"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 100: NĂM THIÊN THÁNH THỨ NHẤT (QUÝ HỢI, 1023)

Từ tháng giêng năm Thiên Thánh thứ nhất đời Nhân Tông đến hết tháng bảy năm đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Dần, mùng một, Hoàng thái hậu ban chiếu đổi niên hiệu. Vua đọc chiếu, khóc lóc rất lâu, nói với tả hữu rằng: “Trẫm không nỡ vội thay đổi niên hiệu của Tiên đế.”

[2] Ngày Canh Ngọ, Khiết Đan phái Trấn An tiết độ sứ Tiêu Sư Cổ và Hàm Châu quan sát sứ Hàn Ngọc đến chúc mừng ngày Trường Ninh tiết của Hoàng thái hậu.

[3] Tể tướng Phùng Chửng vì bệnh xin nghỉ, Vua hàng ngày sai nội thị đến thăm hỏi. Chửng nhiều lần viện dẫn chuyện cũ của chức Sơn lăng sứ, dâng sớ xin từ chức. Ngày Đinh Sửu, Vua đặc biệt sai Nhập nội phó đô tri Chu Văn Chất mang chiếu thư đến khuyên nhủ, rồi trả lại sớ đã dâng, và căn dặn các quan không được nhận sớ của Chửng.

[4] Ngày Nhâm Ngọ, lấy Độ chi phó sứ, Binh bộ viên ngoại lang Trần Nghiêu Tá làm Tri chế cáo, Sử quán tu soạn. Theo lệ cũ, chức Tri chế cáo đều phải được triệu tập thi thử ở Trung thư, nhưng Nghiêu Tá vì tham gia biên soạn 《Chân Tông thực lục》, nên được đặc cách miễn thi.

[5] Từ khi nhà Tống hưng thịnh, các nước Ngô, Thục, Giang Nam, Kinh Hồ, Nam Việt đều nổi tiếng giàu mạnh, lần lượt quy phụ. Thái Tổ, Thái Tông dựa vào kho tàng tích trữ của họ, giữ gìn bằng sự cung kiệm, giản dị. Lúc bấy giờ, dân số trong thiên hạ còn ít, quân đội nuôi dưỡng chưa nhiều, quan chức bổ nhiệm chưa quá thừa thãi, tăng đạo Phật Lão chưa quá hưng thịnh, bên ngoài không có việc cống nạp vàng lụa cho rợ Di Địch, trăm họ cũng đều yên ổn làm ăn, không có thói xảo trá phóng túng, nên trên dưới đều đủ đầy, kho tàng tràn đầy. Thái bình đã lâu, hộ khẩu hàng năm tăng lên, binh lính ngày càng nhiều, quan lại càng thêm đông, Phật Lão và rợ Di Địch hao tổn Trung Quốc, chi phí của triều đình gấp mấy lần trước, trăm họ cũng dần buông thả xa xỉ, nên trên dưới bắt đầu khốn đốn vì tiền bạc.

Quyền Tam ty sứ Lý Tư từng tâu việc lên hai cung, nói: “Thuế má trong thiên hạ vốn có mức độ, nay phương Tây Bắc ngừng chiến đã hai mươi năm, nhưng chi phí biên cương vẫn như cũ, các khoản chi tiêu khác ngày càng tăng. Quân đồn trú tuy chưa thể giảm bớt, nhưng những khoản phung phí không cần thiết, nên cắt giảm hết, để giảm nhẹ gánh nặng cho dân.”

Diêm Thiết phán quan Du Hiến Khanh cũng nói: “Lương thực, vải lụa trong thiên hạ ngày càng hao tổn, giá cả ngày càng cao, muốn sức dân không kiệt quệ là điều không thể. Nay giá lương thực, vải lụa trong thiên hạ so với đầu niên hiệu Tường Phủ đã tăng gấp mấy lần. Người ta đều nói lúa chưa mọc đã thu mua, dâu chưa ra lá đã mua sẵn. Từ Kinh Hồ, Giang Hoài trở đi, dân chúng lo lắng không nơi nương tựa. Chuyển vận sứ ra sức bóc lột để tăng thu, năm sau hơn năm trước, lại còn điều động không đúng thời, xây dựng công trình, mọi chi phí đều đổ lên dân, nên giá cả ngày càng cao, sức dân ngày càng kiệt quệ. Bệ hạ thử so sánh một năm chi tiêu vào thời thịnh nhất của niên hiệu Cảnh Đức, khi Tây Nhung quy phụ, Bắc Địch thông hảo, với năm Thiên Hi thứ năm, thì số quan lại thừa thãi, tài chính dư thiếu, lao dịch nhiều ít, tăng đạo tăng giảm, so sánh sẽ thấy được lợi hại. Huống chi từ niên hiệu Thiên Hi đến nay, ngày càng xa xỉ, còn hơn trước nữa. Bình không đầy là do rò rỉ ở dưới, cây không tươi tốt là do sâu mọt bên trong. Bệ hạ nên biết rằng những điều đó chỉ có hại chứ không có lợi, hãy cùng các công khanh đại thần bàn bạc ngày đêm để sửa chữa.” Vua nghe theo lời tâu.

Ngày Quý Mùi, sai Ngự sử trung thừa Lưu Quân, Đề cử chư ty khố vụ Tiết Di Khuếch cùng Tam ty bàn việc cắt giảm chi tiêu thừa thãi.

[6] Lại xuống chiếu cho Trung thư, Xu mật viện cùng bàn việc đắp đê ngăn nước sông Hoàng Hà vỡ ở Hoạt châu.

(Sông Hoàng Hà chảy vào Trung Quốc, đi qua phía tây dãy Thái Hành, uốn khúc qua các núi, nên không thể gây ra đại họa. Khi ra khỏi núi Đại Tỳ, chảy về đông bắc ra biển, qua vùng đất bằng phẳng hơn hai nghìn dặm, dấu tích của Vua Vũ đã bị vùi lấp, sông Hoàng Hà hợp thành một dòng, chỉ dựa vào đê để ngăn chặn. Mùa hạ và mùa thu mưa lớn, trăm sông đổ về, thường không tránh khỏi lo lắng về việc vỡ đê.

Tuy nhiên, việc chuẩn bị phòng chống lũ của các cơ quan cũng ngày càng tinh vi hơn. Bờ sông dễ bị xói mòn, nên chất đống cỏ khô, cành cây, đá để buộc lại thành bó, gọi là “tảo”. Phương pháp làm tảo, nếu cao mười trượng[1], dài trăm xích[2], tính toán theo chu vi và đường kính, mỗi thứ chia đôi[3], từ đó được bảy nghìn năm trăm xích khối, thì dùng tám trăm bó củi, năm trăm bó cỏ khô, hai nghìn bốn trăm bó cỏ. Các loại dây như vĩ sách, tâm sách, đê lâu, đáp lâu, cô thủ sách, thiêm trang, khái quyết, quải quyết, duệ hậu quyết, số lượng tùy theo nhu cầu. Nếu kích thước lớn nhỏ khác nhau, thì tùy thời điều chỉnh, nhưng cũng dựa vào tỷ lệ này.

Vì vậy, khi đặt tảo, phải đo độ sâu của nước, độ cao của bờ, có khi xếp hai, ba, bốn lớp. Một tảo dài hai mươi bước, nhưng bờ dài có khi vài trăm bước, hoặc hơn nghìn bước, tảo hỏng thì kéo theo nhau trôi đi; lại phải đặt tảo khác để cứu chữa, chi phí thường lên đến hàng vạn quan tiền. Khi tảo mới thả xuống nước gọi là “phác ngạn”, đặt trên cao để chắn nước gọi là “tranh cao”, đào đất đặt tảo để phòng nước gọi là “hãm tảo”. Tảo chắc chắn thì không lo, nhưng nếu nổi lên thì nguy hiểm. Các dụng cụ để cuốn tảo gồm: chế cước mộc, chế mộc, tiến mộc, cự mã, đoản trưởng mộc nao, đại tiểu thạch nao, vân thê, dẫn quyết, suy thê, trác phủ, miên sách. Cờ trống dùng để thúc đẩy công việc[4], và làm hiệu lệnh. Khi tính toán công việc, vác sáu mươi cân đi sáu mươi dặm là một công; đất đào một xích nặng năm mươi cân, lấy đất cách hai mươi bước là một công; hai mươi lăm xích trở lên tính theo độ dốc, đều tính toán theo tỷ lệ. Hướng nước thay đổi không cố định, nên tảo cũng thay đổi theo địa hình.

Từ khi sông Hoàng Hà vào Trung Quốc đến nay, đều dựa vào bản chí mà ghi chép thêm. 《Sử cảo》 của Lý Thanh Thần ghi chép về phương pháp làm tảo rất chi tiết, bản chí này lược bớt.)

[7] Triều đình chỉ cho phép dân chúng ở Xuyên Hạp và Quảng Nam tự do mua bán trà, nhưng cấm đưa ra khỏi địa phương, còn lại đều phải nộp thuế, ai vi phạm sẽ bị xử phạt. Ở Hoài Nam, các châu Kỳ, Hoàng, Lư, Thư, Thọ, Quang, quan phủ tự lập trường, đặt lại viên để quản lý, gọi là 13 sơn trường. Dân chúng hái trà ở sáu châu này đều thuộc quản lý của sơn trường, gọi là viên hộ, hàng năm phải nộp thuế bằng trà, nộp tô, còn lại quan phủ đều mua hết[5].

(Khi bán trà cho quan phủ, dân chúng đều nhận tiền trước rồi mới nộp trà, gọi là bản tiền. Lại có dân chúng hàng năm nộp thuế, cũng được quy đổi thành trà, gọi là chiết thuế trà[6]. Tổng số thuế hàng năm là hơn 8.650.000 cân[7], việc bán ra đều thực hiện tại sơn trường.

Ở Giang Nam, gồm 10 châu Tuyên, Hấp, Giang, Trì, Nhiêu, Tín, Hồng, Phủ, Quân, Viên và 5 quân Quảng Đức, Hưng Quốc, Lâm Giang, Kiến Xương, Nam Khang; ở Lưỡng Chiết gồm 12 châu Hàng, Tô, Minh, Việt[8], Vụ, Xử, Ôn, Đài, Hồ, Thường, Cù, Mục; ở Kinh Hồ gồm 8 châu Kinh, Đàm, Lễ, Đỉnh, Ngạc, Nhạc, Quy, Hạp và quân Kinh Môn; ở Phúc Kiến gồm 2 châu Kiến, Kiếm. Hàng năm, các địa phương này cũng như sơn trường, nộp tô và chiết thuế, còn lại quan phủ đều mua hết. Tổng số thuế hàng năm ở Giang Nam là hơn 10.270.000 cân, ở Lưỡng Chiết là hơn 1.279.000 cân, ở Kinh Hồ là hơn 2.470.000 cân, ở Phúc Kiến là hơn 393.000 cân[9].

Tất cả đều được chuyển đến các địa điểm tập trung quan trọng, gồm phủ Giang Lăng, châu Chân, châu Hải, quân Hán Dương, quân Vô Vi và khẩu Kỳ thuộc châu Kỳ, tạo thành 6 giác hóa vụ[10]. Phàm dân chúng bán trà đều phải bán cho quan phủ[11]. Trà dùng cho nhu cầu hàng ngày gọi là thực trà, nếu đưa ra khỏi địa phương thì phải có giấy phép. Thương nhân muốn buôn bán[12], phải nộp tiền hoặc vàng bạc tại giác hóa vụ ở kinh đô, để đổi lấy trà từ 6 giác hóa vụ và 13 sơn trường, được cấp giấy phép, tùy theo số lượng đã nộp mà nhận trà, gọi là giao dẫn. Nếu muốn nộp tiền hoặc vàng bạc ở phía Đông Nam cũng được, nộp vàng bạc thì tính giá trị tương đương để cấp trà như ở kinh đô. Phàm trà nộp cho quan phủ đều tính giá thấp, khi bán ra thì tính giá cao, lợi nhuận của quan phủ rất lớn, còn thương nhân chuyển bán sang phía Tây Bắc, thậm chí phân tán đến các nước Di Địch[13], lợi nhuận càng đặc biệt lớn. Quan phủ bán trà, thuế hàng năm tính bằng tiền, tuy dao động không đều, nhưng vào niên hiệu Cảnh Đức lên đến hơn 3.600.000 quan, đây là mức cao nhất.

Từ khi quân đội đóng ở phía tây bắc đã nhiều, lương thảo không đủ, bèn chiêu mộ thương nhân đưa cỏ khô và lương thực vào, tính toán khoảng cách xa gần, tăng thêm giá trị ước tính, cấp giấy chứng nhận, dùng trà để trả lại. Sau đó lại thêm tiền mẫn, hương liệu, ngà voi từ phía đông nam, gọi là tam thuế[14].

Nhưng ở biên giới cần gấp lương thực cho quân đội, muốn tích trữ nhiều, không chấp nhận giá trị ước tính, người đưa hàng vào được lợi thực từ tiền ước tính, mọi người đua nhau làm. Đến khi pháp lệnh này bị hỏng, giá trị ước tính ngày càng cao, trà ngày càng rẻ, tiền thực, vàng lụa ngày càng ít, mà người đưa hàng vào không phải toàn là thương nhân, phần nhiều là người địa phương, không biết lợi nhuận từ trà nhiều hay ít, lại muốn bán nhanh lấy tiền, có giấy chứng nhận thì bán lại cho thương nhân trà hoặc các cửa hàng ở kinh đô gọi là giao dẫn phố, lợi nhuận không đáng kể. Thương nhân trà và giao dẫn phố, hoặc dùng giấy chứng nhận lấy trà, hoặc tích trữ buôn bán để kiếm lợi lớn, do đó lợi nhuận từ giá trị ước tính đều vào tay các đại thương nhân, giấy chứng nhận tích tụ, dù hai ba năm trà cũng không đủ để trả, mà người đưa hàng vào vì lợi ít không muốn làm, biên phòng ngày càng khó khăn, pháp lệnh về trà bị hỏng nặng.

Năm Cảnh Đức, Đinh Vị làm Tam ty sứ, từng tính toán được mất, cho rằng mua lương thực ở biên giới chỉ có năm mươi vạn, mà lợi nhuận từ trà ở đông nam hơn ba trăm sáu mươi vạn đều về tay thương nhân, đương thời cho là lý luận chí lý. Sau đó dù nhiều lần thay đổi để cứu vãn, nhưng không thể không có tệ nạn. Trên đây căn cứ theo bản chí.)

[8] Ngày Đinh Hợi, Vua ban chiếu rằng: “Lương thực dự trữ cho ba lộ quân đều lấy từ lợi núi rừng. Gần đây nghe nói việc chuyển dùng không đủ, các đại thần của hai phủ hãy lo liệu việc này.” Bèn sai Tam ty sứ Lý Tư, Ngự sử trung thừa Lưu Quân, Nhập nội phó đô tri Chu Văn Chất, Đề cử chư ty khố vụ Vương Trăn, Tiết Di Khuếch cùng các phó sứ của ba bộ xét lại thuế trà, muối, phèn hàng năm tăng giảm, sửa đổi lại pháp lệnh. Rồi đặt ra Kế trí ty, (sách 《Thực lục》 cũng chép ngày Đinh Hợi giống vậy). Lấy Xu mật phó sứ Trương Sĩ Tốn, Tham tri chính sự Lữ Di Giản, Lỗ Tông Đạo đứng đầu.

[9] Kế trí ty trước hết xét lợi hại của pháp trà, tâu rằng: “Mười ba trường trà, thuế hàng năm là năm mươi vạn quan tiền, năm Thiên Hi thứ năm chỉ được hai mươi ba vạn quan. Mỗi khoán giá trị mười vạn quan, bán ra chỉ được năm vạn năm nghìn, tổng cộng thực thu được mười ba vạn quan, trừ chín vạn quan là vốn, mỗi năm chỉ được lãi hơn ba vạn quan, mà lương bổng của quan lại chưa tính vào. Như vậy số hư tuy nhiều, nhưng thực dụng rất ít.” Bèn xin bỏ ba thứ thuế, thi hành phép thiếp xạ. Phép này lấy mười ba trường trà, tính cả vốn lẫn lãi, bỏ việc quan cấp vốn, để cho thương nhân và người trồng trà tự giao dịch với nhau, tất cả định giá trung bình, quan thu lãi. Như bán trà trường La Nguyên châu Thư, mỗi cân giá năm mươi sáu đồng, vốn là hai mươi lăm đồng, quan không cấp nữa, chỉ bắt thương nhân nộp lãi ba mươi mốt đồng mà thôi.

(Sách 《Thực lục》 chép tháng ba ngày Tân Mão, 《Hội yếu》 cũng giống. Nhưng phải chở trà vào quan, theo chỗ thương nhân chỉ định mà giao, cấp khoán làm bằng, để phòng việc bán lậu, nên có tên là thiếp xạ. Nếu thuế hàng năm thiếp xạ không hết[15], thì quan mua như cũ. Người trồng trà quá hạn mà nộp không đủ, tính số thiếu như lãi thương nhân nộp. 《Hội yếu》. Trước kia nộp trăm cân trà, thêm hai mươi cân đến ba mươi lăm cân, gọi là hao trà, cũng đều bỏ hết. 《Thực lục》 tháng hai. Việc nộp tiền để mua trà sáu vụ, theo chế độ cũ.)

[10] Trước đây, vào niên hiệu Thiên Hy, triều đình ra chiếu cho phép thương nhân ở kinh sư nộp 80.000 quan tiền để nhận trà từ Hải Châu và Kinh Nam, nộp 74.000 quan tiền để nhận trà từ Chân Châu, Vô Vi, Kì Khẩu, Hán Dương, cùng với trà từ 13 trường, tất cả đều trị giá 100.000 quan, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân. Trong đó, trà từ Hải Châu và Kinh Nam chất lượng tốt và dễ tiêu thụ, nên thương nhân ưa chuộng, do đó số tiền nộp vào nhiều hơn so với các châu khác. Những người nộp tiền được phép thanh toán bằng vàng, lụa chiếm 6/10 tổng số tiền. Đến lúc này, sau khi thay đổi pháp chế của 13 trường, lại kêu gọi nộp tiền vào 6 vụ, trong đó Hải Châu và Kinh Nam tăng lên 86.000 quan, Chân Châu, Vô Vi, Kì Khẩu, Hán Dương tăng lên 80.000 quan.

(Theo 《Hội yếu》, tháng 5 năm thứ 3).

Thương nhân nộp cỏ khô và lương thực ở biên giới được định giá theo thực tế tại nơi đó, tùy theo khoảng cách xa gần mà tăng thêm giá trị. Lấy 10.000 quan tiền làm mức chuẩn, nơi xa tăng thêm 700 quan, nơi gần tăng thêm 300 quan, cấp giấy chứng nhận, đến kinh sư sẽ được thanh toán toàn bộ bằng tiền mặt, gọi là pháp “kiến tiền”; nếu muốn nhận vàng, lụa hoặc tiền từ châu khác, hoặc trà, muối, hương liệu, thuốc men cũng được chấp nhận.

(Theo 《Thực lục》, ngày Giáp Tí tháng 5. Đại thể là để trà và việc mua bán ở biên giới đều dùng tiền thực để xuất nạp, không được đánh giá chênh lệch, nhằm loại bỏ tệ nạn định giá hư. Triều đình đều chấp nhận đề xuất này. Lý Tư và những người khác mới lập ra pháp “kiến tiền”, 《Thực lục》 ghi chép ở nhiều chỗ, nay theo 《Bản chí》, ghi chung vào ngày Quý Mùi tháng giêng khi bắt đầu bổ nhiệm quan chức. Triều đình chấp nhận đề xuất này vào ngày Tân Mão tháng 3, nay cũng ghi chung lại. 《Thực lục》 ghi chép có chỗ chi tiết, có chỗ sơ lược, nay tham khảo thêm 《Hội yếu》, thì thấy 《Bản chí》 chọn lọc khá hợp lý, không thể không theo.)

[11] Ngày Mậu Tý, sai Diêm thiết phán quan Trương Truyền và Cáp môn chỉ hậu Trương Vĩnh Đức đi an ủi các châu ở Kinh Đông và Hoài Nam, do bị thiên tai lũ lụt.

[12] Đổi tên Ám Lợi Trại ở Thi Châu thành Ninh Biên Trại. Ban đầu trại này bị giặc Man đốt phá, sau khi tu sửa, đổi tên như vậy.

[13] Ngày Canh Dần, truy tặng vợ của Thị trung Lưu Mỹ là Ngô Hưng quận phu nhân Tiền thị làm Việt Quốc phu nhân. Tiền thị là em gái của Duy Diễn, khi bà mất, triều đình ngừng chầu 3 ngày. (Bà mất ngày Ất Sửu tháng 5, nay ghi chung lại).

[14] Tháng 2, ngày Bính Thân, đúc tiền “Thiên Thánh Nguyên Bảo”.

[15] Cảnh Linh cung có tượng Vua Chân Tông, sẽ đưa về thờ ở chùa Ứng Thiên viện tại Tây Kinh. Ngày Đinh Dậu, sai Phùng Chửng làm Lễ nghi sứ. Phàm việc đưa tượng Vua về thờ, thường lấy tể tướng hoặc cận thần làm Lễ nghi sứ, cùng với Nhập nội đô tri áp ban, Ngự dược quản câu nghi vệ. Trước tiên đón tượng Vua đến điện Văn Đức, hoặc điện Hội Khánh, Trường Xuân, làm lễ trai giới từ biệt, các quan phụ tá và tông thất dẫn đường, rồi làm lễ dâng rượu, khi ra đi thì trăm quan tiễn ở ngoại ô.

[16] Ngày Mậu Tuất, Vua ngự điện Thừa Minh xem xét và thử thách các vệ sĩ, thăng bổ có khác nhau.

[17] Cho phép Cốt Tư La và Lập Tuân ở Tông Ca mỗi năm một lần vào cống.

[18] Thái thường bác sĩ Đinh Tụng, Đại Lý tự thừa Đinh Thuyết, Cáp môn chi hậu Đinh Gián đều được bổ làm giám đương ở ngoài, đều là em của Đinh Vị.

[19] Ngày Canh Tý, phát lính tăng cường xây dựng kinh thành[16]. Xét đoạn này nguyên bản viết nhầm sau ngày Canh Dần tháng giêng, nay sửa lại.

[20] Ngày Giáp Thìn, miễn thuế cỏ thể lượng mà dân trong kinh thành còn nợ. Trong kinh thành mua cỏ thể lượng tổng cộng mười triệu bó, chưa nộp được một nửa mà mưa lâu không ngớt. Vua nói: “Mưa dầm hơn mười ngày, giá cỏ tăng vọt, miễn thuế cho các hộ từ tứ đẳng trở xuống.”

[21] Ngày Đinh Tỵ, sai Tri chế cáo Trương Sư Đức đưa tượng Vua Thái Tổ, Thái Tông về thờ ở cung Hồng Khánh tại Nam Kinh, vì điện Thần Ngự mới xây xong.

[22] Xu mật trực học sĩ, Hình bộ thị lang, Tri Tịnh châu Mã Nguyên Phương xin được thay thế, Vua cho rằng Thái Nguyên là trọng trấn, ngày Mậu Ngọ, gia phong Nguyên Phương làm Binh bộ thị lang, lưu lại nhiệm kỳ nữa, ban năm trăm lạng bạc, tỏ ý tin cậy giao phó.

[23] Thái thường thiếu khanh, Tri Quang châu Chu Khởi được làm Bí thư giám, Tri Dương châu, Đoàn luyện phó sứ Dĩnh châu Vương Thự được làm Quang lộc khanh, Tri Tương châu.

[24] Ngày Canh Thân, bổ Vạn Tử Tô Khát Ngôi ở Tây giới nội phụ làm Tam ban phụng chức, ban tên họ là Lý Văn Thuận, cho ở tại Trần châu.

[25] Lúc đầu, từ khi sách trời Tường Phù giáng xuống, bắt đầu lập các tiết Thiên Khánh, Thiên Kỳ, Thiên Huống, Tiên Thiên Giáng Thánh, cùng tiết đản sinh của Chân Tông, và tam nguyên bản mệnh, theo phép Đạo gia, trong ngoài đều làm lễ trai đàn, trong kinh thành[17], một đêm có nhiều nơi.

Khi Vua lên ngôi, cùng tiết đản sinh của Thái hậu cũng như vậy, hao phí rất lớn. Đến lúc này, có người bàn đến việc ấy, tể tướng Phùng Chửng nhân đó tâu rằng trong nước đã yên ổn lâu ngày, chi tiêu nên có chừng mực. Vua và Thái hậu nói: “Đây là ý của tiên đế, nhưng vì bệnh nặng nên chưa thực hiện được.” Bèn hạ chiếu cho Lễ nghi viện định lại. Lễ nghi viện xin tiết đản sinh của Vua và Thái hậu, cùng bản mệnh vẫn giữ như cũ, các tiết khác thì lệnh cho tám cung quan thay nhau làm lễ. Trước đây mỗi năm làm lễ 49 lần, xin giảm xuống 20 lần; đại lễ 2400 phần, xin giảm xuống 500 phần; các quan dự lễ chỉ cấp trà nước. Chiếu tăng số phần lễ lên 1200, còn lại đều chấp thuận.

Sau đó, Chửng lại xin các tiết Thiên Khánh v.v., các châu phủ Ứng Thiên, Hà Nam, Đại Danh, Hà Trung, Phượng Tường, Giang Lăng, Hưng Nguyên, Giang Ninh, Duyễn, Tịnh, Bạc, Thư, Hồng, Hàng, Đàm, Phúc, Ích, Tử, Quỳ, Quảng, Quế vẫn làm lễ như cũ; các châu phủ Thanh, Từ, Tào, Vận, Mật, Trần, Hứa, Mạnh, Hoạt, Tương, Đặng, Chân Định[18], Thiền, Hình, Tương, Thương, Bối, Định, Lộ, Tấn, Đại, Kinh Triệu, Thiểm, Đồng, Hoa, Bân, Kinh, Phu, Diên, Diệu, Khánh, Thành, Dương, Lư, Thọ, Túc, Chân, Tuyên, Kiền, Tô, Nhuận, Vụ, Minh, Việt, Tuyền, Kiến, Bành, Miên, Hán, Cung, Thục, Gia, Mi, Toại, Lợi, Lãng, Liên, Hạ, Triều, Thiều, Huệ, Ung, Dung, Nghi dùng hương đèn, hoa quả, nước suối, cây thuốc làm lễ, còn các châu nhỏ khác đều bãi bỏ. Chiếu cũng chấp thuận.

[26] Xu mật sứ Tiền Duy Diễn tâu: “Chân Tông hoàng đế sắp hợp táng vào Thái Miếu, các quan bàn việc dùng công thần phối hưởng. Thần xin kể đến cha thần là Thượng phụ Tần quốc Trung Ý vương Tiền Thục, công lao rạng rỡ nhiều đời, địa vị trọng yếu qua nhiều triều. Ngài đích thân dẫn quân bình định nạn tiếm nghịch trăm năm, cầm sổ sách nộp đất đai ngàn dặm. Lòng trung thành thấu đến trời cao, công tích lớn ghi trong sử sách. Vì thế Thái Tổ, Thái Tông ban chiếu cho khỏi lạy, gọi tên không thêm chữ ‘thần’. Từ khi tiên đế kế vị, nghĩ đến công lao cũ càng thêm hậu đãi, ban nhiều ân điển đặc biệt cho cả nhà. Trong triều đình, thực sự đứng hàng đầu. Kính xin chiếu theo thể lệ, ban chiếu cho phối hưởng ở tông miếu.”

Vua xuống chiếu cho hai chế và Sùng Văn viện tra cứu, cùng với các quan Lễ bàn kỹ rồi tâu lên. Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Lý Duy tâu xin cho Tiền Thục phối hưởng ở Thái Tông miếu. Tấu dâng lên, không được trả lời.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》.)

[27] Tháng 3, ngày Kỷ Tỵ, Lễ nghi viện lại xin bỏ việc ban yến thiên hạ trong năm ngày lễ Thiên Khánh. Vua xuống chiếu các châu phủ mới định làm lễ cầu đảo thì vẫn ban yến như cũ, còn lại đều bỏ.

[28] Ngày Giáp Tuất, đưa tượng Chân Tông vào thờ ở chùa Ứng Thiên, Tây Kinh.

[29] Ngày Bính Tý, giảm tội cho tù nhân Tây Kinh một bậc, tội đồ trở xuống được tha. Dân trong thành từ 80 tuổi trở lên, miễn thuế dịch cho nhà đó, ban cho mỗi người 3 cân trà, 1 tấm lụa.

[30] Ngày Tân Tỵ, bỏ việc thu mua tre gỗ ở các trường trong kinh thành.

[31] Ngày Giáp Thân, xuống chiếu từ nay phàm việc xây dựng cung điện do truyền chỉ, đều phải báo Tam ty tính toán vật liệu cần dùng, rồi mới cấp của công. Bấy giờ Vua và Hoàng thái hậu bảo các quan phụ chính: “Gần đây các nơi xây dựng, thái giám truyền chỉ không qua Tam ty, nên chi phí quá nhiều. Lại nghe nói đốn gỗ khai thác ngày càng vào sâu trong núi, vận chuyển vất vả, nên kiểm soát chặt chẽ.” Vì thế ban chiếu này.

[32] Giảm lính canh gác ở các cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, Cảnh Linh, Hội Linh, Tường Nguyên, đưa đi bổ sung vào các quân, thợ xây dựng thì giao cho Bát tác ty. Cung Cảnh Linh và quán Thái Cực ở Duyện Châu cũng làm theo.

[33] Trước đây, các quan từ Điện trực trở lên, dù còn nhỏ chưa vào chầu, nhưng gặp ngày lễ Càn Nguyên, Trường Ninh đều được ban áo mũ, đến nay bỏ việc này.

[34] Dùng người Trấn Châu là Hầu Nhật Dụng làm Tam ban Phụng chức, Mục Hóa Nguyên, Trương Quy Chính, Vương Lệnh Tòng làm Chủ bạ các huyện Định Thành, Vọng Giang, Lai An. Nhật Dụng và những người kia trước kia bị bắt giữ ở Khiết Đan, từng được bổ làm quan ngụy, đến nay trở về, nên đặc biệt ghi chép. Những người quy minh sau này không có gì khác, đều có thể bỏ, các quyển trước nên theo đó.

[35] Tam ty Giảm tỉnh tâu rằng, bốn cung quán ở kinh đô, mỗi năm thu được tiền và lụa tổng cộng sáu vạn bảy nghìn hai trăm hơn, đều do sứ thần tại chỗ chuyên quản việc xuất nạp, e có sự xâm phạm và gian lận. Ngày Ất Dậu, dùng quyền Hộ bộ Phán quan Vương Tông, Cáp môn Chi hậu Lưu Hoài Đức cùng quản lý việc này. Lưu Hoài Đức, chưa thấy.

[36] Phán Đại Lý tự Trương Sư Đức tâu: “Quan tường đoạn nhầm dẫn tên hình phạt mà sửa đúng, từ trước đến nay không bị trị tội. Xin từ nay phàm sai lầm trong việc xử án tội đồ trở lên, dù đã sửa đúng, cũng phải tâu hặc để xin chỉ dụ.” Lại tâu: “Việc định đoạt công sự ở bản tự, thường bị chậm trễ. Xin như việc xử án lớn nhỏ, lập thời hạn cho công án.” Lại tâu: “Người được tuyển thử luật đoán án, tên hình phạt nguyên đoán đều bị lại phủ biết trước. Xin từ nay giao cho Ngự sử đài khảo thí.” Đều được chấp thuận. Chiếu rằng ngày thử pháp quan, vẫn lệnh cho quan tri Thẩm hình viện hoặc phán tự quan cùng quan đoán ngục đến Ngự sử đài.

[37] Châu Thần tâu rằng, con trai của Thứ sử Hạ Khê Châu là Bành Nho Mãnh, Hữu Thị cấm Sĩ Hán, tình trạng xưng rằng trước đây vì cha già anh mất, vội để lại gia thuộc ở Tây Kinh, lén về bản đạo, cùng cha kiềm chế dân Khê, muốn xin cho gia thuộc được trở về. Chiếu cho Hà Nam phủ sai người đưa đến kinh đô, cho ở nhà quan.

[38] Ngày Bính Tuất, lại trách Tổ Sĩ Hoành giám thuế Giang Châu, vì người tâu rằng Sĩ Hoành ở Cát Châu không thể tu sửa, trách phạt trước còn nhẹ.

[39] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho Thẩm quan viện, chọn người thông phán các châu quận mà sứ Khiết Đan đi qua.

[40] Ngày Tân Mão, bắt đầu thi hành pháp trà thiếp xạ ở mười ba sơn trường Hoài Nam. Pháp trà đã ghi đủ vào ngày Quý Mùi tháng giêng khi bắt đầu bổ nhiệm quan, nay theo bản kỷ đặc biệt ghi lại, để biểu thị sự bắt đầu.

[41] Sử quan Ty thiên giám dâng lịch mới, được ban tên là Sùng Thiên, do Bảo chương chính Trương Khuê, Linh đài lang Sở Diễn cùng những người khác soạn. Vua sai Hàn lâm học sĩ Yến Thù viết lời tựa cho cuốn lịch. Diễn là người Khai Phong; còn Khuê thì không rõ lai lịch.

[42] Vua ban chiếu rằng các quan kinh triều chưa từng nhậm chức mà nhân việc tế tự được cấp bổng, thì tiền mặt đều chiết trả hai phần ba.

[43] Mùa hạ, tháng 4, ngày Ất Mùi, Vua ban chiếu cho Viện Thẩm quan, các chức Giám tại các kho ở kinh đô đều chọn người từng làm quan kinh triều; còn con em được bổ nhiệm do ơn huệ, dù từng giữ chức Giám lâm nhưng để mất mát tài sản của quan thì không được bổ nhiệm. Lại ban chiếu rằng từ các hành lang trung đến quan kinh đô, căn cứ vào xuất thân, công trạng và lỗi lầm trong quá trình làm quan, lập thành sổ bạ dâng lên.

[44] Ngày Kỷ Hợi, lấy Lại bộ lang trung, Long đồ các đãi chế Tiết Khuê quyền tri Khai Phong phủ. Khuê làm chính sự nghiêm minh, xử đoán không khoan nhượng, mọi người đều sợ hãi, đến mức dân gian có câu nói bông đùa gọi ông là “Tiết xuất dầu”. Câu nói này đến tai Vua, Vua hỏi, Khuê tạ lỗi rằng: “Thần biết đánh kẻ gian, sao tránh được điều này?” Vua càng thêm trọng dụng.

[45] Ngày Tân Sửu, Trung thư tâu rằng các chức Chuyển vận sứ phó ở các lộ, các chức Bộ thự, Kiềm hạt, Đô giám ở Hà Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây, cùng các quan được cử đi sứ sang Khiết Đan khi từ biệt và yết kiến, xin đều cho phép lên điện tâu việc, Vua đồng ý.

Trước đây, có chiếu chỉ cho phép các đại thần ở hai phủ phụ tấu. Thái thường thừa, Trực tập hiền viện, Phán Lại bộ Nam tào Đinh Độ tâu rằng quan lại đi sứ ngoài kinh, ắt có điều muốn tâu, nay nhất loạt bắt phụ tấu, không phải là cách ngăn ngừa bưng bít. Vì thế Trung thư mới tâu, cuối cùng được chấp thuận.

Khi Vua mới lên ngôi, Độ từng dâng sớ bàn sáu việc: Một là tăng thêm quan khuyến giảng, hai là tăng thêm người gián nghị, ba là bổ nhiệm con em do ơn huệ bằng người thân có công lớn trở lên, bốn là tuyển binh lính phục dịch ở Hà Bắc, Hà Đông bổ sung vào cấm quân, năm là lấy việc khai khẩn ruộng đất của lệnh tá làm tiêu chuẩn xếp hạng, sáu là những người bị tội trượng vì việc công thì cho phép được bảo lãnh để thăng chức. Ông còn từng dâng bài luận về Vương Phượng lên Thái hậu, để răn dạy ngoại thích.

[46] Bãi Lễ nghi viện, theo lời thỉnh cầu của Xu mật phó sứ Trương Sĩ Tốn và các quan. Lấy Tri Lễ nghi viện Hàn lâm học sĩ Yến Thù, Long đồ các trực học sĩ Phùng Nguyên làm Phán Thái thường lễ viện, các quan Đồng phán Thái thường lễ viện làm Đồng tri viện[19].

Thái thường lễ viện là nơi quản lý các nghi lễ, từ thời Đại Trung Tường Phù lại thêm Lễ nghi viện, do các phụ thần đứng đầu, đến nay mới bãi bỏ. Lễ nghi viện chiếm dụng 22 công nhân[20], hàng năm tốn hơn 1.700 quan tiền, không phải là chi phí thường xuyên cho các nghi lễ thông thường[21], việc hàng ngày xử lý cũng không nhiều. Việc định ra nghi thức từ lâu thuộc về Thái thường tự và Lễ viện quản lý, nay bãi bỏ, tất cả các văn bản tiếp nhận sắc chỉ, xử lý công vụ đều giao về viện này.

[47] Ngày Nhâm Dần, ban chiếu rằng Từ Châu năm nào cũng bị lụt, dân chúng khó kiếm ăn, đã từng phát thóc từ kho Thường bình và cho vay giống lương cho hộ trung hạ, lại bãi bỏ việc phát muối nuôi tằm, thường lo dân sẽ lưu tán, nên lệnh cho các quan Kinh Đông thể lượng an phủ phải hết sức cứu giúp.

[48] Ngày Giáp Thìn, Khiết Đan phái Chương Vũ tiết độ sứ Gia Luật Đường Cổ Đặc, Ninh Châu phòng ngự sứ Thành Chiêu Văn đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.

[49] Ngày Đinh Mùi, tiết Càn Nguyên, các quan và sứ Khiết Đan lần đầu dâng lễ chúc thọ ở điện Sùng Đức.

[50] Ngày Kỷ Dậu, lấy Kinh Tây chuyển vận sứ, Từ bộ Lang trung Tôn Xung kiêm quyền Hoạt châu Hà Âm đến Tứ châu Đô đại Tuần hà, Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Trương Quân Bình làm Thiêm thư Hoạt châu sự.

Ban đầu bàn việc đắp đê ngăn sông quyết, Thiếu phủ Giám Tiết Nhan tiến cử tôn tử của Hình bộ Thượng thư Lâm Đặc là Khắc Kiệm làm Cáp môn Chi hậu. Vua cho rằng Khắc Kiệm không có công trạng, dù đã theo lời tiến cử của Tiết Nhan, nhưng vẫn hạ chiếu từ nay các thần liêu tâu cử sứ thần làm Cáp môn Chi hậu, Tam ban viện phải trình rõ lao tích để xin chỉ.

[51] Ngày Quý Sửu, hạ chiếu các quan văn võ tâu xin ấm phong cho con em đều theo bản tư.

[52] Ngày Bính Thìn, vì năm đói kém, tạm ngừng tu sửa Tây Kinh Thái Vi cung và chùa Bạch Mã, những người phục dịch xây dựng lăng Vĩnh Định được miễn một người.

[53] Ngày Đinh Tỵ, hạ chiếu các quan từ Hàn lâm học sĩ đến Tam ty Phó sứ, Tri tạp Ngự sử, mỗi người tiến cử một viên Thái thường Bác sĩ trở lên có thể đảm nhiệm chức Gián quan, Ngự sử để tâu lên. Trước đó, có người dâng thư nói: “Chân Tông thường đặt Gián viện ở Môn hạ tỉnh, Ngự sử đài đặt riêng Hiến quan, sau đó các quan chấp chính dần sinh sợ hãi, nên ban cho chức vụ tốt rồi bãi bỏ. Những năm gần đây, các quan quý thân thường vi phạm pháp luật, đến khi bị trừng phạt thì kỷ cương đã suy. Xin đặt lại ba đến năm viên Gián quan, Ngự sử.”

(Triều Tống, các chức Tả Hữu Gián nghị đại phu, Tư Gián, Chánh ngôn thường không chuyên trách việc can gián, còn Ngự sử thì kiêm nhiệm việc khác. Năm Thiên Hi đầu, hạ chiếu đặt Gián quan ở Lưỡng tỉnh, Ngự sử đài đặt sáu viên từ Thị Ngự sử trở xuống, không kiêm chức vụ[22], mỗi tháng phải có một viên tâu việc, sau đó khuyết chức không bổ, nên người dâng thư nhắc đến. Việc các quan chấp chính sợ hãi người can gián, ban cho chức vụ tốt, có lẽ là việc ngày Ất Hợi, Tân Tỵ tháng 5 năm Thiên Hi thứ 3. Cần xem tên người dâng thư và các quan chấp chính sợ hãi đài gián, ban chức tốt là ai. Ban đầu, Đinh Độ dâng sớ bàn sáu việc, một là tăng số Gián quan, có lẽ là Đinh Độ. Cuối tháng 6 năm Thiên Hi thứ 3, lời của Phạm Ung có thể tham khảo.)

[54] Khâm Châu nằm sâu trong thung lũng, đất đai ẩm thấp, nhiều người chết vì bệnh dịch. Suy quan Kiến An là Từ Đích dâng kế sách lên Chuyển vận sứ, xin dời dân đến gần nước. Chuyển vận sứ tâu lên, và xin lưu Từ Đích lại để lo việc này. Ngày Tân Dậu, chiếu theo lời xin.

Từ Đích mặc áo ngắn, cầm gậy, cùng ăn với dân phu, xây thành quách, dựng lầu canh, chuẩn bị phòng thủ, chia đất cho quân dân, sửa chữa phủ đệ, kho tàng, kênh rạch, chợ búa, đều được yên ổn.

[55] Các quan tâu: “Từ khi kết hảo, mỗi lần cử sứ thần đều phải chọn người tài giỏi. Xin từ nay về sau, văn thần phải là chức Cấp sự trung trở lên, võ thần phải là chức Dao quận trở lên. Mỗi lần chọn cử, trước khi vào nước, ban chiếu chỉ, giao cho các quan tiến cử, mới được cử đi. Khi về, nếu không có lỗi, sẽ được thăng thưởng để khuyến khích.” Tể tướng tâu xin từ nay chỉ do Trung thư, Xu mật viện chọn người đi sứ, được chấp thuận.

[56] Tháng 5, ngày Quý Hợi mùng một, Thái thường bác sĩ Cúc Vịnh, Vương Chẩn đúng kỳ khảo xét, Thẩm quan dẫn vào chầu, Vua xem xét công trạng, đều bổ làm Giám sát ngự sử. Vịnh là người Khai Phong, Chẩn là người Ngụy.

[57] Ngày Canh Ngọ, chiếu cho Lễ bộ tổ chức thi cử.

[58] Chiếu đổi tên các chức quan và châu huyện trùng với tên cha của Hoàng thái hậu.

[59] Ngày Tân Mùi, Vua ngự điện Sùng Chính xét tù, giảm tội một bậc cho các tội nhẹ, tha những người bị tội đánh trượng.

[60] Ngày Giáp Tuất, sai Tham tri chính sự Lỗ Tông Đạo đi kiểm tra việc đắp đê ở Hoạt Châu.

[61] Chiếu rằng những ngày Hoàng thái hậu buông rèm ở điện Thừa Minh, cho phép Tam ty, Khai Phong phủ, Ngự sử đài cùng một thuộc quan vào tâu việc.

[62] Ngày Ất Hợi, cho con của Cảnh Đạt, nguyên là Điện trực coi đồn điền vụ ở trại Độc Lưu[23] là Tín và Siêu làm Hạ ban điện thị, vì Đạt chết khi đánh giặc.

[63] Ngày Mậu Dần, chia Đông Tây Bát tác ty làm hai ty, tăng thêm hai viên Giám quan, vốn có bốn viên. Tháng 6 năm Cảnh Đức thứ 4, hợp làm một.

[64] Chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển nhân từ nay những người xuất thân làm quan, đều phải tuân theo quy định của Trưởng định cách lệnh mà quy về ty.

Ban đầu, Điện trung thị ngự sử người Đại Danh là Lý Hiếu Nhược tâu rằng, các lại viên trong trăm ty thường xuyên được hưởng ân điển, nhiều người được giảm bớt thời hạn tuyển chọn, xuất thân làm quan rất nhanh, xin thêm điều ước. Do đó, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Yến Thù cùng với Lưu nội tuyển và Nam tào cùng xem xét quyết định, rồi ban chiếu này. Tháng 3 năm thứ 4, Vương Trăn lại có tấu xin việc này, không rõ lý do, cần xem xét lại.

[65] Ngày Tân Tỵ, bãi bỏ việc dâng dây đai Diên Thọ và dải Tục Mệnh vào tiết Tiên Thiên Giáng Thánh.

[66] Tha chết cho binh sĩ Củng Thánh là Vương Mỹ, đánh trượng rồi đày đến bản thành Hải Châu. Vương Mỹ bỏ trốn, theo luật phải chém, nhưng Vua cho rằng hắn mới nhập ngũ, chưa từng nhận lương tháng, vì nhớ mẹ mà bỏ trốn, nên đặc cách tha tội.

[67] Khả hãn Vương Dạ Lạc Cách Thông Thuận của Hồi Hột Cam Châu sai sứ đến cống vật địa phương. Chiếu phong cho Thông Thuận làm Đặc tiến, Quy Trung Bảo Thuận Khả hãn Vương.

[68] Người dâng thư lên nói rằng các hoạn quan đi sứ Giang, Hoài, thường dùng thuyền công để chở vật tư kiếm lợi, các châu huyện không dám kiểm tra. Ngày Mậu Tý, chiếu rằng từ nay các nội thần ra ngoài, chỉ được cấp ngựa trạm, và không được quá ba con.

[69] Đổi thành tử thành của quân Bảo An thành trại Đức Tĩnh.

[70] Chiếu ban cho các quan triều, quan kinh được bổ nhiệm làm Tri châu, Thông phán, Chuyển vận sứ phó, Đề điểm hình ngục, Giám lâm vật vụ cùng các Mạc chức, Châu huyện quan, khi vào triều từ biệt, được tuyên khẩu dụ, và lệnh cho Cáp môn chi hậu vào ngày từ biệt tuyên dụ rõ ràng, đồng thời lệnh cho các quan chép lại một bản mang theo khi nhậm chức. 《Hội yếu》 chép việc tháng 5 năm Thiên Thánh nguyên niên, 《Thực lục》 không có, nay phụ vào cuối tháng.

[71] Tháng 6, ngày Bính Thân, dời Tiết độ sứ Bảo Đại quân Hà Dương là Tiền Duy Diễn đến làm Tri châu Bạc Châu.

[72] Trương Quân Bình xin miễn chức Thiêm thư Hoạt Châu, chuyên trách việc tu sửa sông ngòi, đồng thời xin tăng thêm chức Đô giám, và tiến cử Thái thường bác sĩ Lý Vị. Ngày Canh Tý, Lý Vị được đổi làm Bắc tác phường phó sứ, cùng Trương Quân Bình đều giữ chức Tu hà đô giám.

Lỗ Tông Đạo dùng kế của Lý Vị, muốn khởi công vào mùa hạ, nhưng Tôn Xung cho rằng sẽ tốn nhiều vật liệu và hao tổn nhân lực, dù có đắp đê cũng sẽ vỡ. Vì thế, Tôn Xung được điều làm Tri Hà Dương. Sau đó, nhiều binh lính làm việc bị chết khát, Trương Quân Bình đề nghị giảm một nửa công việc, nhưng Lý Vị không nghe. Trương Quân Bình một mình tâu lên, nên Lý Vị bị cách chức, Trương Quân Bình cũng bị điều đi làm quan khác, và việc đắp đê cuối cùng không thành.

Lý Vị là người Hà Dương.

(《Lý Vị phụ truyền》 chép: Lỗ Tông Đạo tiến cử Lý Vị làm Tu hà đô giám, nhưng có người trong Xu mật viện ghét Lỗ Tông Đạo nên bác bỏ ý kiến của Lý Vị, và Lý Vị bị giáng làm Ngạc Châu đô giám. Lúc đó, Tào Lợi Dụng, Trương Sĩ Tốn, Trương Tri Bạch đều ở Xu mật viện, không rõ ai là người ghét Lỗ Tông Đạo[24], cần tra cứu thêm. Nay chỉ theo 《Tôn Xung chính truyền》.)

[73] Ngày Giáp Thìn, bãi bỏ việc khai thác đan sa ở huyện Lật Thủy, phủ Giang Ninh.

[74] Ngày Mậu Thân, phủ Hà Nam tâu rằng lăng Vĩnh Định chiếm 48 khoảnh đất dân[25], ước tính giá trị 70 vạn tiền. Vua nói: “Xây dựng lăng tẩm cho tiên đế mà phải bồi thường đất dân, há có thể theo lệ thường sao?” Đặc cách cấp 100 vạn.

[75] Ngày Ất Mão, cấm việc hủy tiền để đúc chuông.

[76] Trịnh Châu phòng ngự sứ, Hoàn Khánh lộ phó đô bộ thự Điền Mẫn ở biên giới có nhiều hành vi phạm pháp, nhưng Vua cho rằng ông từng có chiến công, không muốn xử nặng. Ngày Mậu Ngọ, giáng làm Tả đồn vệ đại tướng quân, Chiêu Châu phòng ngự sứ.

[77] Ban chiếu: “Theo lệ cũ, các chức mạc liêu, châu huyện nếu cha mẹ trên 70 tuổi mà không có người phụng dưỡng, thì được tạm bổ nhiệm chức gần nhà. Từ nay, những người mới nhậm chức mà phải đi xa, nếu cha mẹ đã 70 tuổi, cho phép áp dụng lệ trước để bổ nhiệm chức gần.”

[78] Mùa thu, tháng 7, ngày Mậu Thìn, đặt chức Tuần kiểm sứ các châu Thiểm, Quắc, Giải, Đồng. Khi đó, bọn giặc cướp ở châu Giải tụ tập, Xu mật viện tâu rằng các phủ Hà Trung, châu Đồng, Giải, Phu, Diên, Đan, Phường cùng Tây Kinh, Thiểm, Quắc, Hà Dương vốn chia làm hai lộ tuần kiểm, đất rộng khó bắt, nên đặc biệt đặt một chức Tuần kiểm sứ ở ba châu này[26].

[79] Chiếu cho Lễ bộ Cống viện, những người dự thi có người thân thích gần hoặc xa đang để tang, đều được phép ứng thí.

[80] Ngày Kỷ Tỵ, Hữu thị cấm, Cáp môn chỉ hậu, người huyện Kiền Vi, châu Gia, trú bạc phòng ngự biên giới là Vương Mông Chính xin được gặp vào dịp lễ Trường Ninh, Càn Nguyên, dựng trai đàn ở Cửu Mi và chuẩn bị cống phẩm địa phương, cho con em vào cống[27], lại xin cấp giấy thông hành. Được chấp thuận.

Mông Chính có quan hệ thân thiết với Thái hậu; con gái ông là vợ của Lưu Tòng Đức.

[81] Ngày Canh Ngọ, cho Lưu Nhan, người châu Từ, làm Chủ bạ huyện Nhậm Thành.

Nhan người huyện Bành Thành, mồ côi từ nhỏ, thích cổ học, không chuyên chương cú, theo học Cao Biện, đỗ tiến sĩ. Từng làm Tri huyện Long Hưng, vì phạm pháp bị cách chức, sau một thời gian, được bổ làm Văn học châu Từ. Ở quê nhà, dạy học cho mấy trăm người. Ông soạn sách 《Phụ bật danh đối》 dựa trên các tấu nghị thời Hán, Đường. Bằng Nguyên, Lưu Quân, Tiền Dịch, Đằng Thiệp, Thái Tề dâng sách này lên, nên có mệnh lệnh này. Nhan ở Nhậm Thành, gặp năm đói kém, mở kho lương của nhà giàu, cứu sống mấy nghìn người.

[82] Ngày Nhâm Thân, ban tiền cho dân phu sửa sông ở châu Từ.

[83] Ngày Quý Dậu, miễn thuế hư giá cho châu Nhung, Lô. Trước đây, thương nhân đi thuyền qua châu, ngoài thuế phải nộp, còn bị đánh giá hư và nộp thêm tiền, nên cấm việc này.

[84] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng vùng Hà Sóc được mùa, chọn một viên quan triều đình đi duyên biên để lo việc mua bán lương thảo.

[85] Lại xuống chiếu rằng ruộng chức điền trong thiên hạ, không được cho người làm công và chủ hộ thuê cày, nếu muốn mời khách nhân thì được phép, nhưng số thuế thu được không được tăng thêm hao tổn, nếu gặp lũ lụt hạn hán thì được miễn thuế theo lệ.

[86] Ngày Kỷ Mão, cho Sùng nghi phó sứ Nhâm Cát lại làm Tri châu Thi Châu. Trước đây, Nhâm Cát vì để giặc Man cướp phá trại Ám Lợi nên bị cách chức Tri châu, nhưng lệnh chưa đến thì ông đã vào động Khê đánh dẹp có công, nên lại được bổ nhiệm, và ban sắc khen thưởng.

[87] Ngày Nhâm Ngọ, sai Tri chế cáo Trương Sư Đức, Thị ngự sử tri tạp sự Thái Tề xem xét định rõ các vật danh mục thuộc Ty Quyên nạp của Tam ty và xóa nợ cho thiên hạ[28]. Các vật danh mục thuộc “ứng tại”[29], tuy có ghi trong sổ sách nhưng thực tế chưa từng nộp vào quan. Khi ấy, có người dâng thư nói rằng vào đầu thời Chân Tông từng sai sứ đến Giang, Chiết miễn giảm nợ đọng, nhân đó dùng ân xá khi lên ngôi mà sai Sư Đức đi. Từ đó về sau, mỗi khi có ân xá đều sai quan xóa nợ, thành lệ.

[88] Ngày Bính Tuất, Long đồ các đãi chế, Tri Khai Phong phủ Tiết Khuê làm sứ sang chúc mừng sinh thần vợ của Khiết Đan là Tiêu thị, Tây thượng các môn sứ Quách Thịnh làm phó sứ.

[89] Ngày Kỷ Sửu, Cấp sự trung, Tập hiền viện học sĩ Khấu Giam làm Tri châu Đặng Châu. Trước đây, có người dâng thư nói Khấu Giam thân thiết với Đinh Vị, nên từ Thành Đô về kinh, đặc cách giáng chức. Vua nói với Vương Tăng rằng: “Giam có tài làm quan, đừng trách phạt nặng.” Nên có mệnh lệnh này.

[90] Đô quan viên ngoại lang Hoàng Chấn làm Chuyển vận sứ lộ Quảng Nam Đông. Hằng năm, Quảng Nam tiến cống hàng nghìn cây hoa lạ, đến kinh đô thì chết khô đến tám chín phần mười, dân chúng khổ sở vì phiền nhiễu, Chấn tâu xin bãi bỏ.

[91] Ngày Canh Dần, xuống chiếu cho Điện tiền đô chỉ huy sứ, Tiết độ sứ Bảo Định Uất Chiêu Mẫn, vì bệnh chân được đặc cách vào chầu không phải lạy.


  1. 'trượng' nguyên văn là 'xích', theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 47 sửa
  2. 'dài' nguyên văn thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung
  3. 'tính' nguyên văn thừa chữ 'dài', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các bỏ
  4. 'cờ' nguyên văn thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 47 bổ sung
  5. 'Dư quan tất thị chi' trong 《Thông khảo》 quyển 18, phần 'Chinh giác khảo' chép là 'Dư tắc quan tất thị chi'.
  6. 'Chiết thuế trà' nguyên bản thiếu chữ 'thuế', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 45, phần 'Thập tam trường lợi hại' bổ sung.
  7. Nguyên bản chữ 'tuế' viết thành 'thuế', căn cứ vào Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại.
  8. Nguyên bản thiếu chữ 'Việt', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung.
  9. Nguyên bản chữ 'tam thiên' viết thành 'nhị thiên', căn cứ vào Tống toát yếu bản, Hoạt tự bản và 《Tục thông giám》 quyển 35 sửa lại.
  10. Nguyên bản thiếu chữ 'lục', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 45, phần 'Thập tam trường lợi hại' bổ sung.
  11. Nguyên bản chữ 'chúc' viết thành 'dục', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Thông khảo》 quyển 18, phần 'Chinh giác khảo' sửa lại. 'vu' nguyên bản viết thành 'kì', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Thông khảo》 sửa lại.
  12. Nguyên bản chữ 'mậu' viết thành 'mãi', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Thông khảo》 sửa lại.
  13. Nguyên bản chữ 'chuyển mại' viết thành 'mãi chuyển', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại. Xem 'chuyển mại', trong 《Thông khảo》 chép là 'chuyển trí'.
  14. 'Tam thuế', bản Tống, bản Tóm tắt Tống và quyển 102 của sách này, năm Thiên Thánh thứ 2, tháng 7 mùa thu, ngày Nhâm Thìn, sách 'Biên niên cương mục' quyển 8, 'Tống sử' quyển 183, 'Thực hóa chí', 'Mộng khê bút đàm' quyển 10, 'Hoàng triều loại uyển' quyển 22, điều Trần Tấn công đều ghi là 'tam thuyết'.
  15. nếu thuế hàng năm thiếp xạ không hết 'không hết' hai chữ nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 183 《Thực hóa chí》 bổ sung.
  16. Phát lính tăng cường xây dựng kinh thành: theo bản Tống và bản tóm tắt Tống, câu này ở trước ngày Bính Thân tháng hai
  17. Trong kinh thành, chữ 'nội' dưới nguyên có chữ 'ngoại', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các bỏ.
  18. Chân Định nguyên là 'Trực Định', theo bản tóm tắt Tống sửa.
  19. Chữ 'phán' dưới 'đồng tri viện' là thừa, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 22/24 và 《Chức quan phân kỷ》 quyển 18 mà bỏ
  20. '22' nguyên bản là '23', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》 cùng 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 32 về việc bãi bỏ Lễ nghi viện mà sửa
  21. 'lễ' nguyên bản là 'khiển', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》 mà sửa
  22. Chữ 'chức vụ' nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tục thông giám》 quyển 36 sửa lại.
  23. Nguyên bản là 'Độc Lưu Tắc', theo các bản và 《Cửu vực chí》 quyển 2, 《Vũ kinh tổng yếu》 quyển 16 sửa lại.
  24. Không rõ ai là người ghét Lỗ Tông Đạo, chữ 'giả' nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung
  25. Phủ Hà Nam tâu rằng lăng Vĩnh Định chiếm 48 khoảnh đất dân, '48 khoảnh' theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác đều chép là '18 khoảnh'
  26. Việc đặt một chức Tuần kiểm sứ ở ba châu này, văn trên ghi là 'đặt chức Tuần kiểm sứ các châu Thiểm, Quắc, Giải, Đồng', nghi ngờ chữ 'tam' là sai, nên là 'tứ'.
  27. 'Vào cống', sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 27, phần Trang Hiến thùy liêm chép là 'vào hiến'.
  28. Mệnh Tri chế cáo Trương Sư Đức, Thị ngự sử tri tạp sự Thái Tề xem xét định rõ các vật danh mục thuộc Ty Quyên nạp của Tam ty và xóa nợ cho thiên hạ. Chữ 'danh vật' vốn thiếu, căn cứ theo 《Thập triều cương yếu》 quyển 5 bổ sung.
  29. Chữ 'danh vật' ở đây có lẽ là thừa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.