IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 112: NĂM MINH ĐẠO THỨ 2 (QUÝ DẬU, 1033)
Từ tháng giêng năm Minh Đạo thứ 2 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 7 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm Thân, nước Khiết Đan phái Hữu Kim Ngô vệ Thượng tướng quân Gia Luật Bá và Chiêu Đức quân Tiết độ sứ Hàn Sáp sang chúc mừng lễ Trường Ninh.
[2] Ngày Mậu Dần, quan Trực Tập hiền viện Lý Thục dâng sách 《Canh tịch loại sự》 5 quyển và 《Vương hậu nghi phạm》 3 quyển.
[3] Ngày Kỷ Mão, Vua ban chiếu: “Ty Phát vận các châu Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ trước đây đã lưu lại gạo thượng cung để cứu tế dân nghèo vùng Giang, Hoài. Nay nghe nói dân chúng vẫn còn lưu vong nhiều, vậy hãy lấy thêm một triệu hộc gạo để cứu tế. Sai Hàn lâm Thị độc học sĩ Vương Tùy, Nhập nội Cung phụng quan Đặng Thủ Cung và Nhập nội Điện đầu Giang Tòng Oánh đi ngựa trạm để đốc thực việc này.”
[4] Bãi bỏ chế độ “Quán các độc thư”[1]. Trước đây, Quang lộc tự thừa Thịnh Thân Phủ và Mã Trực Phương làm việc ở Quán các độc thư, tự trình bày đã làm lâu năm, xin được bổ một chức thiếp. Vua chỉ cho họ được cấp lương như quan lớn, đợi ba năm nữa sẽ cho thi, và ra chiếu từ nay về sau không được đặt lại chức này nữa.
[5] Ngày Nhâm Ngọ, lễ Thượng nguyên. Bãi bỏ việc treo đèn ở cửa Chính Dương, vì lễ Tịch điền sắp đến.
[6] Tạm miễn thuế cá và trái cây cho các châu huyện bị thiên tai ở Hoài Nam.
[7] Ngày Quý Mùi, Vua ra chiếu cho Tam ty đúc tiền “Minh Đạo nguyên bảo”.
[8] Ngày Giáp Thân, lấy Thị ngự sử Tôn Tổ Đức làm sứ tế điện ở Hạ Châu, vì Chu Xương Phù bị bệnh chết trên đường đi. Tổ Đức người Bắc Hải, trước làm Thông phán Tây Kinh. Khi ấy đang mùa đông giá rét, Vua ra chiếu đình chỉ mọi công việc xây dựng trong và ngoài kinh thành, nhưng Tiền Duy Diễn vẫn đốc thúc sửa chữa cầu Thiên Tân, không thi hành chiếu chỉ. Tổ Đức nói: “Chiếu chỉ có thể để chậm trễ sao?” Cuối cùng tâu xin đình chỉ việc này.
[9] Các quan tâu rằng theo chế độ gần đây, pháp vật bảo sách của hoàng đế dùng 2.778 lạng vàng, pháp vật bảo sách của hoàng thái hậu dùng 208 lạng vàng và 1.767 lạng bạc. Hoàng đế nói: “Đây tuy là chế độ cũ, nhưng cũng là sự lãng phí. Từ nay chỉ theo lệ của hoàng thái hậu, dùng cả vàng và bạc.”
[10] Ngày Kỷ Sửu, Tể thần Lữ Di Giản và Xu mật phó sứ Hạ Tủng dâng lên bài chú giải về “Ngự chế Tam bảo tán” và “Hoàng thái hậu phát nguyện văn”. Lấy Kiểm thảo chú thích quan, Trực tập hiền viện Lý Thục làm Sử quán tu soạn, Tập hiền hiệu lý Trịnh Tiển làm Trực sử quán. Di Giản và Tủng mỗi người được cho một con trai đổi chức. Di Giản xin cho con trai mình là Đại Lý tự thừa Công Bật được ban tiến sĩ xuất thân, Hoàng đế đồng ý.
[11] Ngày Canh Dần, xuống chiếu rằng những người từ Tam thừa trở lên về hưu mà không có con trai, thì cho phép phong chức cho cháu đích tôn hoặc em trai, cháu trai một người, nhưng giảm một bậc so với con trai.
[12] Ngày Quý Tỵ, Vũ thắng quân lưu hậu Trần Nghiêu Tư tâu: “Vùng Lương Bạc tích nước, làm bỏ hoang mấy vạn khoảnh ruộng dân, không thể khơi thông dòng chảy, đến nỗi châu Vận phải dời thành để tránh. Trước đây thần giữ châu Vận, Tôn Thích giữ châu Duyễn, cùng nhau khảo sát, từ Ngư Đài đào sông hơn 40 dặm, dẫn nước từ Bạc chảy vào sông, qua châu Đức, châu Bác đổ ra biển phía đông, có thể giảm bớt nạn lụt, thông đường vận chuyển lương thực đến Hà Bắc. Nên hàng năm điều phu dịch nhân mùa xuân nạo vét.” Triều đình nghe theo. Nhưng vùng đầm lầy vốn có địa hình riêng, cuối cùng cũng không thể tiêu thoát nhiều nước.
[13] Ngày Giáp Ngọ, giáng chức Chuyển vận sứ lộ Quỳ Châu, Quốc tử bác sĩ Trương Chính Trung xuống làm Điện trung thừa, tri châu Thái Bình. Trước đó, lấy Quốc tử bác sĩ Tiêu Luật thay Chính Trung, rồi hặc tấu Chính Trung khi ở bộ xét hỏi hà khắc không công bằng, nên giáng chức.
[14] Ngày Ất Mùi, hoàng đế ngự điện Đoan Minh xem ngựa của tả hữu Kỳ Kỵ viện, ban cho Kinh vương Nguyên Nghiễm hai con, các tông thất và phụ thần từ Phó sứ Tam ty trở lên mỗi người một con.
[15] Tháng hai, ngày Mậu Tuất, Ty thiên giám tâu rằng sao Hàm Dự xuất hiện ở phương đông bắc, sắc vàng trắng, trên có ánh sáng dài hai thước[2]. Tuy nhiên, người xem đều cho rằng đó là sao chổi.
[16] Ngày Canh Tý, xuống chiếu rằng dân ở Hoài Nam, Giang Nam bị thiên tai mà chết, quan phải chôn cất và cúng tế. Trước đó, phương nam bị hạn hán lớn, hạt giống và lương thực đều cạn kiệt, nhiều người lưu vong, đói khát thành dịch bệnh, tương truyền người chết đến hai ba phần mười, quan tuy nấu cháo để cứu đói, nhưng người ăn vào liền chết, thôn xóm gần như trống không.
[17] Ngày Giáp Thìn, Hoàng thái hậu trai giới ở điện Thùy Củng. Ngày Ất Tỵ, mặc áo huy y, đội mũ hoa thoa, ngồi xe ngọc đến Thái miếu. Đổi sang áo cổn, đội mũ Nghi Thiên, nội thị dẫn lễ, tế bảy gian. Hoàng thái phi dâng lễ thứ hai, Hoàng hậu dâng lễ cuối. Nhận sách ở điện Văn Đức, Vua dâng lễ chúc mừng. Trở về, nghỉ ở điện Thiên An. Sau đó đến đông giao.
[18] Ngày Đinh Mùi, tế Tiên Nông, làm lễ Tịch điền. Lễ nghi sứ Trương Thượng Tốn tâu rằng Vua chỉ cày ba lần là dừng, Vua nói: “Trẫm đã tự cày, không theo cổ lễ, muốn cày hết ruộng.” Thượng Tốn cố xin, Vua cày mười hai bước rồi dừng, ngự trên đài Quan canh. Tam công trở xuống đều cày hết luống, vượt quá số năm lần. Lễ xong, ngự ở cửa Chính Dương, đại xá. Thái Tông tự cày cấy, sai Thái bộc tự cất giữ cày bừa mãi mãi.
Dân trên tám mươi tuổi, mỗi khi gặp tiết Trường Ninh, Càn Nguyên, được phép đến châu huyện dự yến tiệc. Cha mẹ trên tám mươi tuổi, được miễn một đinh, định thành lệ. Tạm bãi việc vận chuyển lương thực mùa xuân năm nay của Ty Phát vận Giang, Hoài để cứu đói. Ngự ở điện Thiên An nhận sách. Chiếu xá năm Gia Hựu thứ tư lại nhắc lại lệnh miễn đinh.
(《Bản kỷ》 năm này không chép, nên lấy năm Gia Hựu thứ tư làm bắt đầu, là sai.)
[19] Ngày Tân Hợi, Vua làm thơ Tịch điền ban cho các quan cận thần, xuống chiếu miễn cho các cử nhân dự lễ Tịch điền khỏi phải thi văn giải sau này.
[20] Ngày Nhâm Tý, vì hai xứ Thục gặp nạn đói, sai sứ đi xem xét và an ủi dân chúng. Thiên Chương các đãi chế Vương Tông đi đường Ích Lợi, Hộ bộ phó sứ Trương Tông đi đường Tử Quỳ, Thượng ngự dược Dương Thừa Đức và Nhập nội cung phụng quan Lã Thanh chia đường đi làm việc Tẩu mã thừa thụ.
[21] Bãi bỏ khoản nợ về muối nướng và thuế muối của các hộ làm muối ở Giám Phú Thuận.
[22] Ngày Kỷ Mùi, đặt 350 người chỉ huy ở ty rượu thanh của Tô Châu, để quản lý việc rượu.
[23] Ngày Tân Dậu, ra chiếu rằng các quan coi kho ở kinh đô chưa mãn nhiệm kỳ thì không được xin bổ nhiệm việc khác.
[24] Lại ra chiếu rằng các ruộng công bị đánh thuế trùng lặp thì được miễn.
[25] Tháng 3, ngày Canh Ngọ, ban ơn cho trăm quan.
[26] Lần đầu cày ruộng tịch điền, Thái Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán Hà Nam phủ Tiền Duy Diễn xin được tham gia tế lễ, được chấp thuận. Ngày Nhâm Thân, lệnh cho Duy Diễn làm sứ cung Cảnh Linh, ở lại kinh đô.
[27] Ngày Quý Dậu, đến chùa Hồng Phúc. Khi về, ban trà và lụa cho những người cày ruộng bên đường.
[28] Ngày Kỷ Mão, cho con của Khai Phong phán quan, Binh bộ viên ngoại lang Chu Xương Phù là Chu Thọ Thần, và con của Độ chi phán quan, Độ chi viên ngoại lang Đái Dung là Đái Tuân làm chức Tam ban tá chức. Dung đi tiễn sứ Khiết Đan, Xương Phù đi tế điện Triệu Đức Minh, đều chết dọc đường, nên được ưu đãi.
[29] Ty phong viên ngoại lang, Tri An Châu Lưu Sở tâu: “Châu này liên tiếp bị hạn hán, dân lưu vong hơn 80 hộ. Ngày Đinh Mão (theo trước là tháng 2 ngày Đinh Mùi), sau khi tế lễ Tiên Nông xong thì đại xá. Ở đây gọi là sách xá ngày Đinh Mão, có lẽ nhầm. Sách xá nói rằng các châu quân bị thiên tai ở Kinh Đông, Giang Nam, Hoài Nam, dân chạy loạn được lệnh trở về làm ăn, và được miễn thuế hạ thu. Nay đã quá hạn sách xá mà dân lưu vong chưa về, e rằng bị nhà giàu thôn tính, còn kẻ nghèo yếu không thể tự về, khiến số hộ khẩu ở châu huyện ngày càng giảm. Xin gia hạn thêm nửa năm, và miễn thuế dao phú hai kỳ.” Được chấp thuận.
[30] Nước đầm phía đông bắt đầu từ giới hạn châu Thương, ngăn bờ biển cảng Hắc Long, phía tây đến quân Can Ninh, dọc theo sông Vĩnh Tế hợp với đầm Phá Thuyền, đầm Mãn, đầm Hôi thành một dòng nước, rộng ngang 120 dặm, dọc 90 dặm đến 130 dặm, sâu 5 thước. Phía đông bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế quân Can Ninh phía tây quân Tín An thành một dòng nước, phía tây hợp với đầm Ngạc Sào, đầm Trần Nhân, đầm Yên Đan, đầm Đại Quang thành một dòng nước, rộng ngang 120 dặm, dọc 30 dặm hoặc 50 dặm, sâu hơn một trượng hoặc 6 thước. Phía đông bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế quân Tín An, phía tây đến cửa Mạc Kim châu Bá, hợp với đầm Thủy Văn, đầm Đắc Thắng, đầm Hạ Quang, đầm Tiểu Lan, đầm Lý Tử, đầm Đại Lan thành một dòng nước, rộng ngang 70 dặm, dọc 50 dặm hoặc 60 dặm, sâu 6 thước hoặc 7 thước. Phía đông bắc bắt đầu từ cửa Mạc Kim châu Bá, phía tây nam trại Phụ Mẫu quân Bảo Định, hợp với đầm Lương Liệu thành một dòng nước, rộng ngang 27 dặm, dọc 8 dặm, sâu 6 thước.
Từ châu Bá đến quân Bảo Định, nước ven đầm đều rất cạn, nên vào các năm Hàm Bình, Cảnh Đức, quân Khiết Đan cướp phá phía bắc sông, lấy châu Bá và quân Tín An làm đường về. Phía đông nam bắt đầu từ quân Bảo Định, phía tây bắc châu Hùng, hợp với đầm Bách Thế, đầm Hắc Dương, đầm Tiểu Liên Hoa thành một dòng nước, rộng ngang 60 dặm, dọc 25 dặm hoặc 15 dặm, sâu 8 thước hoặc 9 thước. Phía đông bắt đầu từ châu Hùng, phía tây đến quân Thuận An, hợp với đầm Đại Liên Hoa, đầm Lạc Dương, đầm Ngưu Hoành, đầm Khang Trì, đầm Trù, đầm Bạch Dương thành một dòng nước, rộng ngang 70 dặm, dọc 30 dặm hoặc 45 dặm, sâu một trượng hoặc 6 thước hoặc 7 thước. Phía đông bắt đầu từ quân Thuận An, phía tây đầm Biên Ngô, đến châu Bảo, hợp với đầm Tề An[3], đầm Nghi Tử, đầm Lao thành một dòng nước, rộng ngang hơn 30 dặm, dọc 150 dặm, sâu một trượng ba thước hoặc một trượng.
Bắt đầu từ phía nam quân An Túc, quân Quảng Tín, phía tây bắc châu Bảo, tích nước sông Trầm Uyển thành đầm, rộng ngang 20 dặm, dọc 10 dặm, sâu 5 thước, chỗ cạn 3 thước, gọi là bãi Trầm Uyển[4]. Từ phía tây châu Bảo, hợp với suối Kê Cự, từng trồng lúa và ruộng vuông, rộng ngang 10 dặm, sâu 5 thước đến 3 thước, gọi là bãi Tây Đường. Từ khi Hà Thừa Củ lấy Hoàng Mậu làm phán quan, bắt đầu khai khẩn ruộng đồn điền, đắp đê trữ nước làm chỗ phòng thủ kiên cố, sau này càng mở rộng thêm. Tất cả các sông ven biên, như sông Hô Đà, sông Hồ Lô, sông Vĩnh Tế đều đổ vào đầm.
Từ niên hiệu Thiên Thánh về sau, việc này vẫn được duy trì mà không bãi bỏ, vẫn do Ty đồn điền vùng biên quản lý. Các quan chức tại chức, mỗi người theo quan điểm của mình, có người nói: “Đã có binh tướng ở đây, giặc đến thì cần gì phải lo việc đắp đê? Hơn nữa, từ Biên Ngô Điện nhìn về phía tây đến cửa Trường Thành, còn hơn trăm dặm, đều là núi non cao ngất, nước không thể đến được, quân địch kỵ binh xông vào, có con đường này là đủ rồi, đê tuy gần biển nhưng cũng không có tác dụng gì. Lấy cái đê vô dụng mà bỏ ruộng có thể canh tác, thì lương thực biên giới sẽ đắt đỏ, đó là con đường tự chuốc lấy khó khăn. Chi bằng đừng mở rộng, lấy việc yên dân làm gốc.”
Có người lại nói: “Vùng Hà Sóc rộng hai ngàn dặm, đất bằng phẳng không có chướng ngại, giặc từ phía tây vào, thả quân cướp bóc lớn, rồi từ phía đông trở về, ta còn lo giữ thành không xuể, thì lấy gì để chống lại? Từ Biên Ngô Điện đến cửa biển Nê Cô, trải dài qua bảy châu quân, quanh co chín trăm dặm, chỗ sâu thì thuyền bè không đi được, chỗ cạn thì không thể lội qua, dù có quân mạnh cũng không thể vượt qua được. Phía đông có chướng ngại, thì việc phòng bị binh giáp có thể tập trung toàn lực ở phía tây. Ai bảo là không có ích?”
Từ đó, những người bàn luận chia làm hai phe, còn triều đình cho rằng tính cách quân địch thất thường không lường trước được, nên việc phòng thủ kiên cố cuối cùng không thể bỏ được.
[31] Năm thứ nhất, tháng 8, Lưu Bình, Đoàn luyện sứ châu Hân, từ châu Hùng được điều đến nhậm chức Tri quân Thành Đức. Tháng đó, ngày Nhâm Ngọ, ông tấu rằng: “Thần trước đây giữ chức An phủ sứ vùng biên, cùng với An phủ đô giám Lưu Chí (Lưu Chí, chưa rõ lai lịch), từng trình bày kế sách phòng thủ biên giới. Nay thần được điều đến lộ Chân Định, đi qua địa giới các châu Thuận An, An Túc, Bảo Định, từ Biên Ngô Điện nhìn về Triệu Khoáng Xuyên, Trường Thành Khẩu, đều là những nơi hiểm yếu mà quân Khiết Đan thường qua lại, khoảng cách đông tây không quá 150 dặm. Thần trộm nghĩ, triều đình thánh triều hơn 70 năm nay[5], các quan giữ biên giới nhiều không kể xiết, nhưng đều không thể vì triều đình mà đào hào sâu, đắp lũy cao để làm nơi phòng thủ. Thần nghe rằng vào thời Thái Tông, từng có người dâng sớ xin đặt ruộng vuông.
Nay nước Khiết Đan nhiều biến cố, binh đao liên tiếp, ta nhân cơ hội này lấy cớ dẫn nước trồng lúa, mở ruộng vuông, theo bờ ruộng đào kênh rạch bốn phía, rộng một trượng, sâu hai trượng, xếp lớp chéo nhau, giữa hai kênh uốn khúc làm đường nhỏ, chỉ đủ cho bộ binh đi lại. Dẫn nước từ các sông Tào, Bào, Từ và suối Kê Cự chia chảy vào các kênh, chỗ cao thì dùng xe nước tát lên, rất tiện cho việc tưới tiêu. Xin cho Lưu Chí nhậm chức Tri quân Quảng Tín, cùng với Dương Hoài Mẫn cùng đảm nhiệm việc này, vài năm sau ắt sẽ có thành tích.”
Vua bèn ban mật chiếu cho Lưu Bình và Dương Hoài Mẫn dần dần xây dựng ruộng vuông. Lúc đó, Dương Hoài Mẫn giữ chức Tây lộ Duyên biên Tuần kiểm đô giám. Thị cấm Lưu Tông Ngôn lại tấu xin trồng cây ở chân núi phía tây, theo phép “du tắc”, nói rằng có thể ngăn chặn kỵ binh địch.
(Đoạn này lấy từ bản chí phụ lục. Lưu Bình từ châu Hùng được điều đến Thành Đức vào tháng 8 năm ngoái, ngày Bính Thìn, còn bản tấu thì căn cứ theo 《Hội yếu》 là vào ngày 17 tháng 3 năm nay. 《Hội yếu》 chép: Ngày 17 tháng 3 năm Minh Đạo nguyên niên[6], Lưu Bình, Tri quân Thành Đức tâu rằng: “Các quân An Túc, Quảng Tín và châu Bảo cách nhau khoảng 30-40 dặm, giữa đó là đồng bằng rộng lớn[7], xin từ phía tây châu Bảo đào ruộng vuông như ruộng lúa[8], mỗi năm mở rộng dần, xin giao cho Dương Hoài Mẫn, Tây lộ Duyên biên Tuần kiểm đô giám, xem xét việc này có khả thi hay không. Xây dựng ruộng vuông, ắt sẽ có thành tích.”)
Chiếu lệnh cho Dương Hoài Mẫn dần dần xây dựng ruộng lúa[9], lại lệnh cho Lưu Bình thường xuyên đôn đốc việc này.
[32] Ngày Đinh Hợi, cầu mưa ở Hội Linh Quán, Thượng Thanh Cung và chùa Cảnh Đức Khai Bảo.
[33] Ngày Canh Dần, vì Hoàng thái hậu bệnh nặng, ban đại xá, trừ những tội thường xá không được tha. Chiêu mộ những thầy thuốc giỏi trong thiên hạ, cho ngựa trạm đưa về kinh sư. Các tăng đạo đồng hành đã đăng ký ở kinh kỳ ba năm, Tây Kinh và Nam Kinh năm năm, các đạo bảy năm, đều được cạo tóc và mặc áo cà sa. Những người bị giáng chức và chết từ niên hiệu Càn Hưng trở lại đây đều được phục chức, những người bị đày đều được dời về gần. Đinh Vị được đặc cách cho về hưu.
(Sách 《Tống triều yếu lục》 chép: Khấu Chuẩn, Tào Lợi Dụng, Chu Hoài Chính, Tào Doãn Cung, Chu Văn Chất đều được truy phục chức cũ, Đinh Vị được đặc cách cho về hưu, dời đến ở gần các châu quân.)
[34] Ngày Giáp Ngọ, Hoàng thái hậu băng hà. Di chiếu tôn Thái phi lên làm Hoàng thái hậu, hoàng đế nghe chính sự theo quy chế cũ của tổ tông, việc quân quốc đại sự cùng với Thái hậu quyết định trong cung, ban tiền cho các quân.
[35] Ngày Ất Mùi, Hoàng đế ngự ở gian đông điện Hoàng Nghi, khóc lóc gặp các phụ thần, nói: “Thái hậu bệnh không nói được, nhưng vẫn nhiều lần kéo áo, như có điều gì muốn dặn dò, là sao vậy?” Khuê nói: “Đó là áo cổn mũ miện vậy! Nhưng nếu mặc nó, thì sao gặp tiên đế được?”
Hoàng đế hiểu ra, cho mặc áo hậu để liệm. Lập tức sai Lữ Di Giản làm Sơn lăng sứ. Sau khi tuyên đọc di chiếu, các quan vội vàng đến chúc mừng Thái hậu ở cửa Nội Đông. Ngự sử trung thừa Thái Tề nghiêm nghị bảo lại viên đài không phải theo ban, vào bạch với chấp chính rằng: “Hoàng thượng đã trưởng thành, hiểu rõ tình hình thiên hạ, nay mới bắt đầu thân chính, há nên để nữ hậu nối tiếp nhau xưng chế sao?” Chấp chính không biết trả lời thế nào.
[36] Mùa hạ, tháng tư, ngày Bính Thân mùng một, hạ chiếu cầu trợ giúp (từ triều thần), bỏ đi câu “Hoàng đế cùng Thái hậu quyết định việc quân quốc đại sự” trong di chiếu.
[37] Sai Đông thượng các môn sứ Tào Tông đi báo tang với Khiết Đan, lại sai sứ đi báo cáo các trấn biên giới. Ban phát những vật còn lại của Thái hậu cho các cận thần có sai biệt.
[38] Ngày Đinh Dậu, quần thần dâng biểu xin nghe chính sự, Vua không cho. Năm lần dâng biểu, Vua mới theo.
[39] Ngày Canh Tý, ban chiếu giảm nhẹ hình phạt. Triều thần được triệu kiến ở gian đông điện Hoàng Nghi. Công bộ thượng thư Lý Địch vừa từ Hà Dương trở về, vì quốc tang chưa được vào chầu, đến nay được đặc biệt triệu kiến. Sau đó, Lý Địch được bổ nhiệm làm Đại học sĩ điện Tư Chính, kiêm chức Phán đô tỉnh. Hàn lâm học sĩ Chương Đắc Tượng được cử làm sứ giả quốc tín sang Khiết Đan thông báo việc Đại Hành Hoàng Thái hậu băng hà, Sùng nghi sứ An Kế Xương làm phó sứ; Cung bị khố phó sứ Lý Dụng Hòa mang vật phẩm của Thái hậu ban tặng cho Tây Bình vương Triệu Nguyên Hạo.
[40] Sau khi Hoàng Thái hậu băng hà, tả hữu mới báo việc của Thần phi lên Vua, Vua khóc thương nhiều ngày không dứt. Ngày Nhâm Dần, truy tôn Thần phi làm Hoàng Thái hậu. Ngày Giáp Thìn, ban chiếu cải táng ở Vĩnh Định lăng, năm vị quan phụ trách lăng tẩm của Đại Hành Hoàng Thái hậu kiêm nhiệm chức Viên lăng sứ của Hoàng Thái hậu được truy tôn.
Có người nói rằng Thái hậu chết không phải do mệnh trời, tang lễ không đúng nghi thức, Vua cũng nghi ngờ. Vì vậy, khi thay áo quan, Vua sai Lý Dụng Hòa đến xem, thấy dung mạo Thái hậu như lúc còn sống, y phục chỉnh tề. Dụng Hòa vào tâu, Vua than rằng: “Lời người ta nói có thể tin được sao!” Rồi đốt hương trước linh vị của Đại Hành, khóc mà nói: “Từ nay, đại nương nương đã rõ ràng rồi!”
(Việc cải táng và thay áo quan, Lý Dụng Hòa được chứng kiến, theo 《Long Xuyên biệt chí》. 《Thiệu Bá Ôn kiến văn lục》 lại chép rằng Vua tự mình xem xét, nhưng không phải vậy.)
[41] Thái thường lễ viện tâu rằng, khi tấn phong Hoàng thái phi Dương thị làm Thái hậu, xin theo lệ năm Hàm Bình thứ hai, các quan dâng sớ xưng là “điện hạ”, gọi là “giáo chỉ” hoặc “ý chỉ”, mà không dâng biểu, Vua đồng ý.
(Lệ năm Hàm Bình thứ hai vốn không được chép vào 《Trường biên》, việc này cũng nên bỏ. Không chỉ không vào 《Trường biên》, quốc sử cũng không chép, nay phụ chép ở đây.)
[42] Ngày Mậu Thân, Vua bắt đầu nghe chính sự ở gian tây điện Sùng Chính, đồng thời triệu kiến sứ giả Khiết Đan là Tiết độ sứ Sùng Nghĩa quân Tiêu Đạt và Khách tỉnh sứ Lưu Nhật Tỉnh đến chúc mừng tiết Càn Nguyên, rồi bãi bỏ lễ thượng thọ tiết Càn Nguyên.
[43] Ngày Canh Tuất, phong Lâm Hiến Khả, người bị lưu đày, làm chức Tam ban phụng chức. Đầu niên hiệu Minh Đạo, Hiến Khả dâng lời kháng nghị xin Thái hậu trả lại chính quyền, Thái hậu nổi giận, đày ông xuống Lĩnh Nam, đến nay đặc biệt ghi nhận.
(《Thực lục》 chép rằng Hiến Khả dâng lời vào niên hiệu Thiên Thánh, nhưng theo tờ sớ của Trương Tồn thì việc này xảy ra vào năm đầu niên hiệu Minh Đạo. Lại xem bài thơ “Lâm Thư Sinh” của Tô Thuấn Khâm thì việc này xảy ra vào tháng 5 năm đầu niên hiệu, đã chép phụ vào cuối tháng 6. Hiến Khả, không rõ người ở đâu, cuối năm Hoàng Hựu thứ 4 lại xuất hiện, cần xét lại.)
[44] Ngày Nhâm Tý, quần thần dâng biểu xin Vua ngự ở chính điện, Vua không cho, ba lần dâng biểu, sau đó mới chấp thuận.
[45] Ra chiếu cấm trong ngoài không được dâng hiến để cầu ân huệ, cũng như thông qua thân thích dâng biểu chương. Nếu có truyền tuyên, các cơ quan phải niêm phong kín rồi tâu lên, việc bổ nhiệm quan chức do nội giáng, các phụ thần xem xét quyết định. Bãi bỏ việc xây dựng mới chùa chiền, đạo quán. Không được dâng hộp hương và nghi thức núi nhân dịp tiết Càn Nguyên. Vua bắt đầu tự mình xử lý chính sự, kiềm chế những kẻ may mắn, trong ngoài đều vui mừng.
[46] Ngày Quý Sửu, lấy Tiền Duy Diễn, chức Cảnh Linh cung sứ, Thái Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, làm phán quan phủ Hà Nam.
[47] Triệu các quan Tống Thụ, chức Tri Ứng Thiên phủ, Long Đồ các học sĩ, Hình bộ thị lang, và Phạm Trọng Yêm, chức Thông phán Trần châu, Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lý, về kinh.
(《Tống triều yếu lục》 chép rằng vì Thụ và Trọng Yêm vào niên hiệu Thiên Thánh từng xin giảm bớt nghi thức rèm che nên mới có lệnh này.)
[48] Bãi bỏ chức Thượng ngự dược và Thượng ngự dược cung phụng. Lấy Dương Hoài Chí và Giang Đức Dụng, chức Thượng ngự dược, làm Cung bị khố sứ; Dương Thừa Đức và Dương Dư Ý làm Lạc uyển phó sứ. Lấy Thái Thuấn Khanh, Trương Hoài Tín, Vũ Kế Long, Nhậm Thủ Trung, Dương An Tiết, chức Thượng ngự dược cung phụng, làm Cung bị khố phó sứ. Lấy bốn viên Nhập nội cung phụng quan làm Câu đương ngự dược viện, theo lệ cũ.
[49] Ngày Bính Thìn, giáng chức Văn Tư sứ, Phổ Châu đoàn luyện sứ, Nhập nội phó đô tri Giang Đức Minh làm Tây Kinh Tả tàng khố sứ; Lũng Đại lộ kiềm hạt, Tam Lăng phó sứ, Đông Nhiễm viện sứ La Sùng Huân làm Chân Định phủ, Định Châu lộ đô giám; Lạc Uyển sứ Dương Dư Ý làm Tề Châu đô giám; Dương Thừa Đức làm Đồng Châu đô giám; Cung bị khố phó sứ Trương Hoài Tín làm Nhạc Châu đô giám; Dương An Tiết làm Tấn Châu đô giám; Vũ Kế Long làm Kỳ Châu đô giám; Nhậm Thủ Trung làm Hoàng Châu đô giám; Thái Thuấn Khanh làm Lộ Châu đô giám.
Ban đầu, Đại Hành Hoàng thái hậu phụ chính, mà Giang Đức Minh cùng các người khác giao thiệp xin yết kiến, quyền thế và ân sủng rất lớn. Tham tri chính sự Tiết Khuê nói rằng nếu không trục xuất họ, e rằng sẽ dẫn đến loạn lạc. Vua không muốn công khai tội trạng của họ, chỉ cách chức và đưa ra ngoài.
(Dương Hoài Chí, Giang Đức Minh[10]hai người chưa thấy bị giáng chức, cần xem xét thêm.)
[50] Ngày Kỷ Mùi, Môn hạ thị lang kiêm Lại bộ thượng thư, Bình chương sự Lữ Di Giản bị cách chức làm Vũ Thắng tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán Thiền Châu[11];
Xu mật sứ, Chiêu Đức tiết độ sứ, Hữu bộc xạ, Kiểm hiệu Thái sư kiêm Thị trung Trương Kỳ bị cách chức làm Tả bộc xạ, Kiểm hiệu Thái sư kiêm Thị trung, Hộ Quốc quân tiết độ sứ, phán Hứa Châu, sau đổi làm Trần Châu;
Xu mật phó sứ, Thượng thư tả thừa Hạ Tủng bị cách chức làm Lễ bộ thượng thư, tri Tương Châu, sau đổi làm Dĩnh Châu; Lễ bộ thị lang, Tham tri chính sự Trần Nghiêu Tá bị cách chức làm Hộ bộ thị lang, tri Vĩnh Hưng quân;
Xu mật phó sứ, Lễ bộ thị lang Phạm Ung bị cách chức làm Hộ bộ thị lang, tri Kinh Nam phủ, sau đổi làm Dương Châu, rồi lại đổi làm Thiểm Châu;
Xu mật phó sứ, Lại bộ thị lang Triệu Chẩn bị cách chức làm Thượng thư tả thừa, tri Hà Trung phủ;
Thượng thư hữu thừa, Tham tri chính sự Yến Thù bị cách chức làm Lễ bộ thượng thư, tri Giang Ninh phủ, sau đổi làm Bạc Châu.
[51] Ban đầu, con trai của Kinh vương được nuôi dưỡng trong cung. Khi đã lớn, Di Giản xin cho ra ngoài, Thái hậu muốn giữ lại, sai theo Vua học hành. Di Giản nói: “Bệ hạ còn trẻ, người thân cận không phải là bề tôi học rộng, e rằng không có ích cho đức độ của thánh thượng.” Ngay hôm đó, Vua ra lệnh cho về phủ.
(Tô Triệt trong 《Long Xuyên Biệt Chí》 chép rằng Trương Phương Bình vâng mệnh soạn bia thần đạo cho Di Giản, nhà họ muốn nói việc hòa hợp hai cung, Phương Bình trước mặt Vua chất vấn sự thật, Vua không vui, nói: “Ta không nhớ chuyện này nữa.” Một lúc lâu sau mới nói: “Minh Túc Chương Hiến[12] từng nói mơ thấy Chu vương Hỗ đến báo sẽ đầu thai vào cung Kinh vương, lúc đó Doãn Sơ vừa mới sinh, hai hậu muốn đưa vào cung nuôi dưỡng, Di Giản tranh cãi nên mới thôi.” Lời Vua nói như vậy, thì việc Di Giản hòa hợp hai cung quả thật có công lớn.
Xét Doãn Sơ mất năm Trị Bình thứ nhất, hưởng thọ 37 tuổi, năm sinh là năm Thiên Thánh thứ bảy. Phương Bình soạn bia thần đạo không chép việc này. Chỉ có bản truyện chép việc nuôi con Kinh vương trong cung, khi lớn lên, ra lệnh về phủ, khác với ghi chép của Tô Triệt, không rõ bản truyện căn cứ vào đâu, nghi rằng ghi chép của Tô Triệt là đúng, nay tạm theo bản truyện.)
[52] Vua bắt đầu thân chính, Di Giản dâng sớ trình bày tám việc: chấn chỉnh triều cương, ngăn chặn đường tà, cấm hối lộ, phân biệt kẻ nịnh, dứt việc đàn bà can thiệp, xa lánh kẻ thân cận, bãi bỏ lao dịch, tiết kiệm chi tiêu phung phí, lời khuyên Vua rất khẩn thiết.
Vua cùng Di Giản bàn bạc, cho rằng Kỳ, Tủng đều là người Thái hậu dùng, nên bãi chức hết. Về báo với Quách hoàng hậu, hậu nói: “Di Giản chẳng phải cũng từng theo Thái hậu sao? Chỉ là khéo léo, giỏi ứng biến mà thôi.” Vì thế cũng bãi chức Di Giản. Khi tuyên bố chế thư, Di Giản đang áp ban, nghe xướng tên mình, rất kinh ngạc, không biết lý do. Di Giản vốn thân thiết với Phó đô tri nội thị Diêm Văn Ứng, nhờ ông ta dò xét, một thời gian sau mới biết việc này là do hoàng hậu.
[53] Trung thư thị lang, kiêm Binh bộ thượng thư, Bình chương sự, Tập hiền điện đại học sĩ Trương Sĩ Tốn được gia chức Môn hạ thị lang, Chiêu văn quán đại học sĩ, Giám tu quốc sử.
(Có người nói rằng Lữ Di Giản biết Sĩ Tốn không bằng mình, nên tiến cử ông để thay thế mình, khiến Vua nhớ đến mình, rồi lại triệu dụng. Xét rằng Sĩ Tốn trước đã làm tể tướng, nay chỉ từ Tập hiền điện chuyển sang Chiêu văn quán và Sử quán mà thôi, e rằng người thích việc đời thêu dệt thêm, nên không chấp nhận. Tuy nhiên, Sĩ Tốn trước đã làm tể tướng, thực sự là do Di Giản tiến cử.)
Tư chính điện đại học sĩ, Công bộ thượng thư, Phán đô tỉnh Lý Địch giữ chức Bình chương sự, Tập hiền điện đại học sĩ. Hàn lâm thị độc học sĩ, Hộ bộ thị lang Vương Tùy làm Tham tri chính sự, Xu mật trực học sĩ, Lễ bộ thị lang, Quyền Tam ty sứ sự Lý Tư làm Xu mật phó sứ, Bộ quân phó đô chỉ huy sứ, Phúc Châu quan sát sứ Vương Đức Dụng làm Kiểm hiệu Thái bảo, Thiêm thư Xu mật viện sự.
Ban đầu, Thái hậu lâm triều, có người xin nội giáng bổ làm quân lại, Đức Dụng nói: “Bổ lại là việc quân chính, dám lấy việc này can thiệp quân chính, không thể cho.” Thái hậu nhất định muốn cho, nhưng cuối cùng ông không tuân chiếu, việc này mới thôi. Chùa Hưng Quốc phía đông bị cháy, gần nhà Trương Kỳ, Kỳ xin binh lính đến phòng hộ, Đức Dụng không cho.
Thái hậu băng hà, có ty xin cho vệ sĩ mặc giáp ngồi canh, Đức Dụng nói: “Theo lệ cũ, không có việc vệ sĩ mặc giáp ngồi canh trong tang lễ Thái hậu.” Lại không tuân chiếu. Vua xem xét trong cung Thái hậu, thấy tờ tấu trước đây của Đức Dụng về việc quân lại, lấy làm lạ, cho rằng ông có thể đảm nhận việc lớn, nên thăng chức Xu mật. Đức Dụng tạ ơn nói: “Thần là người võ, may được cưỡi ngựa phục vụ, nhờ uy linh của bệ hạ, đợi tội nơi chiến trường là đủ. Hơn nữa, thần không học nhiều, không đủ sức đảm nhận việc lớn.” Vua sai sứ giả thúc giục ông vào viện.
[54] Quyền Ngự sử trung thừa Thái Tề được bổ làm Long đồ các học sĩ, quyền Tam ty sứ sự; Thiên chương các đãi chế Phạm Phúng làm Hữu gián nghị đại phu, quyền Ngự sử trung thừa. Lúc đó có tin đồn rằng Kinh vương Nguyên Nghiễm làm Thiên hạ binh mã đô nguyên soái, nội thị bắt được, Tam ty tiểu lại tra hỏi, bắt giam đến mấy trăm người.
Vua nổi giận, sai Thái Tề xét việc này, nhưng không tìm ra manh mối, mà Vua càng gấp gáp thúc giục, các quan không biết làm thế nào, kinh thành vì thế mà náo động. Thái Tề nói: “Đây là bọn tiểu nhân vô tri, không có ý gì khác, không đáng trị tội, mà cũng không nên làm kinh động đến Kinh vương.” Dâng sớ ba lần trong một đêm, Vua chợt tỉnh ngộ, chỉ đánh roi mấy người mà thôi.
Trước đó, Phạm Phúng ra làm Tri thanh châu, lúc ấy Sơn Đông bị hạn hán và châu chấu, cựu tể tướng Vương Tăng nhà có nhiều thóc, Phạm Phúng lấy mấy ngàn hộc để cứu đói dân, nhân đó xin cử sứ đi an ủi. Vì thế được triệu về làm Ngự sử trung thừa, ông ở Thanh châu chưa đầy một năm.
[55] Giáng Long đồ các trực học sĩ, Công bộ lang trung Mã Quý Lương làm Hào châu phòng ngự sứ, về bản châu.
[56] Lúc đầu, Thái hậu bệnh nặng, Thị ngự sử Tôn Tổ Đức xin trả lại chính sự. Sau đó bệnh đỡ, Tôn Tổ Đức rất sợ hãi. Đến khi Thái hậu băng, những người từng nói việc trả lại chính sự đều được thăng chức.
Ngày Canh Thân, thăng Tôn Tổ Đức làm Binh bộ viên ngoại lang, kiêm Khởi cư xá nhân, Tri gián viện.
[57] Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lí Phạm Trọng Yêm làm Hữu ty gián. Trọng Yêm vừa nghe di chiếu lập Thái phi làm Hoàng thái hậu, tham quyết quân quốc sự, liền dâng sớ nói: “Thái hậu là hiệu của mẹ, chưa từng nghe vì nuôi dưỡng mà thay thế lập lên. Nay một Thái hậu băng, lại lập một Thái hậu, thiên hạ sẽ nghi ngờ Bệ hạ không thể một ngày không có sự giúp đỡ của mẹ!” Lúc đó đã xóa bỏ các từ về tham quyết, nhưng hiệu Thái hậu vẫn không đổi, chỉ bỏ việc ban sách mệnh mà thôi.
(《Phú Bật mộ chí》 chép: Vua tỉnh ngộ, chỉ giữ lại hiệu hậu mà thôi. E rằng lúc đó xóa bỏ các từ về tham quyết, chưa hẳn là do sớ của Trọng Yêm, nay chỉ phụ chép việc bỏ sách mệnh, theo 《Âu Dương Tu thần đạo bi》.)
[58] Giáng chức Điện trung thừa, Tri châu Cát Châu Phương Trọng Cung làm Thái tử trung xá, Giám Phong Quốc giám. Trọng Cung từng xin theo lệ cũ thời Võ hậu nhà Đường lập bảy miếu thờ họ Lưu, Thái hậu đọc tờ tấu, giận nói: “Không làm việc phụ lòng tổ tông như thế này!” Xé tờ tấu ném đi, nhưng vẫn dùng ông làm Tri châu Cát Châu[13]. Vua vì đã nhiều lần xá tội, chỉ trách nhẹ mà thôi. La Sùng Huân, Đô giám lộ Chân Định phủ, Định Châu, là người chủ trì việc của Trọng Cung, cũng bị giáng làm Đô giám châu Ngạc. Sau đó lại giáng Trọng Cung làm Biệt giá châu Đinh; Sùng Huân làm Thái tử hữu giám môn suất phủ suất, an trí ở châu Vĩnh.
(Lần giáng chức thứ hai là vào ngày Mậu Tý tháng 7, nay ghi chép lại.)
[59] Ngày Nhâm Tuất, bắt đầu ngự ở điện Sùng Chính, đổi mệnh cho Trương Sĩ Tốn làm Sơn lăng sứ và Viên lăng sứ.
[60] Ngày Quý Hợi, truy tôn thụy hiệu Đại hành thái hậu là Trang Hiến Minh Túc, truy tôn thụy hiệu Thái hậu là Trang Ý[14].
[61] Ngày Giáp Tý, vì vùng Kinh Đông đói kém, chiêu mộ dân đóng góp thóc để cứu tế.
(《Thực lục》 lại chép vào ngày Ất Dậu tháng 7, nay chỉ chép một lần.)
[62] Tháng 5, ngày Đinh Mão, Tiền Duy Diễn, Phán Hà Nam phủ, Thái Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự tâu: “Mẹ nhờ con mà quý, miếu nhờ thân mà thăng, đó là đạo lý xưa nay. Trang Ý Hoàng thái hậu phụ tá tiên đế, sinh ra bệ hạ, đức cao chốn cung đình, công lớn với xã tắc. Bệ hạ cảm thương sâu sắc, truy tôn danh hiệu. Đã khôi phục lăng tẩm, sẽ xây dựng miếu thờ.
Xin xét theo việc Đường Vũ Tông truy tôn Vi Thái hậu vào thờ chung với Mục Tông, triều ta Hiếu Minh, Hiếu Chương Hoàng hậu cùng thờ chung với Thái Tổ, Ý Đức, Minh Đức, Nguyên Đức cùng thờ chung với Thái Tông. Nay phòng thờ Chân Tông chỉ có Trang Mục Hoàng hậu, chưa hợp lễ nghi, xin đợi khi xong việc lăng tẩm, cho Trang Hiến, Trang Ý Hoàng thái hậu cùng thờ chung với Chân Tông.”
Vua xuống chiếu cho Thái thường lễ viện bàn định tâu lên. Duy Diễn vừa bị bãi chức Cảnh Linh cung sứ, về Hà Nam, không yên lòng, bèn dâng lời này để lấy lòng Vua.
[63] Ngày Mậu Thìn, xuống chiếu cho Lễ bộ tổ chức thi cống cử.
[64] Trước đây, Trang Ý Thái hậu bệnh, Đông nhiễm viện sứ Trương Hoài Đức dẫn y quan Dương Khả Cửu vào hầu. Ngày Kỷ Tỵ, truy giáng Hoài Đức làm Thọ châu đô giám, Khả Cửu đều bị cách chức.
[65] Ngày Tân Mùi, Đồn điền viên ngoại lang Bàng Tịch làm Điện trung thị ngự sử. Tịch tâu xin lấy nghi thức rèm che ở các cửa đem đốt hết, lại tâu: “Bệ hạ thân chính muôn việc, dùng người nên phân biệt tà chính, phòng bè đảng, đừng để người được ơn Vua lại mang ơn quyền thần, thăng chức gần gũi, xin theo công luận, đừng để do chấp chính quyết định.” Khổng Đạo Phụ từng nói: “Quan ngôn sự phần nhiều nhìn ý tể tướng, chỉ có Bàng quân là ngự sử của thiên tử.”
(Tịch cùng Mã Ráng cùng được bổ nhiệm, nay chỉ ghi Tịch.)
[66] Ngày Quý Dậu, ban chiếu rằng: “Đại Hành Hoàng Thái hậu bảo hộ Trẫm từ khi còn nhỏ, đã mười hai năm, ân tình hết mực. Nhưng những kẻ bàn luận không hiểu đại thể, chỉ chăm chê bai việc nhất thời, đó không phải là cách để an ủi lòng hiếu thảo của Trẫm. Từ nay, những chiếu chỉ ban ra trong thời kỳ Thái hậu buông rèm nhiếp chính, trong ngoài không được tùy tiện bàn luận.”
Ban đầu, Thái hậu nhiếp chính, tuy chính sự xuất phát từ trong cung, nhưng hiệu lệnh nghiêm minh, ân uy lan khắp thiên hạ. Những kẻ thân cận bên cạnh cũng ít được lạm dụng quyền thế, trong cung không hề tùy tiện thay đổi, việc ban thưởng trong ngoài đều có chừng mực.
Khi Sài thị và Lý thị là Đại Trưởng Công chúa vào yết kiến, vẫn đội khăn che tóc, Thái hậu nói: “Cô đã già rồi.” Bèn sai người hầu ban cho khăn lụa có đính ngọc trai. Lúc ấy, phu nhân An Quốc Lý thị, vợ của Trần Vương Nguyên Phần, cũng già yếu, tóc rụng nhiều, khi vào yết kiến Thái hậu, cũng xin được ban khăn che tóc. Thái hậu nói: “Đại Trưởng Công chúa là con gái của Thái Tông Hoàng đế, là chị em của Tiên đế. Còn bà già họ Triệu kia, sao có thể so sánh được?”
Trước đây, khi ban trà cho đại thần, có trang trí hình rồng phượng, Thái hậu nói: “Đây đâu phải là thứ bề tôi được dùng?” Bèn sai Hữu ty chế tạo loại trà hương khác để ban thưởng.
Khi ban thức ăn ngự thiện cho người trong tộc, Thái hậu đều đổi sang dùng đồ dùng bằng chì[15], nói rằng: “Đồ dùng của Thượng phương không được đưa vào nhà ta.” Thái hậu thường mặc áo lụa thô và váy vải, thị nữ thấy các cung nữ bên cạnh hoàng đế đeo trâm tai quý giá, muốn bắt chước, Thái hậu răn dạy: “Đó là đồ trang sức của phi tần hoàng đế, các ngươi sao có thể học theo?”
Về sau, Thái hậu dần trọng dụng người ngoại thích, cho các nội quan như La Sùng Huân, Giang Đức Minh đi thăm dò việc bên ngoài, Sùng Huân nhờ thế mà lộng quyền khắp trong ngoài. Lại vì chuyện của Lưu Tòng Đức mà cách chức Tào Tu Cổ.
Tuy nhiên, Thái hậu hết lòng bảo vệ hoàng đế, còn hoàng đế cũng hết mực phụng dưỡng Thái hậu. Thái hậu thường sai thợ làm yên ngựa đính ngọc cho hoàng đế, hoàng đế trong lòng không muốn dùng, nhưng không dám hủy, bèn đặt ở điện Thần Ngự của Chân Tông, sợ làm tổn thương ý của Thái hậu là như vậy.
Đến khi Thái hậu băng hà, nhiều người bàn luận đả kích những việc thời kỳ Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Hữu ty gián Phạm Trọng Yêm tâu với hoàng đế rằng: “Thái hậu nhận di chiếu của Tiên đế, bảo hộ bệ hạ hơn mười năm, nên che lấp những lỗi nhỏ để giữ trọn đức lớn.” Hoàng đế cảm ngộ sâu sắc, bèn ban chiếu này.
[67] Ngày Ất Hợi, Xu mật phó sứ Lý Tư được khởi phục, vì đang để tang cha.
[68] Xuống chiếu cho các lộ năm ngoái bị thiên tai, dân lưu tán được phép trong vòng nửa năm trở về làm ăn, nay gia hạn thêm một trăm ngày.
[69] Xuất ba mươi vạn quan tiền từ kho Nội tàng, giao cho Tam ty để giúp việc xây lăng.
[70] Bãi chức Quần mục chế trí sứ. Lúc đó có người dâng thư nói rằng Quần mục vốn đã có chức sứ riêng, mà võ thần lại kiêm nhiệm chức Chế trí, việc không kịp thời quyết định. Vì thế bãi bỏ. Đến ngày 13 tháng 10 năm Cảnh Hựu thứ 2 lại đặt lại.
[71] Ngày Bính Tý, sai Tể thần Trương Sĩ Tốn soạn bài ký về lễ Tịch điền và lễ Cung tạ Thái miếu, lấy Hàn lâm học sĩ Phùng Nguyên làm Biên tu quan, Trực sử quán Tống Kỳ làm Kiểm thảo quan. Sau đó Tống Kỳ tâu rằng việc Hoàng thái hậu yết miếu không thể làm khuôn mẫu cho đời sau, bèn chỉ sai soạn bài ký về lễ Tịch điền.
[72] Vua bắt đầu triệu Tống Thụ, định trọng dụng, nhưng bị Trương Sĩ Tốn ngăn trở. Ngày Đinh Sửu, bổ nhiệm Thụ làm Hàn lâm thị độc học sĩ, kiêm Long đồ các học sĩ[16], phán đô tỉnh, kiêm phán Thái thường tự, tri Thẩm quan viện.
[73] Các quan ở Cáp môn tâu rằng các mệnh phụ dâng tấu chương, xin cho nộp ở Viện Đăng văn cổ, xin sai quan bản chức và Câu đương sứ thần xem xét, nếu không trái điều lệ, thì đóng dấu tấu chương, nộp lên Cáp môn để trình lên, Vua theo lời tâu.
(Ngày 16 tháng 10 năm Cảnh Hựu thứ 4, Trương Dật có tấu, có thể tham khảo.)
[74] Ngày Mậu Dần, Vua ngự điện Sùng Chính xét tù.
[75] Ngày Tân Tỵ, Tham tri chính sự Vương Tùy, Nhập nội cung phụng quan Đặng Thủ Cung và Giang Tòng Oánh dâng bản đồ vận chuyển ở Hoài Nam. Việc này cần xét lại, e rằng trước đây Tùy phụng mệnh đi sứ Hoài Nam, được lệnh vẽ bản đồ, đến khi làm quan chấp chính mới dâng lên. Hoặc có liên quan đến năm lợi ích vận chuyển muối cuối năm.
[76] Đặt một viên Tuần kiểm ở biên giới châu Tịnh.
[77] Xuống chiếu cho các châu không có chức Đồng phán, thì việc của ty Đương trực do Mạc chức quan quyết định[17].
[78] Ngày Quý Mùi, xuống chiếu cho Thẩm quan viện, từ nay người ở hai xứ Đông Xuyên và Tây Xuyên không được làm Tri châu, Đồng phán ở bản lộ.
[79] Ngày Đinh Hợi, quyền Ngự sử trung thừa Phạm Phúng xin triều đình thiết triều vào ngày chẵn. Chiếu chỉ đợi sau 100 ngày tang lễ Trang Hiến hoàng thái hậu sẽ nghe chỉ[18]. Từ khi thái hậu băng hà, Vua vẫn theo lệ cũ chỉ thiết triều vào ngày lẻ.
[80] Ngày Kỷ Sửu, chiếu rằng: “Sắc lệnh là khuôn phép trị nước, nếu thay đổi nhiều sẽ khiến dân chúng hoang mang, làm sao dạy bảo thiên hạ? Sắc lệnh tu định từ niên hiệu Thiên Thánh đã ban hành, từ nay các cơ quan không được tùy tiện xin sửa đổi. Nếu có điều gì chưa tiện, Trung thư, Xu mật viện tâu lên xin xét định.”
[81] Ngày Canh Dần, cho phép Đại Danh phủ lập trường học, ban tặng bộ 《Cửu kinh》, theo lời thỉnh cầu của Vương Tăng.
[82] Tháng 6, ngày Giáp Ngọ mùng một, nhật thực.
[83] Ngày Bính Thân, chiếu rằng chức Chế trí phát vận sứ phó, Đô giám từ nay đều phải đủ 3 năm, theo lời tâu của nội thị Đặng Thủ Cung.
[84] Ngày Mậu Tuất, chiếu rằng tội nhân bị phạt lệnh chúng[19], từ tháng 5 đến hết tháng 7, tháng 11 đến hết tháng giêng, đặc cách miễn.
[85] Ngày Kỷ Hợi, miễn thuế hạ cho hộ nghèo bị thiên tai ở Hà Bắc năm nay.
[86] Trước đây, tội nhân bị phối lưu đều phải tâu xin chờ chỉ. Sau đó, việc giam giữ kéo dài, tâu xin nhiều lần, ngày Nhâm Dần, chiếu cho các cơ quan xem xét mức độ nặng nhẹ, định thành lệnh.
[87] Ghi lại hậu duệ của Chu Thế Tông cùng Cao Quý Hưng, Lý Dục, Mạnh Sưởng, Lưu Kế Nguyên, Lưu Sưởng.
[88] Từ bộ viên ngoại lang Lý Phổ được bổ làm Trực tập hiền viện. Phổ đỗ tiến sĩ cập đệ, tính tình cuồng loạn, triều đình không giao việc văn chương. Đến nay, lâu ngày xin theo lệ, chấp chính đặc biệt xin cho, mới được bổ chức. Người bàn luận cho là không nên.
[89] Ngày Quý Mão, chiếu Ngự sử trung thừa Phạm Phúng, Thiên Chương các đãi chế Vương Tông, Hữu ty gián Phạm Trọng Yêm cùng Thẩm hình viện, Đại Lý tự xem xét định rõ hình phạt phối lưu cho tội nhân trong thiên hạ.
[90] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu rằng các quan văn chức Đãi chế trở lên, quan võ chức Đoàn luyện sứ trở lên, nếu đã từng tiến cử người khác họ trong các dịp đại lễ thì không được tiếp tục dâng sớ xin tiến cử nữa.
[91] Lễ tân sứ Lý Dụng Hòa chưa có nhà ở, Vua xuống chiếu cho ở tạm tại vườn Phương Lâm, nhưng ông cố từ chối không dám nhận. Ngày Bính Ngọ, ban cho ông dinh thự ở phường Huệ Ninh.
[92] Ngày Tân Hợi, Thái tử Thiếu phó về hưu Tôn Thích qua đời. Vua nói với Trương Sĩ Tốn rằng: “Trẫm vừa muốn triệu Thích vào triều, Thích đã mất rồi[20].” Vua thương tiếc mãi, cho nghỉ triều một ngày, truy tặng chức Tả bộc xạ, thụy là Tuyên.
Thích tính cách đoan trọng, hiếu thảo với cha mẹ. Khi cha mất, ông liếm mặt cha thay cho việc rửa mặt. Khi bệnh nặng, ông dời đến chính tẩm, đuổi hết tỳ thiếp, bảo con trai là Tôn Du rằng: “Đừng để ta chết trong tay đàn bà.”
[93] Ngày Giáp Dần, cho phép Trứ tác tá lang Trương Sung được đọc sách ở Quán các. Trước đây có chiếu bãi bỏ việc đọc sách ở Quán các, nhưng Sung là con rể của Tể tướng Lý Địch, Địch đặc biệt xin cho Sung, Vua đồng ý nhưng xuống chiếu không được lấy đó làm lệ.
[94] Ngày Mậu Ngọ, giảm bớt vật phẩm cống nạp hàng năm của các châu, và ra lệnh các châu không được dùng phần dư của cống phẩm để biếu xén cho các quan cận thần, theo lời thỉnh cầu của Thị ngự sử tri tạp sự Lý Hoành.
[95] Ban đầu, theo đề nghị của Tiền Duy Diễn (việc miếu đường) đưa xuống Lễ viện bàn bạc. Lễ viện tâu rằng: “Từ thời Hạ, Thương trở đi, cha là Chiêu, con là Mục, đều có vị trí phối hưởng. Mỗi tẩm thờ một Vua một hoàng hậu, đó là nghi lễ chính thức.
Đến thời Khai Nguyên, Túc Minh hoàng hậu mới bắt đầu có việc cùng được phối hưởng. Duy Diễn dẫn chuyện thời Đường, mẹ của Vũ Tông là Vi thái hậu được phối hưởng với Mục Tông, Hiếu Minh và Hiếu Chương được phối hưởng với Thái Tổ. Xét ra, Mục Tông chỉ lấy Vi thái hậu phối hưởng, không có hoàng hậu nào khác[21], còn Thái Tổ chưa từng lấy Hiếu Chương phối hưởng.
Xét lại, tiên đế lấy Ý Đức hoàng hậu phối hưởng với Thái Tông, đến khi lễ an táng ở Minh Đức viên hoàn tất, mới được thăng phối. Nguyên Đức hoàng hậu từ khi được truy tôn đến nay đã 17 năm, mới được thăng phối. Nay Trang Mục hoàng hậu đã có vị trí ở Trường Thu cung, phối hưởng với Chân Tông, đó là lễ chính thức.
Trang Hiến hoàng hậu là mẹ của thiên hạ, giống như Minh Đức hoàng hậu, nếu theo cổ lễ, chỉ nên thờ ở hậu miếu. Trang Ý hoàng hậu là mẹ của hoàng đế, tôn quý như Nguyên Đức hoàng hậu, nếu vội thăng phối, e rằng không phải là ý cẩn trọng của tiên đế, huống chi tiền triều chưa từng có trường hợp cùng ngày thăng phối. Xin bệ hạ quyết định.”
Chiếu cho Đô tỉnh cùng Lễ viện bàn bạc, đều cho rằng: “Trang Mục hoàng hậu vị trí tôn quý ở Trung Hồ cung, khác với Ý Đức hoàng hậu, đã phối hưởng với Chân Tông, hợp với lễ một Vua một hoàng hậu. Trang Hiến hoàng hậu phụ chính 10 năm, Trang Ý hoàng hậu sinh ra thánh thượng, đức hạnh không ai sánh bằng, nếu để ở hậu miếu, e rằng không thỏa lòng dân.
Xét theo chức năng của Đại Tư Nhạc trong 《Chu Lễ》, ‘tấu khúc Di Tắc, hát khúc Tiểu Lã, để tế tiên tỉ’. Tiên tỉ là Khương Nguyên, phi của Đế Khốc, mẹ của Hậu Tắc, đặc biệt lập miếu thờ, gọi là Bí Cung.
Nên lập một ngôi miếu mới bên ngoài Thái Miếu, đặt thần chủ của hai hoàng hậu, cùng điện khác phòng, hàng năm tế lễ, theo nghi thức Thái Miếu. Đặt tên miếu riêng, soạn nhạc khúc riêng, để tôn vinh đời sau. Trước ngày giỗ một ngày, không ngự chính điện, bá quan dâng lời an ủi, ghi vào giáp lệnh.” Chiếu theo lời tâu.
Ngày Kỷ Mùi, sai quyền tri Khai Phong phủ Trình Lâm và Nội thị phó đô tri Diêm Văn Ứng chọn đất xây dựng miếu mới.
[96] Ngày Tân Dậu, lấy Thiên Chương các đãi chế Vương Tông làm Xu mật trực học sĩ, tri Ích châu.
Có lính canh ban đêm đốt doanh trại, giết ngựa, uy hiếp quân hiệu làm loạn, Tông bí mật sai quân vây quanh doanh trại[22], hạ lệnh rằng: “Ai không làm loạn thì khoanh tay ra khỏi cửa, sẽ không bị hỏi tội.” Do đó mọi người đều ra ngoài, lệnh cho quân hiệu chỉ ra hơn mười tên lính làm loạn rồi giết chết, đến sáng, không ai biết chuyện.
[97] Hữu gián nghị đại phu, tri chế cáo, tri Tào châu Lý Trọng Dung ở Tây Dịch tám năm[23], đến lượt được bổ làm học sĩ, nhưng không được Trương Sĩ Tốn ưa thích.
Mùa thu, tháng 7, ngày Bính Dần, gia chức Cấp sự trung, đổi làm Tập hiền viện học sĩ, tri Mật châu, sau đó đổi làm Nhữ châu, rồi lại đổi làm Hứa châu. Khi Sĩ Tốn bị bãi chức, mới vào làm phán Sử quán.
(Chánh truyện của Trọng Dung nói rằng lại làm tri chế cáo, là sai.)
[98] Giáng chức Tuần kiểm trú bạc huyện Thái Khang, Hữu thị cấm Trương Phu làm Giám áp binh mã huyện Lư Sơn, vì dùng tráp tử tấu sự. Theo lệ cũ, ngoài kinh chỉ có Lưỡng phủ, trong kinh chỉ có Đại lưỡng tỉnh mới được dùng tráp tử tấu sự, các quan khác đều phải dâng biểu trạng.
[99] Ngày Kỷ Tỵ, Điện trung thị ngự sử Đoàn Thiếu Liên tâu: “Quốc gia mỗi khi có việc lớn, tất tập họp bàn bạc ở Thượng thư tỉnh, để tham khảo ý kiến rộng rãi, xét định đúng sai. Gần đây xét định việc thăng phụ của Trang Hiến Minh Túc hoàng thái hậu và Trang Ý hoàng thái hậu, nhưng các quan Thượng thư tỉnh có kiêm chức Nội ngoại chế hoặc Tam ty phó sứ, phần nhiều gửi văn thư không đến họp. Hơn nữa, các quan Thượng thư tỉnh kiêm chức đều là người tài giỏi đương thời, lẽ ra nên có kiến nghị, nhưng lại tự cao vì chức vụ, không đến họp, thực không phù hợp với ý muốn tham khảo rộng rãi của triều đình. Xin từ nay mỗi khi có họp bàn, những quan Thượng thư tỉnh kiêm chức nếu viện cớ không đến, thì xử tội vi chế.” Theo lời tâu.
[100] Ngày Giáp Tuất, lấy Hộ bộ phó sứ, Hình bộ viên ngoại lang Trần Chấp Trung làm Thiên Chương các đãi chế, Kinh Đông tai thương châu quân thể lượng an phủ sứ, theo lời của Phạm Phúng.
[101] Ngày Ất Hợi, chiếu cho các châu từ nay thi cử nhân, đều niêm phong đầu quyển, lại ủy cho Chuyển vận ty ở bộ mình chọn người có học vấn và công cần làm quan giám môn niêm phong[24].
[102] Ngày Đinh Sửu, quyền Trấn Hải quân tiết độ suy quan Trương Quy Niên làm Trứ tác tá lang, lại làm Tri huyện Phú Bình, lấy việc trị hành của ông mà báo khắp thiên hạ. Trương Quy Niên, không rõ ai tiến cử, cần xét lại.
(《Sóc ký》 chép rằng lại dân đến cửa khuyết xin lưu lại.)
[103] Ngày Mậu Dần, Sở quốc đại trưởng công chúa mất, truy phong Tấn quốc, thụy là Hòa Tĩnh. Công chúa gả cho Sài Tông Khánh, tính hay ghen, không có con, sau 12 năm Tông Khánh chết, lấy con của anh làm người nối dõi.
[104] Ngày Canh Thìn, chiếu cho phủ Khai Phong, Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây có nạn châu chấu, miễn thuế ruộng cho dân[25], lại miễn sai quan kiểm tra, lập tức sửa đổi.
[105] Đồng phán Lưu nội tuyển Lý Hoành tâu: “Gần đây có chiếu cho thần liêu tiến cử mạc chức, châu huyện quan sung làm kinh quan, lệnh cho Thuyên ty khám xét, nếu đã đủ tư cách thì rút về khảo xét, nếu chưa đủ thì đợi đủ tư cách, xin cho đều được rút về khảo xét dẫn kiến.” Chiếu cho những người đã qua sáu khảo trở lên, lệnh cho Thuyên ty không cần đợi đủ tư cách, rút về khảo xét dẫn kiến.
(《Hội yếu》 chép việc ngày 17 tháng 7.)
[106] Ngày Tân Tỵ, Cung bị khố phó sứ Dương An Tiết, Đông nhiễm viện sứ Trương Hoài Đức đều bị cách chức, phát phối đi Quảng Nam. Người làm nghề kỹ thuật Trương Vĩnh Tín bị đánh bằng gậy vào lưng và phát phối đi đảo Sa Môn, Lâu Văn Cung bị phát phối đi Đam Châu. Lại giáng chức nội thị cao phẩm Trần Tư Trung xuống làm Tây Kinh cao phẩm[26], đạo sĩ Thượng Thanh cung Hàn Văn Thành bị phát phối đi Quảng Nam.
Trước đây, khi Trang Hiến thái hậu nhiếp chính, Vĩnh Tín và Văn Cung dựa vào tà thuật, nhờ An Tiết và Hoài Đức giả làm lễ cầu đảo để mưu lấy vàng bạc. Văn Thành cũng nhờ vào người hầu trong nhà Lưu Mỹ và Tư Trung xin xỏ trong cung. Đến lúc này, các cơ quan phát giác ra việc làm gian trá của họ, nên tất cả đều bị trị tội.
[107] Ngày Quý Mùi, giáng chức Tri Vĩnh Hưng quân Trần Nghiêu Tá xuống làm Tri Lư Châu, do bị kẻ cuồng là Vương Văn Cát vu cáo. Nghiêu Tá bị cách chức, khi đi qua đất Trịnh, Văn Cát nhân mối thù cũ mà cáo buộc Nghiêu Tá mưu phản.
Vua sai trung quan điều tra, sau lại giao cho Ngự sử đài xét hỏi. Trung thừa Phạm Phúng nửa đêm nhận được chỉ dụ, sáng sớm hôm sau đã tìm ra chứng cứ vu cáo và tâu lên, nhưng Nghiêu Tá vẫn bị giáng chức.
Lúc đó lại có kẻ vu cáo các quan gián quan âm thầm liên kết với tông thất, Tể tướng Trương Sĩ Tốn đặt hai tờ tấu trước mặt Vua và nói: “Kẻ tiểu nhân vu cáo người lương thiện để làm rối triều đình, nếu một khi mở ra cái mầm gian trá, thần cũng không thể tự bảo vệ được.” Vua tỉnh ngộ, xử tội Văn Cát, việc vu cáo các quan gián quan cũng không được đưa xuống xét.
(Lúc đó Tôn Tổ Đức làm Tri gián viện, Phạm Trọng Yêm làm Hữu ty gián, không rõ tông thất mà họ nói đến là ai, cần phải tra cứu thêm.)
[108] Trước đó, Hữu ty gián Phạm Trọng Yêm vì Giang, Hoài, Kinh Đông bị thiên tai, xin cử sứ đi tuần hành, chưa được trả lời. Phạm Trọng Yêm xin được gặp riêng và nói: “Trong cung nửa ngày không ăn, sẽ ra sao? Nay mấy lộ đang thiếu lương thực, sao có thể bỏ mặc không cứu tế!”
Ngày Giáp Thân, sai Phạm Trọng Yêm đi an phủ Giang, Hoài. Đến nơi nào đều mở kho lương, cứu tế người thiếu thốn, phá hủy đền thờ không chính thức, tâu xin miễn thuế trà và tiền muối ở Lư, Thư và Giang Đông. Dân đói có người ăn cỏ dại, ông hái cỏ dâng lên Vua, xin đưa cho sáu cung và quý tộc xem để răn lòng xa xỉ.
Lại trình bày tám việc:
“Một, thời tổ tiên, vận chuyển lương thực từ Giang, Hoài rất ít, mà nuôi sáu quân và thu phục thiên hạ. Nay đông nam chở gạo mỗi năm sáu trăm vạn thạch, đến kho tàng tiền bạc đều lấy từ dân, thêm năm đói kém, thiếu lương thực như vậy. Xin bãi bỏ Tài tạo vụ, Hậu uyển tác phường, Văn tư viện, Lương liệu viện, lấy số dùng hàng năm thời tổ tiên so sánh, thì thấy được sự xa xỉ hay tiết kiệm.
Hai, tước không trọng đức thì người nhân sẽ xa, thưởng không theo công thì bề tôi vất vả oán hận. Quốc gia thái bình đã ba mươi năm, thuế má bạo ngược chưa bỏ, thưởng bừa chưa sửa, năm gần đây xá tội nhiều, thưởng ban lại hậu, tích lũy lúc khó khăn, tiêu pha dễ dàng, nước không dự phòng xa, không phải là phúc của xã tắc.
Xin bệ hạ đừng xá tội nhiều, nếu muốn xá tội ban thưởng, hãy tìm điển lễ rồi mới làm, một là không hại pháp luật, hai là không tổn tài sản. Vả lại tổ tiên muốn thu phục U, Kế, nên cẩn thận kho tàng, lo làm giàu tài sản, để khi xuất quân không quấy nhiễu dân. Nay hoang phí bừa bãi, nếu có việc khẩn cấp, lấy gì để cứu giúp?
Ba, trời sinh ra vạn vật có thời tiết, mà quốc gia sử dụng không có chừng mực[27], thiên hạ sao không khốn khổ được!
Các vùng Giang, Hoài hàng năm phải cung cấp lương thực, ngoài thuế ruộng, lại còn phải mua thêm, riêng vùng Lưỡng Chiết một năm phải cung cấp bảy mươi vạn thạch, tính cả các vùng phía đông nam, không dưới hai ba trăm vạn thạch, nên dù là năm được mùa, giá lương thực vẫn cao, quan phủ đã hao tổn tài chính, dân chúng lại thiếu ăn. Đến cả chi phí đóng thuyền, cũng lấy từ thuế chính.
Lại thêm chi phí cho binh lính vận chuyển, thưởng phát cho họ[28], mỗi năm lại tốn thêm năm bảy trăm vạn quan. Vì vậy, dân chúng các quận quốc đều không kịp trang trải, thương nhân phải di chuyển, qua năm không trở về, những người buôn bán nhỏ lẻ bị trì hoãn, mất việc, các cơ quan thu thuế ở kinh đô, doanh thu ngày càng giảm. Quốc gia vì phải vận chuyển lương thực quá nhiều, cho rằng đã có sẵn, nhưng binh lính và quan lại dư thừa, những kẻ lười biếng, công việc làm ăn tràn ngập kinh đô.
Thần đến Hoài Nam, trên đường gặp sáu người lính gầy yếu, họ nói rằng ba mươi người từ Đàm Châu kéo thuyền mới đến Vô Vi Quân, dọc đường bỏ chạy và chết, chỉ còn sáu người, cách Hồ Nam vẫn còn hơn bốn ngàn dặm, sáu người này nếu trở về bản châu, chưa chắc đã sống sót. Từ đó biết được tác hại của việc vận chuyển lương thực, không chỉ hao tổn tài chính, mà còn gây hại cho dân chúng như vậy!
Nay nên giải tán binh lính dư thừa[29], bãi bỏ quan lại dư thừa, cấm những kẻ lười biếng, giảm bớt công việc làm ăn, đã giảm được chi phí ở kinh đô, sau đó giảm bớt việc vận chuyển lương thực từ Giang, Hoài, ngoài việc nộp thuế ruộng[30], có thể bãi bỏ việc mua lương thực với giá cao, như vậy phía đông nam mỗi năm tiết kiệm được vài trăm vạn quan tiền quan, hoặc đưa lên kinh đô để làm đầy kho tàng, hoặc tại chỗ trả lại cho thương nhân[31]. Thương nhân đi lại thuận lợi, thì doanh thu của các cơ quan thu thuế sẽ dần tăng lên, quốc dụng không thiếu; phía đông nam bãi bỏ việc mua lương thực, thì giá gạo không tăng; thương nhân đã thông thương, thì pháp luật về việc nhập trung có thể thực hiện song song.
Bốn, quốc gia tập trung binh lực mạnh ở kinh đô, mà lương thực quân đội phụ thuộc vào ngân sách, vì vậy binh lính được nuôi dưỡng không thể không tinh nhuệ. Cấm quân khi thay phiên trở về, những người trên 50 tuổi không còn khả năng mang vũ khí sẽ bị giáng làm cấm quân hạng thấp ở các vùng gần kinh đô như Trần, Hứa.
Chi phí cho một binh lính mỗi năm không dưới 100 ngàn, vạn người thì tốn đến một triệu quan. Đến 70 tuổi mới được giải ngũ, mà khi người ta mới 50 tuổi, có thể còn lưu luyến quê hương, gia đình, vẫn thích sống ở quê cũ, nhưng đến 70 tuổi, quê hương đã thay đổi, người thân đã khuất, người già yếu trở về sẽ nương tựa vào đâu?
Trước khi giải ngũ, họ đã làm hao tổn ngân sách quốc gia, sau khi giải ngũ, lại gây tổn thương tình cảm. Thời Hàm Bình, khi tuyển chọn hương binh, người ta không có hy vọng trở về, tiếng oán than vang khắp bốn phương. Thời Tường Phù, khi loại bỏ binh lính dư thừa[32], những người không có nơi trở về đã rơi vào cảnh khốn cùng. Đây là bài học gần đây.
Xin hạ lệnh cho Điện tiền, Mã bộ quân ty, tuyển chọn những cấm quân không còn khả năng mang vũ khí, cùng với quân châu quê hương lập riêng chỉ huy lương thực, đến nơi có ruộng vườn, người thân[33], cho phép họ về làm nông, như vậy người già yếu cũng không đến nỗi lâm vào cảnh khốn cùng.
Năm, việc mua bán ngựa ở vùng biên giới hàng năm tốn đến mấy trăm vạn quan tiền, nếu bãi bỏ thì sẽ làm tuyệt giao với người Nhung, nếu tiếp tục thì sẽ làm khốn đốn Trung Quốc. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, kỵ binh chưa hẳn đã có lợi. Vào thời Khai Nguyên, Thiên Bảo, nuôi hàng chục vạn con ngựa, nhưng khi An Lộc Sơn làm loạn, quân triều đình thua trận ở Hàm Cốc, ngựa ấy có giúp được gì đâu?
Hơn nữa, chi phí cho kỵ binh như tiền lương, cỏ khô, lương thực, áo quần, mỗi một chỉ huy hàng năm tốn đến mấy vạn quan. Trong số đó, những con ngựa già yếu còn khó cưỡi, huống chi là chiến đấu? Tuy nhiên, ngựa Nhung từ tây bắc không thể không thu mua. Khi đã đưa về kinh đô, nên bán nhiều cho dân, nhờ họ chăn nuôi, nếu có việc biên giới, chỉ cần một tiếng gọi là có thể tập hợp được.
Lại đánh thuế nặng để cấm ngựa nhỏ từ Giang, Hoài, không cho chúng đến các châu quân gần kinh đô, như vậy ngựa tây bắc có thể lưu thông, vừa an lòng người Nhung bên ngoài, vừa tăng cường võ bị trong nước, và còn giảm được chi phí cỏ khô đến hàng ức vạn.
Sáu, Ty Phát Vận Giang, Hoài hàng năm vận chuyển hơn sáu trăm chuyến, giảm bớt viên chức Điện thị, và dựa vào công lao hàng năm để thăng chức Ban hàng. Nếu quốc gia tiết kiệm chi tiêu, thì có thể giảm bớt số chuyến vận chuyển. Những người được thưởng, những người phụ trách vận chuyển Biện hàng năm được thăng chức, chỉ nên thưởng bằng tiền. Các Đô tri binh mã sứ ở các châu quân hết nhiệm kỳ, được chỉ định làm Trưởng sử, Tư mã, nếu thực sự liêm chính và có năng lực, phải được Tri châu, Thông phán cùng bảo cử, mới được thăng chức Ban hàng. Võ thần tiến cử con em giỏi cung ngựa có thể đảm nhiệm biên phòng, giỏi tính toán có thể quản lý tiền lương, đều cho dẫn kiến, thử nghiệm năng lực, nếu không có tài năng hoặc còn nhỏ tuổi, chỉ cho làm Phụng chức, Điện thị mà thôi.
Bảy, các cơ quan ngoài lưu thủ ngày càng tăng thêm sự rườm rà. Sùng Văn Viện, Bí Các, Long Đồ Các đều là những cơ quan do triều đình hiện tại thiết lập, lại có Chiêu Văn Quán, Tập Hiền Viện, mỗi nơi đều bổ nhiệm thư lại; Thượng Thư Tỉnh có sáu quan và hai mươi tư ty, thêm vào chín tự, lại tăng thêm ba ty; Lễ Bộ, Thái Thường Tự quản lễ nhạc, lại thiết lập Lễ Nghi Viện, Thái Thường Lễ Viện; Hình Bộ, Đại Lý Tự quản hình pháp, lại có Thẩm Hình Viện. Nếu như thường kiêm nhiệm chức vụ ở các văn quán, đều lấy danh nghĩa là Trực Sùng Văn Viện và Kiểm Thảo, Hiệu Lý của bản viện, các thư lại của các quán đó, đều quy về Sùng Văn Viện và bãi bỏ việc tuyển dụng, trong ba đến năm năm có thể giảm bớt một nửa. Trước đây có hai trăm người, nay lấy một trăm người làm định mức, số còn lại đều chuyển bổ sung cho các ty khác.
Tám, châu Chân xây dựng chùa Trường Lô, lương thực cho binh lính làm việc đã lên đến bốn vạn hộc; kinh phí xây dựng cung điện, tạc tượng, mạ vàng lên đến ba mươi vạn quan. Nếu dùng cho dân, có thể giảm bớt thuế nặng; dùng cho sĩ, có thể tăng thêm bổng lộc; dùng cho binh, có thể mở rộng biên cương. Từ nay về sau, mong rằng luôn lấy việc lao dịch xây dựng làm điều răn.”
Vua khen ngợi và chấp nhận.
(Chính truyện của Trọng Yêm nói rằng Vua cứu tệ mười việc nhưng không ghi rõ các việc cụ thể, nay theo phụ truyện và tấu nghị, chỉ có tám việc được dâng lên, không rõ chính truyện dựa vào đâu, nay không lấy.)
[109] Tứ phương quán sứ, Thứ sử Liên châu Vương Khắc Minh, là cháu của Thừa Diễn, cháu rể của Trang Hiến Thái Hậu, từng sai người vào cung, nói rằng Thái hậu gặp tai họa, cần làm lễ trừ tà, nhờ đó được trăm lạng bạc. Đến lúc này, Ngự sử phát giác, giáng Khắc Minh làm Tả vũ vệ Đại tướng quân, Đô giám Thọ châu.
[110] Ngày Bính Tuất, điều Hạ Tủng, Tri châu Lệ, làm Tri châu Thanh, kiêm chức Kinh Đông Tai Thương Châu quân Thể lượng An phủ sứ.
[111] Điều Phạm Ung, Tri châu Thiểm, làm Tri quân Vĩnh Hưng. Năm đó đói kém và dịch bệnh, Quan Trung bị nặng nhất, Ung thân hành cứu tế, đến lúc này bị bệnh nên từ chức.
[112] Ngày Mậu Tý, ban chiếu rằng vì hạn hán và nạn châu chấu gây tai họa, bỏ bốn chữ “Duệ Thánh Văn Vũ” trong tôn hiệu, cáo tế với trời đất và tông miếu, lệnh cho trong ngoài thẳng thắn nói về những thiếu sót trong chính sự.
(Sách 《Thập Triều Cương Yếu》 của Lý (đức, trong chữ “Tâm cải thổ”) chép: Ở Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Đông, Thiểm Tây có nạn châu chấu, ăn hết cỏ cây.
Sách 《Tống Triều Hội Yếu》 chép chiếu rằng: “Những năm gần đây, nạn châu chấu và hạn hán gây tai họa, các quận quốc dâng tấu liên tiếp, ngày tháng nối nhau, há phải đức Trẫm không sáng, hay là thiên thời đúng như vậy? Sớm tối xét lại, lỗi thực ở ta. Trước đây nhân việc đại lễ hoàn thành, miễn cưỡng theo lời thỉnh cầu của các công, thêm cho ta hiệu ‘Duệ Thánh’, xưng ta là ‘Văn Vũ’, trong lòng tự biết mình kém cỏi, không đáng nhận lấy, nên bỏ bốn chữ ‘Duệ Thánh Văn Vũ’, lại chọn ngày cáo tế với trời đất tông miếu, và lệnh cho trong ngoài đều thẳng thắn can gián.”)
[113] Kinh Đông Thể lượng An phủ sứ Trần Chấp Trung tâu rằng dân đói khổ phần nhiều lưu vong, xin chọn những người trẻ khỏe mạnh tất cả đều chiêu mộ làm quân, đưa về kinh sư, nếu không muốn thì cho phép ở lại bản thành, theo lời tâu.
[114] Ngày Canh Dần, ban cho mẹ của cố Tri chế cáo Trần Tri Vi 50 tấm lụa, 50 hộc gạo, lại lệnh cho quân Cao Bưu thường xuyên chăm sóc bà.
[115] Theo chế độ cũ, học sĩ Viện Tập Hiền ở kinh đô mới được cấp lương thực. Lúc này, Lý Nhược Cốc làm học sĩ Viện Tập Hiền, nhậm chức Tri phủ Giang Ninh, tự xin lương. Ngày Nhâm Thìn, ban chiếu cho những người ở ngoài cũng được cấp, từ đó thành lệ.
- 'Độc thư' nguyên bản chép là 'Thị thư', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và đoạn văn sau trong sách này mà sửa lại. Xem đoạn ghi chép ngày Giáp Dần tháng 6 năm Minh Đạo thứ 2 trong quyển này có câu 'Chiếu trước bãi bỏ Quán các độc thư' để tham khảo. ↵
- 'Hai thước' nguyên bản là 'một thước', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》 Thụy dị nhất chi nhị sửa lại ↵
- Đầm Tề An trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 46 phần Đầm nước giống nhau; 《Tống sử》 quyển 95 phần Hà cừ chí lại chép là 'đầm Tề Nữ', 《Phương dư kỷ yếu》 quyển 12 phần huyện Thanh Uyển sông Thạch Kiều dẫn 《Tống chí》 cũng giống. ↵
- Bãi Trầm Uyển nguyên bản chép là 'bãi Trầm Hoa', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Tống sử》 sửa lại; 《Phương dư kỷ yếu》 phần sông Thanh Uyển dẫn 《Tống chí》 cũng giống. Xem 《Vũ kinh tổng yếu》 quyển 16 phần trên về đầm nước châu Mạc thuộc lộ Chân Định phủ cũng có ghi chép này, nhưng 'sông Trầm Uyển' chép là 'sông Trầm Miễn', 'bãi Trầm Uyển' chép là 'bãi Trầm Miễn'. ↵
- 'Thần trộm nghĩ' trong bản gốc là 'thần trộm hận' theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Tống sử》. ↵
- Câu 'Hội yếu chép: Ngày 17 tháng 3 năm Minh Đạo nguyên niên' vốn thiếu, căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung. ↵
- 'Đồng bằng' trong bản gốc là 'bình viễn', căn cứ theo sách trên sửa lại. ↵
- 'Đào' trong bản gốc là 'khuất', căn cứ theo sách trên sửa lại. ↵
- Theo ý văn trên dưới, nghi ngờ 'ruộng lúa' nên là 'ruộng vuông'. ↵
- Giang Đức Minh nguyên bản là 'Giang Đức Dụng', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Thiền Châu nguyên bản là 'Trần Châu', theo các bản khác và 《Tống sử toàn văn》 quyển 7 thượng, 《Biên niên lục》 quyển 4, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 33 phản chương Hiến Thái hậu chi chính sửa lại. ↵
- Minh Túc Chương Hiến, 'Chương Hiến' nguyên bản là 'Chương Huệ', căn cứ theo 《Long Xuyên Biệt Chí》 quyển thượng sửa lại. ↵
- Do dụng thị đắc tri Cát Châu: Chữ 'Cát' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 33, phần 'Phản chương hiến thái hậu chi chính' bổ sung ↵
- Thượng đại hành thái hậu thụy viết Trang Hiến Minh Túc, truy tôn thái hậu thụy viết Trang Ý: 'Trang Hiến' nguyên bản viết 'Chương Hiến', 'Trang Ý' nguyên bản viết 'Chương Ý', đều căn cứ theo Tống bản sửa lại.
Xem 《Tống hội yếu》 Lễ 58-70-71 chép: Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu họ Lưu ban đầu được truy thụy là Trang Hiến Minh Túc, Chương Ý hoàng hậu họ Lý ban đầu được truy thụy là Trang Ý, sau đều đổi 'Trang' thành 'Chương' để theo thụy hiệu của hoàng đế. Sách này quyển 153, ngày Kỷ Mão tháng 11 năm Khánh Lịch thứ 4 cũng chép việc đổi tôn thụy hiệu Trang Hiến Minh Túc hoàng thái hậu thành Chương Hiến Minh Túc, Trang Ý hoàng thái hậu thành Chương Ý, đầu đuôi rõ ràng. Ở đây nên theo Tống bản. Những chỗ tương tự sau cũng sửa lại ↵
- Các bản đều ghi là 'duyên khí'. 《Tống sử》 quyển 242, truyện Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu ghi là 'khẩu khí'. ↵
- Chữ 'các' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung ↵
- Chữ 'mạc' nguyên bản viết là 'mộ', xét thời Tống có chức 'Mạc chức quan', nguyên bản in sai, nay sửa lại ↵
- Chiếu đợi sau 100 ngày tang lễ Trang Hiến hoàng thái hậu sẽ nghe chỉ, 'nghe chỉ' nguyên văn là 'quyền chỉ', theo các bản khác sửa lại. Xem 《Tống hội yếu》 nghi chế nhất chi thất ghi là 'thủ chỉ' ↵
- Chiếu tội nhân bị phạt lệnh chúng, 'tội' nguyên văn là 'bãi', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại ↵
- 'Thích' chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 431 truyện Tôn Thích, 《Tục thông giám》 quyển 39 bổ sung. ↵
- không có hoàng hậu nào khác, nguyên bản chữ 'Danh', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Biên niên cương mục quyển 9 sửa lại. ↵
- 'Hoàn' nguyên là 'hoàn', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Tống sử》 quyển 291 truyện Vương Tông sửa ↵
- 'Tây Dịch' nguyên là 'lưỡng Dịch', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 262 bản truyện sửa ↵
- 'Nhưng' nguyên là 'nãi', chữ 'ư' bị thiếu, 'phong di' nguyên là 'di phong', theo bản Tống toát yếu và 《Trị tích thống loại》 quyển 28, phần Tổ tông khoa cử thủ nhân, sửa lại cho đúng. ↵
- 'Trừ' nguyên là 'dư', theo bản các sách sửa lại. ↵
- Lại giáng chức nội thị cao phẩm Trần Tư Trung xuống làm Tây Kinh cao phẩm, chữ 'giáng' nguyên bản là 'tướng', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 33, phần 'Phản chương Hiến thái hậu chi chính' mà sửa. ↵
- mà quốc gia sử dụng không có chừng mực 'sử dụng' nguyên văn là 'chi dụng', căn cứ vào các bản và dẫn chứng từ 《Tục thông giám》 sửa lại. ↵
- thưởng phát cho họ 'cho' nguyên văn là 'ư', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống, các bản và dẫn chứng từ 《Tục thông giám》 sửa lại. ↵
- Nay nên giải tán binh lính dư thừa 'nên' nguyên văn là 'thả', căn cứ vào dẫn chứng từ 《Tục thông giám》 sửa lại. ↵
- ngoài việc nộp thuế ruộng 'ngoài' nguyên văn thiếu, căn cứ vào các bản bổ sung. ↵
- hoặc tại chỗ trả lại cho thương nhân 'thương nhân' nguyên văn thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống, các bản bổ sung. ↵
- Thời Tường Phù, khi loại bỏ binh lính dư thừa, chữ 'thoái' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính Công Tập Ngôn Hành Thập Di Sự Lục》 quyển 1 bổ sung. ↵
- Đến nơi có ruộng vườn, người thân, chữ 'chí' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản Tống toát yếu, bản các và 《Phạm Văn Chính Công Tập》 bổ sung. Lại nữa, dưới chữ 'nhục' nguyên bản thiếu chữ 'giả', căn cứ vào 《Phạm Văn Chính Công Tập》 bổ sung. ↵