IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 119: NĂM CẢNH HỮU THỨ 3 (BÍNH TÝ, 1036)
Từ tháng 7 đến tháng 12 năm Cảnh Hữu thứ 3 đời Nhân Tông.
[1] Tháng 7 mùa thu, ngày Kỷ Mão, xây dựng mới đạo quán Diên Ninh. Đạo quán này vốn là phủ cũ của Vương Trung Chính, Thái hậu Bảo Khánh đã dùng của cải riêng trong hòm trang sức để mua đất xây dựng. Ban đầu có chiếu chỉ ngừng việc tu sửa chùa chiền, đạo quán, đến lúc này, các quan Gián quan và Ngự sử dâng lời can gián.
Vua nói với các đại thần: “Đây là của cải riêng trong hòm trang sức của Thái hậu. Các quan Gián quan và Ngự sử muốn mưu cầu danh tiếng chăng?”
Tham tri chính sự Tống Thụ tâu: “Họ đâu biết việc Thái hậu làm, chỉ thấy việc xây dựng trái với chiếu chỉ gần đây nên mới tấu trình. Hơn nữa, việc có điều gì khả nghi[1], họ còn chỉ ra cho là lỗi, huống chi nếu bệ hạ có sai lầm lớn, các quan cận thần dù không nói, tự nhiên cũng sẽ truyền đi khắp nơi, làm tổn hại đến chính sự thánh minh, sao có thể xem nhẹ được? Thái Tổ từng nói Đường Thái Tông bị các quan can gián chê trách, nhưng không lấy làm xấu hổ. Sao bằng hành động không quá mức, khiến họ không có gì để nói! Mệnh lệnh đã ban ra, chỉ mong bệ hạ tự giữ lấy, đừng để có cơ hội mưu cầu danh tiếng.”
[2] Trước đây, Tôn Thích giữ chức Thái thường, căn cứ theo điển lễ triều đình nhà Đường, soạn sách 《Sùng Tự Lục》 20 quyển, chưa kịp dâng lên thì qua đời. Con trai ông là Điện trung thừa Tôn Du dâng biểu trình lên. Vua ban chiếu đưa sách vào Sử quán.
[3] Châu Ung tâu rằng người Man ở động Thân thuộc Giao Châu quấy nhiễu biên giới. Vua ban chiếu trách hỏi Lý Đức Chính và ra lệnh bắt thủ lĩnh để trị tội rồi báo lên.
(Việc này có lẽ cùng một sự kiện được ghi vào ngày Nhâm Thân tháng 2, chỉ là cách trình bày của Ty Chuyển vận Quảng Tây và châu Ung khác nhau mà thôi.)
[4] Những tội nhân được tha tội chết, trước đây thường bị đày ra đảo Sa Môn (Điểu Sơn), (Điểu Sơn) nằm ngoài biển thuộc châu Đăng, người đến đó phần nhiều chết. Ngày Tân Tỵ, ban chiếu rằng những người đáng bị đày ra đảo Sa Môn (Điểu Sơn) thì chỉ đày đến các trại giam ở vùng xa xôi hiểm trở thuộc Quảng Nam. Còn tội nhân ở Quảng Nam thì đày ra phía bắc dãy núi, về sau cũng có người bị đày ra đảo Sa Môn (Điểu Sơn).
[5] Ngày Ất Dậu, Hàn lâm Thị độc học sĩ Phùng Nguyên dâng sách 《Kim Hoa Ngũ Châm》, Vua ban chiếu khen ngợi và đáp lại.
[6] Ngày Đinh Hợi, Công bộ Lang trung Vương Chẩn được bổ nhiệm làm Trực bí các. Chẩn dâng lên bộ sách do mình soạn là 《Ngũ triều Xuân Thu》 gồm 25 quyển, được đặc cách thăng chức.
[7] Cấm dân gian tự ý sao chép các sách biên soạn về hình luật và không được khắc in.
[8] Ngày Mậu Tý, Hàn lâm Thị giảng học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Lễ bộ Thị lang Phùng Nguyên[2], Độ chi Phán quan, Công bộ Lang trung, Tập hiền Hiệu lý, Đồng tu Khởi cư chú Niếp Quán Khanh, Thái thường Bác sĩ, Trực sử quán Tống Kỳ cùng các người khác, dâng lên bộ sách 《Cảnh Hữu Quảng Lạc Ký》 gồm 81 quyển.
Ngày Kỷ Sửu, phong Phùng Nguyên làm Hộ bộ Thị lang, Niếp Quán Khanh làm Hình bộ Lang trung, Trực Tập hiền viện, Tống Kỳ làm Công bộ Lang trung.
[9] Ngày Canh Dần, Hữu Gián nghị đại phu, Tập hiền viện học sĩ Tôn Xung dâng lên bộ sách do mình soạn là 《Ngũ Đại Kỷ》 gồm 77 quyển, được ban chiếu khen ngợi.
[10] Ngày Ất Mùi, lần đầu thiết lập Đại tông chính ty, phong Ninh Giang Tiết độ sứ Doãn Nhượng làm Tri đại tông chính sự, Chương Hóa Lưu hậu Thủ Tiết làm Đồng tri đại tông chính sự, lại ban tặng khí tệ, áo mặc, đai vàng và ngựa. Lúc này con cháu các vương rất đông, đã tụ tập ở Mục thân trạch, nên chọn một người trong số hậu duệ của tổ tiên để phụ trách việc huấn đạo, sửa chữa lỗi lầm. Mọi chính lệnh trong tông tộc đều phải qua tâu trình, không được tự ý quyết định, trước tiên phải xem xét kỹ lưỡng rồi mới tâu lên.
(《Kỷ văn》 chép rằng Doãn Nhượng quản câu tông chính sự, đã được xác minh vào tháng 11 năm thứ hai khi tông thất đổi sang chức quan Tây ban. 《Bản chí》 nói rằng Đại tông chính ty được thiết lập vào năm Cảnh Hữu thứ hai, 《Hội yếu》 nói rằng vào đầu niên hiệu Khánh Lịch, đều là sai lầm.)
[11] Tiền Quyền Tô Châu Quan sát chi sứ Lưu Văn tự tâu rằng mình nhờ cha mà được làm Thái miếu Trai lang, trải qua 13 lần khảo xét không có lỗi lầm, xin đổi sang chức võ. Ngày Đinh Dậu, được bổ làm Tây đầu Cung phụng quan. Cha của Văn là Hậu Đức từng làm Tri châu Trác, là người đã dẫn đầu quan lại và dân chúng quy thuận triều đình.
[12] Khai Phong phủ tâu bắt được tên đào binh Trương Hưng, thường tụ tập đồng bọn ẩn nấp trong mương trước nội thành, gọi là Vô Ưu Động, xin tu sửa và đóng cửa các cửa mương trong và ngoài kinh thành, được chấp thuận.
[13] Ngày Kỷ Hợi, sai Hàn lâm học sĩ Đinh Độ, Tri chế cáo Tư Yển, Trực sử quán Cao Nhược Nột, Trực tập hiền viện Hàn Kỳ cùng xem xét định lại thước kê và luật chuông.
[14] Trả lại ruộng đất và nhà cửa ở Hoài Châu đã tịch thu của gia đình Lư Đa Tốn.
[15] Ngày Canh Tý, chùa Thái Bình Hưng Quốc bị cháy. Đêm đó, mưa lớn kèm sấm chớp, lửa bốc lên từ gác chùa, thiêu rụi điện Khai Tiên và hàng trăm gian nhà chùa.
[16] Ngày Tân Sửu, sai quan xét xử các tù nhân ở ba kinh và vùng phụ cận, những người phạm tội từ tội chết trở lên giảm một bậc, tội đồ trở xuống được tha. Những người bị bắt vì vụ cháy chùa Thái Bình Hưng Quốc được đặc xá.
Triều đình bắt đầu bàn việc tu sửa những nơi bị cháy, Sùng Chính điện thuyết thư Giả Xương Triều tâu: “Quẻ Chấn trong 《Kinh Dịch》 nói: ‘Sấm sét liên tiếp, người quân tử lấy đó để lo sợ mà tu sửa bản thân.’ Ý chỉ của sáu hào đều là tự cảnh giác, mới tránh được tai họa. 《Xuân Thu truyện》 nói: ‘Lửa do người gây ra gọi là hỏa, lửa do trời gây ra gọi là tai.’ Thần nghĩ những năm gần đây chùa chiền liên tiếp bị cháy[3], đây có lẽ là trời giáng điềm cảnh cáo, chỉ nên không tu sửa, để tỏ lòng kính sợ trời và tiết kiệm sức dân.” Được chấp thuận.
[17] Ngày Quý Mão, chiếu cho Viện Thẩm quan từ nay các viên ngoại lang làm tri châu, thông phán không được cử lang trung; bác sĩ làm tri châu, không được cử viên ngoại lang; còn lại không bắt buộc.
[18] Chùa Phổ Tế mới xây ở Tứ Châu hoàn thành. Chiếu cấp 10 khoảnh ruộng, do Thái hậu Bảo Khánh bỏ tiền xây dựng.
[19] Tháng 8, ngày Đinh Mùi, đặt chức Đô giám binh mã trú bạc ở lộ Quảng Nam Tây.
[20] Châu Hoạt tâu Tiết độ sứ Kiến Hùng Cao Kế Huân mất.
Kế Huân tính tình khiêm tốn, cẩn trọng, có mưu lược, giỏi vỗ về quân sĩ, ra trận chưa từng thất bại. Ở Thục có uy danh, được gọi là thần tướng. Khi làm tri châu Hoạt, gặp lúc nước sông dâng cao đe dọa đê, Kế Huân tuy già vẫn đốc thúc quân lính đêm xuống cọc, ngồi trần trên bờ sông, nước rút, dân Hoạt cảm kích.
[21] Ngày Mậu Thân, điều chuyển Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, Binh bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế Vương Duyên làm Tri châu Hoạt[4].
Trước đó, triều đình định giảm bớt quân đồn trú, đưa về nội địa để tiện việc ăn uống, hạ chiếu bàn bạc với các chức Tri châu, Bộ thự, Kiềm hạt. Vương Duyên liền tấu xin giảm vài vạn quân, Tri Xu mật viện Lý Tư cho là không nên. Lại hạ lệnh cho các chức Duyên biên đô giám bàn bạc, Vương Duyên dâng sớ nói: “Việc binh cơ nên quyết định ở trên triều đình, há lại nghe theo kẻ tiểu nhân sao?” Lý Tư tức giận vì lời ấy, tấu xin bãi chức ông.
[22] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu rằng: “Nhà của sĩ thứ trong thiên hạ, nhà cửa không phải là để điếm, lầu các giáp đường chợ, không được làm bốn mái và đấu bát[5]. Không phải quan phẩm thì không được dựng cổng nhà. Không phải cung thất, chùa chiền thì không được vẽ màu lên rường cột và sơn đen đỏ lên xà cột, cửa sổ, chạm khắc chân cột.
Đồ dùng, không được sơn đỏ và sơn vàng cả trong lẫn ngoài, phía dưới không được lót màu đỏ. Không phải quan tam phẩm trở lên và nhà tông thất, thân thích thì không được dùng đồ dùng khảm vàng; dùng đồ khảm bạc thì không được mạ vàng. Không phải trong cung cấm thì không được dùng đồ dùng bằng mai rùa; nếu là đồ bằng vàng nguyên chất, đã từng được ban tặng thì được phép dùng.
Phụ nữ có phẩm hàm được phép dùng vàng làm đồ trang sức, như trâm, vòng, xuyến, hoa tai, vòng tay, nhưng không được làm hình cá sấu[6], cá bay, hoặc các hình kỳ lạ bay lượn như hình rồng[7]; dùng bạc thì không được mạ vàng. Nhà không phải phụ nữ có phẩm hàm thì không được mặc đồ có ngọc trai. Màn, rèm, liễn, giường không được dùng toàn gấm vóc.
Nhà tông thất, thân thích không được dùng vải đỏ phủ lên hòm trà, hộp thức ăn. Xe của quý tộc không được sơn đỏ và vẽ ngũ sắc, được phép sơn đen và điểm xuyết ngũ sắc. Nhà dân không được dùng kiệu và dùng roi bạc dẫn đường, kiệu không được quá hai người khiêng.
Không phải quan tứ phẩm trở lên thì không được đeo đai vàng, đã từng được ban tặng thì được phép đeo. Không phải quan ngũ phẩm trở lên thì không được dùng yên ngựa bạc trang trí; người dùng yên ngựa mạ vàng bạc, dây cương trang trí[8], từ quan văn võ thăng triều và chức nội trong cấm quân chỉ huy sứ, các ban áp ban, sương quân đô ngu hậu, phó sứ phòng đoàn trở lên được phép dùng, nhưng không được dùng dây màu xanh, da trắng làm yên cương.
Dân thường dùng yên bằng da, lông, lụa, quan kinh đô làm thông phán trở lên được phép tạm theo lệ của quan thăng triều.
Người vi phạm, chủ vật và thợ bị xử tội vi chế, thợ bị xăm mặt và đày sang châu khác, người tố cáo được thưởng năm vạn tiền. Quá trăm ngày mà không thay đổi hoặc hủy bỏ thì bị trị tội. Tuyên Huy viện, Ngự Sử đài, Cáp Môn, Tả Hữu Kim Ngô Nhai ty, Khai Phong phủ cử báo lên.”
Sau đó lại ban chiếu rằng các đồ dùng bằng đồng và đồ trang trí bằng thau của các cơ quan không được mạ vàng.
[23] Ngày Canh Tuất, Tri đại tông chính sự Doãn Nhượng và các quan xin từ nay các tông thất mỗi khi tan triều đều về vị trí của mình để nghe đọc sách, Vua đồng ý.
[24] Ngày Giáp Dần, lấy Thẩm hình viện Tường nghị quan, Điện trung thừa Vương Quả làm Y khố phó sứ. Trước đó, Quả dâng thư trình bày sách lược chọn tướng phòng thủ biên giới, được triệu đến thử việc ở Xá nhân viện rồi bổ nhiệm.
[25] Cho phép lập trường học ở Tịnh châu.
[26] Lại bộ Lưu nội tuyển định rõ việc các quan trong ngoài mỗi năm tiến cử Mạc chức, Châu huyện quan: từ nay Đãi chế, Quan sát sứ trở lên tiến cử ba người, Tri tạp Ngự sử, Cáp môn sứ trở lên tiến cử hai người, Thị ngự sử, các Ty sứ trở lên tiến cử một người. Còn Chuyển vận sứ phó, Đề điểm hình ngục thì không hạn chế số người, trước đây phải tiến cử ba người thì nay chỉ cần một người, nhưng phải có sự tiến cử của Trưởng lại Giám ty bản bộ và Thông phán mới được xét duyệt.
[27] Ngày Bính Thìn, lấy Tả chánh ngôn, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn Tống Kỳ làm Khiết Đan sinh thần sứ, Lễ tân phó sứ Vương Thế Văn làm phó. Công bộ Lang trung, Phán Hộ bộ Câu viện Lý Tông Vịnh làm Chánh đán sứ, Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Thôi Chuẩn làm phó.
[28] Ngày Mậu Ngọ, cho Chiêu tiễn ban thuộc vào Đông Tây ban.
[29] Ra chiếu cho Phủ châu chiêu mộ con em các bộ tộc, từ nay chiêu mộ được năm mươi hộ trở lên thì bổ làm Chỉ huy sứ. Trước đây phải chiêu mộ được tám mươi hộ mới được bổ, vì số lượng nhiều khó đạt được.
[30] Trước đó, Tri Kỳ châu, Ngu bộ Viên ngoại lang Vương Mông Chính cố tình kết tội chết cho Tri Kỳ Thủy huyện, Thái thường Bác sĩ Lâm Tông Ngôn, Vua sai Điện trung Thị ngữ sử Tiêu Định Cơ đến xét án. Định Cơ bảo các lại theo hầu là Thái Ngung rằng: “Mông Chính ắt sẽ hối lộ các ngươi, các ngươi cứ nhận rồi báo ngay cho ta.” Quả nhiên Mông Chính hối lộ Ngung ba trăm vạn, Định Cơ nhờ đó mà xử án chính xác.
Ngày Canh Thân, giáng Mông Chính làm Hồng châu Biệt giá, Chuyển vận sứ bản lộ là Tương Đường vì không xét kỹ việc tiến cử nên bị giáng làm Tri Việt châu, Phó sứ Ngô Tuân Lộ làm Tri Hồng châu, Đề điểm hình ngục Từ Việt làm Tri Lư châu, Đồng Đề điểm hình ngục Triệu Nhật Tuyên làm Hàng châu Đô giám.
Vua muốn phong quan cho một con của Định Cơ, Định Cơ nhường cho Ngung, bèn bổ Ngung và ba người khác làm Tam ban tá chức, Điện thị, Sai sứ.
[31] Ngày Tân Mùi, Tam ty sứ, Hình bộ Thị lang Trình Lâm được thăng làm Lại bộ Thị lang; Sùng nghi sứ, Anh Châu Thứ sử, Nhập nội Phó đô tri Trương Vĩnh Hòa được lĩnh chức Quý Châu Đoàn luyện sứ; Dẫn tiến Phó sứ Vương Khắc Cơ được làm Tây thượng các môn sứ, đều vì việc xây dựng Mục Thân trạch đã hoàn thành. Các quan giám đốc công việc và những người dưới quyền đều được ban thưởng theo thứ bậc.
[32] Ngày Giáp Tuất, Hộ bộ Viên ngoại lang kiêm Thị ngự sử Tri tạp sự Diêu Trọng Tôn tâu: “Gián nghị đại phu là chức quan lấy việc can gián làm danh, vốn là chức vụ được triều đình tuyển chọn, không thể dựa vào thâm niên mà thăng tiến. Hiện nay có mười hai vị Gián nghị đại phu, từ các vị khanh của các tự đến các Lang trung thuộc Tiền hành có ba mươi lăm người, những người kiêm nhiệm chức vụ gần gũi không tính vào số này. Nếu tất cả đều dựa vào thâm niên mà thăng tiến, e rằng trong vòng năm đến bảy năm, số lượng Gián nghị đại phu sẽ càng tăng thêm. Xin từ nay trở đi, hãy chọn những người có danh tiếng và uy tín để bổ nhiệm, còn những người khác chỉ thăng chức trong phạm vi các chức khanh, giám.” Chiếu chỉ rằng những người được bổ nhiệm phải trình bày đầy đủ lý lịch và thứ tự để xét duyệt.
[33] Hữu ty Gián, Trực tập hiền viện Hàn Kỳ tâu:
“Âm nhạc khởi nguồn từ tâm con người, vì vậy khi tình cảm vui buồn giận hờn của con người cảm ứng với sự vật, thì âm thanh nhanh chậm, cao thấp sẽ theo đó mà ứng hiện, không phải do nhạc cụ tự nhiên tạo ra. Vì thế Khổng Tử nói: ‘Nhạc là gì? Nhạc là gì? Chẳng qua là tiếng chuông trống mà thôi!’ Mạnh Tử khi đối đáp với Tề Tuyên Vương cũng nói rằng nhạc ngày nay cũng giống như nhạc thời xưa, nếu có thể cùng vui với trăm họ, thì nhạc xưa nay đều như nhau. Đường Thái Tông nghe nhạc mới của Tổ Hiếu Tôn, bèn nói rằng việc chế tác lễ nhạc là do thánh nhân dựa vào sự vật mà đặt ra giáo hóa, sự hưng thịnh hay suy vong của việc trị nước cũng không phải do nhạc mà ra. Ngụy Văn Công đối đáp rằng nhạc nằm ở sự hòa hợp của con người, không phải do âm điệu. Đó đều là những lời nói tinh túy về nhạc vậy.
Thần vâng chiếu cùng Đinh Độ và các người khác xem xét kỹ lưỡng về chuông luật do Nguyễn Dật, Hồ Viện, Đặng Bảo Tín chế tạo, sơ bộ tra cứu các sách xưa, tham khảo và kiểm nghiệm các phép hiện nay, thấy rằng thuyết của hai nhà này đều có chỗ sai lầm và chưa ổn định. Nguyễn Dật chủ trương phân chia phương hướng, Đặng Bảo Tín dùng thước dài, nhưng xét theo các điển tích thì đều không có căn cứ. Từ thời tổ tiên đến nay, vẫn dùng nhạc của Vương Phác, chưa từng thay đổi, nhờ đó mà thiên hạ yên ổn, đã gần tám mươi năm. Việc dùng nhạc không phải là không hòa hợp.
Gần đây, Yến Túc tự ý mài giũa, vừa gặp Lý Chiếu đến triều đình, cho rằng âm thanh chưa hài hòa, bệ hạ lại cho kiểm tra kỹ lưỡng, đồng ý cho sửa đổi. Đến khi Nguyễn Dật, Hồ Viện tiếp tục đến, kịch liệt phê phán nhạc của Lý Chiếu là cẩu thả, lại ra lệnh chế tạo luật, nhưng lại sai lệch với cổ pháp[9]. Đặng Bảo Tín tiếp tục dâng lên phép mới, nhưng cũng không phù hợp về độ dài và rộng.
Trộm nghĩ rằng nhạc cũ của tổ tông đã được tuân theo sử dụng từ lâu. Gần đây, do nghe theo ý kiến thiên lệch của một viên quan[10], đã thay đổi luật lệ chung của nhiều triều đại, ban thưởng vàng bạc, tăng bậc lương, khen thưởng hậu hĩnh công lao của họ, nhưng chưa đầy một năm lại định thay đổi chế độ. Thần lo rằng về sau sẽ có người lại theo đó mà phản đối, không chỉ làm tổn hại thể diện quốc gia, mà còn lãng phí tiền bạc của đất nước.
Xem xét các triều đại trước bàn về nhạc, thước đo ống sáo cổ vẫn còn, nhưng vẫn tranh cãi không ngừng, phải mất nhiều năm mới xong, chưa thấy nhanh chóng và dễ dàng như ngày nay. Thần trộm nghĩ, chi bằng tìm hiểu tận gốc nguồn của việc làm nhạc, làm cơ sở cho việc trị quốc, khiến chính lệnh đơn giản, dân chúng vui vẻ, trong nước đều vỗ tay ca hát thái bình, đó mới là nhạc của thời thịnh trị cổ xưa[11], sao có thể chỉ dựa vào hình thức nhạc cụ mà đạt được? Đã hiểu được gốc rễ, lại cần xem xét điều cấp bách hiện nay.
Hơn nữa, biên giới phía tây bắc đã lâu không được phòng bị, tính cách của kẻ địch há có thể thường xuyên đảm bảo? Đây là điều mà bệ hạ cùng các đại thần tả hữu phải lo lắng ngày đêm, nên ưu tiên giải quyết trước.
Hãy tạm gác việc bàn về nhạc, chuyển sang thảo luận chính sách an biên, giải quyết điều cấp bách trước, đó mới là hợp lý. Xin hạ lệnh cho các cơ quan hữu trách, tạm ghi lại luật lệ của ba nhà[12]cùng các ống sáo, chuông khánh, quyền lượng đã chế tạo, lưu lại chưa thi hành, lại tìm kiếm người tinh thông âm luật trong thiên hạ, để họ xem xét kỹ lưỡng rồi mới áp dụng.
Trong một hai năm tới, nếu không có ai đến, thì sẽ lấy pháp luật của Vương Phác, Dật, Viện, Bảo Tín, ban chiếu riêng cho các bề tôi am hiểu cổ xưa, chọn ra những điều phù hợp với điển chí, để chuẩn bị cho nhạc cung đình, cũng chưa muộn.”
Chiếu cho Đinh Độ và các quan khẩn trương xem xét và tâu lên.
[34] Tháng 9, ngày Bính Tý, mùng một, Tư thiên giám thừa Hình Trung Hòa dâng lên bản đồ thiên văn cổ kim mà ông đang lưu giữ.
[35] Ngày Mậu Dần, giáng chức Từ bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lý Triệu Lương Quy làm Thông phán Kỳ Châu, Đồn điền viên ngoại lang, Sùng chính điện thuyết thư, chư vương phủ thị giảng Triệu Hi Ngôn làm Thông phán Nghi Châu. Trước đây, Lương Quy và những người khác đảm nhiệm chức vụ Tông chính thừa, vì liên quan đến việc Tông chính sử Tiết Cáo đánh cắp vàng trang trí trên hộp sách ở gian thờ phụ Thái miếu, đã bị phạt tiền đồng và bãi chức. Tuy nhiên, các quan giám sát vẫn cho rằng hình phạt quá nhẹ, nên lại bị cách chức.
[36] Ngày Canh Thìn, Vua đến thăm Mục Thân trạch, mở tiệc chiêu đãi hoàng tộc và các quan tùy tùng, ban thưởng cho hoàng tộc các loại đồ dùng và lụa theo thứ bậc khác nhau. Lúc này, nhiều văn thần đã dâng lên các bài phú và tụng ca.
[37] Cho phép châu Giáng lập trường học.
[38] Ngày Đinh Hợi, Đinh Độ và những người khác phụ trách việc xác định thước đo và luật lệ âm nhạc tâu rằng:
“Thước do Đặng Bảo Tín chế tạo, dùng hạt kê tròn từ Thượng Đảng, lấy chiều dài một hạt kê, chồng lên trăm hạt để tạo thành thước. Lại có một ống luật, căn cứ vào thước mà cắt dài bằng chín mươi hạt kê, đường kính rỗng ba phân, chu vi chín phân, chứa được một ngàn hai trăm hạt kê, bèn dùng chiều dài hạt kê làm phân, chồng lên hai lần để tạo thành thước.
So sánh thước và luật của Bảo Tín thì không giống nhau, các đơn vị đo lường như dược, hợp, thăng, đấu, hộc, đậu, khu, phủ đều tính toán theo phép toán, đều sai lệch, không phù hợp với phép đo lường thời Chu, Hán.
Thước do Nguyễn Dật và Hồ Viện chế tạo cũng dùng hạt kê từ Thượng Đảng, chồng lên theo chiều rộng để tạo thành thước, chế tạo luật Hoàng Chung.
Nay dùng cách chồng lên hai lần để tạo thành thước, so với thước của Dật và Viện chế tạo lại càng khác biệt. Đến cả ống luật, dược, hợp, thăng, đấu, hộc, đậu, khu, phủ cũng đều như vậy. Bởi vì hạt kê có hình tròn, dài, to, nhỏ khác nhau, mà Bảo Tín dùng hạt kê tròn, lại xếp đầu đuôi nối tiếp nhau. Dật và những người khác chỉ dùng hạt to, nên khi xét lại thì thấy không giống nhau. Thước đã có sai lệch, nên khó mà xác định được chuông khánh.
Cẩn thận xem xét chế độ xưa nay, từ thời Tấn đến Tùy, phép chồng hạt kê chỉ cốt để cắt thước và ống, không dùng cân đo để đối chiếu, nên ống Hoàng Chung qua các đời, số hạt kê chứa được đều khác nhau. Duy chỉ có thời Hậu Chu đào đất được cái đấu ngọc cổ, căn cứ vào đấu mà chế tạo luật, kiêm cả chế tạo cân đo, cũng không giống với chế độ thời Chu, Hán. Cho nên trong 《Hán Chí》 có nói về bị số, hòa thanh, thẩm độ, gia lượng, quyền hành, đều bắt nguồn từ Hoàng Chung. Nay muốn chế độ khí số không sai lệch, thì phép tích phân trong 《Ban Chí》 là gần nhất. Dật và những người khác dùng hạt kê to chồng thành thước, hạt nhỏ đong vào dược, tự trái với phép vốn có.
Thước hạt kê của Bảo Tín lấy chiều dài làm phân, tuy hợp với thuyết của Công Tôn Sùng thời Hậu Ngụy, nhưng lúc đó đã không dùng nữa. Huống chi thước hiện nay của Bảo Tín dùng hạt kê tròn chồng lên, lại xếp đầu đuôi nối tiếp nhau, lại càng khác với thước chồng hai lần hạt kê để đong vào dược. Khí lượng phân tấc đã không hợp với cổ, thì phép quyền hành cũng không thể dùng riêng được.”
Vua xuống chiếu bãi bỏ hết.
Lại xuống chiếu cho Độ và những người khác xác định lại bốn thước do Thái Phủ Tự cùng Bảo Tín, Dật, Viện chế tạo. Độ và những người khác tâu rằng:
“Sự hình thành của thước đo đã có từ lâu đời. Trong sách 《Chu Lễ》, việc dùng ngọc bích để tạo ra thước đo, rộng tám tấc, dài một tấc. 《Lễ Ký》 ghi rằng bề rộng của bàn tay là một thước. 《Hoài Nam Tử》 nói mười hai hạt thóc là một tấc. 《Tôn Tử》 ghi mười phân là một tấc. Tuy có nhiều thuyết khác nhau, nhưng không có cái nào được chấp nhận rộng rãi.
Trong 《Hán Thư》, vào niên hiệu Nguyên Thủy, triều đình triệu tập hơn một trăm người thông thạo về luật lệ và âm nhạc, giao cho Lưu Hâm chỉ đạo. Lúc đó, nhà Chu đã diệt vong hơn hai trăm năm, nhưng các quy tắc và thước đo cổ đại vẫn còn tồn tại. Với kiến thức uyên bác và hiểu biết sâu rộng về lịch pháp và toán học của Lưu Hâm, những gì ông tạo ra chắc chắn không tầm thường. Phương pháp đo lường của ông nói rằng: ‘Một hạt thóc rộng là một phân, mười phân là một tấc, mười tấc là một thước.’ Các học giả tiền bối khi giải thích kinh điển thường dẫn dụng điều này, và qua các đời, nó đã trở thành quy định chính thức.
Tuy nhiên, năm thì được mùa, năm thì mất mùa, đất có chỗ màu mỡ, có chỗ cằn cỗi, ngay cả trong một năm, trong một vùng, lấy hạt thóc để kiểm tra cũng không đồng đều. Đó là vì trời sinh ra vạn vật, lý lẽ khó mà đồng nhất, nên các luật lệ cổ đại chỉ giữ lại đại khái mà thôi. Vì vậy, các triều đại trước khi chế tạo thước đo không chỉ dựa vào việc xếp hạt thóc, mà còn phải tìm các vật cổ xưa để tham khảo[13].
Vào năm Thái Thủy thứ 10 đời Tấn, Tuân Công Tằng và các đồng liêu hiệu chỉnh thước đo để điều chỉnh nhạc luật, đó là thước đo tiêu chuẩn đời Tấn. Tuân Công Tằng dùng bảy loại cổ vật để kiểm tra: thứ nhất là ngọc luật Cô Tẩy, thứ hai là ngọc luật Tiểu Lã, thứ ba là đồng vọng niết Tây Kinh, thứ tư là kim thác vọng niết, thứ năm là đồng hộc, thứ sáu là tiền cổ, thứ bảy là thước đồng Kiến Vũ. Lúc đó, dùng thước của Tuân Công Tằng để đo các cổ vật, kích thước hoàn toàn khớp với chữ khắc trên đó, sử sách ca ngợi sự tỉ mỉ và chính xác của ông.
《Tuỳ Chí》 ghi chép về các loại thước đo qua các triều đại, tổng cộng có mười lăm loại, nhưng lấy thước đời Tấn làm chuẩn, vì nó phù hợp với thước đời Chu, thước đồng hộc của Lưu Hâm và thước đồng Kiến Vũ. Ta nghĩ rằng hai triều đại Chu và Hán đều tồn tại lâu dài, những chế tác của thánh hiền thời đó đều đáng để noi theo. Nhưng nhà Tùy đã đúc và phá hủy nhiều đồ vật bằng kim loại và đá, nên những vật chuẩn mực cổ xưa hầu như không còn tồn tại.
Cổ vật có kích thước rõ ràng, được ghi chép trong sử sách, có thể kiểm chứng được, chỉ có tiền pháp mà thôi[14]. Phép đúc tiền thời Chu, trải qua thời gian lâu dài, không thể biết rõ được. Tiền ‘bán lạng’ thời Tần, thực tế nặng tám thù. Thời Hán sơ, tiền bốn thù, chữ trên đó cũng ghi là ‘bán lạng’. Đến thời Hiếu Vũ, mới bắt đầu dùng tiền năm thù.
Từ đó về sau đến thời Tùy[15], phần lớn đều dùng tiền năm thù. Trải qua nhiều thời đại, thước đo nhiều lần thay đổi, nên kích thước lớn nhỏ, nặng nhẹ, ít có cái nào giống nhau. Chỉ có thời Lưu Hâm chế tạo hộc đồng, đúc tiền ‘thác đao’ và ‘đại tuyền năm mươi’, năm Thiên Phượng thứ nhất thời Vương Mãng đổi đúc tiền ‘hóa bố’, ‘hóa tuyền’ loại này, không nghe nói đời sau có đúc lại.
Thần đây xem xét kỹ 《Hán chí》, 《Thông điển》, 《Đường lục điển》 nói rằng: ‘Đại tuyền năm mươi’, nặng mười hai thù, đường kính một tấc hai phân. ‘Thác đao’, vòng như ‘đại tuyền’, thân như dao, dài hai tấc. ‘Hóa bố’ nặng hai mươi lăm thù, dài hai tấc năm phân, rộng một tấc; đầu dài tám phân có lẻ, rộng tám phân; chân dài tám phân, khoảng giữa rộng hai phân, lỗ tròn đường kính hai phân rưỡi. ‘Hóa tuyền’ nặng năm thù[16], đường kính một tấc.
Nay lấy ‘đại tuyền’, ‘thác đao’, ‘hóa bố’, ‘hóa tuyền’ bốn loại tiền đối chiếu nhau, kích thước hoàn toàn giống nhau. Có loại lớn nhỏ, nặng nhẹ hơi khác so với bản chí, có lẽ do thời đó đúc tiền giả nhiều, không nhất thiết đều đúng quy cách. Chỉ nên đối chiếu phần đầu chân[17], thân và lỗ, chiều dài rộng đều khớp với chính sử thì dùng, như vậy thước hộc đồng có thể biết được[18].
Huống chi chế độ trong kinh sách đều bắt đầu từ thời Chu, như học thuật uyên bác của Lưu Hâm, tính toán tinh diệu của Tổ Xung Chi, sự tỉ mỉ của Tuân Công Tằng, đều hợp với thước Chu, nên có thể làm mẫu mực. Lại xem xét kỹ nghị luận của Ngưu Lý Nhân đời Tùy, nói rằng Hậu Chu Thái Tổ sai Tô Xước chế tạo thước sắt và thước đồng[19], để điều chỉnh nhạc luật, để đo đạc ruộng đất[20].
Đường Tổ Hiếu Tôn nói rằng sau khi Tùy bình xong Trần, bỏ thước ngọc thời Chu, dùng thước sắt này để làm luật, nhưng so với thước Tấn trước dài hơn sáu phân bốn ly. Nay thước cảnh biểu của Ty Thiên giám, thứ mà Hòa Hiện gọi là ‘Tây Kinh đồng vọng niết’, có lẽ là vật cũ của Lạc Đô. Thứ mà Công Tằng dùng là ‘Tây Kinh đồng vọng niết’, có lẽ là vật thời Tây Hán. Hòa Hiện nói rằng Lạc Dương Tây Kinh là đô thành thời Đường. Nay lấy ‘hóa bố’, ‘thác đao’, ‘hóa tuyền’, ‘đại tuyền’ đối chiếu, thì thước cảnh biểu dài hơn sáu phân có lẻ, hơi khớp với thước Tống, Chu, Tùy. Từ đó mà luận, kích thước hộc đồng và ‘hóa bố’ rõ ràng có thể kiểm chứng được.
Nhà Đường hưởng quốc ba trăm năm[21], chế độ pháp luật tuy chưa bằng đời Chu, Hán, nhưng cũng có thể gọi là thời kỳ trị an.
Nay triều đình nhất định phải tìm ra tiêu chuẩn trung dung, nên dựa theo thước đo của tiền Hán. Nếu cho rằng Thái Tổ được mệnh trời, nhận ngôi vị, sáng lập chế độ, ban chiếu cho Hòa Hiễn dùng thước Cảnh Biểu để tu sửa nhạc khí, trong bảy mươi năm, dùng trong tế lễ, phù hợp với chế độ nhà Đường, để lại kế hoạch lâu dài, thì có thể tạm dùng thước Cảnh Biểu cũ, đợi người tinh thông nhạc luật, sai họ khảo chính, theo chế độ Chu, Hán.
Thước luật của Vương Phác so với thước tiền Hán dài hơn hai phân, so với thước Cảnh Biểu ngắn hơn bốn phân, chưa từng được dùng ở đời trước, lại bị thay đổi dưới triều Thái Tổ; thước của Dật, Viện, Bảo Tín và Chiếu dùng ở Thái Phủ tự, càng dài thì càng xa cổ chế. Lại thêm Dật dâng nghị luận về phép đo lường trong 《Chu Lễ》, muốn đúc trước các loại đấu, sau đó lấy thước đo, cân nặng, lời bàn sơ suất, không thể áp dụng.
Nay xét lại văn cũ, đúc lại một thước Cảnh Biểu, so sánh hai thước tiền Hán, cùng với Đại Tuyền, Thác Đao, Hóa Bố, Hóa Tuyền tổng cộng mười bảy đồng tiền dâng lên.”
Chiếu cho Độ dùng thước tiền và thước Cảnh Biểu đúc ống luật, so sánh với thước của Dật, Viện và chuông khánh mới cũ của Thái Thường, khảo định cao thấp của âm thanh rồi tâu lên.
Độ tâu: “Trước đây vâng chiếu khảo sát bốn loại thước của Thái Phủ, xác định thước dùng được, chỉ căn cứ điển cố và so sánh thước tiền Hán với thước Cảnh Biểu, thấy tương đối phù hợp với thước Tống, Chu, Tùy, cho rằng nên dùng thước Cảnh Biểu. Nay vâng chỉ đúc ống luật, khảo sát cao thấp của âm thanh, không phải việc quen thuộc, xin ban chiếu riêng cho người hiểu âm nhạc, tổng lĩnh việc khảo định.”
Chiếu bãi bỏ việc đó, nhưng Cao Nhược Nột cuối cùng dùng thước đo tiền cổ thời Hán dài một tấc[22], dựa theo 《Tùy thư》 định ra 15 loại thước dâng lên, cất giữ ở Thái thường tự:
1. Thước nhà Chu, giống với thước đồng hộc của Lưu Hâm trong 《Hán chí》, thước đồng thời Hán Kiến Vũ, thước nhà Tấn;
2. Thước ngọc Điền Phụ nhà Tấn, giống với phép thời Lương, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 7 ly;
3. Thước biểu nhà Lương, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 phân 2 ly 1 hào lẻ;
4. Thước quan nhà Hán, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 3 phân 7 hào[23];
5. Thước nhà Ngụy, do Đỗ Khuê sử dụng, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 4 phân 7 ly;
6. Thước sau nhà Tấn, được dùng ở Giang Đông, so với thước trước dài hơn 1 tấc 6 phân 2 ly;
7. Thước trước nhà Ngụy, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 tấc 7 ly[24];
8. Thước trung, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 tấc 1 phân 1 ly;
9. Thước sau, giống với thước Khai Hoàng nhà Tùy và thước thị nhà Chu, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 tấc 8 phân 1 ly;
10. Thước sau nhà Đông Ngụy, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 3 tấc 8 hào;
11. Thước đồng dược của Thái Ung và thước ngọc nhà Hậu Chu, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 1 tấc 5 phân 8 ly;
12. Thước nhà Tống, giống với thước hồn thiên nghi của Tiền Lạc Chi và thước sắt nhà Hậu Chu, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 6 phân 4 ly;
13. Thước sắt của Thái phủ tự, là thước mới đúc để chế nhạc;
14. Thước tạp, là thước hồn nghi thổ khuê của Lưu Diệu, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 5 phân;
15. Thước tục nhà Lương, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 7 phân 1 ly.
Thái thường tự còn quản lý thước luật chuẩn của Vương Phác nhà Hậu Chu, so với thước nhà Tấn dài hơn 2 phân 1 ly, so với thước biểu nhà Lương ngắn hơn 1 ly; thước cảnh biểu của Ty thiên giám, so với thước trước nhà Tấn dài hơn 6 phân 3 ly, giống với thước sau nhà Tấn; thước trung thử, cũng là thước mới đúc để chế nhạc.
(Việc này cần dùng bản chí liên thư, Đinh Độ cùng các quan xác định 4 loại thước, vào tháng 10 ngày Đinh Mão, Cao Nhược Nột dâng 15 loại thước, nhưng không phải trong năm nay, nay tạm ghi chép thêm.
《Thực lục》 lại chép: Đinh Độ cùng các quan lấy thước luật chuẩn của Vương Phác làm chuẩn, thì thước sắt của Thái phủ tự so với thước luật dài hơn 3 tấc 2 phân mạnh, thước cảnh biểu dài hơn 4 phân, thước của Đặng Bảo Tín dài hơn 1 tấc 9 phân mạnh, thước của Nguyễn Dật cùng các quan dài hơn 7 phân mạnh. Chiếu cho Đinh Độ cùng các quan dùng thước hạng tư của Thái phủ tự so sánh xác định loại thước nào có thể sử dụng rồi tâu lên. Nhưng các nhà bàn luận cho rằng 《Hán chí》 chép: “Phân, tấc, thước, trượng, dẫn, vốn bắt nguồn từ độ dài của Hoàng chung. Lấy hạt thử tốt nhất, một hạt thử đặt dọc, tích 1.200 hạt thử, đo được 90 phần, là độ dài của Hoàng chung. Một phần là 1 phân, 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là 1 thước, 10 thước là 1 trượng, 10 trượng là 1 dẫn. Như vậy, thước sinh ra từ Hoàng chung.
Từ thời Tấn, Tùy trở đi, các nhà Nho bàn luận, lại chế thước trước rồi mới định luật, đến mức có sự phân biệt thử dọc và thử ngang, nhưng dung lượng không thể khớp, nên các thuyết ấy đều bị bỏ không dùng. Lý do là vì 《Hán chí》 thiếu 8 chữ “khởi tích nhất thiên nhị bách thử chi”, nay Nguyễn Dật cùng các quan trình bày, chính là thuyết mà người xưa đã bỏ không dùng. Đinh Độ cùng các quan lại câu nệ vào chỗ thiếu trong 《Hán thư》, cuối cùng không thể sửa chữa được. 《Thực lục》 này do Phạm Trấn biên soạn, nên chuyên theo ý kiến của Phòng Thứ, nay chuyển ghi vào năm Hoàng Hựu thứ 3.)
[39] Ngày Kỷ Sửu, xuất 50 vạn quan tiền từ kho nội tàng để giao cho Ty Chuyển vận Hà Bắc mua lương thực dự trữ biên giới.
[40] Ban tên cho Thư viện Thái Thất mới tu sửa ở phủ Hà Nam là Tung Dương Thư viện.
[41] Ngày Canh Dần, lấy dinh thự cũ của Lộ vương làm Gia Khánh viện. Gia Khánh viện cũ được dùng làm dinh thự của Điện tiền đô ngu hầu[25], dinh thự cũ của Chiêu Thành Thái tử làm nha môn của phủ Khai Phong.
[42] Ngày Tân Mão, triệu tập các quan phụ chính đến Nhĩ Anh các để nghe giảng sách.
[43] Ra chiếu cho Chuyển vận sứ Hoài Nam mỗi năm một lần đến kinh đô tâu việc. Trước đây, chức Phát vận sứ bị bãi bỏ và việc vào kinh tâu báo hàng năm cũng bị dừng. Đến lúc này, Lang trung Từ bộ Dương Cáo giữ chức Chuyển vận sứ kiêm Phát vận sứ, xin khôi phục lại.
[44] Ngày Nhâm Thìn, bổ nhiệm Trấn Giang tiết độ suy quan Nguyễn Dật làm Trấn An tiết độ chưởng thư ký, tri huyện Thành Phụ, và hương cống tiến sĩ Hồ Viện làm Hiệu thư lang. Ban đầu triệu tập Nguyễn Dật và Hồ Viện chế tác chuông khánh và điều chỉnh luật lữ, tuy kết quả không phù hợp nhiều với cổ nhạc, nhưng vẫn ban ân và cho đi.
[45] Ngày Ất Mùi, bổ nhiệm Từ bộ viên ngoại lang, Kiểm thảo Sùng Văn viện, Thuyết thư Sùng Chính điện, Quốc Tử giám trực giảng Vương Tông Đạo, cùng Thái thường bác sĩ, Thuyết thư Quốc Tử giám kiêm Thừa sự Dương Trung Hòa[26], cùng làm Giảng thư ở Mục Thân trạch, vẫn kiêm nhiệm giảng và thuyết ở Quốc Tử giám. Việc đặt chức Giảng thư ở Mục Thân trạch bắt đầu từ đây.
[46] Ra chiếu từ nay các Hàn lâm thị giảng, thị độc học sĩ được hưởng các khoản phụ cấp như các học sĩ Long Đồ các.
[47] Tăng thêm 10 ngàn tiền lương tháng cho chức Thuyết thư Sùng Chính điện.
[48] Ngày Tân Sửu, ngự giá đến Sùng Chính điện duyệt việc chuyển viên của các quân, kéo dài ba ngày.
[49] Ra chiếu rằng nếu Lý chính, Nha tiền đã mãn nhiệm kỳ mà còn giữ các vật phẩm quan chưa được bàn giao, thì thuế tô của hộ đó tạm thời được miễn giảm.
[50] Mùa đông, tháng 10, ngày Ất Tỵ, mùng một, Quốc tử bác sĩ Chu Việt được bổ nhiệm làm Thiện bộ viên ngoại lang, tri Quốc Tử giám thư học. Chu Việt dâng lên bộ sách tập hợp các thể chữ cổ kim và các phương pháp cải tiến, đặt tên là 《Thư Uyển》, gồm 29 quyển, nên được đặc cách bổ nhiệm. Chu Việt là em của Chu Khởi.
[51] Giáng chức Đề điểm hình ngục Quảng Tây lộ, Kim bộ Viên ngoại lang Ngưu Chiêu Kiệm làm Tri châu Vụ Châu, vì Tri châu Quế Châu Vu Đại Thành tâu rằng Chiêu Kiệm ở bộ mình xét án không công bằng.
[52] Ngày Đinh Mùi, lấy Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Chương Đắc Tượng, Hàn lâm học sĩ Đinh Độ quyền chức Ngự sử trung thừa, Trương Quán cùng khảo khóa các lộ Đề điểm hình ngục.
[53] Xuống chiếu cho Tam ty cấp 20 vạn xấp lụa xuống Hà Bắc lộ, 50 vạn tấm lụa xuống Kinh Tây lộ để mua lương thực dự trữ quân sự.
[54] Châu Thiền tâu rằng, kho vật liệu ở bờ tây cửa sông Hoành Lũng bị cháy, thiêu hủy hơn 190 vạn bó củi. Xuống chiếu cho Chuyển vận ty xét án các quan lại coi giữ và tâu lên.
[55] Ngày Giáp Dần, sai Tri chế cáo Vương Cử Chính xem xét và biên soạn sách vở ở Tam quán và Bí các.
[56] Xây dựng xong viện Triều tập mới. Xuống chiếu rằng các quan thường tham tri đều lấy thứ tự đến kinh đô trước sau làm thứ bậc, trừ những người từ Xuyên, Quảng thay về và người hết tang, không được chiếm chỗ ở nhà công, lại sai Tam ty và Ngự sử đài kiểm tra xét án.
[57] Ngày Ất Mão, xuống chiếu rằng Thái miếu, Phụng Từ miếu, Hậu miếu, mỗi điện đều sai một viên nội thần làm nhiệm vụ Cung vi lệnh, ứng phụng hành sự[27].
[58] Ngày Bính Thìn, phong cho người Khiết Đan quy thuận là Mông Tá làm Tam ban Phụng chức, ban tên là Thủ Trung, lại ban 5 vạn tiền.
[59] Ngày Đinh Tỵ, xuống chiếu cho Tri châu và Thông phán Từ Châu đều kiêm nhiệm việc đào sông ngòi.
[60] Ngày Tân Dậu, Trấn quốc Tiết độ sứ, Phò mã Đô úy Lý Tuân Húc dâng lên bộ sách biên soạn 《Thiên Thánh Quảng Đăng Lục》 gồm 3 quyển, xin cho đưa xuống Truyền pháp viện, biên vào Tạng kinh. Theo lời xin.
[61] Ngày Quý Hợi, Nghi loan sứ, Thứ sử châu Nhã, Nội thị Phó đô tri Vương Thủ Trung làm Hoàng thành sứ, Tả tàng khố sứ, Thứ sử châu Gia, Nhập nội Áp ban Lưu Tòng Nguyên làm Nội tàng khố sứ, Tây kinh Tả tàng khố sứ, Thứ sử châu Thiều, Nội thị Áp ban Sử Sùng Tín làm Văn tư sứ, Cung bị khố sứ, Thứ sử châu Trung, Nội thị Áp ban Lam Nguyên Dụng làm Tây kinh Tả tàng khố sứ, Sùng nghi sứ, Nội thị Áp ban Nhậm Văn Khánh làm Lục trạch sứ.
[62] Hữu ty gián Hàn Kỳ tâu: “Gần đây, Mục Thân trạch hoàn thành, từ các quan chức được đề cử trở xuống, có chiếu chỉ tăng bậc. Nhập nội đô tri Trương Vĩnh Hòa thực sự đảm nhiệm việc này, nên được ban mệnh lệnh Dao đoàn, đến cả những người cùng cấp cũng được hưởng ân huệ. Lúc đó, dư luận đều cho rằng không hợp lý. Bởi vì một người làm tốt việc mà nhiều người được hưởng thưởng. Có người cho rằng trong các cơ quan, thứ bậc quan chức cản trở lẫn nhau, nên việc thăng chức như vậy không gây hại lớn, thần vì thế không dám vội vàng bàn luận.
Nay nghe nói từ chức Đô tri trở xuống lại được ưu đãi thêm chức sứ, thần càng thêm nghi ngờ, bởi vì phương pháp khuyến khích và ngăn chặn, tước vị và ban thưởng là quan trọng nhất. Nếu không xem xét sổ sách quan chức, thưởng công theo năm tháng, thì phải có công lao rõ rệt, đặc biệt ban tước vị, nếu không như vậy, đều là vô danh.
Sách xưa có câu: ‘Quan chức không dành cho người thân cận, chỉ dựa vào năng lực; tước vị không dành cho kẻ ác, chỉ dựa vào đức hạnh.’ Xưa, người nước Vệ thưởng cho Vu Hề đất ấp, ông từ chối; xin được mang dây thao vào triều và được chấp thuận. Khổng Tử nói: ‘Không bằng ban thêm đất ấp. Danh và khí không thể cho người khác.’ Đây là điều được coi trọng từ xưa.
Mong bệ hạ nhanh chóng thu hồi mệnh lệnh, để thể hiện sự khuyến khích và ngăn chặn.”
[63] Ngày Quý Hợi, xuống chiếu cho dân chúng ở Kinh Đông được phép khai thác vàng, nhà nước sẽ thu mua.
[64] Ngày Ất Sửu, Vua ngự tại điện Sùng Chính, xem sách mới được hiệu đính của ba quán và Bí các, tổng cộng hơn mười hai nghìn quyển. Ban thưởng cho các quan hiệu khám, quản câu sứ thần, thư lại khí tệ theo thứ bậc, sau đó ban yến cho các phụ thần, lưỡng chế, quan các quán tại Sùng Văn viện.
[65] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu miễn thuế ruộng cho dân chúng ở Bá Châu bị nước hồ chiếm và ruộng nằm ngoài sông giới.
[66] Ngày Tân Mùi, cho phép Hợp Châu lập trường học.
[67] Tháng 11, ngày Ất Hợi, mùng một, xuống chiếu cả nước cấm giết mổ nghiêm ngặt vào tiết Càn Nguyên, trước tiết cũng không được giết hại sinh vật.
[68] Xuống chiếu rằng Hoài Viễn quân vốn thuộc Nghi Châu, từ nay tấu sự không được tự ý trình lên.
[69] Cho phép Giang Châu lập trường học.
[70] Ngày Bính Tý, xuống chiếu rằng chức quan thẩm hình tường nghị bị khuyết, từ nay lấy quan tường đoạn của Đại Lý bổ nhiệm. Nếu tại chức chưa đủ năm mà được cử ra ngoài, từng trải qua chức tường đoạn, tường phúc quan[28], cũng được chấp nhận.
[71] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu rằng quan ngoại nhiệm khi được thay thế, không được nhận vàng bạc hoa do dân hiến tặng.
[72] Ngày Mậu Dần, Bảo Khánh Hoàng thái hậu băng hà.
Ban đầu, khi Hoàng đế còn trong trứng nước, Trang Hiến sai bà chăm sóc. Hoàng đế ăn uống sinh hoạt, bà đều cùng tham gia, nên việc bảo vệ và hỗ trợ, ân tình rất chu đáo. Bà tính tình nhân từ, khiêm tốn cẩn thận, ít sai lầm. Hoàng đế từng triệu cháu của bà là Vĩnh Tiết, Vĩnh Đức vào cung, muốn phong làm chức phó sứ các ty, bà từ chối nói: “Trẻ con sao chịu được ân lớn? Nếu là chức nhỏ thì được.” Bèn cùng phong làm Tả Hữu thị cấm.
Khi Trang Hiến băng hà, bà được hưởng tôn hiệu, Hoàng đế dâng biểu xưng thần, bà kiên quyết từ chối. Lại hàng năm dâng hai vạn quan tiền để giúp việc tắm gội, bà lại từ chối nói: “Đây đều là sức dân, xin để lại nuôi quân.” Hoàng đế không nghe. Hoàng đế chưa có con nối dõi, bà nhẹ nhàng khuyên Hoàng đế chọn con cháu trong tông thất nuôi trong cung, do đó Anh Tông từ khi còn nhỏ đã được nuôi dưỡng ở chỗ bà. Bà không bệnh mà mất, được quàn ở điện Hoàng Nghi, sai Tri Xu mật viện sự Vương Tùy làm Giám hộ sứ viên lăng.
Quan lễ xin để tang bà theo lễ ti ma, Hoàng đế theo lệ cũ của Đường Vũ Tông để tang Nghĩa An Vương thái hậu, tăng thêm lễ tiểu công, lấy năm ngày thay một tháng rồi bỏ, không thiết triều ở tiền điện và hậu điện tổng cộng tám ngày, không thiết triều ở tiền điện bốn ngày. Hoàng đế đội khăn lụa trắng, mặc áo vàng nhạt, đai da đen. Đợi khi chủ thần được thờ ở miếu Phụng Từ, mới trở lại mặc thường phục. Trong cung xuất mười vạn quan tiền để giúp chi phí viên lăng, truy tôn thụy hiệu là Trang Huệ, văn chúc sách đều xưng là “Hiếu tử tự Hoàng đế”.
[73] Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu cho các lộ chuyển vận ty, năm nay được mùa lúa rẻ, nên rao bảo dân chúng, không được lãng phí và vứt bỏ thức ăn.
[74] Lễ viện tâu: “Miếu thờ Phụng Từ có sáu gian, hai gian dành cho Thái hậu Trang Hiến Minh Túc và Thái hậu Trang Ý, hai gian ở hai bên đông tây của điện vốn dùng để cất giữ sách và ấn tôn hiệu, nay xin chỉ cất giữ sách và ấn trong gian chính, còn hai gian kia dùng để thờ thần chủ của Thái hậu An Bảo Khánh.” Vua nghe theo.
[75] Ngày Giáp Ngọ, sứ giả Long Quang Biện của Tây Nam Phiên đến cống nạp sản vật địa phương.
[76] Ngày Mậu Tuất, Dương Cảnh Tông, Tư châu Đoàn luyện sứ, được bổ nhiệm làm Thành châu Phòng ngự sứ.
Cảnh Tông là em họ của Thái hậu, thuở nhỏ ham mê cờ bạc, không có nghề nghiệp, làm khách ở kinh thành, phạm tội bị khắc chữ vào mặt và sung vào làm việc ở Trí Viễn vụ. Sau khi Thái hậu vào cung làm Mỹ nhân, tìm được Cảnh Tông, xin cho thoát khỏi quân ngũ và ban cho chức quan. Cảnh Tông tính tình thô lỗ, khi vào điện Hoàng Nghi để viếng tang, say rượu gây ồn ào, Hữu ty gián Hàn Kỳ xin trị tội. Vua vì Thái hậu nên không muốn trách phạt nặng, chỉ đổi Cảnh Tông làm Duyện châu Bộ thự.
[77] Ngày Kỷ Hợi, phong nhũ mẫu Hứa thị, tước Sùng Quốc phu nhân, làm Tề Quốc Thái phu nhân, sau đó lại gia phong hiệu là Vĩnh Thánh Bảo Thọ.
[78] Tháng 12, ngày Mậu Thân, ban chiếu rằng các sắc lệnh và trát tử nếu không qua ty Thông tiến Ngân đài thì không được trực tiếp gửi xuống các nơi. Trước đây, Long đồ các Trực học sĩ Lý Hoành phụ trách ty Ngân đài, tâu rằng các sắc lệnh và trát tử đều không qua ty này, khiến chức trách phong bác bị bỏ bê, xin áp dụng lại chế độ cũ. Vua đồng ý.
[79] Ngày Kỷ Dậu, Tây Bình vương Triệu Nguyên Hạo bị bãi chức Khởi phục.
[80] Ngày Canh Tuất, ban chiếu cho Vương Tông Đạo và Dương Trung Hòa, giảng thư ở Mục Thân trạch, đến Bắc trạch giảng thư.
[81] Ngày Tân Dậu, cấm tông thất bán rượu, ai tố giác sẽ được thưởng.
[82] Ban chiếu rằng các quan chức như Tri châu, Thông phán, Mạc chức quan từ nay được thay phiên đến các cung quan, tự miếu ngoài thành để triều bái. Còn Binh mã đô giám và Giám áp thì không được tham dự.
[83] Ngày Bính Dần, Hộ bộ Thị lang, Tri Xu mật viện sự Lý Tư qua đời. Vua đến nhà ông để viếng, ngừng triều một ngày, truy tặng chức Hữu bộc xạ, thụy là Hiến Thành.
Lý Tư tính thông minh, hiểu rõ việc đời, xử lý công việc rối rắm thường như lúc nhàn hạ, quan lại không dám lừa dối. Ở Xu mật viện, ông chuyên tâm cải cách việc thưởng bừa bãi để ngăn chặn sự may rủi. Ông có thể kể rõ từng chi tiết về công trạng quân sự trước mặt Vua, được coi là người xứng chức. Ban đầu, các sứ thần Tam ban phải qua 7 năm mới được xét duyệt, Lý Địch khi mới nhậm chức Tể tướng đã tâu xin giảm xuống 2 năm. Lý Tư xin từ khi chiếu chỉ ban hành, sau 7 năm xét duyệt mới áp dụng chế độ mới. Việc tuy công bằng nhưng mọi người khá oán hận.
[84] Ngày Đinh Mão, Phụng quốc Lưu hậu, Đồng tri Xu mật viện sự Vương Đức Dụng được bổ nhiệm làm Tri Xu mật viện sự, Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, kiêm Thị độc học sĩ, Long đồ các Trực học sĩ, Lễ bộ Thị lang Chương Đắc Tượng được bổ nhiệm làm Đồng tri Xu mật viện sự.
Đắc Tượng là người trang trọng, độ lượng rộng rãi, ban đầu được Dương Ức khen ngợi, cho rằng có tài làm quan phụ chính. Có người hỏi, ông trả lời: “Người Mân phần nhiều nhỏ nhen, nhưng Đắc Tượng đôn hậu, khoan dung, đó là điều quý giá.” Ông từng chơi cờ bạc ở nhà Lý Tông Ngạc, một đêm thua ba mươi vạn tiền, xong việc vẫn ngủ ngon như thường. Một hôm thắng, được Tông Ngạc một hòm vàng bạc. Mấy tháng sau lại thua, liền trả lại hòm cho Tông Ngạc, niêm phong chưa từng mở. Ở Hàn lâm mười hai năm, ông luôn vui vẻ tự tại. Khi Trang Hiến Thái hậu nhiếp chính, hoạn quan lộng hành, Thái hậu thường sai nội thị đến Hàn lâm viện, Đắc Tượng luôn nghiêm nghị tiếp đón, có khi không nói một lời, người đương thời khen ngợi.
[85] Xuống chiếu cho các lộ Chuyển vận sứ xem xét các Tri huyện, Lệnh không trị lý tốt, tâu lên.
[86] Ngày Kỷ Tỵ, người Khiết Đan phái Liêu Châu Quan sát sứ Gia Luật Duyễn, Tây thượng Cáp môn sứ Quách Quỹ đến chúc mừng ngày Chính đán.
[87] Ngày Tân Mùi, sứ Khiết Đan về nước, ra khỏi kinh kỳ, được phép dùng nhạc.
[88] Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Đoan Châu thứ sử, Nhập nội phó đô tri Hoàng Phủ Kế Minh làm Văn tư sứ, Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Trung Châu thứ sử, Nhập nội phó đô tri Lam Nguyên Dụng làm Lạc uyển sứ, Nội điện sùng ban Bùi Tương làm Nội điện thừa chế.
Kế Minh và những người này đều vì quản câu Tam quán, Bí các dâng lên sách mới hiệu đính trong Tứ khố, nên được đặc cách thăng chức.
[89] Triệu Nguyên Hạo tự chế ra sách chữ Phồn gồm 12 quyển, nét chữ rườm rà, uốn lượn giống như phù chú, dạy người trong nước ghi chép sự việc đều dùng chữ Phồn. Tự đổi niên hiệu Quảng Khánh năm thứ 3 thành Đại Khánh năm thứ nhất. Lại cử binh đánh Hồi Hột, chiếm các châu Qua, Sa, Túc, chiếm toàn bộ vùng đất cũ Hà Tây. Đang mưu tính xâm lược, sợ Cốt Tư La chặn đường sau, lại cử binh đánh các tộc Khương ở Lan Châu, tiến xuống phía nam đến núi Mã Hàm, xây thành ở Ngõa Xuyên, Phàm Xuyên Hội, để quân trấn giữ, cắt đứt đường thông giữa Thổ Phồn và Trung Quốc.
(Thẩm Tồn Trung nói: Nguyên Hạo làm phản, tên đồ đệ là Ngộ Khất trước tiên sáng tạo ra chữ Phồn, một mình ở trên lầu nhiều năm mới xong, đến lúc này dâng lên. Nguyên Hạo bèn đổi niên hiệu, chế định y phục, mũ miện, lễ nhạc, ra lệnh trong nước đều dùng chữ Phồn, theo lễ Hồ, tự xưng là nước Đại Hạ. Sử chép việc dùng chữ Phồn, tức là đổi niên hiệu Đại Khánh.
Xét niên hiệu Đại Khánh năm thứ 2, Nguyên Hạo làm phản, bèn đổi thành Thiên Thụ Lễ Pháp Diên Tộ năm thứ nhất, nay theo Quốc sử, ghi việc dùng chữ Phồn kèm theo lúc đổi niên hiệu Đại Khánh.)
[90] Ban đầu, Cốt Tư La cưới con gái của Lý Lập Tuân, sinh được hai con trai: một tên là Hạt Chiên, một tên là Ma Giác Chiên. Sau đó, ông lại cưới người họ Kiều, sinh được con trai tên là Đổng Chiên. Khi Lý Lập Tuân chết, người họ Lý bị thất sủng, bị đuổi đi tu làm ni cô, giam ở châu Khuếch, và giam luôn hai con trai của bà. Hạt Chiên và Ma Giác Chiên liên kết với người thân của mẹ là Lý Ba Toàn, bí mật đưa mẹ chạy trốn[29].
Hạt Chiên chiếm cứ châu Hà, Ma Giác Chiên chiếm cứ thành Mạc Xuyên, thu phục được dân chúng, Cốt Tư La không thể kiểm soát được. Nguyên Hạo nghe tin hai con trai của Cốt Tư La oán hận cha, bèn dùng hối lộ lớn để ly gián họ, và ngầm dụ dỗ các thủ lĩnh. Con trai của Ôn Bô Kỳ là Nhất Thanh Kim Long, có hơn một vạn người theo, ngầm theo Nguyên Hạo. Thế lực của Cốt Tư La suy yếu, phải cùng người họ Kiều từ Tông Ca dời về phía tây đến thành Lịch Tinh, Nguyên Hạo càng được tự do hành động.
(《Lưỡng triều bản truyện》 chép: Hạt Chiên ở tại cốc Kham, Ma Giác Chiên ở tại thành Tông Ca. Theo đó thì châu Hà chính là cốc Kham, thành Tông Ca chính là thành Mạc Xuyên. Về sau lại có sự di chuyển, cần phải khảo cứu thêm.
《Tụ mễ đồ kinh》 chép: Nguyên Hạo sau khi tàn sát thành Li Ngưu, xây dựng Phàm Xuyên Hội, dụ dỗ và uy hiếp các thủ lĩnh của các bộ thuộc Cốt Tư La. Cốt Tư La vì hai con trai nghi ngờ lẫn nhau, nên dời đến thành Lịch Tinh. Nguyên Hạo không còn lo ngại Thổ Phồn, bèn lại xuất quân đánh Hồi Hột, chiếm được ba châu Qua, Sa, Túc. So với 《Thực lục phụ truyện》 có sự khác biệt về thứ tự, nay theo 《Phụ truyện》, chỉ lấy việc dụ dỗ và uy hiếp các thủ lĩnh để thêm vào.
《Nguyên Phù Lũng Hữu nhật lục》 lại chép: Nguyên Hạo sau khi dùng hối lộ để ly gián hai con trai của Cốt Tư La, bèn nhiều lần xuất quân đánh Tông Ca. Sau khi phá được thành Li Ngưu, thế lực của Cốt Tư La suy yếu, dời về phía tây đến thành Thanh Đường, không còn như trước khi Nguyên Hạo phá thành Li Ngưu nữa. 《Tụ mễ đồ kinh》 cho rằng việc này xảy ra vào niên hiệu Minh Đạo, như vậy là quá sớm, nên căn cứ theo 《Nguyên Hạo truyện》, thực sự là việc xảy ra vào năm Cảnh Hữu thứ 2. Nay lại xây dựng Phàm Xuyên Hội, để cắt đứt con đường thông thương giữa Tây Phồn và Trung Quốc, Cốt Tư La lại dời đến Thanh Đường, đó là lẽ đương nhiên. Nay chỉ lấy việc hai con trai oán hận cha và việc Nguyên Hạo dùng kế ly gián để thêm vào.
Thành Lịch Tinh ở phía tây Tông Ca, 《Tụ mễ đồ kinh》 chép là dời về phía nam đến thành Lịch Tinh, là sai, nay theo 《Lũng Hữu nhật lục》. Thành Lịch Tinh cách phía tây Vị Xuyên khoảng mười lăm ngày đường, 《Nhật lục》 chép: Thế lực của Cốt Tư La suy yếu, dời về phía tây đến thành Thanh Đường. Có lẽ Lịch Tinh chính là Thanh Đường, cần phải khảo cứu thêm.
《Lũng Hữu lục》 chép: Hạt Chiên chiếm cứ châu Hà. 《Tụ mễ kinh》 chép: Hạt Chiên ở tại thành Củng Sấm. So với bản đồ châu Hà có sự khác biệt, chưa rõ đâu là đúng, cần phải khảo cứu thêm. 《Bản truyện》 chép: Năm Minh Đạo nguyên niên, từ Mạc Xuyên dời đến Thanh Đường, khác với 《Lũng Hữu nhật lục》, cần phải khảo cứu thêm.)
[91] Quan vương Văn Thịnh nói với Thiếu phủ giám rằng: “Ấn của Lương liệu viện ở kinh thành thường bị làm giả để sao chép giấy tờ. Nên đúc ấn ba mặt, hình tròn, mặt rộng hai tấc năm phân; xung quanh viền ngoài khắc triện ghi niên hiệu và tên Lương liệu viện, tổng cộng mười hai chữ; viền ngoài khắc mười hai con giáp, tổng cộng mười hai chữ; chính giữa khắc chữ “Chính“, trên nối với núm ấn, có thể xoay được, dùng cơ cấu để cố định. Khi sử dụng, tháng nào thì xoay đến tháng đó[30], trong năm xoay đủ mười hai tháng[31], từ Dần đến Sửu, xoay vòng tuần hoàn. Mỗi lần đổi niên hiệu thì đúc lại. Như vậy, kẻ gian sẽ không thể làm giả được nữa.” Thiếu phủ giám tâu lên, Vua xuống chiếu cho Tam ty xem xét quyết định, xin làm theo lời Văn Thịnh.
Văn Thịnh lại nói: “Theo lệ cũ, ấn của thân vương và Trung thư mỗi cạnh dài hai tấc một phân, ấn của Xu mật, Tuyên huy, Tam ty, Thượng thư tỉnh, Khai Phong phủ mỗi cạnh dài hai tấc, ấn của Tiết độ sứ dài một tấc chín phân, ấn của Tiết độ quan sát lưu hậu và Quan sát sứ dài một tấc tám phân rưỡi, ấn của Phòng ngự đoàn luyện sứ, Chuyển vận sứ và châu huyện dài một tấc tám phân. Tất cả các ấn đều cao một tấc bảy phân, rộng một tấc sáu phân. Tuy có sự khác biệt, nhưng không có quy định rõ ràng.” Vua nghe theo, ghi vào lệnh.
(Theo bản Chí, sự việc này xảy ra vào năm Cảnh Hựu thứ ba, nay phụ lục vào cuối năm.)
- 'Hơn nữa' nguyên bản là 'Nhĩ', căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử》 quyển 291, truyện Tống Thụ sửa lại. ↵
- Hàn lâm Thị giảng học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Lễ bộ Thị lang Phùng Nguyên, 'Thị giảng' nguyên bản là 'Thị độc', căn cứ theo Tống bản, Các bản cùng 《Long bình tập》 quyển 14, 《Đông đô sự lược》 quyển 46 và 《Tống sử》 quyển 294, Phùng Nguyên truyện sửa lại. ↵
- Thần nghĩ những năm gần đây chùa chiền liên tiếp bị cháy, chữ 'quán' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 7 hạ bổ sung. ↵
- Điều chuyển Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, Binh bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế Vương Duyên làm Tri châu Hoạt. Chữ 'Đô' vốn thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử》 quyển 300, truyện Vương Duyên bổ sung ↵
- Không được làm bốn mái và đấu bát: Theo 《Tống hội yếu》 Dư phục 4.6 và 《Tống sử》 quyển 153, Dư phục chí đều ghi là 'không được làm bốn mái náo đấu bát'. ↵
- Nhưng không được làm hình cá sấu: Chữ 'nhưng' vốn thiếu, theo bản Tống và sách trên bổ sung. ↵
- Các hình kỳ lạ bay lượn như hình rồng: Chữ 'giả' vốn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Dư phục 4.7 và 《Tống sử》 quyển 153, Dư phục chí bổ sung. ↵
- Người dùng yên ngựa mạ vàng bạc, dây cương trang trí: Chữ 'tử' vốn thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 150, Dư phục chí bổ sung. ↵
- Lại sai lệch với cổ pháp 'vi kính' nguyên là 'vi kinh', theo bản Tống và 《An Dương Tập》 gia truyền quyển 1, 《Biên Niên Cương Mục》 quyển 10 sửa lại. ↵
- 'Thuộc' nguyên là 'nãng', căn cứ theo sách trên đã sửa ↵
- 'Trị cổ', Biên niên cương mục quyển 10 giống nhau; sách An Dương tập dẫn trên viết là 'thượng thế'; Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 31 bàn về nhạc viết là 'trị bản'; Trị tích thống loại quyển 6 Cảnh Hữu quân thần bàn về nhạc thì viết là 'Long cổ' ↵
- 'Ba nhà' theo sách An Dương tập dẫn trên; bản Tống và sách Trường biên kỷ sự bản mạt, Trị tích thống loại đều viết là 'hai nhà', văn trên cũng viết 'hai nhà', nghi ngờ nên theo ↵
- 'Tham' nguyên văn là 'Thử', do nhầm lẫn với chữ trên, căn cứ theo 《Tống Hội Yếu》 Lạc 2-17 sửa lại. ↵
- Chỉ có tiền pháp mà thôi, 'tiền pháp' nguyên văn là 'Hán tiền', theo bản Tống, bản các, bản hoạt tự và 《Hán thư》 quyển 24 hạ, 《Thực hóa chí》 sửa lại. Lại nữa, 'tiền pháp', trong 《Tống hội yếu》 dẫn trên viết là 'pháp tiền'. ↵
- Từ đó về sau đến thời Tùy, 'thời Tùy' nguyên văn là 'thời Tùy Đường', theo bản Tống và 《Tống hội yếu》 dẫn trên, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31, 《Nghị lạc》, 《Trị tích thống loại》 quyển 6, 《Cảnh Hữu quân thần nghị lạc》 sửa lại. ↵
- 'Hóa tuyền' nặng năm thù, chữ 'nặng' nguyên văn thiếu, theo bản Tống, 《Tống hội yếu》 quyển 2, mục 18 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 dẫn trên bổ sung. ↵
- Chỉ nên đối chiếu phần đầu chân, 'đầu' nguyên văn là 'tay', theo văn trên và 《Tống hội yếu》 dẫn trên sửa lại. ↵
- Như vậy thước hộc đồng có thể biết được, chữ 'như vậy' nguyên văn thiếu, theo bản Tống và 《Trị tích thống loại》 quyển 6, 《Cảnh Hữu quân thần nghị lạc》 bổ sung. ↵
- Nói rằng Hậu Chu Thái Tổ sai Tô Xước chế tạo thước sắt và thước đồng, 'và thước đồng', 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31, 《Nghị lạc》 và 《Trị tích thống loại》 dẫn trên đều viết là 'và thước đồng giống nhau'; 《Tống hội yếu》 dẫn trên thì viết là 'và thước Tống phù hợp'. ↵
- Để đo đạc ruộng đất, 'đất' nguyên văn là 'vậy', theo bản Tống, 《Tống hội yếu》 quyển 2, mục 18 và 《Trị tích thống loại》 dẫn trên sửa lại. ↵
- 'Hữu Đường' nguyên tác là 'Đường đại', theo bản Tống và sách trên đã sửa. ↵
- 'một tấc' nguyên bản là 'hai tấc', căn cứ theo bản Tống và sách 《Trị tích thống loại》 sửa lại ↵
- 'so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 3 phân 7 hào', chữ 'tiền' nguyên bản thiếu. Theo thước nhà Tấn có thước trước và thước sau, xem rõ ở phần trên và dưới. 《Tùy thư》 quyển 16, 《Luật lịch chí》 chép: 'Thước quan nhà Hán, thực tế so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 3 phân 7 hào.' Nay căn cứ bổ sung chữ 'tiền' ↵
- 'so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 tấc 7 ly', 'hai tấc' nguyên bản là 'một tấc'. Theo 《Tùy thư》 chép: 'Thước trước nhà Ngụy, thực tế so với thước trước nhà Tấn dài hơn 1 tấc 2 tấc 7 ly.' Nay căn cứ sửa lại ↵
- Bốn chữ 'Cựu Gia Khánh viện' ban đầu bị thiếu, dựa theo bản Tống mà bổ sung ↵
- Chữ 'thừa' ban đầu bị thừa chữ 'giám', dựa theo bản Tống mà sửa ↵
- Ứng phụng hành sự, chữ 'sự' nguyên bản là 'chi', theo bản trong các các mà sửa ↵
- mà được cử ra ngoài, từng trải qua chức tường đoạn, tường phúc quan, chữ 'tường phúc quan' nguyên là 'phúc quan', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 15-40 bổ chữ 'tường'. ↵
- Hạt Chiên và Ma Giác Chiên liên kết với người thân của mẹ là Lý Ba Toàn, bí mật đưa mẹ chạy trốn. Chữ 'kết' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử》 quyển 492, truyện Thổ Phồn bổ sung. ↵
- 'Nguyệt phân đối' trong 《Thông khảo》 quyển 115, phần Vương lễ khảo giống nhau, 《Tống sử》 quyển 154, phần Dư phục chí ghi là 'Trục nguyệt phân đối'. ↵
- 'Niên trung hỗ kiến thập nhị nguyệt' trong 《Thông khảo》 giống nhau, 《Tống sử》 ghi là 'Niên chung chuyển đãi thập nhị nguyệt'. ↵