"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 118: NĂM CẢNH HỮU THỨ 3 (BÍNH TÝ, 1036)

Từ tháng giêng năm Cảnh Hữu thứ 3 đời Nhân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.

[1] Tháng giêng, mùa xuân, ngày Bính Tuất, xuống chiếu cho Hình bộ rằng: Từ nay, nếu quan lại được minh oan qua cơ quan khác xét lại mà không đúng, thì quan viên tâu xử và quan kiểm tra sách vở không được hưởng ân xá.

[2] Ngày Mậu Tý, sai Tri Xu mật viện sự Lý Tư, Tham tri chính sự Thái Tề, Tam ty sứ Trình Lâm, Ngự sử trung thừa Đỗ Diễn, Tri chế cáo Đinh Độ cùng bàn về pháp chế trà. Lý Tư vì trước đây phạm tội do thay đổi pháp chế nên cố từ chối, nhưng không được chấp thuận. Lúc này, quan lại Tam ty là Tôn Cư Trung và những người khác tâu rằng: Từ năm Thiên Thánh thứ 3 thay đổi pháp chế, tệ nạn hư khống giá trị ở Hà Bắc lại giống như trước năm Càn Hưng, làm hao tổn ngân khố nhà nước, xin khôi phục lại pháp chế tiền mặt. Độ chi phó sứ Dương Giai cũng trình bày 12 tác hại của pháp chế ba loại và 12 lợi ích của pháp chế tiền mặt, cho rằng chỉ cần dùng một phần tiền trong pháp chế ba loại là đủ chi dùng cho biên phòng một năm. Vì vậy, sai Lý Tư và những người khác bàn lại, đồng thời lệnh triệu tập thương nhân đến Tam ty để hỏi về lợi hại.

(Dương Giai từ ngày Nhâm Dần tháng này mới được bổ làm Đô tào Hà Bắc từ chức Độ chi phó sứ, nhưng hiện chưa nhậm chức. Bản chí gọi là Đô tào là sai.)

[3] Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Chương Đắc Tượng và những người khác dâng lên tên nước của các vương công đã định, xin từ nay phong tước vương công, từ tiểu quốc thăng lên thứ quốc, thứ quốc thăng lên đại quốc. Các nước Tống, Triệu, Lương, Thọ vẫn theo chế độ cũ, không được phong, đều được chấp thuận.

[4] Ngày Tân Mão, giáng chức Tiền Tri Đại Danh phủ, Long Đồ các Trực học sĩ, Cấp sự trung Địch Phỉ làm Tri Tùy châu; Kiềm hạt, Lục trạch sứ Chu Doãn Trung làm Đô giám Tề châu; Thông phán Đô quan viên ngoại lang Trương Chu Vật, Tỷ bộ viên ngoại lang Tống Thuần đều bị giáng làm chức Giám đương.

Trước đây, lụa trong kho cấp thưởng cho lễ Nam Giao không tốt, binh sĩ Kiêu Vũ là Lý Ngọc cùng mười người khác liền gây ồn ào, đến gặp Tống Thuần đòi đổi. Không được, họ liền ném gạch ngói vào nha môn. Địch Phỉ không kịp thời xử lý. Việc đến tai triều đình, Vua sai Thị ngự sử Lưu Quỳ đi điều tra. Chưa đến nơi, mọi người đã không yên lòng, Địch Phỉ vội cưỡi ngựa báo với Lưu Quỳ, xin lấy cớ làm việc khác. Lưu Quỳ đến, cùng Đô chuyển vận sứ Lý Hoành xử tội kẻ cầm đầu. Địch Phỉ vì tội bỏ mặc sự việc nên bị cách chức, cùng Chu Doãn Trung và những người khác đều bị xử phạt.

[5] Các nhà sư Tây Thiên là Thiện Xưng cùng chín người khác dâng kinh Phạn, xá lợi Phật và tượng Bồ Tát bằng đồng. Sùng Chính điện Thuyết thư Giả Xương Triều xin thêm lụa để ban thưởng rồi cho về, không nên đem những vật phẩm họ dâng ra bên ngoài. Vua đồng ý.

[6] Ngày Nhâm Thìn, truy phong cố Kim Đình giáo chủ, Xung Tĩnh Nguyên sư Quách thị làm Hoàng hậu, sai Tri chế cáo Đinh Độ và Nội thị Áp ban Lam Nguyên Dụng cùng lo việc tang lễ.

Sau đó, Vua hạ chiếu cho Trung thư Môn hạ dừng việc ban thụy hiệu và thờ phối trong miếu. Ngày Đinh Dậu, an táng bên cạnh Phụng Tiên Tư Phúc viện, dùng nghi thức và đồ dùng theo lệ của Hiếu Chương Hoàng hậu. Lúc đó, nhân dịp Thượng Nguyên tiết, các quan lo việc thắp đèn, chờ Vua ra ngoài. Hữu Chánh ngôn Vương Nghiêu Thần tâu rằng Hoàng hậu vừa được phục vị hiệu, nay đang trong tang lễ, không nên đi chơi. Đồng Tri Lễ viện Vương Củng Thần cũng tâu như vậy. Vua bèn bỏ việc thắp đèn vào ngày an táng.

[7] Cho con trai của Đồn điền viên ngoại lang Lý Hoành là Lý Doãn làm Giao Xã Trai lang. Tam ty tiến cử Lý Hoành làm Giám tại kinh đô phụ trách việc thuế kho, nhưng chưa nhậm chức thì ông qua đời. Tam ty sứ Trình Lâm tâu rằng nhà ông vốn thanh bần, con trai trưởng vì bệnh của cha mà cắt thịt đùi cứu cha, sau bị trúng phong mà chết. Vua đặc cách ban ơn.

[8] Ngày Ất Tỵ, Giả Xương Triều tâu: “Thần may mắn được hầu kinh sách trong cung, bệ hạ thường lúc nhàn rỗi thanh nhã, hướng về học vấn, tra cứu cổ điển, hỏi han lời hay đạo tốt, noi theo bậc thánh hiền xưa. Việc này diễn ra vào ngày chẵn, xa cách nơi cung cấm nghiêm trang, nên sách ghi chép thời chính, nhật lịch của Sử quán cùng Khởi cư chú không thể biên soạn được. Thần từ mùa xuân năm Cảnh Hữu thứ nhất đến mùa đông năm thứ hai, mỗi khi thị thần giảng sách ra vào thăng giáng, dâng chương tâu đối, yến hội ban thưởng, đều ghi chép lại, soạn thành hai quyển, xin gửi đến Sử quán.” Vua xuống chiếu lấy tên là 《Nhĩ Anh Diên Nghĩa Nhị Các Ký Chú》, sai Chương Đắc Tượng tiếp tục biên soạn.

[9] Ngày Bính Ngọ, Tứ phương quán sứ, Thứ sử Vinh Châu là Hạ Nguyên Hanh tâu rằng, nghi chế của các cửa cung từ sau khi Trần Bành Niên soạn định vào niên hiệu Đại Trung Tường Phù, các chiếu sắc ban xuống sau này có chỗ trùng lặp, xin được biên soạn lại. Vua sai Học sĩ thừa chỉ Chương Đắc Tượng, Tri chế cáo Lý Thục cùng soạn định. Đến tháng 4 năm Khang Định thứ nhất, soạn xong 《Các Môn Nghi Chế》 12 quyển, 《Khách Tỉnh Điều Lệ》 7 quyển, 《Tứ Phương Quán Điều Lệ》 1 quyển.

[10] Ngày Mậu Thân, đặt một viên Dực thiện ở phủ Kinh Vương.

[11] Ngày Kỷ Dậu, cho Hồng Châu, Mật Châu lập trường học, mỗi nơi cấp 5 khoảnh ruộng.

[12] Củ sát hình ngục Tư Yển tâu rằng, Quyền tri Khai Phong phủ Phạm Trọng Yêm xử án khác biệt, xử tội A Chu không đúng, xin giao xuống pháp tự xét lại. Vua xuống chiếu bảo Trọng Yêm từ nay những việc tình tiết nhẹ như thế không được tự ý thay đổi phán quyết, phải tâu xin chỉ dụ.

Trước đây, Tư Yển yêu thích Âu Dương Tu có tiếng văn hay, đón về làm môn khách, gả con gái cho. Đến khi Yển nhiều lần hặc tội Trọng Yêm xử án khác thường không theo phép, Tu lại thân thiện với Trọng Yêm, nên sinh hiềm khích với Yển.

(Việc Yển hặc tội Trọng Yêm, sử không ghi rõ thời gian, 《Hội Yếu》 chép vào ngày 13 tháng này, nay phụ chép vào đây. Sử chép là nhiều lần hặc tội, đây chỉ là một lần mà thôi.)

[13] Tháng 2, ngày Canh Tuất mùng một, Vua xuống chiếu rằng, các tông thất giữ chức Đại tướng quân các vệ kiêm Thứ sử, vợ họ khi gặp lễ Nam Giao, được phép tiến cử anh em ruột và con trai của anh em, bổ làm Điện thị ban trà rượu; chưa kiêm Thứ sử thì chỉ được tiến cử anh em, bổ làm Hạ ban Điện thị.

[14] Lập lại trường muối ở hai châu Hàng, Tú.

[15] Ngày Nhâm Tý, truy tặng các công chúa Hứa Quốc, Trịnh Quốc, Tào Quốc làm Đại Trưởng Công Chúa.

[16] Ngày Giáp Dần, đặt Ty Câu Đương Tự Vụ ở núi Ngũ Đài thuộc châu Đại và Viện Chân Dung kiêm việc tuần tra phòng hỏa ở trấn Hưng Thiện, mỗi nơi cử một viên quan triều đình và một viên sứ thần.

[17] Ban chiếu cho các châu Quảng, Quế, Kinh, Đàm, Đỉnh, Lễ mỗi nơi thêm một chỉ huy Hùng Lược, cùng với quân Quy Viễn thay nhau canh giữ các châu quân ở Quảng Nam.

[18] Trước đây, Vua thấy lại viên ở Tam Ty quá nhiều, có người già yếu không biết tính toán, nên ban chiếu cho Ngự Sử Trung Thừa Đỗ Diễn, Nhập Nội Áp Ban Sầm Thủ Tố cùng với các ty chọn lựa.

(Việc này xảy ra vào tháng 9 năm ngoái, ngày Kỷ Dậu, nay ghi chung vào đây.)

Sau đó, mấy trăm người thuộc hạng Hậu Hành ở Tam Ty như Chu Chính, Chu Quý, Lý Phùng Cát đã cùng nhau đến dinh Tể Tướng Lữ Di Giản kêu ca, Di Giản không tiếp. Họ lại đến dinh Vương Tăng, Tăng dùng lời lẽ ôn tồn khuyên bảo, bảo họ viết đơn trình bày. Sau đó, họ lại đến dinh Đỗ Diễn ném gạch đá, nói rằng vì Diễn tâu lên nên triều đình định loại bỏ họ, lại cầm sổ lương muốn xé nát, nói lời thô tục rồi bỏ đi. Hôm sau, Diễn vào chầu, xin giao cho hữu ty điều tra, còn Tăng đã biết rõ tên họ của họ. Ngày Ất Mão, Chu Chính, Chu Quý bị đánh bằng gậy vào lưng, đày ra đảo Sa Môn, Lý Phùng Cát cùng 22 người khác bị xử đày đến các châu quân xa xôi hiểm ác, những người đi theo đều bị cách chức.

(Việc này liên quan đến tháng 9 năm ngoái và tháng 3 năm nay, nên ghi chung vào đây.)

[19] Ban chiếu cho Tam Ty, Ngự Sử Đài, Khai Phong Phủ, theo chế độ cũ không được tiếp kiến khách, nay phải tuân theo.

[20] Ngày Bính Thìn, ban chiếu cho Hàn Lâm Học Sĩ Phùng Nguyên, Lễ Tân Phó Sứ Đặng Bảo Tín cùng với Trấn Giang Tiết Độ Suy Quan Nguyễn Dật, Hồ Châu Hương Cống Tiến Sĩ Hồ Viện soạn định lại nhạc luật cũ. Viện là người Hải Lăng, dùng kinh thuật dạy học ở Ngô Trung. Phạm Trọng Yêm trước làm Tri châu Tô, tiến cử Viện là người hiểu âm nhạc, được triệu vào đối đáp ở điện Sùng Chính, cùng với Dật đều được bổ nhiệm.

[21] Lại sai Chương Đắc Tượng cùng những người khác định lại cái cân nước để tính giờ. Sau đó, Chương Đắc Tượng và những người khác tâu rằng: “Nước chảy có lúc nhanh lúc chậm, xin thêm một bình nước điều hòa, hai ống hút nước và hai mươi mốt cọc tính giờ ngày đêm[1].” Được chấp thuận.

[22] Thái thường thiếu khanh, trực Chiêu Văn quán ở Khai Phong là Hỗ Xưng tâu: “Kinh sư là gốc của thiên hạ. Nhưng sĩ dân vượt quá mức, không theo phép tắc, nhà cửa, quần áo, đồ chơi đều tranh nhau làm sao cho lộng lẫy, châu báu, vàng ngọc lấp lánh khắp đường phố, một bộ quần áo giá trị không dưới nghìn vạn, xin ban hành quy định để hạn chế.” Ngày Nhâm Tuất, xuống chiếu cho hai chế và Lễ viện cùng bàn định chế độ rồi tâu lên.

[23] Lấy quan hiệu khám 《Sử ký》, 《Hán thư》 là Bí thư thừa Dư Tĩnh làm Tập hiền hiệu lý, Đại Lý bình sự, Quốc tử giám trực giảng Vương Chu làm Sử quán kiểm thảo, ban thưởng cho quan tường định là Hàn lâm học sĩ Trương Quan, Tri chế cáo Lý Thục, Tống Giao khí tệ có khác nhau.

[24] Bỏ chức Chủ bạ huyện An Túc, cho Lệnh và Úy kiêm nhiệm.

[25] Ngày Giáp Tý, sai Sùng Chính điện thuyết thư Giả Xương Triều, Vương Tông Đạo cùng biên soạn chữ ký của Thái Tông khi còn làm Doãn Kinh. Lúc đó, Phạm Trọng Yêm đang quyền tri Khai Phong phủ, dâng lên các văn án mà Thái Tông đã phê duyệt, nên sai Xương Triều và những người khác biên soạn. Tháng 11 năm thứ 4, Xương Triều biên soạn xong sách, tổng cộng 710 quyển.

[26] Xuống chiếu rằng đất Quảng Nam nhiều khí độc, phàm quân dân có bệnh thì cấp tiền quan để mua thuốc chữa trị.

[27] Thiểm Tây đô chuyển vận sứ Vương Duyên tâu: “Kênh Bạch Cừ từ thời Hán tưới được bốn vạn khoảnh ruộng, đến thời Vĩnh Huy nhà Đường cũng tưới được một vạn khoảnh, nay chỉ còn hơn ba nghìn khoảnh. Đó là do quan ty làm việc qua loa, dần dần bị bỏ hoang, xin điều binh phu sửa chữa lại.” Ngày Bính Dần, xuống chiếu theo lời xin của Duyên.

[28] Ngày Mậu Thìn, Thẩm quan viện tâu: “Hiện trong viện có chín mươi hai người đang chờ bổ nhiệm, người nhiều mà chức ít, xin cho tất cả đợi đến một năm rưỡi mới được bổ nhiệm, đợi khi quan đương nhiệm đủ ba mươi tháng thì cho đến nhậm chức thay thế.” Được chấp thuận.

[29] Ngày Nhâm Thân, Quảng Tây chuyển vận sứ tâu rằng, người Man ở Giáp Động, châu Ung cướp bóc dân sinh ở Bằng Tường Động, châu Tư Lăng và giết tướng trấn Đăng Uyển, đã hội quân đuổi đánh.

(Sách 《Giao Chỉ phụ truyền》 chép: Năm thứ ba, người Man ở Giáp Động cùng các châu Lượng[2], châu Môn, châu Tô Mậu, châu Quảng Nguyên, Đại Phát Động, huyện Đan Ba cướp phá các châu Tư Lăng, Tây Bình, Thạch Tây và các động[3] thuộc châu Ung, bắt người dân, cướp trâu ngựa, đốt nhà cửa rồi rút đi. Triều đình hạ chiếu trách hỏi, đồng thời lệnh bắt thủ lĩnh để trị tội và báo lên.

Chính truyện cũng chép như vậy. Nay chỉ theo 《Thực lục》.)

[30] Ngày Quý Dậu, miễn sắc dịch cho con cháu của quan chức từ bát phẩm trở xuống đã qua đời[4].

[31] Ngày Bính Tý, Lâm Hiến Khả, Tư mã châu Thái, được bổ làm Tham quân châu Chương, cấp lương 5.000 tiền, bản châu phải thường xuyên quản thúc, không được cho ra khỏi thành[5]. Hiến Khả phạm tội tự ý rời khỏi bản châu để dâng văn thư cơ mật, đáng lẽ phải chịu tội vi chế, đánh 100 trượng, nhưng đặc cách ban mệnh lệnh này.

(Việc này căn cứ vào 《Hội yếu》.)

[32] Tháng 3, ngày Bính Tuất, Ty Giản thí thuộc Tam ty dâng lên bản định công tội của các lại viên. Chiếu rằng những người biết rõ lợi hại về tiền lương sẽ được thăng bổ theo thứ tự, còn những kẻ tái phạm tham nhũng đều bị cách chức.

[33] Ngày Canh Dần, Lục Đông, Thái tử Trung doãn, bị an trí ở châu Trừ[6]. Trước đó, Đông tự ý rời khỏi nơi bị biếm, nhân đại xá xin được bổ dụng, đã có chiếu phục chức cũ, nhưng bị Tri tạp Ngự sử Tư Mã Trì hặc tấu, nên lại bị lệnh an trí.

[34] Ngày Nhâm Thìn, lấy Long đồ các trực học sĩ, Tri Tần châu Trương Tông Tượng kiêm quản câu Tần, Lũng, Phượng, Giai, Thành châu và Phượng Tường phủ lộ trú bạc quân mã. Tần, Lũng, Phượng, Giai, Thành châu và Phượng Tường phủ từ đây trở thành một lộ.

[35] Ngày Quý Tỵ, cho phép Lộ châu và Thường châu lập trường học.

[36] Ngày Ất Mùi, Vua ngự tại điện Sùng Chính, triệu tập các quan phụ chính đến xem việc định chế độ chuông lệ.

[37] Ngày Bính Thân, xuống chiếu: “Gần đây tìm kiếm người trong thiên hạ giỏi về xem khí hậu và hiểu biết chuông lệ, nhưng chưa có ai ứng tuyển. Nay lệnh cho các nơi tiếp tục tìm kiếm rộng rãi hơn.”

[38] Hàn lâm thị giảng học sĩ Phùng Nguyên và các quan dâng lên thước đo mới làm từ hạt kê, và chế tạo riêng một bộ chuông, khánh.

[39] Ngày Mậu Tuất, xuống chiếu: “Quan lại về hưu trước đây đều được hưởng nửa bổng lộc, nhưng những người từng giữ chức vụ cao, có khi nghèo không tự nuôi được mình, không phải là cách đối xử với người cao tuổi, nuôi dưỡng liêm sỉ. Từ nay, các quan đại lưỡng tỉnh, đại khanh giám, chính thứ sử, các chức cáp môn sứ trở lên về hưu, được hưởng bổng lộc như quan phân ty, các trưởng lại hàng năm theo ý Trẫm mà ban thưởng.”

[40] Ngự sử trung thừa Đỗ Diễn bị cách chức, giáng làm Công bộ thị lang, Xu mật trực học sĩ, Tri Vĩnh Hưng quân. Hàn lâm học sĩ Trương Quán được cử quyền Ngự sử trung thừa.

[41] Đổi tên Duy châu thành Uy châu, vì tên gọi dễ nhầm lẫn với Duy châu trong văn thư.

[42] Ngày Giáp Thìn, nạo vét hào thành phía bắc sông Hoàng Hà, cấm trồng sen và cỏ bồ, người vi phạm sẽ bị xử theo tội tham nhũng tùy theo số lượng thu hoạch.

[43] Ngày Bính Ngọ, Độ chi phó sứ Quách Khuyến và Tứ phương quán sứ Hạ Nguyên Hanh cùng đi kiểm tra việc tu sửa kho tiền lương và cỏ khô ở Hoành Lũng Tảo, và xem xét lợi hại của việc đào sông giảm lũ ở Vương Sở Tảo để tâu lên.

[44] Xuống chiếu cho các quan từ Tam ty sứ đến Thiên chương các đãi chế, mỗi người tiến cử một người trong hàng Tam ban sứ thần từ chức Điện trực trở lên, từng trải qua nhiệm vụ biên cương, có võ dũng và trí lược.

[45] Lại xuống chiếu: Các quan lại được chỉ định chôn cất theo nghi lễ triều đình nhưng gia đình không muốn, thì cho phép tùy ý.

[46] Lại xuống chiếu: Khi chức quan ở phủ Khai Phong có khuyết, lệnh cho Thuyên ty căn cứ vào điều lệ mà tuyển chọn, không được phép xin xỏ hay do phủ Khai Phong tiến cử.

[47] Thẩm quan viện tâu rằng, các lộ đề điểm hình ngục khi thay thế cần xét duyệt, trước đây đều sai quan lập cơ quan. Chiếu chỉ lệnh Thẩm quan viện theo lệ xét duyệt[7].

[48] Quyền phán Hộ bộ Câu viện Diệp Thanh Thần xin nới lỏng lệnh cấm trà, lấy thuế hàng năm chia đều cho dân thành thị và nông thôn. Tờ tấu viết:

“Núi rừng có sản vật, trời ban để làm lợi cho dân. Từ khi lương thực quân đội không đủ, quan lại kiêm cả việc thu lợi, lá cây ngọn cỏ, dân không được tự do, đóng cửa vườn đặt quan lại, khắp nơi lập cơ quan quản lý. Mọi thứ đều cấm, ai vi phạm thì bị hình phạt, vừa tịch thu tài sản, lại thêm tội, xăm mặt lưu đày hàng ngày, vi phạm không chừa. Thực sự có lợi lớn, không tốn kém[8], có thể giúp quốc dụng, thánh nhân thương xót kẻ ẩn dật, thương xót tha thứ cho người vô tội, còn nới lỏng lệnh cấm giảm hình phạt, vì dân trừ hại. Chi phí của Độ chi rất lớn, thuế thu được từ việc buôn bán rất ít, bóc lột người làm vườn, cung phụng thương nhân, khiến triều đình mang tiếng bóc lột, quan lại thêm tội lạm dụng, báo cáo giả, hành hạ dân đen.

Từ khi kiến quốc đến nay, pháp luật hễ có tệ hại thì sửa đổi, xem xét kỹ nguyên do của việc sửa đổi pháp luật, không phải vì lợi ích thực sự của quốc gia, mà đều do các thương nhân bàn tính, nắm giữ quyền lợi, mong được thay đổi để kiếm lợi gấp bội. Những người giàu có và gia tộc quyền thế ngồi hưởng lợi, còn những tiểu thương nhỏ lẻ ngày ngày bị bóc lột. Cả quan lẫn tư đều không có kế sách lâu dài. Thần từng tính toán lợi nhuận từ trà hàng năm, lấy năm Cảnh Hựu thứ nhất làm chuẩn, trừ tiền vốn ra, thực thu lãi được hơn 59 vạn quan.

Lại nữa, số tiền thu từ việc bán trà ăn trong thiên hạ, bao gồm cả vốn lẫn lãi, cũng chỉ đạt 34 vạn quan, trong khi các thương nhân trà hiện đang hoạt động ở 65 châu quân, số tiền thuế thu được đã lên tới 57 vạn quan. Nếu cho phép thông thương khắp thiên hạ, chỉ thu thuế, tự nhiên sẽ thu được gấp nhiều lần, như vậy lợi nhuận từ các sở quản lý trà, trường trà và trà ăn đều có thể thu về hết[9]. Hơn nữa, không tốn tiền vốn của triều đình, không cần đặt quan quản lý, không phải vận chuyển vất vả, cũng không lạm dụng hình phạt xăm mặt hay lưu đày.

Thần nghĩ rằng những tệ nạn của dân chúng, có lúc sẽ đến hồi cùng cực, việc thịnh đức thì phải đợi bậc thánh nhân mới không bị mê hoặc. Những người bàn luận cho rằng việc độc quyền buôn bán có tỷ lệ cố định, còn việc thu thuế thì không có quy chuẩn, nếu thông thương sau này, ắt sẽ làm thiếu hụt ngân sách hàng năm.

Thần xét theo phép diêm thiết của Quản Trọng, tính theo đầu người để thu thuế, trà là thứ dùng cho người, cũng như muối và sắt, nên bắt buộc phải lưu thông khắp thiên hạ, dùng số đầu người để định thuế, dân sẽ được lợi ích tốt, lại bỏ được hình phạt nghiêm khắc, mỗi người chỉ đóng vài đồng tiền[10], người dân không chán nản khi nộp.

Năm Cảnh Hữu nguyên niên, thiên hạ có 10.296.565 hộ, 26.205.441 đinh, chia làm ba phần, một phần là các châu quân sản xuất trà, trong đó nội ngoại thành và nông thôn chiếm một phần năm, mỗi đinh nộp 30 đồng, đinh ở thôn quê nộp 20 đồng; các châu quân không sản xuất trà, nội ngoại thành[11] và thôn quê tính như trước, lại giảm thêm 10 đồng[12], ngân sách hàng năm đã lên đến hơn 40 vạn quan tiền.

Lợi nhuận từ việc độc quyền trà chỉ khoảng hơn 50 vạn quan, nếu thông thương thu thuế, lấy gấp ba lần thuế cũ làm tỷ lệ, có thể thu được hơn 170 vạn quan, cộng thêm thuế đầu người, sẽ có hơn 210 vạn quan, hoặc nếu tăng thêm một chút trong quy định thu thuế, thì số tiền thu được sẽ càng nhiều, tích lũy càng dày, so với việc quan phủ tự độc quyền buôn bán, ép dân vào hình phạt, lợi và hại rõ ràng có thể thấy.”

Chiếu cho Tam ty cùng cơ quan tường định xem xét và tâu lên, đều cho rằng không thể thực hiện, đến năm Gia Hựu thứ 4 mới thi hành.

Thanh thần lại từng xin cử sứ đi tuần hành khắp thiên hạ, để biết nỗi khổ của dân, xem xét năng lực của quan lại; mở rộng Thái học, chọn bổ nhiệm các bác sĩ, cho phép con em của các công khanh đại thần được bổ làm học sinh; coi trọng chức huyện lệnh; các khoa cử nhân phải lấy người hiểu rõ đại nghĩa, yêu cầu họ trả lời các câu hỏi chính sách; giảm bớt quan lại lưu ngoại, không được nhập sĩ; cho phép võ thần để tang đủ ba năm; bãi bỏ việc độ tăng; bỏ việc đọc kinh; huấn luyện binh sĩ, rèn luyện tướng lĩnh, cẩn thận khi ban bố mệnh lệnh, giản lược điều ước, tổng cộng chín việc.

[49] Tháng này, Lý Tư cùng các quan xin bãi bỏ việc nhập trung hư cổ ở Hà Bắc, dùng tiền thật để trả cho cỏ khô và lương thực, bán trà bằng tiền thật, đều theo chế độ năm Thiên Thánh thứ nhất. Lại vì các thương nhân phương Bắc mang giấy tờ đến kinh sư, trước đây phải có giấy giao dẫn và người bảo lãnh, cùng với giấy phù của Tam ty xác nhận, sau đó mới được cấp tiền, vì thế các thương nhân ngồi bán ở kinh sư thường hay đòi hỏi, lại có quan lại Tam ty cố tình trì hoãn để làm việc gian lận, nên đã bãi bỏ hết, ra lệnh cho thương nhân mang giấy tờ trực tiếp đến giác hóa vụ để xác nhận, lập tức trả tiền.

Ban đầu, Tôn Thích cùng các quan tuy đã tăng số tiền mà thương nhân phải nộp, nhưng vẫn cho rằng lợi nhuận quá ít, nên tranh nhau mua giấy tờ hư cổ để kiếm lợi lớn, còn người nộp tiền thật thì ít, khiến triều đình ngày càng bị hao hụt, kinh sư thiếu tích trữ. Đến lúc này, Lý Tư cùng các quan lại xin lấy số tiền nộp năm Thiên Thánh thứ ba làm chuẩn, giảm đi hơn một nghìn, giá nhập trung tăng thêm, cũng lấy số năm Thiên Thánh thứ nhất làm chuẩn, tăng thêm ba trăm. Chiếu đều chấp thuận. Lại ra chiếu rằng những người trước đây đã dùng hư cổ để nhận giấy tờ, vẫn cấp trà như cũ, và cấp thêm trà từ trước năm Cảnh Hữu thứ hai.

[50] Sau đó, Tư Đẳng lại tâu: “Năm Thiên Thánh thứ 4, từng cho phép người Thiểm Tây nhập trung muốn được trà, cứ mỗi 10 vạn tiền, tại nơi đó cấp khoán, thẳng đến Đông Nam nhận 11 vạn 1 nghìn trà. Các thương nhân buôn trà thấy có lợi, tranh nhau muốn bán khoán Thiểm Tây, nên không còn đưa tiền vào kinh sư nữa, xin cấm chỉ.” Đồng thời nói rằng thương nhân nộp 5 phần tiền, phần còn lại lập sổ gọi người bảo lãnh, hẹn trong một năm rưỡi phải trả hết[13], nếu quá hạn thì phải trả gấp đôi. Việc này đều được thi hành.

(Việc nộp 5 phần tiền, gọi người bảo lãnh lập hạn, xem thực lục năm Khang Định thứ nhất tháng giêng, nay theo bản chí phụ vào đây.)

Tư Đẳng lại tâu: “Thích Đẳng thay đổi pháp chế, mỗi năm tổn thất tài lợi không thể kể xiết. Lại lấy từ năm Thiên Thánh thứ 9 đến năm Cảnh Hựu thứ 2 so sánh, trong 5 năm, vùng biên giới Hà Bắc 16 châu quân, nhập trung lãng phí 568 vạn quan tiền. Nay một khi lại dùng pháp cũ, sợ các thương nhân giàu có không tiện, dựa vào quyền quý để lay động triều đình, xin trước hết ra lệnh răn bảo.” Do đó, hoàng đế hạ chiếu răn dạy, từ đó quan huyện lãng phí ít đi. Tháng 3, ngày Quý Tỵ, lại thi hành pháp tiền hiện, bãi bỏ giao dẫn. Ngày Nhâm Thân, cơ quan chuyên trách cấp giao dẫn bằng trà năm Cảnh Hựu thứ 2. Tháng 5, ra lệnh người Thiểm Tây nhập trung giao dẫn đều phải đến kinh sư, tháng 12, cấm thương nhân giàu có nhờ vả.

(Nay đều theo bản chí liên kết chép lại.)

[51] Hạ chiếu tạm ngừng thi cử.

[52] Mùa hạ, tháng 4, ngày Tân Hợi, hạ chiếu cấm thương nhân nước ngoài ở Quảng Châu, Hải Nam không được mua nhiều ruộng đất, nhà cửa, sống lẫn lộn với người Hoa.

[53] Ngày Quý Sửu, hạ chiếu các lộ đồng đề điểm hình ngục vũ thần cùng các châu quân trưởng lại, tùy theo chức vụ cao thấp mà bổ nhiệm.

[54] Ngày Ất Mão, hạ chiếu quan chức vì tội mà bỏ trốn, từ nay không được tha tội, vĩnh viễn không được bổ dụng.

[55] Ngày Bính Thìn, Cáp Môn tâu: “Tông thất từ Đại tướng quân đến Suất phủ Phó suất, tham dự triều hội có hơn 140 người. Tiết Càn Nguyên, yến tiệc ở Tích Khánh viện không đủ chỗ. Xin chỉ cho Đại tướng quân kiêm Thứ sử trở lên mới được dự yến.” Được chấp thuận.

[56] Ngày Kỷ Mùi, người Khiết Đan phái Trấn quốc tiết độ sứ Gia Luật Tín và Chính sự xá nhân Lữ Sĩ Tông đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.

[57] Ngày Tân Dậu, đặt chức Chủ trại Điếu Đài ở quân Càn Ninh.

[58] Ngày Tân Mùi, ra chiếu rằng từ nay các quan y trong Hàn lâm, nếu không được thăng hết lên chức chính quan, thì không được thăng lên chức Thượng dược phụng ngự và Trực viện.

[59] Ngày Ất Hợi, ra chiếu rằng từ nay các quan tri châu Chân, Sở, Tứ đều kiêm thêm việc quản lý và thúc đẩy việc vận chuyển lương thực.

[60] Cho phép châu Hoành lập trường học.

[61] Ngày Bính Tý, ty Kiềm hạt Kinh Hồ Bắc lộ tâu rằng hơn 500 người man ở châu Lễ xâm phạm biên giới, nhưng Tri châu, Lễ tân phó sứ Thôi Thừa Hữu sợ hãi trốn tránh không dám báo. Chiếu lệnh bãi chức Thôi Thừa Hữu.

[62] Tháng 5, ngày Mậu Dần, mùng một, Phạm Trọng Yêm tâu: “Thần gần đây được nghe lời dạy bảo, vì Khổng Đạo Phụ từng nói về việc dời đô về Tây Lạc, thần cho rằng chưa nên. Quốc gia thái bình, há có thể bàn đến việc dời đô. Nhưng Tây Lạc là nơi ở của đế vương, dựa vào thế hiểm yếu của cửa ải và sông, nếu biên cương không yên thì có thể lui về giữ.

Tuy nhiên, nơi đó đã bỏ trống lâu ngày, không có tích trữ, khi gặp nguy nan thì lấy gì để phòng bị. Nên mượn danh tướng đi triều lăng, dần dần tích trữ lương thực. Thiểm Tây có dư thì vận chuyển xuống, Đông Lộ có dư thì vận chuyển lên. Trong vài năm, có thể chuẩn bị đầy đủ. Thái bình thì ở Đông Kinh, nơi thuận tiện giao thông, để tiện cho thiên hạ; nguy nan thì ở Tây Lạc, nơi hiểm yếu, để giữ Trung Nguyên.

Kinh Dịch nói: ‘Thiên hiểm không thể vượt qua, địa hiểm là núi sông gò đống, vương công dựa vào hiểm yếu để giữ nước mình’, chính là ý này. Tiên vương tu đức để phục người xa, nhưng yên không quên nguy, nên không dám bỏ binh[14]. Bệ hạ trong thì tu đức, khiến thiên hạ không nghe lỗi lầm, ngoài thì dựa vào hiểm yếu, khiến tứ di không dám sinh lòng khác. Đó là đạo giữ nước lâu dài. Kính mong bệ hạ chớ vội bàn bạc, hãy lưu tâm là đủ.”

(Theo tờ tâu xin tu sửa kinh thành của Trọng Yêm, nói rằng đầu tháng 5 năm Cảnh Hựu thứ 3, xin tu sửa Tây Kinh, nay ghi chép vào ngày mùng một. Khổng Đạo Phụ tháng 8 năm ngoái được bổ làm Long Trực, coi châu Sở.)

[63] Ngày Canh Thìn, ra lệnh tìm mua sách quý còn thiếu trong quán các.

[64] Ngày Bính Tuất, Thiên Chương Các Đãi Chế, quyền Tri Khai Phong Phủ Phạm Trọng Yêm bị cách chức, đi làm Tri châu Nhiêu.

Phạm Trọng Yêm nói việc không kiêng dè gì, các đại thần có quyền thế đa phần đều ghen ghét ông[15].

Lúc bấy giờ Lữ Di Giản đang nắm quyền chính sự, những người được tiến cử thường là từ cửa nhà ông. Trọng Yêm bàn về phép dùng người, nói rằng bậc quân chủ nên biết thứ tự nhanh chậm, thăng giáng của họ, việc thăng giáng các cận thần không nên hoàn toàn giao phó cho tể tướng. Ông lại dâng lên bản đồ về các chức quan, chỉ ra thứ tự của họ, nói: “Như thế này là thăng chức theo thứ tự, như thế này là không theo thứ tự, như thế này là công bằng, như thế này là tư lợi, không thể không xem xét kỹ.” Di Giản càng không vui.

Hoàng đế từng hỏi Di Giản về việc ở kinh đô, Di Giản nói: “Trọng Yêm viển vông, chỉ chú trọng danh tiếng mà không có thực chất.”

Trọng Yêm nghe được, liền viết bốn bài luận dâng lên, một là về sở thích của đế vương, hai là về việc chọn người hiền tài, ba là về việc ham danh, bốn là về việc đùn đẩy trách nhiệm, đại để đều là châm biếm chỉ trích chính sự đương thời. Ông lại nói: “Hán Thành Đế tin dùng Trương Vũ, không nghi ngờ họ ngoại, nên cuối cùng mới có loạn Vương Mãng. Thần e rằng ngày nay trong triều đình cũng có kẻ như Trương Vũ làm hỏng gia pháp của bệ hạ, biến việc lớn thành việc nhỏ, biến việc dễ thành việc khó, biến việc chưa thành thành việc đã thành, biến việc cấp bách thành việc nhàn rỗi, không thể không sớm phân biệt.”

Di Giản nổi giận, đem lời của Trọng Yêm biện bạch trước mặt hoàng đế, lại tố cáo Trọng Yêm vượt quyền bàn việc, tiến cử kết bè kết đảng, ly gián Vua tôi. Trọng Yêm cũng dâng sớ đối chất, lời lẽ càng thêm khẩn thiết, vì thế bị giáng chức. Thị ngự sử Hàn Độc nương theo ý Di Giản, xin dán bảng về bè đảng của Trọng Yêm ở triều đường, răn dạy bách quan không được vượt quyền bàn việc, hoàng đế nghe theo.

Lúc bấy giờ, việc trị tội bè đảng đang gấp rút, các quan lại sợ tể tướng, ít người dám tiễn đưa Phạm Trọng Yêm. Thiên Chương các đãi chế Lý Hoành và Tập Hiền hiệu lý Vương Chất đều mang rượu đến tiễn. Chất còn ở lại nói chuyện suốt mấy đêm, có người chê trách Chất, Chất nói: “Hi Văn là người hiền, được làm bè đảng với ông ấy là may mắn lắm rồi.”

Chất từng làm tri châu ở Thái Châu, dân châu thờ cúng miếu Ngô Nguyên Tế vào dịp lễ tết, Chất nói: “Làm gì có kẻ nghịch tặc mà lại được dân lập miếu thờ!” Bèn phá hủy miếu đó, rồi lập tượng Địch Nhân Kiệt và Lý Tố để thờ, người Thái Châu đến nay vẫn gọi là “Song Miếu”.

(Việc Lý Hoành tiễn đưa Trọng Yêm, phụ truyền có ghi chép, nhưng tân truyền đã bỏ đi, nay khôi phục lại.)

[65] Ngày Đinh Hợi, Chủ bạ ty Thiên giám là Vương Thăng tâu rằng Thái Tuế và Tuế Tinh đều ở phương Bắc, xin chỉnh đốn việc phòng bị biên giới. Lại tâu rằng ty Thiên giám hàng năm dâng lịch chi tiết, nhưng không ghi chép nhật thực và nguyệt thực, xin từ nay trở đi trước hết phải đo đạc xác định, dùng mực đỏ ghi chép, để có thể sớm biết được điềm trời cảnh báo, Vua nghe theo.

[66] Ngày Mậu Tý, Đồng tri Xu mật viện sự Hàn Ức tâu rằng: “Trước đây thần được tuyên dụ rằng Phạm Trọng Yêm từng tiến cử thần một cách kín đáo. Thần từ khi làm quan, chỉ một lòng trung thành chất phác. Bệ hạ nghe lời nói quá, bổ nhiệm thần vào chức vụ phụ tá tể tướng, thần chưa từng dính líu đến việc kết bè kết đảng, kết thân với kẻ tả hữu. Huống chi thần với Trọng Yêm vốn không phải là thân thích, cũng không phải là bạn cũ, không hiểu vì nghĩa lý gì mà ông ấy lại tiến cử thần. Nếu Trọng Yêm tiến cử thần vì công việc, thì thần vốn không có giao thiệp riêng tư. Kính mong bệ hạ soi xét tấm lòng cô trung của thần, để thần khỏi bị những lời bàn tán vô căn cứ. Nếu bệ hạ thấy thần ở chức vụ này mà không có ích gì, thì xin bệ hạ tùy nghi xử trí việc thăng giáng của thần.” Vua ban chiếu khen ngợi ông.

[67] Cho phép Hứa Châu lập trường học.

[68] Tường nghị quan Thẩm hình viện, Điện trung thừa Vương Quả tâu rằng: “Đất Hà Bắc thấp trũng, bờ cát tích tụ, nếu dẫn sông chảy về phía đông, e rằng không thể ngăn được nạn nước chảy xiết hung hãn[16]. Xin bệ hạ rộng hỏi ý kiến của mọi người, bãi bỏ việc đắp đập Hoành Lũng.” Vua xuống chiếu cho Quách Khuyến và Hạ Nguyên Hanh cùng đi khảo sát rồi tâu lên.

(Quả là người Nhiêu Dương. Tháng 8 năm ngoái, ngày Mậu Thìn, sách 《Kê Cổ Lục》 đã ghi chép việc tạm thời bãi bỏ đắp đập Hoành Lũng, nay Vương Quả lại tâu lên, có lẽ 《Kê Cổ Lục》 ghi nhầm vậy.)

[69] Triệu Châu tâu: “Trong địa phận có các chùa Phật, hàng năm có hơn một nghìn đồng tử xin vào chùa, kiểm tra thấy đều là con em các hộ thuế, chỉ để trốn tránh việc phục dịch của châu huyện. Đã ra lệnh cho mỗi chùa chỉ được giữ lại một hai người, còn những người không đủ điều kiện thì đều bắt về làm ruộng. Xin từ nay về sau, đồng tử xuất gia phải được độ làm tăng thì mới được miễn việc phục dịch.” Vua nghe theo.

[70] Ngày Tân Mão, lấy Nghi loan sứ, Thứ sử Nhã Châu, Nội thị phó đô tri Vương Thủ Trung làm Thiền Châu tu hà kiềm hạt, Nội điện sùng ban Lý Bảo Ý làm Đô giám, Sùng nghi phó sứ Dương Hoài Mẫn quản câu các đê phía nam sông Hoàng Hà, Nội điện sùng ban Lã Thanh quản câu các đê phía bắc sông Hoàng Hà.

[71] Phạm Trọng Yêm bị giáng chức, các quan ngự sử đều không dám nói. Bí thư thừa, Tập hiền hiệu lí Dư Tĩnh tâu: “Trọng Yêm trước đây nói việc, liên quan đến mẹ con, vợ chồng của bệ hạ, vẫn cho là hợp lễ nên được khen thưởng. Nay vì chỉ trích đại thần mà bị trách phạt nặng. Nếu lời nói của ông ấy không hợp ý bệ hạ, thì bệ hạ nghe hay không nghe là tùy, sao có thể coi đó là tội được? Cấp Ảm ở triều đình, cho Bình Tân là nhiều mưu mẹo; Trương Chiêu bàn về tướng, cho Lỗ Túc là thô lậu. Hán hoàng, Ngô chủ nghe nhiều lời chê bai, nhưng vẫn dùng cả hai mà không nghi ngờ, đâu có tổn hại đến đức lớn. Bệ hạ từ khi tự chuyên chính đến nay, đã ba lần đuổi những người dám nói, e rằng không phải là chính sách thái bình[17]. Xin đổi lại mệnh lệnh trước.” Ngày Nhâm Thìn, Dư Tĩnh bị cách chức, giáng làm Giám quản thuế rượu ở Quân Châu.

[72] Cho Nhuận Châu lập trường học.

[73] Ra chiếu cho Đô tiến tấu viện, từ nay các quan trong ngoài được phép gửi thư nhà theo dịch trạm.

[74] Giao Chỉ quận vương Lý Đức Chính sai sứ đến cống phương vật, lấy Tiến phụng sứ Hà Viễn làm Thứ sử Thuận Châu, Phó sứ Đỗ Khoan làm Thứ sử Lặc Châu.

[75] Ngày Quý Tỵ, Vua ngự điện Sùng Chính, triệu tập các quan đại thần xem bản đồ trận của Lạc Uyển sứ, Thứ sử Đoan Châu là Triệu Trấn dâng lên. Con trai ông là Hữu Ban Điện trực Tuân và Tam Ban Phụng chức Du thi võ nghệ. Cả hai đều cưỡi ngựa bắn cung, bắn hai mũi tên, giương nỏ mạnh, đánh kiếm và viết chữ, tổng cộng 27 kỹ năng. Triệu Trấn được triệu lên điện, được Vua khen ngợi trực tiếp.

Sau đó, Vua ra chiếu cho Xá Nhân viện khảo sát Tuân và Du về phương lược rồi tâu lên. Ngày Giáp Ngọ, Triệu Trấn được phong làm Thứ sử Phục Châu, Tuân được thăng làm Cáp Môn Chi hậu, Du làm Hữu Ban Điện trực.

[76] Ngày Ất Mùi, Thái tử Trung doãn, Hiệu khám Quán các là Doãn Chu bị giáng làm Chưởng thư ký Tiết độ sứ quân Sùng Tín, giám thuế rượu ở Dĩnh Châu.

Trước đó, Doãn Chu tâu rằng: “Thần thường coi Phạm Trọng Yêm là người ngay thẳng, không thay đổi, nghĩa vừa là thầy vừa là bạn. Từ khi ông bị tội, trong triều nhiều người nói thần cũng được tiến cử và bàn luận. Trọng Yêm đã bị tội vì bè phái, thần đáng lẽ cũng phải chịu tội theo. Dù ơn nước khoan dung, không chỉ tên thần, nhưng thần tự xét lòng mình, thấy xấu hổ. Huống chi Dư Tĩnh vốn không thân với Trọng Yêm mà cũng bị tội vì bè phái, thần không thể may mắn thoát tội. Xin được giáng chức để rõ phép nước.” Tể tướng nổi giận, bèn đuổi ông đi.

[77] Vua ra chiếu rằng các quan đang tại chức nếu có tang cha mẹ hoặc qua đời, trong thời hạn ruộng chức, sẽ chia cho quan quyền; nếu quan quyền chưa đến, thì cấp toàn bộ cho gia đình.

[78] Ngày Bính Thân, Vua ngự điện Sùng Chính xét tù nhân, lại mở rộng ân xá, tội lưu đày trở xuống đều được tha. Nhân đó, Vua ra chiếu cho các cơ quan từ nay tội phạm bị bắt nhưng chưa đến nơi, cũng được xét giảm tội như tù nhân hiện có; binh lính đào ngũ được miễn xăm mặt.

[79] Ngày Mậu Tuất, giáng chức Chưởng thư ký Tiết độ sứ Trấn Nam, Hiệu khám Quán các Âu Dương Tu làm Huyện lệnh Di Lăng.

Trước đó, Hữu ty Gián Cao Nhược Nột tâu: “Sau khi Phạm Trọng Yêm bị giáng chức, thần đã điều tra nguyên nhân ở nhiều nơi, xem xét những điều nghe được, thấy rằng ý chỉ trong chiếu thư khá phù hợp, nên không dám tùy tiện can thiệp cứu giúp[18].

Nay Âu Dương Tu gửi thư đến thần[19], nói rằng Trọng Yêm vốn là người cương trực, thông hiểu cổ kim, trong hàng ngũ quan lại không ai sánh bằng. Ông ta trách thần không thể biện minh cho sự vô tội của Trọng Yêm, lại còn dám mặt dày mày dạn gặp gỡ sĩ đại phu, ra vào triều đình tự xưng là quan gián, và nói rằng thần không còn biết đến sự hổ thẹn trên đời. Ông ta còn nói rằng ngày nay thiên tử và tể tướng vì bất mãn mà đuổi người hiền, bắt thần phải lên tiếng. Thần cho rằng người hiền là người mà quốc gia dựa vào để trị vì. Nếu bệ hạ vì bất mãn mà đuổi họ, thần phải can gián; nếu tể tướng vì bất mãn mà đuổi họ, thần phải tranh luận.

Thần ngu muội cho rằng Phạm Trọng Yêm trước đây vì bàn luận việc quá thẳng thắn nên được vội vàng thăng chức, nay lại vì lời nói ngông cuồng mà tự chuốc lấy sự trách phạt, há có thể nói là vô tội? Sợ rằng trong ngoài nghe được, sẽ cho rằng thiên tử vì bất mãn mà đuổi người hiền, tổn hại không nhỏ. Xin hãy lệnh cho hữu ty triệu Âu Dương Tu đến để răn dạy, tránh làm mê hoặc dư luận.”

Do đó, ông ta dâng thư của Âu Dương Tu lên. Âu Dương Tu vì thế mà bị giáng chức.

Thôi quan Lưu thủ Tây Kinh là Thái Tương ở Tiên Du làm bài thơ “Tứ hiền nhất bất tiêu”, được truyền tụng thời bấy giờ. Tứ hiền chỉ Trọng Yêm, Tĩnh, Chu, Tu, còn bất tiêu là chỉ trích Nhược Nột. Thông phán Tứ Châu là Trần Khôi sau đó dâng sớ, xin truy cứu tội người làm thơ. Tả ty Gián Hàn Kỳ hặc tội Khôi vượt quyền cầu ân, nên trừng phạt nặng để ngăn chặn nịnh hót, nhưng không được trả lời, việc của Thái Tương cũng lắng xuống.

[80] Chiếu rằng: “Gần đây Hình bộ định rằng các huyện lệnh, huyện úy bắt được cướp, nếu không phải do tự mình bắt được, thì đều không hợp cách, điều đó rất không phải là cách khuyến khích. Từ nay, ai có thể bày mưu kế sai người bắt giết được cả bọn bảy người, không cả bọn mười người, và những kẻ hung ác ba người trở lên, nên theo loại mà ban thưởng.”

[81] Cho phép Chân Châu lập trường học, và cấp năm khoảnh ruộng.

[82] Ngày Bính Ngọ, chiếu cho Thiền Châu tạm ngừng việc đắp đê ngăn sông Hoành Lũng. Từ đó sông chảy về phía đông bắc, không còn theo dòng cũ, điều động Tu hà đô giám Dương Hoài Mẫn chuyên trách việc bảo vệ đê vàng ở phủ Đại Danh.

(‘Từ đó sông chảy về phía đông bắc, không còn theo dòng cũ’, việc này căn cứ theo sách 《Kỷ Cổ Lục》 ghi chép vào tháng tám năm ngoái ngày Mậu Thìn. Năm sau, Tào ty Hà Bắc lại tấu xin cấp sớm tiền lương để tu sửa đê ngăn sông Hoành Lũng, không rõ vì sao.)

[83] Trước đó, các quan Đài gián nhiều lần nói về được mất của chính sự, Tể tướng Lữ Di Giản chán ghét điều đó.

Phó đô bộ thự Thương Châu là Lưu Bình, trước đây ở Định Châu bị Chuyển vận sứ Tô Kỳ hặc tội, bị cách chức quân vụ, trong lòng không phục, bèn dâng sớ nói: “Thần thấy Phạm Trọng Yêm và những người khác chê bai đại thần, ắt có người quan trọng chỉ đạo Phạm Trọng Yêm và những người khác, muốn đuổi đại thần để thay thế vị trí của họ. Thần vào triều Chân Tông làm Ngự sử, nhìn lại những người cùng thời, chưa từng nghe có bè đảng gian tà và những kẻ giả trá bán thẳng như thế. Thần với văn chương nông cạn, kỹ năng mỏng manh, ngẫu nhiên được trọng dụng, không hiểu rõ điển chế triều đình, mà những người bàn việc lại lấn sâu, đến cả tướng hiệu quản quân[20].

Hơn nữa, việc thăng giáng của võ quan khác với nho thần, nếu bới móc khuyết điểm, vu cáo bậy bạ, thì lòng người dao động mà oán hận kết lại. Mong rõ ràng dạy bảo các quan Đài gián, không được vượt quyền. Cũng không cho phép tiến cử lẫn nhau, nếu thiếu người, thì triều đình tự chọn người trung thành thuần hậu, có đức lớn mà dùng.” Sớ của Lưu Bình là để chiều ý Lữ Di Giản.

(Sớ của Lưu Bình không rõ thời gian, nay phụ vào tháng Phạm Trọng Yêm và những người khác bị cách chức.)

[84] Chủ bạ Quang lộc tự là Tô Thuấn Khâm dâng sớ nói:

“Xem xét các bậc thánh thần đời trước, đều thích nghe lời nói thẳng. Bởi vì bốn biển rộng lớn, dân chúng có những điều ẩn khuất, không thể soi chiếu khắp nơi. Vì vậy, không bỏ qua lời nói của kẻ ngu hèn, chọn lọc mà dùng, từ đó triều đình không có chính sách sai lầm, sự việc không bị che giấu, dẫu có nịnh thần, mưu đồ xấu cũng không thể tiến cử được.

Thần thấy chiếu thư ngày Đinh Hợi, răn cấm việc vượt chức mà tâu việc, truyền bá khắp nơi, khiến mọi người đều kinh ngạc, bàn tán xôn xao, e rằng không phải xuất phát từ ý của bệ hạ. Bởi từ khi bệ hạ lên ngôi, đã nhiều lần ban chiếu cho quần thần, cầu xin lời nói thẳng, khiến trăm quan luân phiên tâu bày, đặt hòm thư, thiết lập khoa cử trực ngôn cực gián. Nay chiếu thư đột nhiên khác hẳn trước, há chẳng phải do đại thần che lấp sự thông minh của bệ hạ, bịt miệng người trung lương, không chỉ làm tổn hại chính sự triều đình, mà thực sự cũng tự chuốc lấy con đường diệt vong.

Việc thu nhận điều thiện, tiến cử người hiền, là trách nhiệm của tể tướng, che lấp Vua, tự ý làm việc, chưa từng không dẫn đến diệt vong. Nay các quan gián, ngự sử, đều xuất thân từ cửa họ, chỉ cần thuận theo ý chỉ, liền được chức vụ tốt. Nhiều kẻ sĩ đầy triều đình, nhưng đều im lặng không dám nói. Bệ hạ ngồi yên lặng, làm sao có thể nghe hết được việc thiên hạ?

Trước đây, Khổng Đạo Phụ, Phạm Trọng Yêm là người cương trực không khuất phục, giữ chức vụ đài gián, sau dù đổi sang chức khác, vẫn không quên dâng lời tâu bày. Hai vị ấy, không phải không biết rằng nếu im lặng vài năm, sẽ được làm khanh tướng. Chỉ vì không dám phụ lòng bệ hạ ủy thác, mà đều bị trúng kế, bị đày đi xa, khiến bậc chính thần mất khí thế, kẻ sĩ cứng cổ không dám nói, mắt thấy thời cuộc suy đồi, miệng không dám bàn luận.

Xưa Tấn Hầu hỏi Thúc Hướng rằng: ‘Nỗi lo của quốc gia, điều gì là lớn nhất?’ Thúc Hướng đáp: ‘Đại thần giữ bổng lộc mà không can gián, tiểu thần sợ tội mà không dám nói, tình hình dưới không thông lên trên, đó là nỗi lo lớn nhất.’ Vì vậy, Hán Văn Đế cảm động bởi lời của một người phụ nữ mà bãi bỏ hình phạt xẻo thịt; Vũ Đế nghe theo lời khuyên của ba bậc lão thành mà giết cả họ Giang Sung. Hình phạt xẻo thịt là luật cổ, Giang Sung là cận thần, còn người phụ nữ và các bậc lão thành đều là những kẻ ngu muội, già cả, xa cách. Nhưng vì nghĩa lý ở đó[21], kẻ thấp hèn không thể coi thường, hai vị Vua nghe theo, được đời sau ca ngợi là thánh nhân.

Huống chi quốc gia ban bố tước vị, sắp xếp hào kiệt, vốn nên yêu cầu họ trung thành, sao có thể dạy họ im lặng! Thưởng để khuyến khích can gián, còn sợ họ không nói, nếu trị tội những kẻ dám nói, ai sẽ dâng lời? Tình hình bế tắc, vị trí trên cao trở nên cô lập nguy hiểm. Nghĩ đến điều này, thật đáng lo sợ!

Mong bệ hạ ban bố ân đức, hủy bỏ chiếu chỉ trước, siêng năng tiếp thu ý kiến, kể cả từ những kẻ thấp hèn, để có thể giữ vững thái bình, bảo vệ những người thân cận. Nếu chiếu chỉ chưa bị hủy bỏ, thói lừa dối thành phong, thì không chỉ dưới triều đình xa cách ngàn dặm, mà còn sợ rằng chuyện ‘chỉ hươu bảo ngựa’ sẽ lại xuất hiện nơi triều đình.”

(《Quốc Sử》 truyện Tô Thuấn Khâm và 《Tô Thuấn Khâm Tập》 đều gọi là chiếu thư năm Ất Hợi, sai lầm vậy, nay sửa lại[22].

《Tô Thuấn Khâm Tập》 nói rằng bản tấu này dâng lên vào ngày 28 tháng 5, nay phụ lục vào cuối tháng. Xét năm Cảnh Hữu thứ nhất, Tô Thuấn Khâm đỗ đạt, được bổ nhiệm làm Quang Lộc Chủ Bạ, tri huyện Mông Thành, tháng giêng năm thứ hai để tang cha, tháng 5 năm thứ ba dâng bản tấu này, chỉ mới chịu tang được một năm. Dám bàn việc trong lúc tang chế, các bậc tiền nhân không chê trách, vì sao vậy? Cần xem xét.)

[85] Ngày Mậu Thân tháng 6 (mùng một), cho phép châu Việt lập trường học, cấp thêm 5 khoảnh ruộng.

[86] Ban tặng áo quần cho binh lính làm việc ở các châu quận ven sông.

[87] Ngày Kỷ Dậu, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Chương Đắc Tượng cùng các quan dâng lên quy chế thi cử và phát giải khoa trường, được ban hành xuống các cơ quan liên quan.

[88] Lệnh cho quan lại hiệu đính lại sách âm dương và địa lý.

[89] Chiếu chỉ rằng từ nay, những người được cử làm sứ thần giữ chức Cáp môn kỳ hậu phải đạt tiêu chuẩn bắn cung bộ lực 9 và bắn cung ngựa lực 7, sau đó gửi đến Tam ban viện để xem xét việc biên cương, rồi mới được thi lại trước triều đình.

[90] Ngày Canh Tuất, vì Hà Bắc lâu ngày hạn hán, sai quan đến Bắc Nhạc cầu mưa.

[91] Ngày Nhâm Tý, cho phép Giai Châu lập trường học và cấp 5 khoảnh ruộng.

[92] Ngày Giáp Dần, Lưu nội tuyển tâu rằng những người được tuyển chọn thi luật và xử án, nếu đã đạt tiêu chuẩn về luật nghĩa, cần phải xử thêm một vụ án thông suốt hoặc hai vụ án tạm được, mới được bổ nhiệm vào chức vụ thuận lợi. Triều đình đồng ý.

Lại tâu: “Những người được tuyển chọn có đủ tư cách để bổ nhiệm vào chức vụ xa ở Tây Xuyên, nếu có người thân đang làm quan ở đó, xin tạm dừng bổ nhiệm chức vụ xa, tạm thời chuyển đến nơi gần, đợi khi người thân được thay thế, mới bổ nhiệm vào chức vụ xa. Ngoài ra, nếu cha mẹ chưa đến 70 tuổi mà đã xưng là già yếu không có người phụng dưỡng, xin được giảm tư cách để bổ nhiệm vào chức vụ gần, pháp luật cũng cho phép. Từ nay, những người được tuyển chọn phải vào chức vụ xa ở Tây Xuyên mà có người thân được thay thế, sẽ lập tức chuyển bổ nhiệm; những người xin giảm tư cách để bổ nhiệm vào chức vụ gần, phải là cha mẹ thực sự trên 70 tuổi mới được thực hiện.” Triều đình đồng ý.

[93] Ngày Bính Thìn, lấy sách nhạc mới biên soạn làm 《Cảnh Hựu Quảng Lạc Ký》[23].

[94] Ngày Đinh Tỵ, Cao Vĩnh Tích, Giám áp huyện Định Hồ, Châu Thạch, chức Hữu thị cấm, được thăng làm Tây đầu cung phụng quan. Vì Vĩnh Tích đã chiến đấu với giặc phiên, chém được một thủ lĩnh, nên được đặc cách thăng chức.

[95] Ngày Nhâm Tuất, cấm dùng da lộc thai làm mũ.

[96] Ngày Giáp Tý, cho phép Chân Định phủ, Bác Châu và Dĩnh Châu lập trường học, mỗi nơi cấp 5 khoảnh ruộng.

[97] Ngày Bính Dần, Lễ tân phó sứ Đặng Bảo Tín dâng lên thước nhạc và ống sáo do ông chế tạo, và nói rằng phép đo này căn cứ theo 《Hán Chí》, có thể dùng để hợp với luật, độ, lượng, hoành. Chiếu chỉ cho Phùng Nguyên, Niếp Quán Khanh và Tống Kỳ cùng hiệu đính rồi tâu lên.

[98] Ngày Mậu Thìn, ban chiếu rằng các quan lại chiếm nhiều ruộng chức, hoặc thu thêm tô, thì tính tội theo tang vật; nếu vốn không có ruộng mà bắt dân phải nộp, thì xử theo tội uổng pháp.

[99] Ngày Nhâm Thân, thủ lĩnh châu Nam Đan là Mạc Hoài Khiết dẫn cả họ đến quy phụ, ban chiếu cho làm Phó sứ Đoàn luyện châu Hồ Nam, không quản việc công, nhưng vẫn được ưu đãi.

[100] Ty Chuyển vận Giang Tây tâu rằng mưa lâu ngày, nước sông dâng cao, làm hư hại thành quách và nhà cửa của các châu Kiền, Cát. Ban chiếu cấp tiền cho các gia đình bị nạn lụt, số lượng khác nhau.

[101] Ngày Giáp Tuất, Lang trung Công bộ, kiêm Thị ngự sử tri tạp sự Tư Mã Trì tâu: “Các quan văn vũ tuổi đã bảy mươi, xin đều cho tự tâu xin về hưu, theo lệ cũ thì cho một con làm quan, như quan phân ty thì cấp đủ bổng lộc. Nếu không tự tâu, thì cho Ngự sử đài xét tâu. Đặc biệt cho về hưu, không cho con làm quan và đủ bổng lộc. Những người đã từng tự tâu, có chiếu đặc biệt lưu lại, thì không thuộc trường hợp này. Như vậy để giảm bớt nhân viên thừa, khuyến khích làm việc. Lại xin các quan văn dưới quyền Thẩm quan viện, theo lệ cũ lần lượt báo tuổi tác và gia cảnh lên đài, các quan võ dưới quyền Xu mật viện, Tuyên huy viện cũng theo đó. Các nơi khác lấy ngày nhận chiếu làm mốc. Hết hạn mà không tâu xin, cũng cho Ngự sử đài xét tâu, ban chiếu niêm yết ở triều đường.”


  1. Chữ 'tiễn' trong 'hai mươi mốt cọc tính giờ ngày đêm' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống, bản các và quyển 79 phần Luật lịch chí trong 《Tống sử》 để bổ sung
  2. Châu Lượng nguyên bản là 'Lược châu', căn cứ vào 《Thông khảo》 quyển 330, phần Tứ di khảo và 《Tống sử》 quyển 488, phần Ngoại quốc truyền sửa lại.
  3. Chữ 'cập' trong 'Thạch Tây châu cập chư động' nguyên bản là 'hựu', căn cứ vào bản các và sách trên sửa lại.
  4. 'Sắc dịch' nguyên bản là 'miễn dịch', căn cứ vào bản các sửa lại.
  5. Chữ 'vật' trong 'vật phóng xuất thành' nguyên bản là 'câu', căn cứ vào bản các sửa lại.
  6. 'Trung doãn' nguyên bản là 'trung thư', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 chức quan 64-35 sửa lại.
  7. Chiếu chỉ lệnh Thẩm quan viện theo lệ xét duyệt, 'Thẩm quan viện' nguyên là 'Thẩm hình viện', chữ 'y' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 chức quan 11-12 sửa bổ sung.
  8. 'Không tốn kém', bản Tống và bản các đều viết 'không tiền', 《Tống sử》 quyển 184 phần Thực hóa chí, 《Tấu nghị》 quyển 263 phần Lý tài tắc đều viết 'nhiều tiền'.
  9. 'lung thủ' nguyên bản là 'Lũng thủ', theo bản Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 45 về pháp trà, 《Thông khảo》 quyển 18 về chính sách thuế khóa sửa lại.
  10. 'Xuất', 'số' hai chữ nguyên bản đảo ngược, theo sách trên sửa lại.
  11. Chữ 'hương' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản các và 《Tống sử》 quyển 184, 《Thực hóa chí》 bổ sung.
  12. 'Thập' nguyên bản là 'nhất', theo sách trên sửa lại.
  13. một năm rưỡi phải trả hết 'năm rưỡi', Biên niên cương mục quyển 10, Tống sử quyển 184 Thực hóa chí đều chép là 'nửa năm'.
  14. Theo 《Phạm Văn Chính Công Tập》 quyển 19, bài 'Luận Tây Kinh Sự Nghi Tráp Tử', câu này có thêm bốn chữ 'Dĩ thị đức dã'.
  15. Chữ 'kị' trong câu 'đại thần quyền hãnh đa kị ác chi' vốn bị thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 20 bài minh bia thần đạo của Tư chính điện học sĩ Hộ bộ Thị lang Văn chính Phạm công, cùng 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 37 điều về Phạm, Dư, Doãn, Âu kế tiếp nhau xuất hiện để bổ sung.
  16. 'Thoan' nguyên bản viết là 'Chuý', căn cứ vào các bản khác mà sửa lại.
  17. 'chính' nguyên là 'trí', theo 《Cương mục bị yếu》 quyển 10, 《Tống sử toàn văn》 quyển 7 hạ, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 37 Phạm Dư Doãn Âu kế xuất điều sửa lại.
  18. Không dám tùy tiện can thiệp cứu giúp 'Nhân', các bản Tống, các bản và bản hoạt tự đều viết là 'Cố'.
  19. Nay Âu Dương Tu gửi thư đến thần 'Để' nguyên là 'Để', căn cứ vào bản Tống, các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 64.36 sửa lại.
  20. 'tướng hiệu' nguyên là 'hiệu tướng', căn cứ theo các bản và 《Cương Mục Bị Yếu》 quyển 10, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 37, điều Phạm Dư Doãn Âu Kế Xuất sửa lại.
  21. 'Cái' nguyên là 'khải', căn cứ theo 《Tô Học Sĩ Văn Tập》 quyển 11 《Khất Nạp Gián Thư》, 《Tống Sử》 quyển 442 《Tô Thuấn Khâm Truyện》 sửa lại.
  22. 'Cải' nguyên là 'khảo', căn cứ theo các bản, bản hoạt tự và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》, 《Tục Thông Giám》 quyển 40 sửa lại.
  23. Chữ 'quảng' trong 'Cảnh Hựu Quảng Lạc Ký' vốn bị thiếu, theo bản Tống và 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 7 hạ, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 31 bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.