"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 128: NĂM KHANG ĐỊNH THỨ NHẤT (CANH THÌN, 1040)

Từ tháng 7 năm Khang Định thứ 1 đời Nhân Tông đến hết tháng 9 cùng năm.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Mão, xuống chiếu rằng các quan lại khi nhậm chức hoặc bãi nhiệm, đi qua những nơi núi non hiểm trở, tùy nghi sai quân sĩ hộ tống, nhưng không được vượt quá một nửa số người đón tiễn.

[2] Ngày Đinh Tỵ, xuống chiếu rằng các quân đóng ở biên giới, gia đình của họ trong doanh trại đều được cấp trà và muối.

[3] Ngày Mậu Ngọ, Thái thường tự thừa, Tập hiền hiệu lý Lý Chiêu Cấu dâng lên 3 quyển 《Thánh chế》 của Thái Tông khi còn ở phiên địa và 2 quyển 《Vĩnh Hi chính phạm》, được ban chiếu khen ngợi.

[4] Ngày Quý Hợi, Phu Diên kiềm hạt Trương Kháng dâng sớ nói:

“Theo chế độ cũ, các lộ bố trí, kiềm hạt, đô giám không quá hai ba người, các quan khác dù cao cấp cũng chỉ làm bố trí, kiềm hạt một châu, không tham gia việc của lộ đó. Nay mỗi lộ có đến mười bốn, mười lăm người, ít cũng không dưới mười người[1], đều kiêm nhiệm việc của lộ, quyền lực ngang nhau, không ai kiểm soát ai, mỗi khi bàn luận, đều giữ ý kiến khác nhau. Xét thời Đường có chức tổng quản[2], thống quân, đô thống, xử trí, chế trí sứ, mỗi chức đều có phó nhị, triều ta cũng có kinh lược sứ, bài trận sứ, xin dựa vào cố sự, đặt tên sứ mới, mỗi lộ việc quân mã chỉ do hai ba người đứng đầu. Những người đã giữ chức bố trí, kiềm hạt, đô giám của lộ thì vẫn giữ chức cũ, đều thuộc quyền xử phân của sứ mới, để việc được thống nhất.

Lại nói về một vùng Kinh Nguyên, từ Bộ thự, Kiềm hạt, Đô tuần kiểm đến các bộ phận ở thành trại[3]gần sáu mươi chỗ, nhiều thì năm bảy chỉ huy, ít thì một hai chỉ huy, binh lực đã phân tán, không đủ để đương đầu với kẻ địch lớn. Nếu giặc dùng hai vạn người chia làm hai mươi toán mà đến, dương thanh thế lớn để trói buộc quân ta, sau đó dùng ba năm vạn người ồ ạt xông vào, thì lấy gì để chống đỡ?

Lại nữa, gần đây chủ tướng và quân ngũ thay đổi không ổn định, người ngựa mạnh yếu, phân phối chưa đều. Nay Kinh Nguyên có chính binh năm vạn, cung tiễn thủ hai vạn, Phu Diên chính binh không dưới sáu bảy vạn, nếu có thể sớm đoàn kết, quy định rõ ràng, thay nhau ứng viện, lấy nhàn đãi mệt, thì đám quân ô hợp đói khát kia, làm sao dò xét được thực lực của ta? Xin hạ lệnh cho Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm phân công điều tra các vùng, dùng mã bộ quân từ tám nghìn trở lên đến một vạn, chọn người tài vị kiêm cao làm Tổng lĩnh. Dưới đó chia làm ba tướng, một làm Tiền phong, một làm Sách tiền phong, một làm Hậu trận. Mỗi tướng dùng sứ thần, trung tá hai ba người phân bố đóng giữ nơi hiểm yếu, nếu giặc đến ít thì một tướng ra, đến nhiều thì đại tướng ra.

Lại xét số lượng giặc nhiều hay ít[4], sai các lộ lân cận xuất quân ứng tiếp, đó gọi là thế ‘Thường Sơn xà’. Nay một vạn người trở lên là một đại tướng, một lộ lại có chủ soái. Diên Châu lĩnh ba đại tướng, Phu Châu một đại tướng, Bảo An quân cùng Tây lộ Tuần kiểm, Đức Tĩnh trại hợp làm một đại tướng, như vậy quân Phu Diên lộ là năm vạn người. Nguyên Châu, Vị Châu, Trấn Nhung quân mỗi nơi một tướng, Vị Châu vùng ngoài núi và Ngõa Đình mỗi nơi một tướng, như vậy quân Kinh Nguyên lộ là năm vạn người. Cung tiễn thủ và hộ dân quen thuộc không tính vào. Trước đây thất bại ở Diên Châu là do các tướng tự thủ, không tương ứng cứu viện. Xin lệnh cho quan biên thùy định trước phép tắc, giặc cướp nơi nào thì tướng đó làm tiên phong, tướng nào xuất quân nơi đó làm kỳ binh, tướng nào xuất quân nơi đó làm thanh viện, thành trại gần đó xuất quân cảm tử sĩ nơi đó đặt phục binh, Đô đồng Tuần kiểm[5] thì mỗi người giữ chỗ hiểm yếu.

Lại ra lệnh cho các tướng lân cận cứu viện các nơi, nhưng phải dùng cờ hiệu bí mật làm dấu. Trước đây, Lưu Bình cứu viện Diên Châu, tiền quân kỵ binh bị giặc vây ở bốn doanh trại, mà Bình vẫn không biết. Lại có Triệu Du dẫn quân đi theo đường tắt tiến lên trước, còn Triệu Chấn cùng Vương Đạt kéo đến Tắc Môn[6], đến Cao Đầu Bình, có kẻ cưỡi ngựa trắng báo rằng giặc cầm lọng xanh đóng ở phía đông núi[7], Chấn liền hạ lệnh cho quân mai phục, thì ra đó là con trai ông là Du. Thần ở ngoài núi phối hợp, chưa từng dùng cờ hiệu của bản doanh, mà tự dùng ngũ hành can chi để làm cờ hiệu riêng. Nếu ngày Giáp Tý, quân ta gặp nhau, thì người đi trước giương cờ xanh, người đi sau dùng cờ đỏ ứng lại, đó là can tương sinh, còn can tương khắc chi tương sinh, chi can tương sinh khắc cũng như vậy. Vì quân mã ra vào, ban ngày cách xa trăm bước không thể nhận ra nhau, nếu không định trước cờ hiệu, ắt sẽ lỡ việc quân.

Lại nữa, quốc gia thái bình đã lâu, việc huấn luyện bị sao nhãng, nay mỗi doanh quân tinh nhuệ chỉ có hơn trăm người, còn lại đều yếu đuối không dùng được. Hơn nữa, quân triều đình chỉ dựa vào bộ binh và nỏ thủ mà thôi. Thần khi làm quan ở Vị Châu, thấy doanh Quảng Dũng có 350 nỏ thủ, trong đó nỏ có sức kéo một thạch hai đấu chỉ có hơn 90 cái, còn lại chỉ được bảy tám đấu, chỉ muốn lúc tập luyện cho dễ dàng mà thôi. Thần dùng nỏ nhảy đạp thử, đều không giương nổi, tập luyện hơn mười ngày, chỉ được hơn trăm người. Lại dạy cách ngồi xổm nhỏ, cũng hơn mười ngày, lại dạy cách ngồi xổm nhỏ mang giáp, hơn năm mươi ngày mới quen. Nếu cứ giữ thói cũ mà đối phó với kẻ địch mới, há có lý nào thắng được chăng?

Lại nữa, các quan võ thường muốn phô trương việc biên giới, nhưng thất bại của Lưu Bình chính là do tham công hấp tấp tiến quân. Quân Trấn Nhung gần nhất với địa giới giặc, mỗi khi quân do thám đến, không hỏi giặc nhiều hay ít, các chức Bộ thự, Kiềm hạt, Tri quân, Đô giám đều ra ngoài, đến hào biên giới thì giặc đã đi rồi. Bởi quyền lực ngang nhau, không ai chịu nhường ai, nếu không ra ngoài thì sợ bị tội hèn nhát. Lại nữa, kỵ binh các lộ không thể vượt qua địa hình hiểm trở, tính toán cỏ lương, chi phí một con ngựa có thể nuôi được năm lính bộ. Ngựa cao không quá bốn thước ba tấc, nên đều trả về các phường giám, từ nay chỉ giữ lại mười phần hai, còn lại dùng bộ binh các lộ Tây Xuyên, Kinh Hồ thay thế. Lại nữa, gần đây các ban, các quân có người được phong chức các ty sứ phó đến Thị cấm, Điện trực, cũng có người thân phận thường dân thi võ nghệ mà được làm quan; còn các lộ cung tiễn thủ sinh trưởng nơi biên thùy, cha ông hi sinh, nhiều đời chống giặc, lại không có đường thăng tiến, làm sao khích lệ được dân biên giới?

Hơn nữa, từ khi dùng binh đến nay, nhiều lần xuất quân không thành công, nếu một sớm một chiều lại bàn việc năm lộ tiến sâu, thần e rằng chưa thể được. Vả lại, các châu trại ở vùng núi cách biên giới chỉ ba bốn trăm dặm, quân Tây Hạ tuy khí giới tinh nhuệ, nhưng đánh nhau không bằng vùng núi. Nay khiến quân địch không thể cày cấy chăn nuôi, sợ hãi không dám ngẩng đầu, lo lắng không rảnh, có thể sai bộ binh mang lương thực mười ngày, mỗi ngày cấp một thăng gạo nấu canh, kỵ binh cấp bốn thăng thóc mới, năm phần cỏ, đất cỏ trong địa giới giặc cũng có thể dùng một nửa để chăn thả, thóc mới cũng giảm được một nửa việc vận chuyển[8]. Quân triều đình đã xuất phát, sai Cốt Tư La và chín họ Hồi Hột chia chặn phía sau, ắt sẽ phá tan sào huyệt của chúng.”

Lại tâu: “Dân Thiểm Tây chịu khổ vì việc sai phối, gấp nhiều lần so với năm thường, chỉ riêng như châu Phu mua lạc đà, lừa la, trâu dê, hoa hồng, cỏ tía, ngói cầu, dây cương, lông chim làm tên, ba việc về chiên trắng, áo da cừu non, da trâu, gân sừng làm cung, nên tạm thời bãi bỏ hết, lại lệnh cho Ty An phủ cùng các quan châu giảm bớt việc khác, chuyên ứng phó việc thuế khoá nơi biên giới. Và xin sai 30 người Điện thị, 30 người Quân tướng, 200 con lạc đà, 200 con la[9], giữ lại một nửa ở Hà Trung để chở vật dụng quân nhu cho quân Phu Diên, Bảo An, còn một nửa giữ ở châu Can hoặc quân Vĩnh Hưng để chở vật dụng quân nhu cho quân Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Trấn Nhung, cử một viên Chuyển vận sứ chuyên trách việc này.

Lại nữa, bốn đường ở châu Phu, một nửa là nơi xung yếu, thường lấy một nửa số lính trạm dịch ở các đường nhàn rỗi để bổ sung cho hai đường xung yếu. Mỗi trạm có 100 người, cứ ba người kéo xe, chở được 250 đến 300 cân hàng, nếu tập trung vận chuyển[10], việc biên phòng cũng chưa đến nỗi thiếu sót, mà sức dân có thể được nhẹ bớt[11].”

Ban đầu, Trương Kháng xin được đi trạm vào chầu, chiếu cho viết tâu trình lên, sau đó nhiều điều được thi hành.

[5] Ngày Ất Sửu, sai Quách Chẩn, Viên ngoại lang Bộ Hình, Hiệu lý Tập Hiền, đồng tu Khởi cư chú, và Hạ Phòng, Phó sứ Khố Cung bị, đi sứ Khiết Đan, báo việc đang dùng binh ở biên giới phía tây. Các quan bàn rằng Nguyên Hạo ngầm liên kết với Khiết Đan, sợ thêm mối lo nơi biên giới, nên đặc biệt sai Chẩn đi để tỏ ý. Khiết Đan chủ tiếp đãi trọng thể, cùng đi xem săn, mời Chẩn bắn, một phát trúng con thỏ đang chạy, quân địch trố mắt nhìn. Khiết Đan chủ tặng ngựa mình cưỡi và nhiều vật quý. Phòng là con của Hạ Thủ Uân.

[6] Bổ nhiệm Tăng Đạo Tín của Kinh Triệu phủ làm Tam ban tá chức, Chỉ sử ty Thiểm Tây đô bộ thự, bản ty tâu rằng ông này quen biết việc biên cương.

[7] Ngày Bính Dần, Quyền Ngự sử trung thừa Liễu Thực tâu: “Trung thừa tri tạp, trước đây cử quan chức ba viện Ngự sử, nhưng gần đây lại ban chiếu cho hai chế cử. Xin từ nay trở lại theo lệ cũ, để đài cử quan như trước.” Vua nghe theo.

[8] Ngày Kỷ Tỵ, giáng chức Phụng Nhật Thiên Vũ tứ sương đô chỉ huy sứ, Tượng Châu phòng ngự sứ, Phu Diên phó đô bộ thự[12] Triệu Chấn làm Bạch Châu đoàn luyện sứ, nhậm chức Tri châu ở Giáng Châu. Giặc từ tháng giêng vây đánh Tắc Môn trại, Chấn thay Phạm Ung giữ Diên Châu, có quân bảy nghìn tám trăm người, nhưng không động binh, trong trại chỉ có một nghìn quân, nhiều lần cầu cứu, đầu tháng năm, Chấn mới sai hơn trăm người đến cứu, trại liền thất thủ. Chấn từng nói với người khác: “Giặc thừa thắng mới, ắt sẽ tiến thẳng, nếu Diên Châu không giữ được, thì Thiểm Tây khó lường. Ta may mắn giặc chưa đến, Tắc Môn tuy nguy, ta vẫn muốn đánh đổi lớn lấy nhỏ.” Do đó, Đô chuyển vận sứ Bàng Tịch hặc tấu Chấn nhút nhát không dám xuất binh, nên bị giáng chức.

Từ khi Kim Minh thất thủ, An Viễn và Tắc Môn hai trại ở phía bắc Kim Minh, Chấn không cứu được An Viễn, bèn bỏ luôn, lại gửi thư cho chủ trại Tắc Môn là Cao Diên Đức rằng: “Có thể giữ thì giữ, không thể giữ thì nên rút quân và dân về.” Diên Đức giữ thành được nửa năm, Chấn vẫn không cứu, bèn dẫn quân bỏ thành, giặc dựa vào hiểm địa chặn đánh, cả đoàn đều tử trận.

(Chấn gửi thư cho Diên Đức, việc này căn cứ theo《Ký văn》.

Bản truyện của Triệu Chấn chép rằng Chấn đến Diên Châu, nói với tướng sĩ rằng: “Nay giặc thừa thắng mới, ắt sẽ tiến thẳng. Ta sau khi bị tổn thương, nên cố thủ. Nhưng lo các thành không theo kế ta, nếu Diên Châu không giữ được, thì Thiểm Tây khó lường, đây là thời cơ an nguy của thiên hạ. May mắn giặc trăm ngày không đến, thì ta đã chuẩn bị vững chắc. Nếu không, giặc đột ngột đến, ta sẽ đánh đổi lớn lấy nhỏ.”

Chưa đầy một tháng, giặc đánh Tắc Môn. Xét giặc từ tháng giêng vây đánh Tắc Môn, đến tháng năm thì hạ được, quân giặc chưa từng rút đi rồi lại đến. Phạm Ung bị giáng chức An Châu vào ngày 28 tháng hai, Chấn từ Hoàn Châu đến thay Ung, ước tính đến Diên Châu vào khoảng tháng ba, còn Tắc Môn thất thủ vào ngày 12 tháng năm. Khi Tắc Môn thất thủ, Chấn ở Diên Châu đã hơn một tháng, bản truyện lại nói Chấn đến Diên Châu chưa đầy một tháng, giặc lại đánh Tắc Môn, đều không đúng sự thật.

Đại để Chấn thực sự nhút nhát, lại thêm Diên Châu phòng thủ chưa vững, sợ xuất binh dụ giặc, giặc lại đột ngột đến dưới thành, nên không dám cứu Tắc Môn, câu nói “đánh đổi lớn lấy nhỏ” chỉ là lời bào chữa của Chấn, mà sứ thần lại tin theo, còn viết luận bảo vệ Chấn, nay không theo, chỉ ghi lại lời Chấn để đời sau có thể tra cứu.)

[9] Ngày Canh Ngọ, Vua ngự ở điện Diên Hòa xem các quân tập trận. Có người dâng thư nói: “Các quân chỉ dạy ngồi, đứng, tiến, lui, tuy chỉnh tề đẹp mắt, nhưng khi đối địch khó dùng, xin từ nay sai quan xem trận xong, cho cởi yên cương dùng cung nỏ bắn. Trong doanh trại đặt ba loại cung, từ một thạch đến tám đấu; nỏ bốn loại, từ hai thạch tám đấu đến hai thạch năm đấu, lần lượt xem tập.” Vua xuống chiếu thi hành ở các lộ Thiểm Tây, Hà Đông, Hà Bắc. Lại xuống chiếu dạy quân sĩ không mặc áo giáp, khi có việc gấp không đủ để ứng địch, từ nay các quân mỗi người cấp mười bộ giáp, năm bộ giáp ngựa, cho thay nhau mặc. Lại sai các quân nghe tập các môn võ nghệ, không được tùy tiện cấm đoán.

(Việc này theo bản chí chép thêm.)

[10] Người dân thường là Lã Vị, Lý Nguyên Chấn, Diêu Tự Tông đều dâng thư bày kế sách, được triệu đến thi ở viện Học sĩ. Ngày Nhâm Thân, đều được bổ làm quan mạc chức tri huyện. Lã Vị là người Chân Định; Nguyên Chấn là người Kinh Triệu; Tự Tông là người Hoa.

[11] Châu Thiểm nói rằng Phó đô bộ thự Thiểm Tây, kiêm Duyên biên chiêu thảo phó sứ, Quan sát sứ châu Diệu là Hạ Tùy chết.

Khi Tùy mới nhận mệnh, Vua dặn rằng: “Đang giao việc biên cương cho khanh, chớ lấy việc cha đang ở chỗ cơ mật làm ngại.” Lúc ấy Tùy đã bệnh, có người khuyên đợi khỏi bệnh hãy đi, Tùy nói: “Việc biên cương đang gấp, có thể lấy cớ bệnh mà từ chối sao?” Đến khi chết, được tặng chức Chiêu tín tiết độ sứ, thụy là Tráng Khác, sai trung sứ lo việc tang. Tùy rất thích Nho học, thường giao du với sĩ đại phu, tuy ở biên cương không có chiến công, nhưng cũng tự trọng ít lỗi.

[12] Ngày Ất Hợi, Thái thường bác sĩ, Chế trí thanh bạch diêm sứ Thiểm Tây Hà Đông là Tiết Hựu được làm Giám sát ngự sử. Lúc ấy Đô chuyển vận sứ Thiểm Tây là Bàng Tịch tiến cử Hựu lo việc muối ở phía tây, và xin cho giữ chức quan trọng để coi việc ấy, triều đình theo lời xin, bèn xuống chiếu cho các lộ từ nay không được tiến cử người để đổi làm ngự sử.

[13] Tiền Bảo tín hành quân tư mã là Phạm Phúng được làm Tướng tác thiếu giám, tri quân Hoài Dương.

[14] Ngày Bính Tý, Cung uyển sứ, Đạt Châu thứ sử, Hà Bắc an phủ sứ Cao Chí Ninh được làm Tây thượng các môn sứ, tri châu Thương Châu. Trước đó, sai Chí Ninh kinh lý các thành trì quân châu Hà Bắc, chuẩn bị phòng thủ chiến đấu, nhưng sau đó có người bàn rằng sợ Khiết Đan dần sinh nghi ngờ, nên bãi bỏ.

(《Hàn Kỳ mộ chí》 chép rằng trong bản đạo có người ghen ghét việc Chí Ninh thống chế, nên mới có lời bàn này. Nay chỉ theo 《Thực lục》.)

[15] Ngày Mậu Dần, hoàng tử lần đầu được ban tên là Hân, thụ chức Kiểm hiệu Thái úy, Trung Chính tiết độ sứ, phong tước Thọ Quốc công, đặt cờ tiết ở Tư Thiện đường, sai Đoan minh điện học sĩ Lý Thục quản lý thư tấu của hoàng tử. Theo lệ cũ, hoàng tử phong Quốc công thì thực ấp 3.000 hộ, thực bổng 1.000 hộ. Nhưng Trung thư lại phong nhầm thực ấp 1.000 hộ[13], thực phong 300 hộ. Ngày hôm sau, chiếu cho học sĩ đương chế dán tờ giấy sửa lại cho đúng.

[16] Tháng đó, lấy Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, Mi Châu phòng ngự sứ, Kinh Nguyên phó đô bộ thự Cát Hoài Mẫn làm Phụng Nhật Thiên Vũ tứ sương đô chỉ huy sứ, Phu Diên phó đô bộ thự.

[17] Tháng 8, ngày Quý Mùi mùng một, sai Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ Triệu Tông Xác, Hữu Kỳ Kỵ sứ Tượng Châu phòng ngự sứ Nhập nội đô tri Vương Duy Trung mang chiếu thư đến Vĩnh Hưng quân, bàn việc biên cương với Hạ Tùng.

(《Tông Xác truyền》 chép rằng quân đồn trú ở Quan Trung đã lâu, nên lấy Tông Xác làm an phủ Thiểm Tây, cùng Hạ Tùng bàn kế sách công thủ. Nhưng 《Thực lục》 lại không chép việc mệnh an phủ. Cần xét lại.)

[18] Ngày Ất Dậu, Thái thường thừa Điền Huống làm Thiểm Tây kinh lược an phủ ty phán quan, thí Hiệu thư lang Hồ Viện làm Đan Châu quân sự suy quan, kinh lược an phủ ty câu đương công sự. Huống theo Hạ Tùng, Viện theo lời tiến cử của Phạm Trọng Yêm.

[19] Chiếu cho các quan kinh triều được điều đến bốn lộ Ích, Tử, Lợi, Quỳ mà cha mẹ già yếu hoặc có việc tang ma, cho phép tạm thời đến nhận chức giám đương ở nơi gần.

[20] Ban tiền cho binh lính sửa chữa các trại Kim Minh.

[21] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu rằng: “Các lộ có nhiều tội nhân phạm tội đồ, tình tiết nặng, hãy chọn những người trẻ khỏe để thích chữ và đày đến lao thành Vĩnh Hưng quân. Khi số lượng đạt đến 300 người, hãy chọn đặt quân hiệu, lập thành chỉ huy Uy Tiệp, dạy tập võ nghệ, phân phối về các ty bộ thự của các lộ, để chuẩn bị làm tiền phong. Ai có thể lập công, sẽ được thăng chức.”

[22] Lại ban chiếu cho các binh sĩ ở lộ Phu Diên đã canh giữ lâu ngày được luân phiên nghỉ ngơi.

[23] Ngày Mậu Tý, đổi tặng Lưu Bình làm Tiết độ sứ Sóc Phương, Thạch Nguyên Tôn làm Tiết độ sứ Định Nan. Trước đây tặng Trung Vũ, Trung Chính, đều không phải là trấn ngoài biên cương. Phàm những người mới được bổ nhiệm làm Tiết độ sứ, trước hết phải trải qua việc ở ngoài biên cương.

[24] Ngày Quý Tỵ, sai Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Đoàn Vi Minh đến xem xét đê bị sạt lở ở phía nam miếu Hồi Hà và đê Phòng Thôn tảo thuộc châu Hoạt[14], lại quy định số lượng vật liệu và nhân công để sửa chữa, rồi tâu lên.

[25] Thiểm Tây Kinh lược An phủ phó sứ Hàn Kỳ tâu: “Các quan chỉ huy dưới quyền Duyên biên Bộ thự và Kiềm hạt, mỗi khi chống giặc, đều tạm thời phân chia lĩnh binh mã, nhưng chưa qua huấn luyện thuần thục, tướng chưa biết sĩ tốt mạnh yếu, sĩ tốt chưa biết uy đức của tướng, vì thế nhiều lần thất bại. Trước đây, trong các ban đã chọn người giỏi võ nghệ làm Trại chủ, Giám áp, nhưng bị gò bó trong một thành, chưa thể phát huy hết tác dụng. Xin hạ lệnh cho Thiểm Tây Đô bộ thự ty, phân phối những người trúng tuyển, Phu Diên lộ 15 người, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng lộ mỗi nơi 10 người, làm Giáo áp quân trận cho từng lộ, căn cứ vào mức độ tinh nhuệ của sĩ tốt mà thưởng phạt nghiêm khắc. Như vậy, kẻ hèn yếu sẽ không thể tồn tại, người dũng cảm sẽ phấn chí, lại tránh được việc chủ tướng tranh giành tinh binh để làm thân binh.

Hơn nữa, muốn thắng địch, ắt phải có kỳ binh, nếu tập trung lực lượng tấn công, thì chỗ nào cũng sẽ tan vỡ. Hiện nay sĩ tốt không phải không có người dũng cảm hơn người, nhưng vì bị phân tán trong các chỉ huy, mỗi chỉ huy chỉ có khoảng 20-30 người, lại lẫn lộn với quân bình thường, khi chống giặc, thế yếu lực mỏng, thường bị kẻ hèn yếu liên lụy, dù muốn xông pha cũng khó thành công.

Xin ủy thác cho thần cùng Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch chia lộ tuyển chọn trong quân đồn trú, trú bạc và bản thổ sương, cấm quân[15], chọn người giỏi cưỡi ngựa, sử dụng đao, thương, sóc, thiết tiên, thiết giản, côn bổng, có sức mạnh hơn người làm Bình Khương chỉ huy, định ngạch 500 người, cấp phát lương thực như Long Vệ, đứng trên Kiêu Tiệp.

Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng bốn lộ, mỗi lộ đặt hai chỉ huy, một chỉ huy bản lộ thổ binh, một chỉ huy quân đồn trú trú bạc. Phu Diên lộ đóng ở Diên Châu, Phu Châu; Hoàn Khánh lộ đóng ở Hoàn Châu, Khánh Châu; Kinh Nguyên lộ đóng ở Kinh Châu, Trấn Nhung quân; Tần Phượng lộ đều đóng ở Tần Châu. Nếu đã nhận lương Long Vệ trở lên, thì lấy làm tiết cấp; nếu sau này có khuyết, thì chọn thí sinh ở Điện tiền, Mã bộ quân ty, Long Vệ trở xuống, bổ sung người có võ nghệ dũng lực. Bản lộ thổ binh chỉ chọn trong quân Tựu lương chỉ huy; quân đồn trú trú bạc trúng tuyển, cho thay đổi ba năm một lần.

Lại lệnh các châu quân dán bảng chiêu mộ người tình nguyện vào Bình Khương, đưa về Kinh lược ty khảo thí, ngoài vật phẩm theo lệ cấm quân, cấp thêm 10 nghìn tiền, 10 tấm lụa, người không có ngựa thì cấp ngựa đực[16].” Chiếu cho Đô bộ thự ty xem xét tâu lên.

(Gia truyền nói theo lời tâu, nay căn cứ thực lục.)

[26] Ngày Ất Mùi, Hình bộ Viên ngoại lang, Tri chế cáo Tô Thân làm sứ sinh thần của quốc mẫu nước Khiết Đan, Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ Hướng Phó Phạm làm phó sứ. Phó Phạm là con của Mẫn Trung. Hữu Chánh ngôn, Tri chế cáo Ngô Dục làm sứ sinh thần của chúa nước Khiết Đan, Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Kỳ hậu Phùng Tải làm phó sứ; Hữu Chánh ngôn Lương Thích làm sứ chánh đán của quốc mẫu nước Khiết Đan, Tây nhiễm viện Phó sứ Trương Tòng Nhất làm phó sứ; Tòng Nhất là con của Kỳ. Thái thường Thừa, Sử quán Tu soạn Phú Bật làm sứ chánh đán của chúa nước Khiết Đan, Cung bị khố Phó sứ Triệu Nhật Tuyên làm phó sứ.

(Theo 《Phú Bật ngữ lục》, phó sứ là Trương Tòng Nhất, không phải Triệu Nhật Tuyên.)

Bật vào từ biệt ở điện tiện, tâu rằng: “Triều đình điều động toàn bộ quân ở Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam, Giang Nam, Kinh Nam, Hồ Bắc, Lưỡng Chiết, Phúc Kiến, Quảng Nam Đông, Quảng Nam Tây, tổng cộng mười một đạo quân đến đóng ở Quan Trung. Mười một đạo quân này vốn đã ít và yếu, lại bị điều động như vậy, nên Quan Trung tuy có được thêm quân nhưng không đủ để bổ sung, trong khi mười một đạo quân kia đã cạn kiệt. Triều đình chỉ lo Kinh Đông giáp Hà Sóc, Kinh Tây tiếp giáp Quan Thiểm, hai đạo này không thể không phòng bị, nên đã sai sứ điểm tra dân làng, bắt họ tập võ để thay thế quân chính quy, còn chín đạo ở Đông Nam thì không được xem xét.

Thần nghĩ rằng các khoản chi tiêu của triều đình như lương thực quân đội, lụa vải, trà muối, tiền tệ, vàng đồng, chì bạc, cho đến lông chim, keo sơn, đều xuất phát từ chín đạo này. Triều đình có thể yên ổn trị vì thiên hạ mà không thiếu thốn là nhờ chín đạo này cung cấp đầy đủ. Chín đạo này là nguồn sống của triều đình, đáng lẽ phải được bảo vệ. Nay lấy hết quân của họ, lại không bảo vệ, một ngày nào đó giặc nổi lên, chặn các đường hiểm yếu, thì kinh đô sẽ bị vây khốn mà không có lý do. Hiện nay chín đạo có hơn một trăm ba mươi quận lớn nhỏ, nếu mỗi quận đều đóng quân thì không thể được.

Thần xin đề nghị trong chín đạo, chọn khoảng hơn mười quận trọng yếu như Tứ, Dương, Thăng, Hồng, Cát, Đàm, Kinh, Quế, Quảng, Phúc, Hàng, Việt, căn cứ vào địa lý cách đều nhau, tại chỗ đó tuyển quân, quận lớn năm nghìn, quận nhỏ ba nghìn, lấy nhiều bù ít, tổng cộng không quá bốn năm vạn người. Với sự giàu có của một trăm ba mươi quận ở Đông Nam[17], lẽ nào không đủ nuôi dưỡng sao? Huấn luyện thành tinh binh, không phải làm việc khác, mỗi quận đặt hai Đốc hộ chuyên trách, mỗi đạo đặt một Đô hộ kinh lược, chín đạo đặt một Tổng thống ở trung ương để điều phối. Như vậy, kẻ muốn làm giặc biết triều đình có phòng bị, há không sợ sao? Nếu có giặc nổi lên, thì có nơi phát binh, có chỗ tiếp viện, nhân lúc chúng chưa mạnh mà tiêu diệt, không khó gì.”

Lại tâu: “Quân hương ở Kinh Đông, Kinh Tây cũng chưa đáng tin cậy, xin chọn mấy quận trọng yếu, tuyển quân riêng, lập tướng như chế độ ở Đông Nam[18].” Nhân đó dẫn chứng các giặc lớn thời Tùy, Đường để chứng minh lời nói. Các quan chấp chính cho rằng Bật không nên so sánh triều đình thánh minh với thời loạn lạc Tùy, Đường, nên bỏ qua tờ tấu. Bật nhận mệnh vào tháng tám, vào từ biệt tháng mười, nay ghi chép thêm vào đây.

[27] Ngày Mậu Tuất, bãi bỏ việc dùng vàng lá để trang trí tượng Phật ở các chùa, quán trong thiên hạ.

[28] Ban chiếu cho Tri châu Quế Châu, Đô quan lang trung Nhậm Hạo kiêm chức Đề cử châu quân Quảng Nam Tây lộ[19], phụ trách việc tuần tra, kiểm soát binh lính, giáp binh và công việc ở các động, khe.

[29] Ngày Canh Tý, cấm các quan chủ quản quân sự ở vùng biên giới Thiểm Tây giao dịch với người Khương thuộc quyền, người vi phạm sẽ bị xử theo tội vi phạm chế độ.

[30] Ngày Quý Mão, cử Đồn điền viên ngoại lang Lưu Hoán đi sứ đến Mạc Xuyên dụ Cốt Tư La xuất binh giúp đánh giặc phương Tây, Hoán xin đi sứ. Hoán xuất phát từ Cổ Vị Châu, đi theo núi Mộc Bang đến chùa Quốc Môn ở Hà Châu, vượt sông, qua Khuếch Châu, đến thành Thanh Đường. Cốt Tư La đón tiếp, bày trướng cung đốn rất hậu, cho kỵ sĩ mặc giáp đi trước dẫn Hoán vào sảnh. Cốt Tư La đội mũ chiên tử la, mặc áo bào thêu hoa bằng chỉ vàng, đai vàng, đi giày tơ, chắp tay bình thường không lạy, mời ngồi, hỏi thăm sức khỏe, xưng là “A cữu thiên tử có khỏe không”. Khi nhắc lại chuyện cũ thì đếm theo 12 con giáp, nói năm Thỏ thế này, năm Ngựa thế này. Hoán truyền chiếu xong, Cốt Tư La triệu tập các thủ lĩnh, thết đãi lớn, hứa sẽ hết sức không phụ lòng, nhưng cuối cùng cũng không lập được công lớn.

(Những nơi Hoán đi qua, căn cứ theo sách 《Bút đàm》.)

[31] Ngày Mậu Thân, Tuyên huy Nam viện sứ, Trấn Hải tiết độ sứ, Đồng tri Xu mật viện sự Hạ Thủ Uân bị bãi chức, giáng làm Thiên Bình tiết độ sứ, phán sự ở Thiền Châu. Thủ Uân vì con trai là Tùy chết, xin từ chức vì bệnh, được chấp thuận.

[32] Long đồ các học sĩ, Hình bộ Thị lang, Quyền tri Khai Phong phủ Đỗ Diễn được bổ nhiệm làm Đồng tri Xu mật viện sự.

[33] Công bộ Lang trung, Thiên chương các Đãi chế Ngô Tuân Lộ được thăng làm Binh bộ Lang trung, Quyền tri Khai Phong phủ.

[34] Ngày Kỷ Dậu, Đoàn Thiếu Liên, Lang trung Công bộ, Đãi chế Thiên Chương các, Tri Quảng châu, được bổ nhiệm làm Trực học sĩ Long Đồ các, Tri Kinh châu. Quảng châu có nhiều người Man Dao, lẫn lộn với dân du thủ từ bốn phương, thích nhân lúc loạn lạc để cướp bóc. Vào dịp Thượng nguyên thắp đèn, có người báo chợ Phiền bị cháy, lúc đó Thiếu Liên đang yến tiệc khách, diễn trò vui, sĩ nữ tụ tập xem đông đến hàng vạn người. Các thuộc hạ xin dừng yến tiệc, Thiếu Liên nói: “Cứu hỏa chẳng phải là việc của quan sao?” Rồi tiếp tục vui chơi như cũ. Chốc lát sau lửa tắt, dân chúng không mất một cây trâm, mọi người đều phục tài xử lý vững vàng của ông.

Phạm Trọng Yêm khi kinh lược biên giới phía tây, tiến cử Thiếu Liên là người có tài năng xứng đáng làm tướng soái, nên mới có mệnh lệnh này. Tuy nhiên, mệnh lệnh chưa đến nơi thì Thiếu Liên đã qua đời tại Quảng châu. Thiếu Liên là người thông minh lanh lợi, có tài năng, gặp việc dù lớn nhỏ đều quyết đoán nhanh chóng, không bị uy quyền khuất phục[20], Vua rất thương tiếc ông.

[35] Ngày Canh Tuất, Phạm Trọng Yêm, Thiểm Tây kinh lược an phủ phó sứ, kiêm chức Tri Diên châu, dời Trương Tồn, Tri Diên châu, làm Tri Trạch châu.

Trước đó, các tướng tranh nhau bàn kế hoạch tấn công, Trương Tồn cho rằng: “Rợ Địch ngang ngược tiếm quyền, từ xưa đã có. Nay đại binh xuất chinh, thần sợ dân chúng khắp nơi sẽ chịu hậu quả. Nếu Nguyên Hạo thực sự có lòng hối cải và quy phục, không có yêu cầu gì khác, dù danh hiệu chưa chính thức, thần cho rằng cũng có thể bỏ qua. Thay vì trách cứ hư danh với rợ Địch, sao không cứu vớt thực tế cho dân chúng?” Vì vậy, từ chức Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, ông được dời đến Diên châu, nhưng trì hoãn không đi ngay. Khi đến nơi, bàn việc biên cương với Phạm Trọng Yêm, ông nói rằng mình vốn không biết về quân sự, lại xin được dời về nội địa vì cha mẹ đã tám mươi tuổi. Phạm Trọng Yêm nhân đó xin thay thế Trương Tồn, được chấp thuận.

Trước đó, có chiếu chia quân biên phòng, Bộ thự lĩnh một vạn người, Kiềm hạt lĩnh năm nghìn người, Đô giám lĩnh ba nghìn người; khi có giặc, quan chức thấp hơn sẽ xuất quân trước. Phạm Trọng Yêm nói: “Không lượng sức giặc mà xuất chiến, lấy chức quan làm thứ tự, đó là con đường dẫn đến thất bại.” Ông chia quân châu thành sáu tướng, mỗi tướng ba nghìn người, phân bộ huấn luyện, căn cứ vào số lượng giặc mà luân phiên xuất quân chống giặc. Giặc không dám xâm phạm, sau đó các nơi đều học theo cách này. Giặc dặn nhau: “Đừng để ý đến Diên châu, nay Tiểu Phạm lão tử trong bụng có mấy vạn binh mã, không như Đại Phạm lão tử dễ lừa.” Đại Phạm chỉ Phạm Ung.

Theo tấu nghị của Phạm Trọng Yêm ngày 18 tháng 8, Như Kinh sứ, Phu Diên đô giám Chu Cát làm Tướng thứ nhất; Nội điện thừa chế, Phu Diên đô giám Lương Thiệu Hi làm Tướng thứ hai; Cung bị khố sứ, Diên châu đô giám Hứa Thiên làm Tướng thứ ba; Cung bị khố sứ, Diên châu đô giám Chu Mỹ làm Tướng thứ tư; Nội điện sùng ban, Cáp môn chi hậu, Diên châu đô giám Trịnh Tòng Chính làm Tướng thứ năm; Tây đầu cung phụng quan, Diên châu đô giám Trương Kiến Hầu làm Tướng thứ sáu.

[36] Ngày Tân Hợi, chiếu cho Phạm Trọng Yêm và Cát Hoài Mẫn lĩnh quân đuổi kỵ binh giặc ở Tắc Môn và các trại khác ra khỏi biên giới, đồng thời chiêu mộ cung tiễn thủ, cấp đất cho họ ở.

[37] Ngày Nhâm Tý, bổ nhiệm Y Chẩn, người thảo dã ở Ích Châu, làm Thí Hiệu thư lang. Chẩn từ nhỏ đã phóng khoáng, không chuyên tâm học văn chương, hai lần thi Mậu tài dị đẳng đều không đỗ. Khi Nguyên Hạo làm phản, ông nhiều lần dâng sớ bàn việc, được Đinh Độ và Dương Giai tiến cử tài năng, được triệu đến thi ở Học sĩ viện rồi bổ nhiệm.

[38] Đô giám Diên Châu là Chu Mĩ nói với Phạm Trọng Yêm rằng: “Giặc mới đắc chí, thế tất sẽ lại đến. Kim Minh là nơi trọng yếu nơi biên giới, là lá chắn của ta, nay nếu không gấp sửa chữa, e rằng sẽ mất.” Trọng Yêm bèn giao cho Mĩ khôi phục thành trì như cũ. Mấy ngày sau, quả nhiên giặc đến, số quân lên đến mấy vạn, áp sát Kim Minh, dàn trận cách thành Diên Châu 30 dặm về phía bắc. Mĩ dẫn hai ngàn quân ra sức chiến đấu, trời tối mà viện binh chưa đến, bèn dời quân lên phía bắc núi, bày nhiều nghi binh, giặc trông thấy tưởng là quân cứu viện đến, liền rút lui.

Sau đó, giặc từ trại Ngải Hao kéo ra, tiến đến Quách Bắc Bình, đánh nhau suốt đêm không ngừng. Mĩ huy động toàn quân, sai người cầm đuốc theo đường tắt lên núi, cắm thêm cờ xí, hò reo bốn phía, giặc sợ hãi bỏ chạy, thu được hàng ngàn trâu dê, lạc đà, áo giáp, bèn chiêu mộ cấm binh xây thành Vạn An rồi rút về. Giặc lại cướp Kim Minh, Mĩ dẫn quân từ Ngu Gia Bảo dọc theo núi phía bắc xuống, giặc liền rút lui.

(Việc này căn cứ theo bản truyện của Chu Mĩ, không rõ thời gian, nay phụ vào cuối tháng 8. Giặc hai lần cướp Kim Minh, dàn trận cách thành Diên Châu 30 dặm về phía bắc, và từ trại Ngải Hao kéo ra, các sách khác đều không chép, tấu nghị của Phạm Trọng Yêm cũng không đề cập, cần xem xét thêm. Do Hạ Tủng tiến cử làm Đô giám, thực lục chép vào ngày Kỷ Dậu tháng 4 năm Khang Định nguyên niên.)

[39] Tháng 9, ngày Giáp Dần, châu Hoạt báo nước sông tràn ngập, làm hư hại nhà cửa dân chúng.

[40] Ngày Bính Thìn, sai Tam ban tá chức Đỗ Uân đi dụ tộc Hạt Chiên của Tây Phiên, lệnh cho họ xuất binh đánh giặc.

[41] Công bộ Thị lang, Tham tri chính sự Lý Nhược Cốc vì bệnh tai nhiều lần dâng sớ xin từ chức. Ngày Mậu Ngọ, bãi chức, giáng làm Tư chính điện Đại học sĩ, Lại bộ Thị lang, Đề cử Hội Linh quán sự.

(Việc đặt chức Đề cử ở cung quán bắt đầu từ Nhược Cốc. Việc này căn cứ theo 《Thạch Lâm Yến Ngữ》 của Diệp Mộng Đắc, cần xem xét thêm.)

[42] Lễ bộ Thượng thư, Tri Xu mật viện sự Tống Thụ được bổ làm Binh bộ Thượng thư. Khởi phục Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Tả ty Lang trung, Tri chế cáo Triệu Tông Xác làm Hữu Gián nghị đại phu, cùng giữ chức Tham tri chính sự. Tông Xác lúc đó đang đi sứ Thiểm Tây chưa về.

Khi triều đình định dùng giường gỗ có trang sức vàng và đồ dùng múc nước bằng vàng ban cho Cốt Tư La, Tông Xác nói: “Trọng Thúc Vu Hề từ chối ấp phong mà xin dùng dây cương có tua, Khổng Tử nói: ‘Chi bằng ban thêm ấp phong.’ Dây cương có tua là đồ trang sức cho ngựa của chư hầu, còn không thể ban cho bề tôi, huống chi là dùng đồ dùng của thiên tử để ban cho bề tôi ngoại quốc? Nếu muốn tăng thêm lễ nghi, chi bằng ban thêm vàng lụa.”

[43] Long đồ các Trực học sĩ, Khởi cư Xá nhân, Quyền Tam ty sứ Trịnh Tiễn được bổ làm Gián nghị đại phu, Đồng tri Xu mật viện sự. Tiễn ở Tam ty mới nửa năm, lại sửa đổi quy chế khảo khóa của chuyển vận sứ, phân biệt thứ bậc, lại kiểm tra thu chi của Tam ty, thu được 4 triệu quan tiền thừa.

[44] Ngày Kỷ Mùi, Hữu Chánh ngôn, Tri chế cáo Diệp Thanh Thần được bổ làm Long đồ các Trực học sĩ, Khởi cư Xá nhân, Quyền Tam ty sứ sự. Trung thư tiến cử người làm Tam ty sứ, Thanh Thần không có trong danh sách, Vua nói: “Diệp Thanh Thần có tài, có thể dùng.” Bèn bổ nhiệm ông. Thanh Thần bắt đầu tâu xin biên soạn các chiếu sắc trước sau, khiến quan lại không thể lừa dối, những sổ sách rườm rà đều bỏ hết. Nhà bếp ở Nội đông môn do các hoạn quan quản lý, mọi yêu cầu cung cấp, các cơ quan không dám hỏi, bèn lập hợp đồng để kiểm soát việc thu chi.

[45] Ban đầu, ba loại xe ngựa đều dùng cho các nghi lễ, nhưng khi xe ngựa đi ra ngoài gần đây chỉ dùng đoàn tùy tùng thường ngày để đi, người bàn luận cho rằng điều này gần như là sơ sài. Do đó, Tham tri chính sự Tống Tường tâu rằng: “Khi xe ngựa đi ra ngoài, ngoại trừ các nghi lễ lớn ở giao miếu có bày biện đầy đủ nghi trượng, còn ngày thường chỉ có phía trước là giá đầu, phía sau là tản phiến[21] mà thôi, hoàn toàn không có sự huy hoàng của công khanh dẫn đường như được ghi chép trong các điển tích trước đây. Các quan thị tùng và các cơ quan trăm quan, từ trên xuống dưới, đều đi lẫn lộn trên đường. Sau kiệu đi bộ, chỉ có khoảng trăm quan thân sự cầm roi đi sau, gọi là cấm vệ. Các đội kỵ binh tinh nhuệ đều cách xa xe ngựa, còn dân chúng xem thì thường chạy theo đoàn tùy tùng, chạy dọc hai bên đường, hò hét không ngừng.

Những nơi đi qua như đình cờ, lầu chợ, đều buông rèm che bên ngoài, dân chúng từ trên cao nhìn xuống, mà các ty tuần tra, sứ đường phố không hề quở trách, uy lệnh bị bỏ bê, trở thành thói quen. Hơn nữa, Hoàng Đế với thần công thịnh đức còn mượn quân đội làm vệ binh, chính là để phòng ngừa những biến cố nhỏ nhặt[22]. Từ thời Hán, Ngụy trở đi, đã có nghi thức đại giá, pháp giá, tiểu giá. Đến thời Đường, lại chia ra các đội vệ trong điện, nghi trượng hoàng huy, thứ tự danh số[23], đều có quy định riêng.

Triều đình ta kế thừa tệ nạn hoang tàn từ thời Ngũ đại, mọi việc đều làm đơn giản, tiếng chuông xe ngựa đi chơi chỉ giống như phiên trấn, bỏ hết chế độ giáo mác, cờ xí, không phải là sự cẩn thận của việc mao đầu đi trước, thanh đạo đi sau. Đây đều là do chế độ bị bỏ bê, ngại thay đổi. Xin nên giao cho một hai vị đại thần uyên bác gần gũi, tra cứu các nghi thức và lệnh nghi trượng thời trước, tham khảo trong các nghi trượng của ba loại xe, so sánh với nghi thức xuất nhập thường ngày của xe ngựa hiện nay, chọn lấy điều trung dung, tăng thêm một chút nghi vật, quy định pháp cấm nghiêm ngặt, trên để tôn kính thiên tử, dưới để phòng ngừa biến cố, bỏ đi thói quen cũ, việc này nên làm ngay.”

Vua xuống chiếu cho Thái thường lễ viện cùng hai chế định rõ, bèn hợp tấu rằng các đội cấm binh bộ và kỵ làm cấm vệ, vẫn giữ số cũ, thêm một trăm ngựa thanh đạo, mang cung tên làm năm lớp kỵ binh, một kỵ binh cầm hãn tất, bốn kỵ binh cầm cờ nha môn trước sau, hai mươi bốn người cầm phượng xưởng thêu đỏ, mười hai người cầm quạt trĩ, đều chia hai bên. Binh Thiên vũ đi bộ cầm kha thư. Thân tòng binh tăng số lên ba trăm[24], Điện tiền chỉ huy sứ tăng lên hai trăm, đều là kỵ binh, đứng đối xứng hai bên. Mở hai cửa, khoảng cách giữa hai cửa là hai trượng, để giống với nhân môn trong 《Chu lễ》, phàm phía sau cờ nha môn trước, phía trước cờ nha môn sau, là cấm vệ, ai vào trái phép sẽ bị xử theo pháp luật. Cấm việc từ trên cao nhìn xuống, buông rèm che bên ngoài, chạy hò hét dọc hai bên đường. Đều ghi rõ trong lệnh, về sau dần dần bị bỏ bê.

(Chữ “kha thư” cần tra cứu thêm, 《Tạp chí》 của Giang Hưu Phục chép rằng giá đầu là ngai vàng khi mới lên ngôi, chi tiết xem tháng 7 năm Gia Hựu thứ 6.)

[46] Chiếu bãi bỏ tất cả các loại thuế thương mại tăng thêm trong năm nay trên toàn thiên hạ.

[47] Đô quan viên ngoại lang Cảnh Thái được bổ nhiệm làm Tả tàng khố sứ. Thái là người Phổ Châu, trước khi Nguyên Hạo nổi loạn, từng giữ chức Thông phán Khánh Châu, đã tâu rằng: “Nguyên Hạo tuy xưng thần và dâng cống, nhưng trong lòng ẩn chứa mưu đồ phản nghịch, chỉ là chưa hành động mà thôi. Hiện nay các tướng lĩnh chỉ lo quản lý quân đội, không có kế sách lâu dài, khí giới cùn mòn, binh lính lười nhác, thành trì không tu sửa, lương thực không chuẩn bị, một khi có biến, lấy gì để ứng phó với địch?” Ba lần dâng sớ nhưng không được trả lời.

Sau đó, Nguyên Hạo quả nhiên nổi loạn, Thái lại dâng lên 《Biên thần yếu lược》 20 quyển và 《Bình nhung sách》 15 thiên, vì thế có người tiến cử Thái là người am hiểu binh pháp, được triệu vào đối đáp hợp ý Vua, nên được đổi sang hàm võ, cử làm Tri châu Ninh Châu.

[48] Chiếu cho Khai Phong phủ thông báo rõ ràng với những người dâng kế sách biên phòng: nếu kế sách trình bày có thể thực hiện được, sẽ được ban ân trạch; còn những kế sách không có giá trị, đã có lệnh thông báo và cấp tiền lộ phí để họ tự tiện đi về, từ nay không được lại đến gần xa giá dâng trạng[25] để mong được ân trạch. (Xem 《Hội yếu》 ngày 7 tháng 9).

[49] Ngày Canh Thân, Phạm Trọng Yêm sai Điện trực Địch Thanh và Thị cấm Hoàng Thế Ninh đánh vào Lô Tử Bình ở biên giới phía tây, phá được. (Theo tấu nghị, sự việc này xảy ra vào ngày 8 tháng này).

[50] Ngày Tân Dậu, giáng chức Tri châu Hàng Châu, Thiên Chương các đãi chế Tư Mã Trì xuống làm Tri châu Quắc Châu. Trì tính tình chất phác, không chú trọng việc tiếp đãi, không giỏi xử lý việc phức tạp, lại không quen thuộc phong tục địa phương, vì thế bị gièm pha đến tai triều đình. Chuyển vận sứ Giang Quân và Trương Tòng Cách hặc tội Trì xử lý công việc không đúng hơn mười điều và trì hoãn việc thi hành chiếu chỉ, vì thế bị giáng chức.

Ban đầu, khi Chuyển vận sứ dâng tấu hặc tội Trì, có viên lại ăn trộm đồ bạc của quan bị giam trong ngục châu, tự khai rằng đã phục vụ việc bếp núc riêng cho Quân, chi tiêu quá nửa số tiền; lại có Thông phán Việt Châu chở đồ tư nhân trốn thuế, là người thân của Tòng Cách, sai người đến xin riêng. Có người khuyên Trì nên tố cáo việc này để trả thù, Trì nói: “Ta không làm thế.” Mọi người đều khen ông là người nhân hậu.

[51] Ban tặng áo cừu cho quân sĩ Thiểm Tây. Trước đây, có người tâu rằng vùng biên ải lạnh giá, xin ban áo cừu cho quân sĩ. Tam ty tính toán rằng một chiếc áo cừu cần năm tấm da cừu, cho phép quân sĩ tự may, còn loại da mỏng thì cấp cho vùng biên giới thứ yếu. Sau đó, việc phân phối cho các lộ, mỗi tấm da cừu giá lên đến năm, sáu nghìn, việc thu mua gấp gáp, dân chúng rất khổ sở.

[52] Ngày Nhâm Tuất, giáng chức Long đồ các Trực học sĩ Trương Tồn xuống làm Thiên chương các Đãi chế. Gián quan Lương Thích tâu rằng Trương Tồn trước đây được thăng chức vì làm Tri châu Diên Châu, nay đã chuyển về Trạch Châu, nên cần thu hồi chức vụ trước đây.

[53] Ban tiền cho binh lính làm việc khai thác và chế tạo ở Tiểu Lạc Môn, Tần Châu.

[54] Ngày Quý Hợi, giáng chức Bạch Châu đoàn luyện sứ, Tri Giáng Châu Triệu Chấn làm Thái tử Thanh đạo suất phủ suất, an trí ở Đàm Châu; Phu Diên bộ thự, Phượng Châu đoàn luyện sứ Hứa Hoài Đức làm Ninh Châu thứ sử; Kiềm hạt, Văn tư sứ, Văn Châu phòng ngự sứ Sử Sùng Tín làm Tư Châu đoàn luyện sứ; Cung bị khố sứ, đái ngự khí giới Vương Tòng Đức bị cách chức đái ngự khí giới; Đô giám, Như kinh phó sứ Chu Cát làm Cung bị khố phó sứ.

Giặc đã chiếm được Tắc Môn trại, bắt Cao Diên Đức, giết Vương Kế Nguyên. Có quân sĩ tên là Triệu Nghĩa trốn về, nói dối rằng giặc từng giết chó cùng Diên Đức thề nguyền, bảo hắn làm nội ứng. Chấn tin lời ấy, tâu lên. Giặc lại đánh gấp An Viễn trại, Chấn cuối cùng không dám cứu, bèn tâu rằng: “Tháng 5 ngày Kỷ Tỵ, thần đem quân đóng ở Tam Xuyên Khẩu phía bắc Diên Châu, gặp phải mưa gió liên tiếp, sai người do thám, thấy quân giặc vẫn còn đông đúc ở Tắc Môn[26], mà đường An Viễn lầy lội, cỏ bồng cao đến nách, lại chia quân đóng ở Hồn Châu Xuyên và các nơi khác, chặn đường về của quan quân. Thần sợ giặc thừa cơ đánh úp Diên Châu, bèn lệnh cho đô giám Chu Cát đem quân mình đóng ở Kim Minh, thần đem đại quân đóng ở Ngư Gia Trang để phòng ngừa giặc đánh bất ngờ.”

Sau đó, Kinh lược ty nói rằng Chấn do dự trù trừ, xin xử theo luật. Gia đình Diên Đức và Kế Nguyên lại kiện lên triều đình. Lúc đó Chấn đã bị giáng làm Tri Giáng Châu, chưa đi nhậm chức, lại sai Thị ngự sử Phương Giai đến Đồng Châu tra hỏi Chấn, tội đáng chém. Giai tâu rằng: “Quân của Chấn ít không địch nổi[27], nếu ra ngoài chỉ để dụ giặc thì chẳng có ích gì.” Nhờ vậy mà Chấn không bị chết, còn Hoài Đức và bốn người khác đều bị xử tội không cứu hai trại, cùng bị giáng chức như Chấn.

[55] Xuống chiếu từ nay về sau, Đô bộ thự ty phải báo cáo ngay khi giặc xâm phạm biên giới, bất kể nhiều ít xa gần, đều phải kịp thời cứu ứng.

[56] Ngày Ất Sửu, ban chiếu rằng: “Cường tráng ở các lộ Hà Bắc, Hà Đông, cùng với cung thủ mới được đặt ở các lộ Thiểm Tây, Kinh Đông, Kinh Tây, đều lấy 25 người làm một đoàn, đặt một áp quan; bốn đoàn làm một đô, đặt một chánh đô đầu và một phó đô đầu; năm đô làm một chỉ huy, đặt một chỉ huy sứ, mỗi người đều theo cấp bậc mà phục vụ. Tuổi từ 20 được ghi vào sổ, đến 60 thì miễn, lấy người nhà hoặc hộ khác thay thế. Cho phép tư nhân sắm cung nỏ. Mỗi năm từ tháng 10 đến tháng giêng, chia phiên lên châu để tập luyện, nửa tháng thì cho về làm ruộng. Nếu gặp lúc không phải mùa mà phải tập hợp để giữ thành hoặc bắt trộm cướp, mỗi ngày cấp hai thăng lương.

Hàng năm vào tháng giêng, huyện lấy sổ gửi lên châu[28], châu lấy sổ tấu lên Binh bộ, xét xử những người không tuân theo pháp luật.”

(《Thực lục》 chép quá nhiều, nay dùng bản chí và lịch sóc để sửa chữa. Việc cường tráng ở Hà Bắc, Hà Đông, bắt đầu thấy từ năm Hàm Bình thứ 3 và năm Cảnh Đức thứ nhất; cung thủ ở Thiểm Tây, Hà Đông, thấy từ năm Kiến Long thứ 2 và năm Cảnh Đức thứ 2; cung thủ mới được đặt ở Kinh Đông, Kinh Tây, cần phải khảo cứu thêm.)

[57] Ngày Bính Dần, ban chiếu cho các ty bộ thự ở các lộ Thiểm Tây yết bảng cáo dụ, phàm những quân dân đã bị giặc Phiên vây hãm mà trốn tránh chưa về, hạn trong 100 ngày phải đến nơi mình đang ở để trình diện.

[58] Hôm đó, giặc phương Tây đánh vào trại Tam Xuyên, Đô tuần kiểm Tây lộ Trấn Nhung quân là Dương Bảo Cát tử trận. Ngày hôm sau, các Đô giám Kinh Nguyên lộ là Lưu Kế Tông, Lý Vĩ, Vương Bỉnh chia quân ra đánh, đều thất bại, Kế Tông bị tên bắn trúng cằm. Lúc đó, Đô giám trú bạc Kinh châu là Vương Khuê dẫn 3000 kỵ binh đến cứu viện, từ trại Ngoã Đình đến thành Sư Tử, bị giặc vây nhiều lớp. Khuê xông lên đánh, giặc tan vỡ, chém được nhiều thủ cấp, đến thành Trấn Nhung xin thêm quân nhưng không được, trong thành thả lương thực xuống cho, quân sĩ ăn no, Khuê bèn nói với thuộc hạ: “Binh pháp nói lấy ít đánh nhiều, tất phải đánh vào lúc chiều tối. Quân kỵ ít, nhân lúc giặc mệt mỏi lúc chiều tối, có thể thắng được.” Rồi lại xông vào đánh.

Có tướng giặc cầm cờ đen, cắm giáo rồi mắng rằng: “Ai dám địch với ta!” Giáo đâm thẳng vào hộp ngực của Khuê, làm Khuê bị thương cánh tay phải, Khuê dùng tay trái cầm chày đập vỡ đầu tướng giặc. Lại có một tướng khác cầm giáo xông tới, Khuê kẹp lấy giáo, dùng roi sắt đánh chết tướng giặc. Cả đạo quân giặc đều kinh hãi, định rút lui, nhưng Khuê vì ngựa trúng tên nên phải quay về, giặc bèn ở lại cướp bóc, tổng cộng ba ngày, nghe tin Kiềm hạt Kinh Nguyên, Tri Vị châu là Quách Chí Cao dẫn đại quân đến Tam Xuyên, bèn rút lui.

(Tam ban tá chức Quách Luân cố thủ thành Định Xuyên[29], nên không bị hãm. Chỉ sử bản quân ở trại Lưu Phan là Tán trực Vương Ngộ, Đô ngu hậu Cung tiễn thủ là Lưu Dụng vì tình thế nguy cấp nên ra hàng, giặc cũng chiếm được ba thành Can Câu, Can Hà, Triệu Phúc. Trong trận này, quan quân tử trận tổng cộng hơn 5000 người. Quách Luân, trong 《Thực lục》 và tấu của Hàn Kỳ đều viết là “Luân”.

Theo bài thơ Quách Luân trong 《Tô Triệt Loan Thành tập》 chép việc Luân giữ thành Định Xuyên khá chi tiết, nên viết là “Luân”, nay theo đó. Tấu của Hàn Kỳ về việc Vương Khuê đánh nhau, khác với bản truyện, trong tấu nói Khuê dẫn hơn 1000 quân, bản truyện nói 3000, trong tấu nói Khuê trúng ba mũi tên rồi rút lui, bản truyện nói Khuê bị thương cánh tay phải, ngựa trúng tên nên quay về, nay theo bản truyện; nói rằng cả đạo quân giặc đều kinh hãi, bèn rút lui, Khuê cũng vì ngựa trúng tên nên quay về, xét theo tấu của Kỳ thì Khuê rút lui, giặc ở lại cướp bóc ba ngày, nghe tin quân cứu viện của Quách Chí Cao đến, bèn rút lui, e rằng bản truyện sai, nay theo tấu của Kỳ.)

[59] Ngày Đinh Mão, Hương dược khố sứ kiêm Y quan sứ Diêu Khả Cửu được tạm thời bãi chức Y quan sứ, đi Thiểm Tây để xem xét công việc của bộ lạc Phiên. Việc của Diêu Khả Cửu cần phải xem xét thêm.

[60] Ngày Mậu Thìn, Hình bộ Thượng thư, Tri Xu mật viện sự Yến Thù được phong làm Kiểm hiệu Thái phó, sung chức Xu mật sứ.

[61] Đồng tri Xu mật viện sự, Bảo Ninh tiết độ sứ, Phò mã Đô uý Vương Di Vĩnh, Hình bộ Thị lang Đỗ Diễn, Hữu Gián nghị đại phu Trịnh Tiển đều được phong làm Xu mật phó sứ.

[62] Ngày Kỷ Tỵ, Kinh Nguyên kiềm hạt, Tứ phương quán sứ, Đoan Châu đoàn luyện sứ Vương Trọng Bảo được phong làm Trừ Châu đoàn luyện sứ, Kinh Nguyên bộ thự.

[63] Ngày Canh Ngọ, Chủng Thế Hoành, chức Đại Lý tự thừa, kiêm Thiêm thư Định Quốc tiết độ sứ phán quan sự, được bổ nhiệm làm Nội điện thừa chế, tri châu Thanh Giản thuộc Diên Châu.

Thế Hoành là cháu của Chủng Phóng, từ nhỏ theo học Chủng Phóng, có khí phách và tài lược. Ông từng làm tri huyện Kinh Dương. Lý dịch Vương Tri Khiêm vì làm việc gian lợi bị phát giác, theo luật phải bị đi đày, nhưng đã bỏ trốn. Khi có lệnh đại xá, hắn liền xuất hiện. Thế Hoành nói: “Nếu đưa hắn lên phủ thì sẽ được xá tội.” Ông ra lệnh đánh trượng vào lưng hắn rồi đưa lên phủ xin tội. Tri phủ Lý Tư tâu xin tha cho hắn.

Sau đó, Thế Hoành làm thông phán Phượng Châu. Tướng châu là Vương Mông Chính can thiệp việc riêng, nhưng Thế Hoành không nghe. Mông Chính tức giận, xúi Tri Khiêm kiện oan và ngầm giúp hắn. Thế Hoành bị kết tội lưu đày đến Đậu Châu, sau đó dời đến Nhữ Châu. Lý Hoành, Tống Thụ, Địch Phỉ liên tiếp biện hộ cho ông, mãi sau mới được phục chức.

Sau khi An Viễn và Tắc Môn rơi vào tay giặc, phía đông không còn hàng rào phòng thủ, giặc càng lấn sâu vào. Thế Hoành bàn với Phạm Trọng Yêm, xin xây dựng lại châu Hựu cũ[30]. Châu này nằm cách Diên An 200 dặm về phía tây nam, nằm ngay đường tiến quân của giặc, bên phải bảo vệ Diên An, bên trái có thể vận chuyển lương thực từ Hà Đông, phía bắc có thể mưu đồ lấy lại Ngân Châu và Hạ Châu. Trọng Yêm tâu xin triều đình, Vua xuống chiếu cho Thế Hoành xây dựng lại từ phế tích. Vì thành gần địch, giặc nhiều lần ra tranh giành, Thế Hoành vừa đánh vừa xây thành.

Ban đầu khổ vì không có nước, đào đất 150 thước, đến tầng đá mà chưa thấy mạch nước. Thợ cho rằng không thể đào được, nhưng Thế Hoành ra lệnh: “Ai đào được một thúng đá vụn sẽ thưởng 100 tiền.” Cuối cùng tìm được mạch nước. Thành xây xong, được đặt tên là Thanh Giản, Thế Hoành được thăng chức và làm chủ thành.

Ông khai khẩn 1000 khoảnh ruộng, chiêu mộ thương nhân, cho vay vốn để buôn bán, thành trở nên giàu có. Thỉnh thoảng ông đi thăm các bộ lạc, an ủi tù trưởng, có khi cởi dây lưng đang đeo tặng họ. Có lần đang tiếp khách uống rượu, có người đến báo tin về quân Thổ Phồn, ông liền tặng ngay chén rượu. Nhờ vậy, người Khương đều vui vẻ phục vụ. Bộ lạc Thổ Phồn ở sông Vô Định cướp bóc biên giới, Thế Hoành dẫn người Khương đi đánh, trước sau chém được hàng trăm đầu giặc.

[64] Ngày Tân Mùi, truy thụy cho Tào Lợi Dụng là Tương Điệu.

[65] Ngày Nhâm Thân, Phó đô bộ thự Hoàn Khánh là Nhâm Phúc cùng các tướng đánh thành Bạch Báo của giặc Tây, hạ được thành, đốt phá nhà cửa, kho rượu, kho cỏ, nha môn của Ngụy Thái úy, cùng phá tan 41 tộc như Cốt Mị, thiêu chết số lượng không rõ quân giặc Thổ Phồn cất giấu trong hang, bắt sống Ngụy Trương Đoàn luyện cùng 4 tên quan Thổ Phồn, 7 tên Ma Khôi, chém 7 tên thủ lĩnh, thu được 250 thủ cấp, 7180 con ngựa, trâu, dê, lạc đà, 303 khí giới, 6 ấn tín; quân triều đình chết 1 người, bị thương 164 người.

Lúc đó, giặc đang dùng đại quân đánh Bảo An và Trấn Nhung quân, Nhâm Phúc cùng các tướng từ Hoa Trì, Phượng Xuyên trấn ở phía đông Khánh châu, giả vờ tuần tra biên giới, triệu tập Đô tuần kiểm là Nhâm Chính, Trại chủ Hoa Trì là Hồ Vĩnh Tích, Giám áp Phượng Xuyên là Lưu Thế Khanh, Đô giám Hoài An trấn là Lưu Chính, Giám áp là Trương Lập cùng bàn kế vào đất giặc để kìm chân quân giặc.

Ngày Canh Ngọ, tiến đến Nhu Viễn trại. Hôm sau, ban thưởng cho các quan Thổ Phồn thuộc hộ, và dặn họ không được rời khỏi chỗ ngồi. Sau đó, phân bổ các tướng, lệnh cho Trú bạc đô giám là Vương Hoài Chính vây mặt tây thành Bạch Báo, đánh nha môn của Ngụy Lý Thái úy, Đô tuần kiểm Thần Lâm bắc lộ là Phạm Toàn vây mặt đông, Trại chủ Nhu Viễn thuộc Kim Thang lộ là Đàm Gia Chấn, Giám áp là Trương Hiển vây mặt bắc, Tẩu mã thừa thụ Diệp Thị tộc lộ là Thạch Toàn Chính vây mặt nam, Trú bạc đô giám là Vũ Anh vào trong thành, Nhâm Phúc chỉ huy đại trận, đóng ở phía nam thành.

Lại sai một tướng khác dẫn các quan Thổ Phồn được ban thưởng đi trước[31], từ Nhu Viễn đến Bạch Báo 70 dặm, chưa hết canh đêm đã đến dưới thành, bốn mặt hợp kích. Đến sáng, thành bị hạ, cho quân Thổ Phồn cướp bóc và đốt phá sào huyệt, tàn phá một vùng rộng 40 dặm. Tối hôm đó, rút quân về. Khi quân triều đình rút lui, giặc sai vài trăm kỵ binh tập kích phía sau, Phạm Toàn đặt phục binh ở nơi hiểm yếu, đợi giặc qua nửa chừng thì đánh úp, chém được 400 thủ cấp, bắt sống hơn 70 người.

Toàn là người Khai Phong, sau đổi tên là Khác.

[66] Ngày Giáp Tuất, xuống chiếu cho Tam ban viện, Điện tiền Mã bộ quân ty thông báo cho sứ thần, các ban, các quân có người giỏi võ nghệ và mưu lược, đều cho phép tự tiến cử. Sai Hàn lâm học sĩ Đinh Độ, Tây thượng các môn sứ Lý Đoan Nguyện, Nhập nội áp ban Lam Nguyên Dụng cùng tuyển chọn và khảo thí. Tổng cộng chọn được 180 người, thăng bổ theo thứ bậc khác nhau. Đây là theo lời xin của Phạm Trọng Yêm.

[67] Ngày Ất Hợi, quan Phán Lại bộ thuyên Ngô Dục tâu rằng: “Người được tuyển chọn không phải là chức giám sát, mà nhận rượu thịt, thuốc men, đồ ăn, tính tang vật không đủ một tấm[32], cùng với việc mua bán lợi nhuận không phải do ép buộc, phạt trượng 60 trở xuống, trải qua hai nhiệm kỳ không phạm tội riêng, có 10 người tiến cử; cùng với những người vì yến tiệc mà dùng ca kỹ phạm tội lạm dụng, 10 năm không phạm tội riêng, đều cho phép xét duyệt và dẫn vào yết kiến.” Theo lời tâu.

[68] Ngày Mậu Dần, lấy Bắc tuần kiểm quân Bảo An, Nội điện Sùng ban, Các môn Kỳ hậu Lưu Hoài Trung, con là Hóa Cơ làm Nội điện Sùng ban, Các môn Chi hậu, Bắc tuần kiểm quân Bảo An. Ban đầu, Hoài Trung cùng giặc đánh nhau kịch liệt, sau khi bị bắt, Hóa Cơ xin cầm quân đánh úp giặc, nên được bổ nhiệm.

[69] Ngày Tân Tỵ, ngự giá đến điện Sùng Chính, xem xét quân sĩ Long Vệ tập trận, thăng chức cho 66 người tài giỏi và dũng cảm, mỗi người được thăng một bậc.

[70] Ngày Nhâm Ngọ, Phó sứ Kinh lược An phủ Thiểm Tây là Hàn Kỳ dâng tâu về việc các tướng ở Tam Xuyên Trại thất bại, và nói: “Lưu Kế Tông tạm quyền chỉ huy quân đội mới được một ngày, Lý Vĩ và những người khác chưa từng trải qua chiến trận, vội vàng xuất chiến nên dẫn đến thất bại. Xin đặc biệt miễn tra xét, chỉ xét mức độ nặng nhẹ của tội, giáng chức theo thứ bậc, hoặc điều chuyển giáng chức, trách nhiệm để họ lập công chuộc tội. Vương Khuê một mình dẫn quân xông pha máu lửa, giết được nhiều quân giặc, dù bị thương nặng vẫn xin thêm quân để ra trận, quân sĩ đều khâm phục khí tiết dũng cảm của ông. Tuy quân số tổn thất nhiều, nhưng vì quân ít không địch nổi quân đông, xin tha tội cho ông, chắc chắn ông sẽ cảm kích phấn chấn, liều chết để báo đáp.” Vua nghe theo.

[71] Bộ thự Phu Diên là Cát Hoài Mẫn xuất quân từ Bắc Mộc Trường Cốc, Khuê Niên Lĩnh đánh úp quân giặc phía tây, đánh bại chúng.

[72] Tháng này, hợp năm kho Phụng Thần thành một kho, đặt trong cung Diên Phúc, tên cũ là điện Nghi Thánh. Năm kho gồm: kho nội điện Nghi Thánh, kho điện Mục Thanh, kho điện Sùng Thánh, kho thu nhận châu báu điện Sùng Thánh, và kho nhạc khí điện Sùng Thánh. Nay hợp năm kho thành một, đổi tên là Phụng Thần, và đúc ấn ban cho.


  1. 'ít cũng không dưới mười người': chữ 'diệc' vốn thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 324, truyện Trương Kháng bổ sung.
  2. 'tổng quản' vốn viết là 'tổng quan', căn cứ vào sách trên sửa lại.
  3. Từ Bộ thự, Kiềm hạt, Đô tuần kiểm đến các bộ phận ở thành trại, 'Đô tuần kiểm' trong 《Tống sử》 quyển 324, truyện Trương Kháng viết là 'Đô giám tuần kiểm', nghi ngờ là đúng.
  4. 'Lại' nguyên ở dưới chữ 'nhiều ít', các bản đều giống nhau, nay căn cứ vào 《Biên niên cương mục》 quyển 11, 《Tống sử》 quyển 324 truyện Trương Khang để sửa lại.
  5. 'Đồng' nguyên là 'ty', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Tống sử》 trên để sửa lại.
  6. Tắc Môn nguyên bản là 'Trại Môn', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các truyện Triệu Chấn quyển 323, Trương Kháng quyển 324 trong 《Tống sử》 mà sửa lại.
  7. 'Báo' nguyên bản là 'Chấp', theo sách trên mà sửa lại.
  8. Thóc mới cũng giảm được một nửa việc vận chuyển, bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các đều chép 'Thóc mới cứng mát, có thể giảm một nửa việc vận chuyển'. 《Tống sử》 quyển 324, truyện Trương Kháng chép 'Cũng có thể giảm một nửa việc vận chuyển', không có bốn chữ 'Thóc mới cứng mát'.
  9. La nguyên là 'Lừa', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách Tống sử sửa lại.
  10. Vận chuyển nguyên là 'Thuyền vận', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách Tống sử quyển 324, truyện Trương Kháng sửa thành 'Liễn vận'.
  11. Mà sức dân có thể được nhẹ bớt, chữ 'Lực' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách Tống sử sửa lại.
  12. Giáng Phụng Nhật Thiên Vũ tứ sương đô chỉ huy sứ, Tượng Châu phòng ngự sứ, Phu Diên phó đô bộ thự. 'Đô chỉ huy sứ' nguyên bản thiếu chữ 'Đô', 'Phu Diên' nguyên bản viết là 'Phu Châu', theo bản Tống và bản Tóm tắt Tống sử bổ sung và sửa lại.
  13. Nguyên văn chữ 'Nhất', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa thành 'Ấp'.
  14. Đê Phòng Thôn tảo và đê phía nam miếu Hồi Hà thuộc châu Hoạt, nguyên bản chép nhầm 'Hoạt châu' thành 'Vị châu', theo 《Tống sử》 quyển 91, 《Hà cừ chí》, Phòng Thôn tảo ở châu Hoạt, chữ 'Hoạt' và 'Vị' gần giống nhau nên nhầm, nay sửa lại. Chữ 'tồi' nguyên bản chép là 'thôi', theo bản trong các các sách sửa lại.
  15. 'bản thổ sương' nguyên là 'sở lĩnh', theo Tống bản, Tống toát yếu và 《Hàn Ngụy công tập》 quyển 11 gia truyền sửa lại.
  16. 'ngựa đực', các bản khác chép là 'ngựa khoẻ', 《Hàn Ngụy công tập》 quyển 11 gia truyền chép là 'ngựa kèm'.
  17. Với sự giàu có của một trăm ba mươi quận ở Đông Nam 'ba mươi' nguyên là 'năm mươi', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và văn bản trên sửa lại.
  18. Lập tướng như chế độ ở Đông Nam 'tướng' nguyên là 'sư', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, các bản khác sửa lại.
  19. Chữ 'châu' trong 'Quảng Nam Tây lộ châu quân' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các để bổ sung.
  20. 'Thế' nguyên bản viết là 'Chấp', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Đông Đô Sự Lược》 quyển 60, 《Tống Sử》 quyển 297 truyện Đoàn Thiếu Liên sửa lại.
  21. Tản phiến nguyên văn là 'phiến tản', theo 《Tống hội yếu》 dư phục nhất chi nhất tứ và 《Tống sử》 quyển 144, Nghi vệ chí, sửa lại.
  22. Phòng ngừa biến cố nhỏ nhặt, chữ 'vi' nguyên văn là 'vi', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》, 《Tống hội yếu》 dư phục nhất chi nhất ngũ, sửa lại.
  23. Thứ tự nguyên văn là 'thứ đệ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống sử》, 《Tống hội yếu》, sửa lại.
  24. Tăng số lên ba trăm, chữ 'vi' nguyên văn không có, theo 《Tống hội yếu》 dư phục nhất chi nhất ngũ bổ sung, đoạn sau trong sách này 'tăng lên hai trăm' cũng có thể chứng minh.
  25. Không được lại đến gần xa giá dâng trạng: bản các bản khác không có chữ 'đến', có lẽ đúng.
  26. 'Thượng' nguyên là 'Thường', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại.
  27. 'Chấn' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung.
  28. huyện lấy sổ gửi lên châu, chữ 'sổ' nguyên bản là 'bạ', theo bản Tống, bản Tóm tắt của Tống và sách 《Thông khảo》 quyển 156 phần Binh khảo, 《Tống sử》 quyển 190 phần Binh chí mà sửa. Đoạn dưới của sách này nói 'châu lấy sổ tấu lên Binh bộ', cũng có thể chứng minh.
  29. 'Xuyên' nguyên bản viết là 'Châu', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Tô Triệt Loan Thành tập》 quyển 1 bài thơ Quách Luân, 《Trị tích thống loại》 quyển 7 phần Khang Định Nguyên Hạo nhiễu biên sửa lại.
  30. Hựu châu nguyên bản viết là 'Khoan châu', căn cứ vào 《Trị tích thống loại》 quyển 8 《Nhân Tông kinh chế Tây Hạ yếu lược》 và 《Hoàn vũ ký》 quyển 39 sửa lại.
  31. 'tiền hành' nguyên văn là 'hành tiền', theo 《Trị tích thống loại》 quyển 7, phần Khang Định Nguyên Hạo nhiễu biên, sửa lại.
  32. Tính tang vật không đủ một tấm, chữ 'tấm' nguyên bản là 'đủ', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 11-12 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.