Túc, Vận, Tế. Trước đó, các quận này đều dùng muối biển, vận chuyển ngược dòng nên chi phí rất cao, vì thế nay cải cách.

[58] Ngày Mậu Dần, ban thưởng cho Tả bổ khuyết Thị Cư Phương và Dẫn tiến phó sứ Quách Thừa Thiên mỗi người 10 vạn tiền, lệnh họ cùng sứ giả tiến phụng của hai vùng Lưỡng Chiết và Giang Nam uống rượu đánh bạc. (Cư Phương và Thừa Thiên, không rõ xuất xứ).

[59] Theo chế độ cũ, các quan văn võ thường tham đều được thăng chức dựa vào mức độ bận rộn của công việc ở các bộ, đủ kỳ hạn thì được thăng. Vua nói với tể tướng: “Nếu cứ như vậy, thì chỉ có danh mà không thực.” Khi Giám môn vệ tướng quân Ngụy Nhân Địch (Nhân Địch, không rõ xuất xứ) khi quản lý việc thu thuế ở chợ được lợi nhuận dồi dào, ngày Kỷ Mão, đều ban chiếu tăng bậc, từ đó bãi bỏ chế độ thăng chức theo thời gian.

[60] Lệnh cho các châu không được điều động dân phu phục vụ việc truyền trạm, thay thế hoàn toàn bằng quân lính. (Theo ‘Tân lục’ và ‘Bản kỷ’, còn ‘Cựu lục’ có lẽ không ghi chép việc này).

[61] Từ thời Ngũ đại trở lại đây, phép tắc hình luật bị bỏ bê, các quan lại coi ngục ở châu quận không thông thạo luật lệnh, quan thủ mục phần nhiều là võ tướng, thường tùy tiện sử dụng pháp luật. Dân Kim châu là Mã Tòng (?) có con là Hán Huệ, là kẻ vô lại, thường hại em họ mình, lại hay cướp bóc, khiến dân làng lo sợ. Mã Tòng cùng vợ và con thứ giết chết Hán Huệ. Phòng ngự sứ Cừu Siêu và phán quan Tả Phù đều xử án giết vợ và con thứ của Mã Tòng. Vua giận Cừu Siêu và những người khác vì cố ý kết tội chết, sai quan hữu ty hặc tội họ, tước bỏ chức vụ, đánh trượng rồi lưu đày ra hải đảo[3]. Từ đó, mọi người đều biết tuân theo pháp luật.

(Việc này trong “Tân lục”“Cựu lục” đều không ghi chép, nay theo “Bản kỷ” ghi lại vào tháng này, còn ngày thì thiếu.)

[62] Tháng này, nước Thục lấy Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Lại bộ thị lang người Hoa Dương là Âu Dương Quýnh làm Môn hạ thị lang, kiêm Hộ bộ thượng thư, Bình chương sự. Vô Chiêu Duệ và Phạm Nhân Thứ đều về hưu. Nhân Thứ sau đó không lâu thì mất.

(Theo “Thập quốc kỷ niên”.)

[63] Tháng 6, ngày Giáp Ngọ, Hoàng thái hậu băng hà. Thái hậu thông minh, có trí tuệ, từng cùng Vua tham gia quyết định việc lớn trong triều[4], vẫn gọi Triệu Phổ là thư ký, thường vỗ về mà nói: “Khanh hãy hết lòng phò tá, con ta chưa từng trải việc đời.” Thái hậu đặc biệt yêu quý hoàng đệ Quang Nghĩa, nhưng chưa từng tỏ ra chiều chuộng. Mỗi khi Quang Nghĩa ra ngoài, bà đều dặn dò: “Phải đi cùng thư ký Triệu Phổ mới được.” Rồi tính giờ để đợi Quang Nghĩa về, Quang Nghĩa không dám trái lệnh.

Khi Thái hậu bệnh nặng, Vua hầu cận dược thang không rời. Khi bệnh nguy kịch, triệu Triệu Phổ vào để truyền lại di mệnh. Thái hậu hỏi Vua: “Ngươi có biết vì sao mà được thiên hạ không?” Vua nghẹn ngào không đáp được. Thái hậu nói: “Ta đã già rồi, khóc lóc cũng vô ích. Ta đang nói cho ngươi việc lớn, sao chỉ biết khóc?” Rồi hỏi lại như cũ.

Vua đáp: “Đó đều là nhờ phúc đức của tổ tiên và Thái hậu.”

Thái hậu nói: “Không phải vậy. Chính vì họ Sài để đứa trẻ lên làm chủ thiên hạ, lòng người không phục. Nếu nhà Chu có một vị quân trưởng, ngươi sao đến được đây? Ngươi với Quang Nghĩa đều do ta sinh ra, sau này ngươi nên truyền ngôi cho em. Bốn bể rộng lớn, nếu lập được quân trưởng, đó là phúc của xã tắc.”

Vua cúi đầu khóc nói: “Con xin tuân theo lời dạy của Thái hậu.” Rồi bảo Triệu Phổ: “Ngươi cùng ghi lời ta, không được trái.” Triệu Phổ liền đến trước giường viết thệ thư, cuối tờ ghi: “Thần Phổ ký”. Vua cất tờ thư vào hòm vàng, sai cung nhân cẩn mật quản lý[5].

(Tư Mã Quang trong ‘Ký văn’ nói Thái hậu muốn truyền ngôi cho hai em, ý chỉ Thái Tông và Tần Vương Đình Mỹ. Nay theo ‘Chính sử’ và ‘Tân lục’, còn ‘Cựu lục’ thì không có chuyện này. Xét Thái hậu thấy Trịnh Vương nhà Chu còn nhỏ, lòng người không phục, nên bảo Thái Tổ truyền ngôi cho Thái Tông. Lúc đó Thái Tông 23 tuổi, là em cùng mẹ của Thái Tổ. Nếu truyền cả cho Đình Mỹ thì không hợp lý, vì lúc đó Đình Mỹ mới 14 tuổi, còn con của Thái Tổ là Ngụy Vương Đức Chiêu cũng 10 tuổi, tuổi tác không chênh lệch nhiều. Bỏ cháu đích mà lập con thứ, lẽ thường không như vậy. Vậy lời di mệnh của Thái hậu chỉ nhắm đến Thái Tông, ‘Ký văn’ sai.

‘Chính sử’ và ‘Tân lục’ nói Thái Tông cũng vào nhận di mệnh, nhưng ‘Ký văn’ không chép, nay theo ‘Ký văn’. Xét Thái Tông ban đầu nghi ngờ Triệu Phổ có ý kiến khác, đến khi Phổ dâng chương tự biện và mở hòm vàng thấy tờ thư của Phổ mới yên lòng. Nếu cùng dưới giường nhận di mệnh thì đã thấy tờ thư của Phổ rồi, sao còn đợi Phổ dâng chương tự biện và mở hòm vàng? Có lẽ ‘Chính sử’ và ‘Tân lục’ có chỗ sửa chữa. ‘Thái Tông Thực lục’ chép chương tự biện của Phổ, nội dung gần giống ‘Ký văn’. Lúc nhận di mệnh, Thái Tông thực sự không có mặt. ‘Chính sử’ và ‘Tân lục’ có sửa đổi nên mất đi sự thật, nên phải lấy ‘Thái Tông Thực lục’ và ‘Ký văn’ làm chuẩn.

Vương Vũ Xứng trong ‘Kiến Long di sự’ lại nói Đình Mỹ cùng Thái Tổ, Thái Tông đều do Đỗ Thái hậu sinh ra. Nay bản truyện cho rằng Đình Mỹ là con của nhũ mẫu Vương thị của Thái Tông, là không đúng. Cẩn xét Đình Mỹ và Triệu Đình Tuấn cùng mẹ, mẹ họ Cảnh, việc này Thái Tông đã nói riêng với tể tướng, quốc sử ghi rõ, rất rõ ràng, không biết ‘Kiến Long di sự’ căn cứ vào đâu mà nói vậy. Cho dù Đình Mỹ thật là con Thái hậu, nếu có tội bị phế, cũng không hại gì đạo thân tình, sao Thái Tông lại đặt ra chuyện giả để tự lừa mình? Chắc chắn không phải vậy. Hoặc giả Thái hậu thương Đình Mỹ như con đẻ nên dân gian có lời đồn. Khi Thái hậu mất, bà 60 tuổi, Đình Mỹ mới 14 tuổi, tính ngược thì khi sinh Đình Mỹ, Thái hậu đã 47 tuổi. Tuy nhiên, việc cung đình kín đáo, không thể dùng lời đồn không chắc chắn để sửa quốc sử. Huống chi ‘Kiến Long di sự’ cũng chưa chắc đều do Vương Vũ Xứng ghi.

Thần [Lý] Đào từng biện luận việc này, xem tháng 10 năm Khai Bảo 9 và tháng 9 năm Thái Bình Hưng Quốc 6. ‘Quy giám’: Một lời từ Thái hậu, hòm vàng bí mật, sau 17 năm mệt mỏi trị, đem đại nghiệp truyền cho một vị Thiên tử long hành hổ bộ, sánh ngang với Nghiêu, Thuấn. Lưu Nguyên Thành từng nói: “Từ thời Tam Đại trở xuống, nhà Hán, nhà Đường chưa bằng được một phần vạn.” Ông cũng ngợi khen điều này.)

[64] Ngày Nhâm Tý, Hàn lâm học sĩ Vương Trứ người Đơn Phụ tâu rằng: “Mưa thuận không đều, xin cho các quan gần theo lễ cũ cáo tế trời đất, tông miếu, xã tắc, cùng tế cáo các núi sông, biển lớn ở phía bắc kinh thành.” Vua chấp thuận.

(Vương Trứ, lần đầu thấy vào tháng 6 năm Hiển Đức thứ 6.)

[65] Ngày Bính Thìn, Tể thần Vương Phổ làm Sứ coi việc xây lăng mộ cho Thái hậu.

[66] Ngày Đinh Tỵ, Lại bộ lang trung Diêm Thức bị cách chức hai nhiệm kỳ. Thức giám sát việc thu thuế hạ ở Hà Dương, Vua phát hiện Thức thu được một hộc thóc dư ra năm thăng, nên cách chức. Sau đó, Hữu vệ suất phủ suất Tiết Huân và Trứ tác tá lang Từ Hùng cũng vì giám sát thu thuế dân không công bằng bị tố giác, đều bị miễn chức.

(Huân, Hùng, đều chưa thấy.)

[67] Quốc tử tư nghiệp Triệu Chu làm Tông chính thiếu khanh. Cha của Chu tên là Hán Khanh, hiến ty cho rằng ông nhờ ân sủng không chính đáng mà được bổ nhiệm, muốn bắt tội, nhưng người chấp chính viện dẫn lễ văn rằng không có quy định tránh húy, nên thôi.

(Chu, chưa thấy.)

[68] Tháng đó, Đường chủ Lý Cảnh băng hà ở nam đô.

[69] Mùa thu, tháng 7, tang lễ của Đường chủ Lý Cảnh được đưa về Kim Lăng. (Tang lễ về Kim Lăng trong tháng 7. Điều này căn cứ theo ‘Vương Cử thiên hạ đại định lục’.) Có quan tâu rằng linh cữu không nên đưa vào cung chính, nhưng Thái tử Tòng Gia không đồng ý, nên đặt ở chính điện. Tòng Gia lên ngôi, đổi tên là Dục. Tôn mẫu họ Chung làm Thái hậu, cha của Thái hậu tên là Thái Chương, đổi hiệu là Thánh Tôn hậu. Lập phi họ Chu làm Quốc hậu, phong em là Đặng vương Tòng Thiện làm Hàn vương, Cử công Tòng Dật làm Đặng vương, Tòng Khiêm làm Nghi Xuân vương[6], Tòng Độ làm Chiêu Bình quận công, Tòng Tín làm Văn Dương quận công. Hữu bộc xạ Nghiêm Tục làm Tư không, Bình chương sự, Lại bộ thượng thư, Môn hạ thị lang, Tri xu mật viện Thang Duyệt làm Hữu bộc xạ, Xu mật sứ. Đại xá trong nước. Văn võ thăng tiến theo thứ bậc khác nhau.

[70] Bãi bỏ các đạo đồn điền, trả về cho các châu huyện quản lý. Trước đây, Đường chủ nghe theo lời bàn của Thượng thư viên ngoại lang Lý Đức Minh, khai khẩn đất hoang, lập đồn điền để mở rộng lương thực cho quân đội, Thủy bộ viên ngoại lang Giả Bân tiếp tục hoàn thành việc này. Những người được cử quản lý đều không phù hợp, xâm phạm châu huyện, cướp đoạt lợi ích của dân, trở thành mối họa lớn lúc bấy giờ. Khi dùng binh ở Hoài Nam, bãi bỏ những nơi gây hại nghiêm trọng nhất, nhưng vẫn còn nhiều nơi tồn tại. Đến lúc này, bãi bỏ hết các chức vụ này, giao cho các huyện lệnh và phó quản lý, thu thuế như bình thường, lấy một phần mười số thuế làm lương bổng, dân chúng được tạm thời nghỉ ngơi.

(Lý Đức Minh, từng làm Thượng thư viên ngoại lang, lần đầu được nhắc đến vào tháng 7 năm Can Du thứ hai, không rõ tước vị và quê quán, làm đến chức Công bộ thị lang, Học sĩ Văn Lý viện, bị xử tử vào tháng 2 năm Hiển Đức thứ ba. Việc khai khẩn đất hoang lập đồn điền bắt đầu vào năm Quảng Thuận thứ hai. Việc bãi bỏ đồn điền gây hại nghiêm trọng cho dân được thực hiện vào năm Hiển Đức thứ ba.)

[71] Ngày Mậu Thìn, cử sứ tu sửa miếu Bắc Nhạc.

[72] Ban đầu, sau khi Vua giết Lý Quân và Trọng Tiến, một hôm, triệu Triệu Phổ hỏi: “Thiên hạ từ cuối thời Đường đến nay, mấy chục năm qua, Hoàng đế đã thay đổi tám họ, chiến tranh không ngừng, dân chúng lầm than, nguyên nhân là gì? Trẫm muốn chấm dứt binh đạo, tính kế lâu dài cho quốc gia, phải làm thế nào?”

Triệu Phổ đáp: “Lời của Bệ hạ nói đến điều này, là phúc của trời đất, thần linh. Không có nguyên nhân nào khác, chỉ vì phương trấn quá mạnh, Vua yếu, bề tôi cậy thế mà thôi. Nay để trị được, cũng không có cách nào khác lạ, chỉ cần dần dần thu hồi quyền lực, kiểm soát tài chính, thu lại tinh binh, thì thiên hạ tự nhiên yên ổn.”

Lời chưa dứt, Vua đã nói: “Khanh không cần nói nữa, Trẫm đã hiểu rồi.”

[73] Lúc ấy, Thạch Thủ Tín và Vương Thẩm Kỳ đều là bạn cũ của Vua, mỗi người quản lý cấm quân. [Triệu] Phổ nhiều lần tâu với Vua, xin trao chức khác cho họ, Vua không đồng ý. Phổ nhân dịp liền nói, Vua bảo: “Họ chắc chắn không phản ta, khanh lo gì?”

Phổ đáp: “Thần cũng không lo họ phản. Nhưng xét kỹ mấy người ấy, đều không có tài lãnh đạo, e rằng không thể kiểm soát được thuộc hạ. Nếu không thể kiểm soát được thuộc hạ, thì trong quân đội một khi có kẻ làm loạn, họ lúc ấy cũng không thể tự chủ được.”

Vua chợt hiểu ra, bèn triệu Thủ Tín và những người khác đến uống rượu. Khi rượu đã ngà ngà, Vua bảo những người xung quanh lui ra rồi nói: “Nếu không có sức lực của các khanh, ta không thể đến được ngày nay. Nghĩ đến ân đức của các khanh, thật vô cùng. Nhưng làm Thiên tử cũng vô cùng gian nan, chẳng bằng làm Tiết độ sứ vui vẻ. Ta suốt đêm chưa từng dám yên giấc.”

Thủ Tín và mọi người đều hỏi: “Vì sao?”

Vua đáp: “Việc này không khó hiểu. Ở vào cương vị này, ai mà chẳng muốn?”

Thủ Tín và mọi người đều cúi đầu nói: “Bệ hạ sao lại nói thế? Nay thiên mệnh đã định, ai dám có lòng khác?”

Vua nói: “Không phải thế. Các khanh tuy không có lòng khác, nhưng thuộc hạ muốn giàu sang, một mai lấy hoàng bào khoác lên người các khanh, dù các khanh không muốn làm, có được không?”

Mọi người đều cúi đầu khóc và nói: “Thần ngu muội không nghĩ đến điều ấy, mong Bệ hạ thương xót, chỉ cho con đường sống.”

Vua bảo: “Đời người như bóng câu qua cửa sổ, chẳng qua chỉ muốn tích góp tiền bạc, hưởng lạc thú, để con cháu không nghèo khó. Sao các khanh không bỏ binh quyền, ra trấn giữ nơi xa, chọn ruộng đất tốt mua lấy, lập nghiệp vững chắc cho con cháu, rồi nuôi ca kỹ, ngày ngày uống rượu vui vẻ cho đến hết tuổi trời. Ta sẽ kết thông gia với các khanh, tình quân thần không nghi ngờ, trên dưới yên ổn, chẳng phải tốt sao?”

Mọi người đều lạy tạ nói: “Bệ hạ nghĩ cho chúng thần đến thế, thật là ân đức tái sinh.”

Hôm sau, mọi người đều cáo bệnh xin từ chức, Vua mừng, ban thưởng hậu hĩnh để an ủi và vỗ về.

[74] Ngày Canh Ngọ, bổ nhiệm Thị vệ đô chỉ huy sứ, Quy Đức tiết độ sứ Thạch Thủ Tín làm Thiên Bình tiết độ sứ; Điện tiền phó đô điểm kiểm, Trung Vũ tiết độ sứ Cao Hoài Đức làm Quy Đức tiết độ sứ; Điện tiền đô chỉ huy sứ, Nghĩa Thành tiết độ sứ Vương Thẩm Kỳ làm Trung Chính tiết độ sứ; Thị vệ đô ngu hầu, Trấn An tiết độ sứ Trương Lệnh Đạc làm Trấn Ninh tiết độ sứ[7], tất cả đều bị bãi bỏ chức vụ quân sự. Chỉ có Thạch Thủ Tín vẫn giữ chức Thị vệ đô chỉ huy sứ như cũ, nhưng thực chất binh quyền không còn nằm trong tay ông. Chức Điện tiền phó đô điểm kiểm từ đó cũng không còn được bổ nhiệm nữa.

(Việc này rất lớn, nhưng chính sử và Thực lục đều lược bỏ, thật đáng tiếc. Nay khôi phục lại. Theo Tư Mã Quang trong ‘Ký văn’ ghi rằng Thạch Thủ Tín đều lấy chức tản quan về phủ, đó là sai. ‘Bút lục’ của Vương Tằng đã ghi chính xác sự việc, nay theo đó. Văn từ phần nhiều lấy từ ‘Ký văn’, có thêm chút ít từ Đinh Vị trong ‘Đàm lục’. Ý của Thái Tổ và Triệu Phổ chỉ là không muốn Thạch Thủ Tín nắm quyền cấm quân, chứ đâu phải không để họ giữ chức ở các phương trấn? Thái Tổ nói rằng làm Hoàng đế không vui bằng làm Tiết độ sứ, đó là muốn Thạch Thủ Tín ra làm Tiết độ sứ. Đến tháng 10 mùa đông năm Khai Bảo thứ 3, mới bãi chức Tiết độ sứ của Vương Ngạn Siêu, có lẽ ‘Ký văn’ nhầm lẫn hai việc làm một. ‘Kiến văn lục’ của Thiệu Bá Ôn lại nói Vương Thẩm Kỳ bị bãi chức vì tự ý vào cấm cung cứu hỏa. Không biết lúc đó có bốn người bị bãi chức, không phải vì lý do vào cấm cung cứu hỏa, nay không theo. Chu Văn Công nói: Triệu Hàn Vương giúp Thái Tổ sắp xếp thiên hạ, thu hồi quyền lực của nhiều phiên trấn, tạo nên sự ổn định cho đất nước suốt hai trăm năm, đó chẳng phải là công lao của bậc nhân giả sao?)

[75] Ngày Nhâm Ngọ, lấy Hoàng đệ là Thái ninh tiết độ sứ, kiêm Điện tiền đô ngu hầu Triệu Quang Nghĩa kiêm chức Khai phong doãn, cùng chức Đồng bình chương sự, Gia châu phòng ngự sứ Triệu Đình Mỹ làm Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ.

Trước đó, Phạm Chất dâng tấu nói: “Quang Nghĩa, Đình Mỹ đều chưa được phong chức cao, lễ nghi còn thiếu sót, xin ban thêm sách phong, ban sắc mệnh, hoặc đặt vào chức vụ trong triều, hoặc giao trấn giữ phương xa. Các Hoàng tử, Hoàng nữ dù còn trong trứng nước, cũng xin giao cho quan viên, thi hành ân điển.”

Lại nói: “Chức Tể tướng lấy việc tiến cử người hiền làm bản phận, che giấu điều tốt là bất trung. Vì thế trên giúp Vua, khai mở công việc. Điện đình học sĩ Lữ Dư Khánh, Xu mật phó sứ Triệu Phổ, có tài năng xuất chúng, tinh thông đạo trị nước, từng làm việc ở phủ Bá, qua nhiều năm thâm niên, từ khi được bệ hạ giao trọng trách, không phụ lòng tin cậy, mỗi lần tiếp kiến, đều tỏ rõ lòng trung. Xin trao chức vụ cao, để họ phát huy tài năng. Hiện chức Tể phụ vẫn khuyết, lâu nay khó chọn người, xét tài năng của hai người này, gặp thời cơ thuận lợi, đặt vào vị trí này, ai dám nói không nên.” Vua khen ngợi và nghe theo.

[76] Vua nói rằng quân lính Điện tiền thiện chiến như hổ lang không dưới vạn người, nếu không phải Trương Quỳnh thì không thể thống lĩnh được, bèn thăng từ chức Nội ngoại mã bộ quân đô đầu, Thọ châu thứ sử lên chức Điện tiền đô ngu hầu, kiêm Gia châu phòng ngự sứ. Quỳnh là người quận Quán Đào.

(Quỳnh, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ ba[8].)

[77] Sai Nội khách tỉnh sứ Vương Tán quyền nhiếp việc quân phủ ở Dương châu. Tán đi thuyền đến nơi, bị chết đuối ở cầu Xương. Vua thương tiếc, nói với tả hữu: “Sao lại giết Xu mật sứ của Trẫm.” Tán từng làm Kế độ sứ các châu Hà Bắc, thời Ngũ đại nuông chiều phiên trấn, quan viên không dám câu thúc bằng pháp luật. Tán chấn chỉnh kỷ cương, đi đến đâu đều phát giác gian tà không kiêng sợ. Vua biết Tán có thể giao việc lớn, nên sai sửa sang Dương châu, có ý trọng dụng, nhưng Tán chết đột ngột.

Tán là người quận Quan Thành.

[78] Tháng này, Trần Thừa Chiêu hoàn thành việc đắp đê và ngăn dòng sông Lệ, Hoạt, được ban thưởng ba mươi vạn tiền.

[79] Quan huyện Câu Dung nhà Đường là Trương Tất, người Quảng Lăng, dâng sớ trình bày mười việc: Một là cử người giản dị, tinh gọn; Hai là bỏ bớt việc rườm rà, nhỏ nhặt; Ba là rõ ràng về thưởng phạt; Bốn là coi trọng danh phận, chức vụ; Năm là chọn người hiền tài; Sáu là chia đều thuế má, lao dịch; Bảy là tiếp nhận lời can gián; Tám là làm rõ sự khen chê; Chín là tiết kiệm chi tiêu; Mười là khiêm nhường, tự hạ mình. Đường chủ khen ngợi và chấp nhận, phong ông làm Giám sát ngự sử. Trương Tất nhân đó cũng tâu rằng Phó Hoằng, sứ giả cung Đức Xương, tuỳ tiện phá hoại kinh thành, các lầu gác, thành quách ông xây đều hư hại nhiều; Lễ tân sứ Mạnh Biền đề nghị đóng tàu lớn ở Tinh Tử để phòng thủ, nhưng nhiều năm không hoàn thành, gây hại cho đất nước và dân chúng, xin đều xử theo pháp luật. Đường chủ không nghe, hạ chiếu thư giải thích.

(Theo quốc sử, Trương Tất được bái làm Ngự sử. Mười việc được ghi chép trong sách ‘Giang Biểu Chí’ của Trịnh Văn Bảo. Lại chép rằng ngày Trương Tất dâng sớ là 28 tháng 7, ngày Kỷ Sửu, nên ghi thêm vào đây.)

[80] Ngô Việt từ tháng 5 đến tháng 7 không có mưa.

[81] Tháng 8, ngày Giáp Thìn, Từ Mạc, tước Quế Dương quận công nhà Đường, mang biểu của chúa là Cảnh đến dâng lên.

(Từ Mạc, chưa nói rõ lai lịch.)

[82] Nghĩa Vũ tiết độ sứ kiêm Đồng bình chương sự Tôn Hành Hữu (Tôn Hành Hữu, lần đầu xuất hiện vào tháng 5 năm Khai Vận thứ ba. Trong ‘Tống sử’ và ‘Tục thông giám’ của Tiết Ứng Kỳ, đều chép là Dịch Định tiết độ sứ kiêm Đồng bình chương sự Tôn Hành Hữu.) tại trấn hơn 8 năm, thế lực của yêu ni Thâm Ý ở núi Lang Sơn càng thịnh.

(Thâm Ý, cũng xuất hiện vào tháng 5 năm Khai Vận thứ ba.)

Khi Vua mới lên ngôi, Hành Hữu không yên lòng, nhiều lần dâng biểu xin từ chức về núi, nhưng Vua không đồng ý. Hành Hữu lo sợ, bèn sửa sang binh giáp, định bỏ gia quyến[9], trở về chiếm cứ sơn trại để làm phản. Binh mã đô giám Dược Kế Năng (Kế Năng, chưa thấy ghi chép.) dâng mật biểu tố cáo việc này.

Vua sai Các môn phó sứ Vũ Hoài Tiết (Hoài Tiết, chưa thấy ghi chép.) cưỡi ngựa gấp đến hội quân hai trấn Trấn và Triệu, giả làm tuần tra biên giới, tiến thẳng vào Định Châu. Hành Hữu không hay biết, sau đó Vua xuống chiếu gọi ông phải đem cả gia tộc về triều, Hành Hữu vội vàng tuân lệnh. Khi đến triều, Vua sai Thị ngự sử Lý Duy Nhạc (Duy Nhạc, chưa thấy ghi chép.) tra xét, thu được chứng cứ. Ngày Kỷ Dậu, Vua hạ chiếu tước bỏ quan tước của Hành Hữu, giam lỏng tại tư dinh, đem thi thể ni cô Thâm Ý thiêu tại góc tây bắc kinh thành. Em trai của Hành Hữu là Dịch Châu thứ sử Phương Tiến và cháu là Bảo Tắc quân sứ Toàn Huy đều đến cung điện chờ tội, Vua ra chiếu tha.

[83] Ngày Tân Hợi, nước Nữ Chân sai sứ Ốt Đột Lạt đến cống ngựa quý.

[84] Vua ngự đến chùa Sùng Hạ, xem việc tu sửa cổng tam quan.

[85] Chủ bạ huyện Vĩnh Tế là Quách Ngãi phạm tội tham ô 1.200.000 quan tiền, bị xử tử. Vua ra chiếu rằng những người phạm trọng tội tại các trại biên giới, phải giao về các châu quân sở tại xét xử, không được tùy tiện quyết đoán.

[86] Lệnh huyện Oan Cư, Tào Châu là Hầu Trắc nổi tiếng thanh liêm, ngày Giáp Dần được thăng chức Tả thập di, kiêm nhiệm tri huyện. Tiết độ sứ Viên Ngạn nhiều lần phạm pháp, Trắc dâng sớ tố cáo, Ngạn dâng biểu tạ tội, tự biện rằng mình vô tội, Vua cũng không truy cứu. Trắc là người Trường Sơn.

[87] Ngày Đinh Tỵ, Vua hạ chiếu cho Hình bộ, những người phạm tội buôn muối và rượu bị phạt phối dịch, chỉ cần phục dịch tại châu mình, để tỏ lòng khoan hồng.

[88] Học sĩ Quốc tử giám Kinh Dịch là Quách Trung Thứ say rượu, cùng với Thái tử trung xá Phù Chiêu Văn cãi nhau ầm ĩ ở triều đường. Ngự sử dâng tấu, Trung Thứ mắng quan lại đài, đoạt tấu chương của họ và xé nát. Ngày Kỷ Mùi, Trung Thứ bị giáng làm Tham quân ty hộ châu Càn, còn Chiêu Văn bị cách chức.

Trung Thứ là người Lạc Dương.

[89] Ngày Canh Thân, Sử quán dâng lên ‘Chu Thế Tông Thực lục’ gồm 40 quyển. Vua ban thưởng cho Giám tu Quốc sử Vương Phổ và quan Tu soạn Hỗ Mông vật phẩm và tiền tùy theo cấp bậc.

[90] Ban chiếu cho tu sửa miếu Tây Nhạc ở châu Hoa.

[91] Tháng 9, ngày Nhâm Tuất, Đường chủ Dụ sai Trung thư thị lang Phùng Mật đến triều cống. Mật tức là Diên Lỗ. Đường chủ dâng biểu tấu tự thuận, nói rằng bản thân vốn có chí hướng thanh đạm, không cưỡng lại mà kế thừa vị trí, thờ Đại Quốc không dám nảy sinh ý khác, ở gần Ngô Việt, sợ bị gièm pha. Vua ban chiếu ưu ái để đáp lại. Trước đây, Chu Thế Tông sau khi chiếm được Giang Bắc, sai người đưa thư cho Giang Nam, theo thể thức như triều Đường với Khả hãn Hồi Cốt, chỉ gọi là ‘Quốc chủ’. Vua tiếp tục làm theo. Từ đó, bắt đầu đổi thư từ gọi là ‘Chiếu’.

[92] Ngày Giáp Tí, cử Hành quân Tư mã Kinh Nam, Ninh Giang Tiết độ sứ Cao Bảo Úc giữ chức Kinh Nam Tiết độ sứ.

Ban đầu, Vua nghe tin Cao Bảo Dung mất, sai Binh bộ Thượng thư là Lý Đào (người Vạn Niên, cháu của Lý Hồi, xuất hiện lần đầu vào năm Thiên Phúc thứ hai) đi viếng. Khi Lý Đào trở về, Vua hỏi liệu Bảo Úc có đủ khả năng đảm đương việc lớn không. Đào cho rằng Bảo Úc có thể gánh vác được, hơn nữa Bảo Úc cũng thường dâng cống phẩm đến triều đình, nên Vua ban cho ông ấn tiết.

Bảo Úc tính dâm đãng, thường gọi ca kỷ trong thành vào phủ đệ, chọn những binh sĩ khỏe mạnh để cùng vui đùa, Bảo Úc và các thê thiếp cùng ngồi sau rèm xem và cười đùa. Ông còn thích xây dựng đài các, khoe khoang tài nghệ kiến trúc, khiến quân dân đều oán hận. Ký thất Tôn Quang Hiến can gián rằng: “Nhà Tống thống trị thiên hạ, các chư hầu khắp nơi đều quy phục, mọi chiếu thư đều hợp với nhân nghĩa, đó là bậc quân vương như Thang, Vũ vậy. Ngài nên chăm chỉ, tiết kiệm, không nên xa xỉ, vượt quá phận mình; trên phụng sự triều đình, giữa nối tiếp tổ tông[10], dưới an ủi lòng dân, nếu buông thả hưởng lạc, đó không phải là phúc.” Bảo Úc không nghe.

Quang Hiến là người Quý Bình.

(Quang Hiến, xuất hiện lần đầu vào năm Thiên Thành nguyên niên.)

[93] Cùng ngày, người Khiết Đan là Giải Lợi đến hàng.

[94] Ngày Quý Dậu, cử Hồng lư Thiếu khanh Lư Tuấn giữ chức Kinh kỳ Đông lộ Phát vận sứ.

(Lư Tuấn, chưa từng xuất hiện.)

[95] Ngày Mậu Tý, sai An bí Khố sứ Lương Nghĩa sang Giang Nam viếng tế. Vua triệu kiến, ban cho lời dặn dò kỹ càng. Vua nói với các quan tả hữu: “Trẫm mỗi lần sai sứ đi bốn phương, thường dặn họ phải cẩn thận, nhưng nghe nói ít ai tuân theo lễ nghi, người ở xa sẽ nghĩ gì?” Các quan xin dùng hình phạt để răn dạy, Vua nói: “Dùng hình phạt răn dạy, sao bằng để họ tự giác? Chỉ cần chọn người kỹ càng là được.”

(Lương Nghĩa, chưa từng xuất hiện.)

[96] Ra chiếu bãi bỏ yến tiệc lớn vì tang thái hậu.

[97] Mùa đông, tháng 10, ngày Quý Tỵ, Đường chủ vì việc sơn lăng của Thái hậu, sai Hộ bộ Thị lang là Hàn Hi Tải (người Bắc Hải, con của Hàn Thúc Tự, xuất hiện lần đầu vào năm Thiên Thành nguyên niên) và Thái phủ Khanh Điền Lâm đến giúp việc an táng.

(Điền Lâm, chưa từng xuất hiện.)

[98] Ngày Ất Mùi, thăng châu Lệ làm châu đoàn luyện, lấy phó sứ Hà Kế Quân làm sứ.

[99] Ngày Bính Thân, sai Xu mật thừa chỉ Phương Thành Vương Nhân Thiệm đi sứ Giang Nam, vì Đường chủ mới lên ngôi, đi chúc mừng và ban thưởng.

[100] Trước đây, thời Ngũ đại chiêu mộ dân đi cướp ngựa của người Nhung, quan phủ trả tiền, ghi số lượng để bù vào số ngựa chiến thiếu hụt. Vua muốn thể hiện lòng tin và bảo vệ biên cương, ngày Mậu Tuất, ban lệnh cho các châu biên giới cấm dân không được vượt biên cướp bóc, những ngựa đã cướp trước đây đều phải trả lại. Từ đó, vùng biên giới sợ phục, không dám xâm phạm.

[101] Ngày Bính Ngọ, hợp táng Minh Hiến Hoàng thái hậu ở An Lăng.

[102] Đường chủ lấy Nam đô lưu thủ Hàn vương Tòng Thiện làm Tư đồ, kiêm Thị trung, Chư đạo binh mã phó nguyên soái, Đặng vương Tòng Dật làm Tư không, Nam đô lưu thủ. Ra lệnh cho các cơ quan không có chức vụ, từ quan tứ phẩm trở xuống đến cửu phẩm, mỗi ngày hai người chờ ở nội điện, mỗi người dâng hai ba điều tấu trình. Lúc ấy, có người tài cao nhưng chức thấp, mừng thầm vì lời nói của mình được thấu đạt, nên trình bày nhiều điều, nhưng cuối cùng không được thi hành, mọi người bắt đầu thất vọng.

[103] Tháng đó, sai Tri chế cáo Hà Nội Lư Đa Tốn xem xét các văn bản dâng thư hiến kế, báo lên để thăng giáng.

[104] Ngày Kỷ Tỵ tháng 11, ngự giá đến chùa Tướng Quốc, rồi đến Quốc Tử Giám.

[105] Ngày Nhâm Thân, Vua bày tiệc chiêu đãi các tể thần, tiết độ sứ, phòng ngự sứ, đoàn luyện sứ, thứ sử, thống quân, chư quân, sương chủ quân chỉ huy sứ trở lên[11]cùng các sứ giả tiến phụng từ các đạo tại điện Quảng Chính, không tổ chức ca nhạc. Lúc đó, lăng tẩm của Minh Hiến Thái hậu đang xây dựng, các đạo đều cử sứ giả đến tiến phụng, nhân dịp lễ xong, Vua đặc biệt ban thưởng.

[106] Ngày Quý Dậu, Vua phong cho Sa Châu tiết độ sứ, đồng bình chương sự Tào Nguyên Trung và con trai ông là Qua Châu đoàn luyện sứ Diên Kính (theo ‘Tống sử’ ghi là Diên Kế) đều cử sứ giả đến triều cống. Nguyên Trung là con trai của Nghĩa Kim.

(Sự tích của Nghĩa Kim, lần đầu được ghi vào năm Đại Trung thứ 5, sau đó ghi vào năm Hàm Thông thứ 13 và năm Đồng Quang thứ 2. Nguyên Trung kế vị làm tiết độ sứ, theo ‘Hội yếu’ là sau năm Hiển Đức thứ 2, còn theo ‘Tiết Cư Chính Ngũ đại sử’ thì Nghĩa Kim mất vào tháng 2 năm Thiên Phúc thứ 5, con trai là Nguyên Đức kế vị. Đến tháng giêng năm Thiên Phúc thứ 8, lại ghi Sa Châu lưu hậu Tào Nguyên Thâm được phong làm Quy Nghĩa tiết độ sứ. Năm Khai Vận thứ 3, lại ghi Qua Châu thứ sử Tào Nguyên Trung làm Sa Châu lưu hậu. Tuy nhiên, quốc sử và ‘Hội yếu’ đều không ghi chép về hai nhân vật Nguyên Đức và Nguyên Thâm, không rõ vì sao.)

[107] Ngày Kỷ Mão, Vua bắt đầu đi săn ở vùng ngoại ô, ban thưởng áo gấm cho tể tướng, xu mật sứ, tiết độ sứ, quan sát sứ, phòng ngự sứ, đoàn luyện sứ, thống quân, thị vệ chư quân đô hiệu. Hôm đó, cấm quân được điều ra làm vòng vây săn bắn, ngũ phường mang theo chim ưng và chó săn. Vua tự cầm cung tên, bắn trúng thỏ chạy, các quan theo hầu dâng ngựa chúc mừng. Giữa đường dừng lại, Vua triệu tập cận thần ban rượu, đến tối mới trở về cung. Sau đó, mỗi lần đi săn đều như vậy, các quan theo hầu được ban áo chẽn, ủng ấm, còn thân vương trở xuống ai bắn trúng thì được ban ngựa.

[108] Ngày Quý Mùi, Vua ban chiếu rằng do dân chúng ở Hào Châu và Sở Châu bị đói, lệnh cho các quan địa phương mở kho phát chẩn cứu tế.

[109] Tấn châu báo rằng đã đánh bại quân Bắc Hán ở phía tây sông Phần, bắt được ngựa, trâu, lừa số lượng hàng nghìn.

(Lúc đó Triệu Nguyên Huy làm Tiết độ sứ, nhưng bản truyện không ghi chép việc này, Thực lục cũng không có. Hay là Nguyên Huy thực sự chưa đến nhậm chức? Không rõ rốt cuộc ai giữ chức ở Tấn châu. Việc Vũ Thủ Kỳ phòng thủ Tấn châu, quốc sử không ghi rõ, có lẽ là Thủ Kỳ, cần xem xét thêm.)

[110] Tháng 12, ngày Nhâm Thìn, Hồi Cốt Khả hãn Cảnh Quỳnh sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.

[111] Ngày Giáp Ngọ, Quốc vương nước Vu Điền Lý Thánh Thiên sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.

[112] Ngày Ất Mùi, Chiêu nghĩa Tiết độ sứ Lý Kế Huân tâu lên đã đánh bại hơn nghìn quân Bắc Hán, chém được hơn trăm thủ cấp, bắt được em của Liêu châu Thứ sử Phó Đình Ngạn là Huân để dâng lên.

[113] Đại châu Thứ sử Chiết Nhân Lý là dòng họ lớn của bộ lạc Đảng Hạng, đời sống ở phía tây sông Hoàng Hà, tiếp giáp biên giới phía bắc. Vua thấy ông có công bảo vệ biên cương, triệu ông vào chầu, rồi lại cử ông trở về giữ chức Thứ sử như cũ.

[114] Ngày Tân Sửu, Vua ngự đến kho thóc mới xây.

[115] Ngày Canh Tuất, Vua đi săn ở vùng ngoại ô gần kinh thành.

[116] Ngày Quý Sửu, sai Cung phụng quan Lý Sùng Uân (Sùng Uân, chưa thấy ghi chép.) đi sứ Giang Nam, Điện trực Tôn Toàn Chương (Toàn Chương, chưa thấy ghi chép.) đi sứ Ngô Việt, ban cho dê, ngựa, lạc đà, v.v.

[117] Ngày Ất Mão, Trung thư môn hạ tâu: “Nhận được tờ trình của Thái thường lễ viện, chị của Hoàng hậu là Thái Nguyên Quận quân Vương thị mất. Theo lệ, Hoàng hậu phải ra khỏi cung, đến phủ cũ của Chương đức Tiết độ sứ Vương Nhiêu để thực hiện lễ phát tang và mặc tang phục. Các quan đến phủ để tiến danh thiếp chia buồn.” Vua đồng ý.

[118] Năm đầu niên hiệu Quảng Thuận nhà Hậu Chu, các huyện ở Trấn châu, mười hộ chọn một người có tài dũng làm cung tiễn thủ, chín hộ còn lại cung cấp khí giáp, lương thảo. Năm đó, Vua hạ chiếu giải tán, tổng cộng một nghìn bốn trăm người.

(Theo ‘Lưỡng triều Binh chí’.)

[119] Bắt đầu lập ty Tàng băng, thường vào tháng 4 (tháng đầu mùa hạ) cử quan dùng lễ vật, dùng bò đen để tế thần Huyền Minh, rồi mở kho băng, dâng lên Thái miếu.

[120] Ban đầu, nữ vu Phàn Hồ Tử của Nam Hán tự xưng Ngọc Hoàng giáng lâm xuống thân mình, nhờ hoạn quan Trần Diên Thọ dẫn đến yết kiến Nam Hán chủ.

Nam Hán chủ cho bày trướng rèm trong nội điện, trưng bày châu báu. Hồ Tử đội mũ viễn du, mặc áo tía, ngồi xổm trong trướng tuyên bố họa phúc, gọi Nam Hán chủ là Thái tử Hoàng đế, mọi việc quốc sự đều do Hồ Tử quyết định. Nội đại sư Cung Trừng Xu, nữ thị trung Lư Quỳnh Tiên đều phụ họa theo bà. Hồ Tử thường nói với Nam Hán chủ rằng Quỳnh Tiên, Trừng Xu, Diên Thọ đều là sứ giả trên trời phái xuống phò tá Thái tử, dù có tội cũng không được tra hỏi. Năm ấy, trong cung mọc nấm linh chi, dã thú chạm vào cửa phòng ngủ, trong vườn dê nhả ngọc, đá bên giếng tự dựng lên, đi hơn trăm bước rồi mới đổ. Hồ Tử đều cho đó là điềm lành, khuyên quần thần vào chúc mừng.

(Trừng Xu, ghi chép vào năm Hiển Đức thứ ba. Quỳnh Tiên, ghi chép vào năm Càn Hữu thứ ba.)

[121] Đường chủ Dục truy tôn thụy hiệu cho cha mình Lý Cảnh là Minh Đạo Sùng Đức Văn Tuyên Hiếu Hoàng đế, miếu hiệu Nguyên Tông, lăng hiệu Thuận Lăng. Việc này là do Phùng Mật thỉnh cầu bề trên mà làm.


  1. ‘ức’ nguyên là ‘ích’, theo bản Tống, bản Các và ‘Đông đô sự lược’ quyển 19 chương Vương Cảnh truyện mà sửa
  2. Nam nữ từ mười bảy tuổi trở lên, 'mười bảy', các bản, bản hoạt tự giống nhau; bản Tống và 'Tống sử toàn văn' quyển nhất, 'Tống sử' quyển 173 'Thực hóa chí', 'Tục thông giám' quyển 2 đều ghi là 'mười tuổi'; 'Thái bình trị tích thống loại' (sau đây gọi tắt là 'Trị tích thống loại') quyển 2 thì ghi là 'mười lăm'. Xét 'Tân Ngũ đại sử' quyển 12 'Chu Bản kỷ' vào ngày Ất Sửu tháng 8 năm Hiển Đức thứ ba chỉ ghi 'bắt dân trồng cây và hẹ', còn lại không đề cập.
  3. 'Trượng lưu hải đảo' trong bản Tống, các bản khác và 'Tục thông giám' quyển 2 đều ghi là 'Lưu phù hải đảo'. 'Tống sử toàn văn' quyển 1 thì ghi là 'Lưu ư hải đảo'.
  4. Từng cùng Vua quyết định việc lớn: Từ 'từng' trong các bản như các bản in, bản hoạt tự cùng 'Tấu Thủy Kỉ Văn' quyển nhất đều giống nhau, còn các bản như Tống bản, 'Tống Toát Yếu', 'Biên Niên Cương Mục' quyển nhất, 'Tống Sử Toàn Văn' quyển nhất đều viết là 'mỗi'.
  5. 'Quản lý' nguyên là 'cất giữ', nhưng theo các bản và sách 'Trị tích thống loại' quyển 2, 'Tống sử toàn văn' quyển 1 đều ghi là 'quản lý', nay theo đó sửa lại
  6. 'Tòng Khiêm' nguyên bản là 'Tòng Nhượng', theo Tống bản, các bản khác và 'Mã Lệnh Nam Đường thư' quyển 5, 'Lục Du Nam Đường thư' quyển 3, 'Ngô Nhậm Thần Thập Quốc Xuân Thu' quyển 17 đều chép là 'Tòng Khiêm', nay theo đó mà sửa.
  7. Thị vệ đô ngu hầu Trấn An tiết độ sứ Trương Lệnh Đạc làm Trấn Ninh tiết độ sứ, 'Trấn Ninh' nguyên bản ghi là 'Trấn An', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Biên niên cương mục quyển nhất, Tống sử toàn văn quyển nhất, Tống sử quyển 250 bản truyện đều ghi là 'Trấn Ninh', nay theo đó sửa lại
  8. Trong bản gốc Tống và bản tóm tắt của Tống, chữ 'năm' có thêm 'tháng ba' bên dưới
  9. Các bản đều chép là 'bỏ gia quyến'. Theo 'Tống sử' quyển 253, truyện Tôn Hành Hữu chép là 'dời kho tàng'.
  10. 'tổ tông' trong bản gốc viết là 'tông tổ', theo Tống bản và các bản khác sửa lại.
  11. chư quân sương chủ quân chỉ huy sứ trở lên, chữ 'sương' và 'chủ' nguyên bản đảo lộn, căn cứ theo Tống bản, các bản, hoạt tự bản và 'Tống hội yếu' lễ 45-1 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.