IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 135: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 2 (NHÂM NGỌ, 1042)
Từ tháng giêng đến tháng tư năm Khánh Lịch thứ 2 đời Vua Nhân Tông.
[1] Tháng giêng mùa xuân, ngày Canh Tuất, Vua ra chiếu chia vùng biên giới Thiểm Tây thành 4 lộ, mỗi lộ đặt chức Kinh lược an phủ, Chiêu thảo sứ. Từ nay, các chức Lộ phân bố trí, Kiềm hạt trở lên được phép cùng với Đô bố trí ty bàn bạc việc quân sự. Các chức Lộ phân đô giám trở xuống đều phải nghe theo sự điều động của Đô bố trí. Ai vi phạm sẽ bị xử theo quân pháp.
[2] Vua ra chiếu cho các lộ Hà Bắc, Kinh Đông, Kinh Tây: Dân gian vì năm mất mùa, chặt cây, dỡ nhà bán rất nhiều, nên lệnh cho Chuyển vận ty dùng tiền trong kho mua theo giá để sửa chữa, xây thêm doanh trại quân đội.
[3] Lại ra chiếu cho Kinh Tây Chuyển vận ty nhanh chóng phát thóc trong kho tỉnh cho dân vay, mỗi hộ 2 thạch. (Việc này đều căn cứ theo 《Sóc lịch》.)
[4] Ngày Tân Hợi, Vua ra chiếu cho Vũ Thành tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Phò mã đô úy Sài Tông Khánh về trấn nhậm. Quyền Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều tâu rằng Tông Khánh trước đây ở Trịnh Châu tham ô, phạm pháp, nếu lại cho về trấn nhậm, e rằng sẽ càng hại dân. Vua bèn ra chiếu cho Tông Khánh vẫn ở lại kinh sư.
[5] Đông đầu cung phụng quan, Các môn chi hậu Lý Chí Huân bị cách chức, giáng làm Giám đương. Trước đây, Chí Huân làm Kinh thành đông Tuần kiểm, nhiều lần bắt được giặc, được thăng làm Các môn chi hậu, sai đi bắt giặc quân Ngạc Lân ở Chiết Đông, nhưng đi qua nhiều nơi mà không tiến quân, nên bị trách phạt.
[6] Vua ra chiếu cho binh mã ở Lân Phủ lộ nào già yếu không đủ sức đi đánh trận thì dời về các châu gần bên trong để giảm chi phí biên phòng.
[7] Ngày Quý Sửu, Tri Khánh châu Phạm Trọng Yêm xin cấp 100 tờ tuyên không đề tên của Xu mật viện[1] và 100 tờ đầu tử không đề tên của Tuyên huy viện để khi cần kíp thì điền vào, dùng để khuyến khích khen thưởng chiến công và chiêu hàng các bộ tộc phiên, Vua đồng ý.
(Xem 《Phạm Trọng Yêm tấu nghị》 xin tờ tuyên, đầu tử, là phần nghị luận về hai sách lược tấn công và phòng thủ trong tờ thiếp hoàng, 《Thực lục》 không chép hai sách lược này, chỉ chép tờ thiếp hoàng, không rõ vì sao. Hai sách lược đã phụ lục vào tháng 11 năm trước.)
Trọng Yêm lại tâu: “Triều đình mỗi khi có văn thư cơ mật gửi xuống Đô bộ thự ty, vì quan viên trong ty này đông người, khó bàn bạc chung, xin chỉ gửi xuống Kinh lược chiêu thảo ty để tránh lộ bí mật[2]“. Triều đình nghe theo.
(Tấu chương này dâng lên ngày 29 tháng 11 năm ngoái, nay được phê chuẩn.)
[8] Ngày Đinh Tỵ, sai Hàn lâm học sĩ Niếp Quan Khanh quyền coi việc thi cử. Trước đó, Đoan minh điện học sĩ Lý Thục hầu giảng kinh, Vua hỏi về thứ tự thi thơ, phú, sách, luận của tiến sĩ[3], bảo lấy chuyện cũ để trả lời.
Thục lui về rồi dâng tấu rằng: “Năm Điều Lộ thứ 2 đời Đường, Lưu Tư Lập làm Khảo công viên ngoại lang, cho rằng tiến sĩ chỉ thi sách, sơ sài không hết được học vấn, xin thiếp kinh để xem học vấn, thi tạp văn để xem tài năng. Từ đó lấy làm lệ thường. Đến năm Vĩnh Long thứ 2, tiến sĩ thi tạp văn[4], người thông văn luật mới thi sách. Năm Thiên Bảo thứ 11, tiến sĩ thi một đại kinh, người thông được thì thi văn phú[5], lại thông nữa rồi mới thi sách, năm điều đều thông thì đỗ trung đệ. Năm Kiến Trung thứ 2, Triệu Tán xin thi năm bài sách về thời vụ[6], luận, biểu, tán mỗi thứ một bài để thay cho thơ, phú. Năm Đại Hòa thứ 3[7], thi thiếp kinh, hỏi sơ lược đại nghĩa, lấy người tinh thông, sau đó thi luận, nghĩa mỗi thứ một bài. Năm thứ 8, Lễ bộ thi thiếp kinh khẩu nghĩa, sau đó thi năm bài sách, hỏi kinh nghĩa ba câu, hỏi thời vụ hai câu. Sau đó thay đổi, lấy thơ phú làm trường thi thứ nhất[8], luận làm trường thi thứ hai, sách làm trường thi thứ ba, thiếp kinh làm trường thi thứ tư.
Nay bệ hạ muốn cầu đạo lý, không coi trọng văn chương hoa mỹ, được thực chất của việc lấy người tài. Nhưng quan chấm thi lấy bài thi chia ra chấm, không thể thông suốt mà so sánh, mỗi trường thi lại đánh trượt, việc đỗ trượt của sĩ tử, chỉ phụ thuộc vào may rủi mà thôi. Xin ước theo chế độ cũ, trước hết thi sách, sau đó thi luận, rồi thi phú, cuối cùng thi thiếp kinh, mặc nghĩa, và ra lệnh cho các cơ quan cùng thi bốn trường, so sánh kỹ càng, không lấy kết quả một trường thi để quyết định đỗ trượt.”
Vua xuống chiếu cho các cơ quan bàn bạc, rồi thi hành một phần. Việc bàn luận này theo bản chí ghi liền với việc bãi bỏ thi điện, không rõ thời gian, nay phụ vào sau khi sai quan coi việc thi cử. Thục vào tháng 6 năm Khánh Lịch thứ nhất ra làm Tri châu Hứa Châu.
[9] Từ khi Nguyên Hạo làm phản, tập trung binh lính ở vùng biên giới phía tây, việc nhập khẩu lương thực từ biên giới vào trung ương trở nên ít ỏi. Quan huyện lo lắng về lương thực cho quân đội, và do chi phí quân sự tăng cao, việc điều động và cung cấp không đủ, nên cho phép nhập khẩu lương thực, cấp giấy chứng nhận, để người dân đến Khoản hóa vụ ở kinh đô nhận tiền hoặc vàng bạc; nếu nhập khẩu các loại hàng hóa khác, cũng cấp giấy chứng nhận và trả bằng muối từ ao muối. Từ đó, các loại hàng hóa như lông vũ, gân, sừng, keo, sơn, sắt, than, ngói, gỗ, v.v., đều được đổi bằng muối. Những thương nhân gian xảo và người tham lam lợi dụng thời cơ để trục lợi, cùng với quan lại trong chính quyền thông đồng làm bậy, đến mức nhập hai cây gỗ, định giá một nghìn tiền, được cấp một tấm muối lớn, mỗi tấm muối lớn tương đương 220 cân muối, gây lãng phí muối ao không thể tính xuể. Giá muối ngày càng rẻ, người buôn bán không còn hoạt động, cả công lẫn tư đều không có lợi.
Triều đình biết được tình trạng này, vào ngày Mậu Ngọ, theo đề nghị của Tam ty sứ Diêu Trọng Tôn, bổ nhiệm Độ chi phán quan, Hình bộ viên ngoại lang, Bí các hiệu lý Phạm Tông Kiệt làm Chế trí giải diêm sứ, đến điều hành việc này.
Ban đầu, triều đình ra chiếu khôi phục pháp chế về độc quyền muối ở kinh đô. Tông Kiệt đề nghị: “Tất cả thương nhân nhận giấy chứng nhận với giá ảo, hoặc đã nhận muối mà chưa bán được, đều phải tính giá trị và nộp tiền bù cho quan phủ. Muối trong dân gian ở các châu quân nội địa đều thu mua vào quan, lập trường tăng giá rồi bán ra. Lại cấm thương nhân ở mười một châu Vĩnh Hưng, Đồng[9], Hoa, Diệu, Hà Trung, Thiểm, Quắc, Giải, Tấn, Ráng, Khánh Thành, quan tự vận chuyển, giao cho nha tiền quản lý. Lại cấm thương nhân buôn muối tư nhập vào Thục, lập Chiết bác vụ ở Vĩnh Hưng và Phượng Tường, cho phép người dân nộp tiền hoặc hàng hóa Thục để đổi muối, rồi đem vào Thục bán.” Chiếu đều chấp thuận đề nghị của ông.
[10] Người dân thường ở Kinh Triệu phủ là Lôi Giản Phu, ẩn cư không ra làm quan, được Xu mật sứ Đỗ Diễn tiến cử. Vua triệu kiến, ông bàn luận việc biên cương rất rõ ràng. Vua vui mừng, sai Trung thư xét lại việc Chân Tông dùng chuyện cũ của Chủng Phóng. Lữ Di Giản nói: “Kẻ sĩ có tài ăn nói chưa chắc đã làm được việc, xin hãy thử dùng.” Bèn cho làm Hiệu thư lang, Quan sát phán quan ở Tần châu.
Giản Phu là con của Hiếu Tiên.
[11] Cho vay lương thực cho dân phu đào sông Biện ở Tam Kinh, Trịnh, Mạnh, Túc, Bạc, Tứ châu, mỗi người một hộc.
[12] Ngày Nhâm Tuất, sai các quan nội thần đi các lộ Hà Bắc thúc giục chiêu mộ binh lính, ai chiêu mộ được hơn một vạn người thì được thưởng.
[13] Ra chiếu cho các tộc người Thổ Phồn ở Thiểm Tây đã quy phụ mà không có thân thuộc, đều đưa về các châu quận phía tây kinh thành, cấp ruộng đất hoang cho ở.
[14] Tri châu Khánh châu Phạm Trọng Yêm trước đây dâng tấu bàn về hai kế sách đánh và giữ, Vua hạ chiếu trả lời rằng: “Các tướng súy nhiều lần bị thất bại, chưa thật sự dũng cảm quyết đoán, nếu may mà thắng được, e rằng chưa phải là kế hay, giả sử thắng được, lại thêm phiền toái việc phòng thủ. Chi bằng hãy chăm chỉ huấn luyện, nghiêm ngặt phòng thủ, đặt thám tử xa, ngăn chặn sự xông pha của địch, thấy có lợi mới tiến, thấy sơ hở mới hành động, như vậy mới có thể nuôi dưỡng sức mạnh lâu dài. Khanh nên thấu hiểu ý này, cùng các lộ lân cận hỗ trợ lẫn nhau, đồng lòng hết sức, có gì thuận tiện thì bí mật tâu lên.”
Trọng Yêm lại dâng tấu rằng:
“Quốc gia thái bình đã lâu, bỗng một ngày giặc phương Tây trái đạo, xâm phạm biên giới, các công khanh đại phu tranh nhau dâng kế sách, nhưng chưa đáp ứng được lòng lo lắng biên cương của bệ hạ. Kẻ bàn đánh thì cho rằng phòng thủ là tỏ ra yếu đuối, người bàn phòng thủ lại nói đánh sẽ gây họa nhanh chóng, hai ý kiến này cuối cùng không thể thống nhất.
Trước đây, thần đến Diên An, ban đầu xin khôi phục các trại để chuẩn bị phòng thủ; sau đó nhân lúc giặc ngừng binh, liền phái một sứ giả tỏ ý chiêu dụ. Triều đình vì các ý kiến khác nhau nên chưa chấp nhận. Nay thần nhậm chức ở Khánh Châu, ngày đêm suy nghĩ, mới biết đánh có lợi hại, phòng thủ có an nguy. Tại sao vậy? Bởi đánh xa thì hại ắt đến, đánh gần thì lợi ắt theo; phòng thủ bằng quân địa phương thì yên, phòng thủ bằng quân phương Đông thì nguy.
Thần cho rằng đánh xa mà gây hại là vì nếu các lộ tiến sâu vào, tướng không có kế hoạch từ trước, quân sĩ không có sự dũng cảm thường ngày. Hoặc gặp gió cát lạc đường, hoặc mưa tuyết kéo dài. Tiến thì vướng sông lớn và sa mạc mênh mông[10], lui thì lo bị địch thừa cơ chặn hiểm. Thần cho rằng đánh gần mà có lợi là vì giữa Diên An và Khánh Dương có chướng ngại Kim Thang, Bạch Báo, vốn là trại của nhà Hán, nay bị giặc chiếm, ngăn cách viện binh của Diên An, Khánh Dương, là nơi buôn bán giữa người Hán và người Phiên, bọn gian thương qua lại, hàng hóa tụ tập, đây thực là đất yếu hại. Nếu giặc từ các lộ khác xâm nhập, viện binh từ xa không kịp ứng cứu, thì nên kéo dài thời gian để khống chế, có thể nhân cơ hội chiếm các trại Kim Thang, Bạch Báo, dựa vào địa thế hiểm yếu bày trận, bố trí xe ngang hào, không cho địch xông vào, chọn nơi trọng yếu xây thành lũy, thì ta không lo bất lợi. Còn sáu trại Hợp Thủy, Hoa Trì, Phượng Xuyên, Bình Nhung, Nhu Viễn, Đức Tĩnh, binh giáp và lương thực có thể đóng quân tại chỗ, không phải lo phòng thủ.
Lại nữa, trại Định Biên của Hoàn Châu và trại Càn Hưng của Trấn Nhung Quân cách nhau hơn tám mươi dặm, giữa hai trại có suối Hồ Lô, nay thuộc địa giới giặc, là nơi giao nhau của hai quận Nghĩa Cừ và Triều Na, phía nam có các tộc Minh Châu, Diệt Tạng, nếu tiến quân chiếm suối Hồ Lô làm doanh trại, chặn đường giặc từ phía bắc, thì hai tộc này sẽ yên ổn, không có ý khác. Phía tây Triều Na, phía đông thành Tần Đình có thành Thủy Lạc, cũng là chướng ngại. Nay quân ứng cứu từ hai châu Nghi, Lũng phải đi mười trạm mới đến, nếu tiến quân tu sửa thành Thủy Lạc, chặn đường giặc vào Tần Đình, lợi ích rất lớn, không chỉ thông suốt thế lực bốn lộ, mà còn làm rạng rỡ uy phong ba quân.
Thần cho rằng phòng thủ bằng quân địa phương thì yên, vì họ quen thuộc địa hình, gắn bó với cha mẹ vợ con, không phải chịu cảnh đóng quân lâu dài, không có nỗi khổ thay đổi liên tục. Còn phòng thủ bằng quân phương Đông thì nguy, vì tốn kém nhiều thì tài chính khó khăn, đóng quân lâu thì tích tụ oán hận, tài chính khó khăn thì khó sử dụng, sức dân ngày càng kiệt quệ, lòng quân ngày càng xa cách, biến cố xảy ra không lường trước được. Thần cho rằng đánh nên chọn gần mà thế quân không nguy, phòng thủ nên tính lâu dài mà sức dân không cạn. Kế sách chiêu dụ có thể thực hiện trong lúc này.
Nay vâng chiếu, nên lệnh nghiêm ngặt phòng thủ, quan sát cơ hội mà hành động, cùng với các đạo lân cận hợp lực mà cùng mưu tính. Lại xem tờ chiếu ân xá, nói rằng nếu bên kia không gây rối thì ta cũng không xâm lấn. Thần e rằng giặc cướp một góc, xa cách đến mấy trăm dặm, viện binh không kịp, cần phải có kế sách kiềm chế để làm nhụt khí giặc. Đến lúc đó, các lộ trọng binh há có thể ngồi yên? Nếu không có kế hoạch sẵn, lại không chuẩn bị hành dinh, e rằng khi cần kiềm chế, sẽ hoang mang không biết làm gì, dù thấy lợi mà không dám tiến, dù thấy cơ hội mà không dám động, giặc càng mạnh, biên cương càng nguy, kẻ phản bội ngày càng giúp sức cho giặc, không thể không lo liệu kỹ càng.
Mong triều đình ngoài kế sách phòng thủ, hãy chuẩn bị thêm kế sách tấn công, giặc đánh phía tây, ta đánh phía đông, giặc đánh phía đông, ta đánh phía tây, nên chuẩn bị sẵn mà không hành động, chứ đâu thể hành động mà không chuẩn bị! Cái gọi là chuẩn bị, trước hết phải có mật chỉ, cho phép điều động tướng soái, tùy nghi hành sự, và ban trước các loại tuyên đầu không tên[11], e rằng khi cần hành động, tâu xin không kịp.
Thần trước đây từng sai người vào địa giới, thông tin qua lại[12], nếu lại có người đến, không thể không đáp lại, nếu triều đình ban mật chỉ trước, cho phép đi lại bàn luận, trong vài năm, ắt sẽ thành công. Nếu cho rằng nỗi nhục của tướng biên chưa rửa, mà không muốn hạ mình, thần e rằng các lộ sẽ không chịu nổi, nỗi nhục càng lớn. Giặc có thể bí mật liên kết với các phiên, hợp lực mưu tính, thì chống lại càng khó.
Vả lại từ xưa, binh mã tinh nhuệ là sở trường của Tây Nhung, vàng lụa dồi dào là của cải của Trung Quốc. Lễ nghĩa không thể cảm hóa, vũ lực không thể chiếm đoạt, thì nên dùng của cải của mình, thắng sở trường của họ, đó là thuật bá vương. Thần trước đây làm tri châu Việt, mỗi năm nộp thuế lụa mười hai vạn, mua lụa hòa hai mươi vạn, thu nhập một quận còn dư ba mươi vạn, nếu dùng để đút lót cho Nhung[13], thì chỉ tốn thu nhập một quận mà giải quyết được mối họa của thiên hạ.”
Chiếu cho các lộ Kinh lược Chiêu thảo ty ở Thiểm Tây tham nghị rồi tâu lên. Căn cứ theo tấu nghị của Phạm Trọng Yêm. Trước đã bàn về hai sách lược công và thủ, nhân Lương Thích mang về kinh đô, chiếu đáp lại Trọng Yêm, lệnh phải cùng các đạo lân cận hỗ trợ lẫn nhau, nên Trọng Yêm lại dâng tấu này.
(Thực lục bỏ phần bàn luận trước, chỉ giữ lại chương sau, nay phần bàn luận trước đã phụ lục vào cuối tháng 11 năm ngoái.)
[15] Ngày Quý Hợi, chiếu cho Viện Khảo khám: “Từ nay các quan triều đình làm Đề điểm hình ngục khi thay về, phải liệt kê công và lỗi thành ba bậc rồi tâu lên. Bậc trên thì bổ làm Phán quan ở tỉnh phủ, Chuyển vận sứ phó; bậc trung thì bổ làm một nhiệm ở đại phiên, sau đó mới thăng chức; bậc dưới thì giáng làm Tri châu.”
[16] Lại chiếu cho Ngự sử đài cử thuộc quan, theo lệ cũ[14], từ Thái thường bác sĩ trở lên, hai nhiệm Thông phán thì trong ba người do ngự bút chấm một người, nghe nói khó tìm được người, từ nay[15] cho phép cử một nhiệm Thông phán và hai người thuộc Tam thừa đủ điều kiện khảo khám để chọn.
[17] Ngày Giáp Tý, chiếu cho các Chuyển vận ty ở Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây xem xét các quan Tri huyện, Huyện lệnh, Mạc chức quan già yếu bệnh tật không đảm đương được việc rồi tâu tên lên.
[18] Chiếu rằng từ nay các quan thần trong dịp tế Nam Giao nếu nghỉ không đến chầu thì không được tâu xin ân trạch cho thân thuộc.
[19] Ngày Ất Sửu, chiếu lấy đất chăn nuôi ở Sa Uyển giám thuộc Đồng Châu làm ruộng doanh điền.
[20] Lại chiếu cho Phủ Châu chọn những người tài dũng trong Kiến An chỉ huy, lập thành Giản trung Kiến An chỉ huy, để thuộc vào quân Cấm.
[21] Ngày Bính Dần, chiếu rằng phụng mệnh đi sứ Khiết Đan, không được tự ý làm thơ, nếu nước họ có yêu cầu thì cho phép.
[22] Ngày Đinh Mão, Giả Xương Triều xin bỏ việc thí sinh viết đề sách ở viện thi, theo lời xin.
[23] Bổ nhiệm Ngạc Tề Nhĩ, nguyên là Ngụy đoàn luyện sứ nội phụ ở Hoàn Khánh lộ, làm Hoài Hóa tướng quân, cấp bổng lộc như Cung phụng quan, Tuần kiểm.
[24] Ngày Tân Mùi, lấy điện Thái Tông ngự thư mới tu sửa ở chùa Đại Tướng Quốc làm điện Bảo Khuê. Khắc bản mô phỏng ngự bút của Thái Tông lên đá, Vua viết chữ phi bạch đề lên, sai Tể tướng Lữ Di Giản soạn bài ký, Chương Đắc Tượng viết chữ triện đề ngạch, Xu mật sứ Yến Thù soạn bài ký về chữ phi bạch của Vua.
[25] Châu Tần tâu rằng đã xây xong thành Đông Tây Quan. Ban thưởng vàng lụa cho các quan lại phụ trách công việc có mức độ khác nhau. Trước đây, Tri châu Hàn Kỳ cho rằng dân cư và quân doanh ở phía đông tây châu có hơn một vạn hộ, đều ở sát thành mà không có gì che chắn, nên xin xây ngoại thành dài mười dặm, tính công trình ba trăm vạn, khởi công từ tháng mười, đến nay đã hoàn thành.
[26] Ngày Quý Dậu, điều Tần Phụng phó bộ thự, Điện tiền đô ngu hậu, Cảm Đức quân lưu hậu Lý Chiêu Lượng làm Vĩnh Hưng quân bộ thự. Hàn Kỳ tâu rằng Chiêu Lượng vốn là con nhà quyền quý, cả đời chưa từng biết đến chiến trận, nên điều đi.
[27] Tháng hai, ngày Ất Hợi mùng một, Viện Thẩm quan tâu rằng các châu Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây xin tạm cho các quan kinh triều giữ chức Lục sự tham quân, Vua đồng ý.
[28] Ngày Bính Tý, bãi bỏ trại Định Xuyên ở châu Vị[16].
[29] Ngày Đinh Sửu, chiếu cho quyền Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều thị giảng ở Nhĩ Anh các[17]. Theo lệ cũ, quan Ngự sử không tham gia kinh diên, Vua thấy Xương Triều giỏi giảng giải nên đặc cách triệu vào.
[30] Tri châu Tần Hàn Kỳ xin ban 50 đạo tuyên đầu không danh của Xu mật viện để thưởng cho các tộc Khương có công, Vua đồng ý.
[31] Khiết Đan mưu tụ binh ở U Kế, sai sứ đưa thư xin đất Quan Nam[18]. Tri châu Bảo Châu, Y khố sứ Vương Quả trước đó đã mua được bản thảo thư này và tâu lên, nói rằng: “Khiết Đan ngầm liên kết với giặc Ngô, chắc chắn sẽ phản bội minh ước. Xin từ Quảng Tín quân về phía tây, dọc theo các cửa núi nơi quân giặc qua lại, sớm lo phòng thủ.” Chiếu chỉ giao cho Hà Bắc an phủ ty, bí mật tu sửa biên phòng.
(Đỗ Duy Tự cũng đã mua được bản thảo thư của Khiết Đan và tâu lên, nhưng ‘Thực lục’ không ghi chép, nghi ngờ rằng tấu chương của Duy Tự được dâng sau Vương Quả.)
[32] Ngày Canh Thìn, chiếu cho Thương Châu kiềm hạt, Lạc Uyển sứ, Phổ Châu thứ sử Dương Hoài Mẫn, chỉ lấy cớ tuần tra đê điều, tạm trú ở Mạc Châu, cùng với Tri châu Hùng Châu, Lục trạch sứ, Trung Châu thứ sử Đỗ Duy Tự cùng quản lý việc cơ mật. (Việc này căn cứ theo Sóc Lịch.)
[33] Chiếu cho Tần Châu: “Từ nay, Thổi Tư La và người nước ngoài đến tiến cống, đều quy định số người, lệnh đến kinh đô. Những vật phẩm tiến cống, dùng quân sĩ trong thành chuyển vận, không được tự thuê người.”
[34] Từng có chiếu chỉ cho phép dùng 50 gian nhà quan ở trại Vĩnh Ninh để cấp cho Thôi Tư La chứa giữ tài vật. Hàn Kỳ tâu rằng: “Cho ngoại phiên ở trong thành biên giới là không tiện, thần chưa dám vâng chiếu.” Chiếu rằng: “Họ Thôi đã có biểu tạ ơn, không thể thất tín sinh sự, vốn nên cấp nhà cửa[19], cũng không cắt đứt việc qua lại với Tần châu. Có thể xây dựng ở nơi vắng vẻ, thường xuyên phòng bị và giám sát.”
Kỳ nói: “Tần châu vốn thường chỉ tạm qua lại, nay đã cho phép dựng nhà chứa tài vật, ắt sẽ lưu người lại trông coi, làm sao có thể ngày đêm giám sát, khiến mọi hành động của triều đình đều bị biết? Huống chi Khiết Đan, Nguyên Hạo cũng chưa từng được cấp nhà ở biên giới. Trước đây, Dương Cần đến Quy Tư, cả đoàn đều bị khóa trong quán, sứ giả ta đến chỗ họ Thôi, ở dịch trạm cũng bị cấm ra vào. Ngoại phiên xa xôi đối với Trung Quốc còn đề phòng như vậy, phòng ngừa từ nhỏ, ngăn chặn từ sớm, không thể coi thường. Thần cho rằng không nên cấp thì hơn.” Theo lời tâu.
(Việc này căn cứ theo gia truyền của Hàn Kỳ, ghi chép thêm.)
[35] Theo chế độ cũ, những người được các châu tiến cử dâng lên, sau khi thi ở Lễ bộ, sẽ được dẫn đến thi ở điện Sùng Chính. Tri chế cáo Phú Bật tâu rằng: “Quốc gia noi theo chế độ nhà Tùy, nhà Đường, đặt khoa tiến sĩ. Từ niên hiệu Hàm Bình, Cảnh Đức trở lại đây, pháp chế càng chặt chẽ, vượt hơn các đời trước, nhưng phương pháp chọn người tài vẫn còn chưa đạt. Kỳ thi ở Lễ bộ có ba điểm mạnh, kỳ thi ở điện có ba điểm yếu. Người chủ trì việc thi cử có bốn năm người, đều là những người giỏi văn chương đương thời, lại chọn thêm vài vị tài thần ở các quán các để giúp việc khảo thí, còn có người giám sát, tuần tra, che tên, sao chép bài thi, trên dưới giám sát lẫn nhau, không dung thứ cho dù một chút tư lợi, đó là điểm mạnh thứ nhất.
Kỳ thi kéo dài ba ngày, thi thơ phú để thấy tài nghệ, thi sách luận để xem tài thức, các sĩ tử khắp nơi có thể phô diễn hết tài năng của mình, đó là điểm mạnh thứ hai. Việc thi cử ở cống viện kéo dài hơn hai tháng, nghiên cứu kỹ lưỡng, có thể dốc hết sức lực, đó là điểm mạnh thứ ba. Còn kỳ thi ở điện, quan khảo thí chọn người một cách chung chung mà không kén chọn, đó là điểm yếu thứ nhất. Một ngày thi ba bài thơ, phú, luận, không thể phô diễn hết tài năng của người thi, đó là điểm yếu thứ hai. Việc khảo thí chỉ kéo dài không quá mười ngày, không có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, đó là điểm yếu thứ ba.
Nếu nói rằng Lễ bộ niêm yết bảng vàng thì quyền thuộc về quan lại, còn thi ở điện để Vua đích thân xướng danh ban ân, thì đó là quên mất cái gốc của việc chọn người tài, mà chỉ chú trọng vào việc ban ân. Hơn nữa, các đời trước chọn người tài đều giao cho quan lại, chỉ có đời Hậu Hán, các quan văn phải nộp bài thi lên cửa Đoan Môn, cũng chưa từng nghe nói thiên tử đích thân khảo thí. Đến đời Võ Hậu nhà Đường, năm Tải Sơ mới bắt đầu có thi ở điện, điều đó có gì đáng noi theo! Nếu lo rằng ân điển sẽ về tay quan lại, thì nên để Lễ bộ xếp hạng cao thấp rồi tâu lên, rồi dẫn vào điện đình, xướng danh ban thứ bậc, như vậy cũng chẳng khác gì thi ở điện.”
[36] Ngày Tân Tỵ, xuống chiếu bãi bỏ thi ở điện, nhưng Hàn lâm học sĩ Vương Nghiêu Thần và Đồng tu khởi cư chú Lương Thích đều cho rằng đó là chế độ của tổ tông, không thể vội bãi bỏ. Ba ngày sau, ngày Quý Mùi, xuống chiếu khôi phục thi ở điện như cũ.
[37] Xuống chiếu rằng các quan võ ở Thiểm Tây không kiêm chức lộ phân và tri châu thì không được cấp thân binh.
[38] Tri Diên Châu là Bàng Tịch tâu rằng: “Gần đây vâng chiếu xem xét kỹ lưỡng về sách lược công thủ mà Phạm Trọng Yêm dâng lên[20], cùng với việc Phạm Trọng Yêm gần đây cử quan suy của châu là Trương Vấn đến, trình bày chi tiết về việc hợp lực xuất binh giữa Diên Châu và Khánh Châu.
Thần nghĩ rằng quân địch đông đúc, mang theo lương thực không quá mười ngày, lợi thế ở tốc chiến, nhưng yếu thế trong việc công thành. Chúng công thành của ta thì thường bị thương vong nhiều, ta nhanh chóng giao chiến thì thường bị thất bại. Nếu các thành trại có lầu canh, đá ném, cỏ khô, lương thực, nước uống đầy đủ, thì cứ để chúng công, vì chúng không mang theo lương thực lâu dài, ngoài đồng không có gì để cướp bóc, dù mười ngày không rút lui, ta dùng trọng binh đánh trả, quan sát tình hình mà hành động, thực sự có thể bảo toàn được thể diện chống giặc. Nếu các nơi khác không đủ sức chống đỡ, thì phải dùng sách lược của Phạm Trọng Yêm, nhưng từ Đức Tĩnh xuất quân, đường đi dọc theo sông Lạc, mùa xuân đất lầy lội, bộ binh và kỵ binh khó tiến. Nếu ở lâu trong địa giới của giặc, lòng người dễ dao động, các nơi hiểm yếu trong thung lũng đều có thể phục kích quân ta, những điều ngoài dự tính e rằng không thể hoàn toàn như kế hoạch ban đầu. Hoặc giặc đánh sâu, họa lớn, cũng không tránh khỏi phải hợp mưu với Phạm Trọng Yêm mà tiến quân, chọn địa điểm mà đánh.
Phạm Trọng Yêm trình bày rằng phòng thủ dùng binh địa phương thì yên ổn, dùng binh phương đông thì nguy hiểm. Hiện nay số lượng binh địa phương không nhiều, mà khó chiêu mộ, binh phương đông cũng chưa thể bỏ đi. Hãy nên vỗ về huấn luyện, khai khẩn ruộng đồn điền, giảm bớt chi phí không cần thiết, làm kế hoạch lâu dài để khoan thư sức dân, giặc đến thì ra sức chống đỡ, có cơ hội thì dùng gián điệp, chờ đợi chúng suy yếu. Hơn nữa, tục lệ của người Tây Khương, hàng năm lấy việc cày cấy làm chính, gần giống với người Hán.
Những năm gần đây thường xuyên điểm tập, nhiều người mất việc, mỗi lần xâm phạm biên quận, tính toán những gì cướp được không đủ bù đắp chi phí, người ta vẫn không vui. Nếu kiên cố thành lũy, dọn sạch đồng ruộng khiến chúng không thu được gì, thì thế tất càng cùng khốn, lòng dân càng oán hận, trong thời gian ngắn, mâu thuẫn tất nảy sinh, lòng người nguy hiểm, thế lực dao động, sau đó mới có thể thi hành chính sách chiêu nạp. Thần nghĩ triều đình chắc chắn không tiếc của cải để yên ổn biên cương, nhưng cần suy nghĩ sâu xa, có những việc lớn hơn thế này.”
Tri Tần châu Hàn Kỳ tâu: “Phạm Trọng Yêm bàn việc tiến quân tu sửa thành Thủy Lạc, thông đường từ Tần châu đến Vị châu[21], xuyên qua vùng sinh hộ gần hai trăm dặm, tính toán công trình đất đá cũng đến hàng triệu, chỉ có thể thông đường viện binh hai châu, cũng không thể cắt đứt đường qua lại của giặc phương Tây. Gần đây việc xây dựng thành Quan ở Tần châu vừa hoàn thành, còn nhiều thành trại trọng yếu cần tu sửa, chưa dám lao động nhân dân thêm nữa.” Chiếu theo lời xin của Hàn Kỳ, không tu sửa.
(Việc này căn cứ theo gia truyền của Hàn Kỳ, ghi phụ sau tờ sớ của Bàng Tịch.)
[39] Ngày Ất Dậu, chiếu cho Ty Kinh lược Chiêu thảo vùng biên giới Thiểm Tây: quân lính ra trận không bị thương tích gì mà bị cắt tai, mũi, hoặc mất khí giới, bị lột áo giáp thì chém.
[40] Trung thư, Xu mật viện tâu: Theo tin do thám, quân Hạ đã phá tan trại tộc Hạt Chiên, muốn đánh nhau với Thôi Tư La, xin sai Hàn Kỳ cử người dụ Thôi Tư La dùng nhiều cách chống giữ. Tâu được chấp thuận.
[41] Ngày Bính Tuất, Thái thường bác sĩ, Thiên Chương các Thị giảng Lâm Vũ bị cách chức, điều làm Thông phán Nhiêu Châu. Trước đó, Vũ vâng chiếu soạn sách 《Chu Dịch Thiên Nhân Hội Nguyên Kỷ》, trong đó dùng năm, tháng, ngày, giờ thiên tử lên ngôi để chiếm quẻ, suy đoán cát hung. Ông còn nói rằng từ xưa các thánh vương lên ngôi đều ứng với quẻ Càn, như Hán Cao Tổ và Thái Tổ hoàng đế đều như vậy. Sách viết xong dâng lên, Vua sai Học sĩ viện xem xét, mọi người đều nói sách của Vũ liên quan đến đồ vĩ, xin cất vào Bí các. Vua ban cho Vũ 50 lạng bạc và 50 tấm lụa. Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều từng chỉ trích trực diện lời nói của Vũ là không đúng đắn, Vũ tranh luận với Xương Triều trước mặt Vua, từ đó mâu thuẫn với Xương Triều.
Đến lúc này, Vũ lại nói: “Bệ hạ lên ngôi, quẻ ứng là Nhu, tượng quẻ nói: ‘Mây trên trời, Nhu, quân tử dùng ẩm thực yến lạc.’ Thần mong bệ hạ thường xuyên ra ngoài du ngoạn, hưởng thụ mọi thú vui trên đất liền và dưới nước, như vậy sẽ hợp với quẻ thể, ứng với lòng trời.” Vua kinh ngạc trước lời nói của ông, bèn hỏi quẻ ứng khi Thái Tông lên ngôi, Vũ trả lời không phải quẻ Càn, hỏi về Chân Tông, cũng vậy. Vua bắt đầu chán sự mê tín của Vũ.
Xương Triều liền tấu hặc Vũ là nho sĩ, không theo lời thánh nhân, chuyên dùng tà thuyết mê hoặc Vua, không nên ở chức kinh diên. Vua bèn nói với các phụ thần: “Bề tôi tuy có tài học, nhưng nếu quá xảo trá, cuối cùng sẽ lộ rõ hình tích.” Bèn cách chức Vũ, và sai Trứ tác tá lang, Sùng Văn viện Kiểm thảo Triệu Sư Dân làm Sùng Chính điện Thuyết thư.
[42] Sư Dân là người Lâm Truy. Năm tám tuổi cha mất, đau buồn như người lớn. Năm chín tuổi đã biết làm văn, nhà nghèo, mượn sách đọc xong liền trả, người ta lấy làm lạ về sự nhanh chóng ấy, hỏi ra thì đã thuộc lòng. Khi thi đỗ tiến sĩ, Tào Vĩ, Lý Địch ở Thanh Châu nghe tiếng Sư Dân, sai người mời đến, rồi gặp mặt. Đến thi ở Lễ bộ, các sĩ tử bốn phương vây xem giữa đường lớn. Lưu Quân làm chủ khảo, đặt riêng chỗ ngồi trước sảnh đường, các thí sinh đều bỏ bút theo xem. Cuối niên hiệu Thiên Thánh, thi đỗ hạng nhất.
Có người nói: “Sư Dân là cháu họ Ma, một đại tộc ở Thanh Châu. Họ Ma vì tội xa xỉ quá mức, giết hại người thân nên bị xử tử, Sư Dân không thể đứng đầu các sĩ tử.” Bèn giáng xuống hạng dưới mà đỗ.
Tôn Thích mời làm thuyết thư ở Duyện Châu, kiêm chức chủ bạ các thành. Sư Dân học vấn uyên bác, Tôn Thích tự cho là không bằng. Hạ Tủng đặc biệt kính trọng, gọi là bậc quân tử đức cao, bàn về văn chương đạo đức của ông, xin đổi ân huệ cho hai con, ban cho chức quan ở kinh đô. Được bổ làm thôi quan ở Tề Châu, giáo thụ ở Thanh Châu, rồi đổi làm thôi quan ở tiết độ sứ Thiên Bình quân.
Năm năm mươi tuổi đến kinh đô, các cận thần Trương Quan, Tống Tường, Vương Nghiêu Thần, Bàng Tịch, Hàn Kỳ, Minh Hạo cùng tiến cử, làm trực giảng ở Quốc Tử Giám, kiêm giáo thụ ở cung của hai vương Nhuận và Ký. Đổi làm tác tá lang, chủ bạ ở Tông Chính Tự, thêm chức kiểm thảo ở Sùng Văn Viện. Lâm Vũ bị đuổi, Sư Dân thay chức ấy.
(Sách thực lục chép việc Lâm Vũ không rõ, lấy sách 《Ký Văn》 của Tư Mã Quang cùng 《Sóc Lịch》, 《Đông Hiên Lục》 của Ngụy Thái và bài mộ chí, thần đạo bi do Vương An Thạch, Vương Khuê soạn cho Giả Xương Triều mà bổ sung thêm. Việc về Triệu Sư Dân, sách 《Ký Văn》 lại khác với chính truyện, nay theo chính truyện.)
[43] Xuống chiếu cho Ty Chuyển Vận Thiểm Tây từ nay không được sai tri huyện đi ra ngoài. Lại sai Đại Lý Tự thừa An Bảo Hoành cùng năm người đến ty ấy để sẵn sàng sai phái. Dư Tĩnh trong bản thảo tấu chương có xin việc này, nhưng lúc đó Dư Tĩnh chưa khôi phục chức ở quán, e không phải do Dư Tĩnh.
[44] Ngày Mậu Tý, xuống chiếu rằng những người từng trải qua chức thôi quan, phán quan ở các tỉnh phủ, chuyển vận sứ phó, đề điểm hình ngục là triều thần và thiếu khanh giám trở lên đã mất, trong vòng mười năm sẽ cho một người trong số em trai, con, cháu, chắt được bổ làm quan tiện.
[45] Thăng chức chỉ huy quân Phiên Lạc mới được thiết lập tại các trại Tĩnh Biên thuộc Kinh Nguyên lộ vào quân Cấm.
[46] Ngày Kỷ Sửu, Sùng Nghi phó sứ Vương Chỉnh được bổ nhiệm làm Đồng đề điểm Hình ngục Hà Bắc. Chiếu rằng Chỉnh trước đây từng giả làm Lục trạch sứ đi sứ Bắc triều, nay sứ Bắc đi qua, sợ họ ngạc nhiên vì chức danh khác nhau, nên đặc cách đổi chức danh này. Tri gián viện Trương Phương Bình tâu: “Thần nghĩ rằng chức Sùng Nghi, Lục trạch đều là chức vượt cấp. Sứ Bắc đến, Đề điểm hình ngục không dự vào việc tiếp đãi. Chỉnh tuy tại chức, nhưng sứ giả đâu biết! E rằng họ sẽ nghi ngờ việc giả chức, nên đổi bổ nhiệm sang nơi khác. Hàng năm sứ giả được cử đi đều giả chức để đi, khi về lại bắt chước Chỉnh, thành lệ bổ nhiệm thật. Nay tệ lớn nhất của chính sự là có quá nhiều người may mắn, ngăn chặn đường đi còn không kịp, nếu lại mở ra, làm sao trị nước? Nếu Chỉnh thực sự có thỉnh cầu này, thì ý đồ sâu xa là lừa dối, triều đình phải trừng trị kẻ gian tà, tu sửa pháp độ, không chỉ nên ngừng ân chỉ, mà còn phải xét theo nghị luận của quan lại, trách phạt riêng, để răn bề tôi.” Chỉnh sau đó được điều chuyển sang chức khác.
(Việc Chỉnh điều chuyển không thấy ghi trong thực lục. Nhưng ngày 12 bổ nhiệm Chỉnh, ngày 18 lại bổ nhiệm Vương Nghi, chắc là do lời của Phương Bình. Tuy nhiên, Nghi là văn thần, Chỉnh là võ thần, e rằng không phải thay thế Chỉnh. Nhưng đến ngày Kỷ Hợi tháng 8, Chỉnh lại được cử làm An phủ Kinh Đông, tức là đã điều chuyển sang chức khác. Phương Bình nói Chỉnh giả làm Lạc Uyển sứ, nhưng xét năm ngoái Chỉnh thực sự giả làm Lục trạch sứ, nay theo Thực lục.)
[47] Ngày Tân Mão, Tri Tần châu Hàn Kỳ xin bãi bỏ quân Hộ Tắc được chiêu mộ ở châu mình, tăng thêm hai chỉ huy quân Phiên Lạc, được chấp thuận.
[48] Ngày Nhâm Thìn, ban cho Thái tử trung xá Lục Bỉnh tư cách Tiến sĩ xuất thân, đồng thời đổi làm Thái tử trung doãn. Bỉnh tức là Đông. Trước đây được triệu thí ở Học sĩ viện ban xuất thân, nhưng từ chối không nhận, bị trách phạt, đến nay được đại xá, mới ban lại.
[49] Cho vay thóc Thường Bình cho dân nghèo các huyện thuộc Khai Phong phủ, mỗi người 3 đấu, mỗi hộ không quá 2 thạch.
[50] Ngày Ất Mùi, chiếu cho Chân Định phủ, Định châu, Thiên Hùng quân, Thiền châu mỗi nơi chuẩn bị 10 vạn quân, lương thảo đủ dùng trong 2 năm, cùng 5 vạn bộ khí giáp.
[51] Lại xuống chiếu cho các quan Đề điểm hình ngục ở lộ Hà Bắc xem xét các thành hào ở các châu, quân thuộc quyền cần tu sửa thì đều tu sửa.
[52] Lại xuống chiếu cho các châu ở Hà Bắc tuyển chọn người cường tráng[22], từ tháng 3 trở đi đều đến châu tập luyện, giao cho các Tri châu chọn những người khỏe mạnh, xăm lên mu bàn tay để làm Nghĩa dũng quân[23]; ai không muốn thì tha về nhưng vẫn giữ tên trong sổ để phòng khi cần giữ gìn thành trì. Từ đó, việc tuyển chọn cường tráng dần bị bãi bỏ. Khi chiếu vừa ban xuống, dân tình xôn xao, Chuyển vận sứ Hà Bắc là Lý Chiêu Thuật đi ngựa trạm nhanh, mỗi ngày đi qua nhiều trạm, đi khắp nơi giải thích cho các bậc phụ lão, mọi người mới yên lòng.
(Việc cường tráng Hà Bắc từ tháng 3[24] trở đi đến châu tập luyện, giao cho các Tri châu tuyển chọn, xăm lên tay làm Nghĩa dũng quân và các quan Đề hình xem xét thành hào, đều căn cứ theo lịch sóc mà tăng cường tu sửa, sách 《Thực lục》 không ghi chi tiết.
Việc tha những người không muốn và việc bãi bỏ cường tráng từ đó căn cứ theo sách 《Lưỡng triều binh chí》[25].
Việc của Lý Chiêu Thuật nay phụ chép vào đây. Sách 《Cửu triều thông lược》 của Hùng Khắc chép: Chiêu Thuật là con của Tông Ngạc.)
[53] An phủ sứ Hà Bắc xin cho các ty Đô tuần kiểm ở vùng biên giới bí mật tăng thêm binh mã và xuống chiếu cho các quan cai quản quân đội ở Hà Bắc chuẩn bị phòng thủ, đều được chấp thuận. (Việc này cũng căn cứ theo lịch sóc.)
[54] Ngày Bính Thân, ban tiền cho binh lính tham gia xây dựng các đồn trại ở lộ Lân Phủ.
[55] Điều động Hạ Thủ Uân, chức Đô bộ thự lộ Chân Định phủ, Định châu, Tuyên huy Nam viện sứ, Tiết độ sứ Thiên Bình, làm Đô bộ thự Cao Dương quan. Thủ Uân tự nói rằng lộ Cao Dương quan ở dưới quyền Chân Định phủ, Định châu, sau đó được lệnh kiêm nhiệm chức Phán quan châu Doanh.
[56] Ngày Đinh Dậu, thăng quân Hà Bắc Sảnh Tử Mã và quân Vô Địch, Chiêu Thu đều thuộc vào cấm quân. Lại ban chiếu vận chuyển lương thảo từ các huyện, trấn trong lộ về thành châu.
[57] Ty An phủ Hà Bắc xin hạ lệnh cho các châu, quân dọc sông bí mật đóng chiến thuyền[26]. Ban chiếu cho Kinh Đông, Kinh Tây lộ đóng 500 chiếc thuyền gửi đến Hà Bắc.
[58] Ngày Mậu Tuất, ban chiếu cho Tri châu Trần Châu, Tiết độ sứ Hà Dương Tam Thành là Dương Sùng Huân về kinh. Việc này căn cứ theo Sóc lịch.
[59] Ngày Kỷ Hợi, Trung thư, Xu mật viện tâu rằng đã tuyển chọn được 64 chỉ huy mã bộ quân ở ngoài, tổng cộng 13.840 người, xin đều điều đến đóng ở Thiền Châu, được chấp thuận.
[60] Ngày Tân Sửu, phong Tân Tri Thiền Châu, Lưu hậu Bảo Tĩnh quân là Vương Đức Dụng làm Tiết độ sứ Bảo Tĩnh quân.
Khiết Đan sắp phản bội lời thề, Vua triệu Vương Đức Dụng từ Tào Châu, phục chức Lưu hậu, Tri Thanh Châu, chưa đầy mấy ngày lại đổi sang Thiền Châu. Ông vào yết kiến Vua, khóc mà nói: “Thần trước đây phạm tội lớn, may nhờ bệ hạ tha tội không giết, nay không đủ sức nhận mệnh.” Vua an ủi rằng: “Hà Bắc đang có biến, nhờ uy danh của khanh để trấn phủ.” Lại ban chiếu thư để sai đi, liền phong làm Tiết độ sứ.
[61] Y khố sứ, Tri Bảo Châu là Vương Quả kiêm chức Thứ sử Hạ Châu và Kiềm hạt Cao Dương Quan.
[62] Ban chiếu cho Điện tiền, Mã bộ quân ty cấp áo giáp, luyện tập các quân ở kinh thành, lại sai hai viên nội thần cao cấp đứng ra phụ trách.
[63] Tháng 3, ngày Giáp Thìn mùng một, Binh bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lý là Trương Ôn Chi được làm Trực sử quán, Chuyển vận sứ Hà Bắc lộ, theo lời tiến cử của Tam ty sứ là Diêu Trọng Tôn.
[64] Phục chức Thái thường bác sĩ Dư Tĩnh làm Tập hiền hiệu lý.
[65] Ban chiếu cho Điện tiền phó đô chỉ huy sứ Cao Hóa, Mã quân phó đô chỉ huy sứ Lý Dụng Hòa, Bộ quân phó đô chỉ huy sứ Tào Tông tiến cử mỗi người hai người có dũng cảm, mưu lược, có thể làm tướng trong số các chỉ huy sứ trở lên; Nhập nội đô tri là Trương Vĩnh Hòa, Nội thị đô tri là Vương Thủ Trung tiến cử mỗi người hai võ thần; các lộ chuyển vận sứ, phó sứ mỗi người tiến cử một người.
[66] Ngày Ất Mão, ban chiếu rằng: Gần đây ở Hà Bắc mưa nhiều làm hư hỏng đường sá, cho đào rãnh hai bên đường quan, rộng 5 thước, sâu 7 thước; ruộng dân thì mỗi bên giới hạn rộng 3 thước, sâu 5 thước, để thoát nước lụt[27], hạn trong nửa năm phải hoàn thành công việc.
[67] Trung thư, Xu mật viện tâu xin chọn những người dũng cảm trong số dân bắn cung ở Hà Đông, không xăm mặt, lập làm chỉ huy Nghĩa Dũng; còn dân bắn cung ở Thiểm Tây thì xăm mặt, lập làm chỉ huy Bảo Tiệp. Vua theo lời tâu. Sách Thực lục không nói Bảo Tiệp xăm mặt, đây theo sách Sóc lịch.
[68] Ngày Bính Thìn, phục chức Tiết độ sứ ba thành Hà Dương là Dương Sùng Huân làm Đồng bình chương sự, Phán Định châu, kiêm Đô bộ thự lộ Chân Định phủ, Định châu.
[69] Ngày Đinh Tỵ, sai Xu mật sứ Đỗ Diễn làm Tuyên phủ sứ Hà Đông, Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Đinh Độ làm phó. Những người phạm tội hình ngục ở các châu quân, nếu có điều đáng thương, đều xử nhẹ, không được giam lâu. Các quân ở bản lộ đều được cấp tiền[28], những nơi đóng quân nhiều thì thêm tiệc yến khao thưởng.
(Sách 《Vương Ích Nhu truyện》 chép: Đỗ Diễn làm Tuyên phủ sứ Hà Đông, Ích Nhu gửi thư nói việc cấp lương quân ở Hà Ngoại không có phép tắc, nếu không thay tướng và chuyển vận sứ thì biên giới không yên. Bèn liệt kê những người có thể đảm nhận, hợp ý với Diễn. Việc này cần xét lại. Tháng 5 năm Khánh Lịch thứ 4, Ích Nhu mới được bổ làm Tập hiệu.)
[70] Ngày Kỷ Mùi, ban chiếu: “Quân đầu ty chọn những tội nhân khỏe mạnh được tha từ đảo Sa Môn, sung vào các chỉ huy Quy Viễn, Tráng Dũng gần kinh thành.”
[71] Đô bộ thự lộ Hoàn Khánh xin ở phía đông trại Nhu Viễn, chọn đất ở phong Tiết Nghĩa và trại Mã Phố để xây thêm thành trại, nhằm kiềm chế thế giặc. Lộ Kinh Nguyên lại xin ở đất thuộc Khương thuộc thành Tế Yêu xây trại, để tiếp ứng hai lộ xuất quân. Vua đều theo. Đến tháng 12 năm thứ 4 mới xây thành Tế Yêu, lúc này chưa xây, chỉ mới xin thôi.
[72] Ngày Canh Thân, Ngụy quốc Đại trưởng công chúa xin truy tặng cho Thái nghi họ Phương đã mất, Vua ban chiếu truy tặng làm Thục phi.
[73] Ngày Tân Dậu, Hữu gián nghị đại phu, Tham tri chính sự Triều Tông Xác, vì lâu ngày bị bệnh, nên bãi chức, giáng làm Cấp sự trung, Tư chính điện học sĩ.
[74] Ngày Nhâm Tuất, người tộc Giao Thôn là Chiết Mã Sơn, vốn là Tam ban điện thị, được thăng làm Tam ban phụng chức. Mã Sơn dẫn quân đánh trại mới của giặc Tây, chém được rất nhiều thủ cấp, nên được đặc cách thăng chức.
[75] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu cho các châu quân ở biên giới phía bắc Hà Bắc lập trường mua ngựa, theo lời thỉnh cầu của Cáp môn chi hậu Thị Kì Tuấn.
[76] Ngày Ất Sửu, Vua ngự điện Sùng Chính, ban cho tiến sĩ Dương Trí cùng 237 người đỗ đệ, 122 người đỗ xuất thân, 73 người đỗ đồng xuất thân. Trí là em của Dương Sát. Ban đầu thi ở Quốc tử giám và Lễ bộ đều đỗ đầu, đến lúc này, Vua đứng trước hiên mở niêm phong, thấy tên họ, vui mừng lộ rõ trên nét mặt, nói với các phụ thần rằng: “Là Dương Trí đấy.” Các công khanh đều chúc mừng vì được người tài. Trí được bổ làm Tướng tác giám thừa, thông phán Dĩnh châu. Chưa kịp nhậm chức thì mẹ mất, Trí phải chịu tang, vì bệnh nặng mà chết, không có con. Vua xuống chiếu ban cho nhà ông 5 vạn tiền, 50 hộc gạo, 50 hộc lúa mạch, 50 tấm lụa.
(Việc ban thưởng diễn ra vào tháng 2 năm thứ 4, nay ghi chép lại.)
[77] Ngày Bính Dần, ban cho 407 người đỗ các khoa cập đệ và đồng xuất thân. Lại ban cho 364 người đỗ đặc tấu danh, tiến sĩ, các khoa đồng xuất thân và bổ làm trưởng sử, văn học các châu.
[78] Trung thư tâu rằng, Tam ty mỗi năm mua 10 vạn cân hoa hồng và 10 vạn cân cỏ tím, dân không thể cung cấp nổi. Vua xuống chiếu chỉ mua 5 vạn cân, còn trong cung và bên ngoài, ai được cấp lụa đỏ, lụa tím thì cấp tiền nhuộm.
[79] Ngày Đinh Mão, Tri Thanh Giản thành là Chủng Thế Hoành xin chiêu mộ 5.000 quân Phiên, trên tay trái khắc hai chữ “Trung Dũng”, lệnh cho thuộc về tộc Chiết Mã Sơn, được chấp thuận. Người dâng thư lên xin chiêu mộ các hộ thuộc, cấp lương bổng như quân Cấm để sai họ trấn giữ biên cương, bãi bỏ toàn bộ quân chính. Hạ chiếu cho bốn lộ An phủ sứ bàn bạc.
Phạm Trọng Yêm của Hoàn Khánh lộ tâu rằng: “Các hộ thục yêu mến ruộng đất, bảo vệ người già yếu và gia súc, gặp giặc thì ra sức chiến đấu, có thể làm lá chắn cho hộ Hán, nhưng không thể dựa vào làm quân chính. Đại thể tình hình người Phiên xảo quyệt, sợ mạnh hiếp yếu, thường phải có biện pháp chế ngự thì mới phục tùng và sử dụng được, nếu bỏ quân chính ắt sẽ sinh kiêu ngạo. Hơn nữa, hiện nay từ Đô ngu hậu đến Phó Binh mã sứ của bộ Phiên, tiền lương chỉ từ 700 đến 300, đều không có lương thực. Nếu họ đột nhiên được hưởng lương bổng như quân Cấm, thì quân Phiên ắt sẽ sinh lòng tham vọng[29]. Huống chi một năm hiếm khi gặp địch, cần gì phải cấp lương thường xuyên? Vả lại, tiền vào tay các hộ thục, bộ tộc dùng để mua trâu ngựa, muối xanh, chuyển sang Hà Tây, cũng không phải là kế sách hay. Theo thần thấy, không bằng khi có biến, tùy lúc dùng vàng lụa chiêu mộ họ đánh giặc thì tiện hơn.” Bàn luận bèn dừng lại.
(Ý kiến của Trọng Yêm căn cứ theo 《Binh chí》.)
[80] Ngày Kỷ Tỵ, Khiết Đan phái Tuyên huy Nam viện sứ, Quy Nghĩa tiết độ sứ Tiêu Anh, Hàn lâm học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, Tri chế cáo, Đồng tu quốc sử Lưu Lục Phù đến dâng thư, nói: “Đệ là Đại Khiết Đan hoàng đế kính gửi thư cho huynh là Đại Tống hoàng đế. Từ xưa đến nay, hai nước vẫn giữ mối quan hệ hòa hảo, thường xuyên cử sứ giả qua lại. Biên giới tuy có tên gọi khác nhau, nhưng sử sách đều ghi chép về mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nhà. Mong rằng mối quan hệ này sẽ được duy trì lâu dài, nên nay xin trình bày một số điều.
Vùng đất phía nam ải Ngõa Kiều vốn là đất mà Thạch Tấn đã cắt nhượng, đến đời họ Sài thay thế nhà Quách Chu, dấy lên mưu đồ xâm lược, chiếm đoạt mười huyện cũ, khiến người và thần đều phẫn nộ, xã tắc không thể tồn tại lâu dài. Đến khi tổ tiên của quý quốc dựng nên cơ nghiệp, đã kế thừa và duy trì mối quan hệ láng giềng tốt đẹp với nước tôi. Khi Thái Tông lên ngôi, đã đánh chiếm vùng đất có tranh chấp, bình định được Tịnh, Phần, rồi đem quân vô cớ tiến thẳng đến Yên, Kế. Quân đội tinh nhuệ của chúng tôi đã chống trả và đẩy lui được, từ đó phải điều động quân đội mạnh từ các trấn, các phủ Nam Bắc vương cùng các quân đội trong ngoài, năm này qua năm khác phải canh giữ biên giới, ngày đêm đề phòng việc phá vỡ hiệp ước, tình hình luôn biến động, trước sau đều đã từng trải.
Nay nghe tin quý quốc đã cử tướng lĩnh đi bình định vùng Hà Hữu, thời tiết đã qua nhiều đợt nóng lạnh, nhưng vẫn chưa nghe tin thắng bại. Thêm nữa, Lý Nguyên Hạo từ lâu đã xưng thần với Bắc triều, nhiều lần được gả công chúa, giữ vững đạo quân thần, thực sự là mối quan hệ cậu cháu thân thiết. Nếu có tội đáng bị trừng phạt, cũng nên báo cho chúng tôi biết. Gần đây, Quách Chẩn đã đến, Đỗ Phòng lại trở về, tuy đã có thư từ qua lại, nhưng vẫn lo ngại về sự gian trá. Quý quốc đã tiến hành các cuộc tấn công tàn phá dân chúng, không hề kiêng nể gì, lại còn xây dựng đê dài[30], lấp các con đường hiểm yếu, khơi thông các hồ nước, tăng cường quân đội biên giới. Những việc này đã làm sâu sắc thêm sự nghi ngờ, khó có thể củng cố lòng tin và hòa hiếu.
Nếu muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp lâu dài, cùng nhau gạt bỏ mối nghi ngờ, sao không trả lại vùng đất Tấn Dương xưa kia từng thuộc về chúng tôi, cùng mười huyện phía nam ải quan mà quý quốc đã chiếm đoạt, để chúng tôi quản lý, nhằm an định dân chúng. Như vậy, tình anh em sẽ càng thêm sâu sắc, kế hoạch lâu dài cho con cháu sẽ được bảo đảm. Mong rằng huynh thấu hiểu và thông cảm.
Nhân dịp xuân về[31], kính chúc huynh an khang thịnh vượng.”
Trước đó, quân đội phía Tây lâu ngày không quyết định được thắng bại, Lưu Lục Phù cho rằng Trung Quốc nhút nhát và chán ghét chiến tranh[32], nên khuyên chủ của mình tập trung quân ở U, Trác, hô hào muốn xâm lược. Lưu Lục Phù và Tiêu Anh đã mang thư đến trước, yêu cầu trả lại mười huyện phía nam ải quan.
[81] Trước đó, vào ngày Kỷ Tỵ tháng giêng, quan lại biên giới báo rằng sứ giả nhà Liêu sắp đến, triều đình lo lắng đến mức ăn không ngon, phải chọn người đi sứ, nhưng quần thần đều ngại đi. Tể tướng Lữ Di Giản tiến cử Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo Phú Bật. Khi vào chầu ở điện Tiện, Phú Bật cúi đầu tâu: “Chúa lo thì tôi nhục, thần không dám tiếc thân mình.” Vua cảm động. Ngày Nhâm Thân, Vua phong Phú Bật làm tiếp ban sứ.
[82] Phú Bật khởi hành từ kinh sư vào ngày Bính Tý tháng hai, đến Hùng Châu một thời gian, sứ giả nhà Liêu là Tiêu Anh mới vào cõi. Vua sai trung sứ đến ủy lạo, nhưng Tiêu Anh cáo bệnh chân không chịu lạy. Phú Bật nói: “Ta từng đi sứ phương Bắc, bệnh nằm trong xe, nghe lệnh liền lạy. Nay trung sứ đến mà ông không đứng dậy, đây là lễ gì?” Tiêu Anh giật mình đứng dậy, rồi nhờ người đỡ mà lạy.
Phú Bật thấy Tiêu Anh và tùy tùng đều có vẻ sợ hãi, nên mỗi lần nói chuyện đều cởi mở hết lòng, hy vọng dò được tình hình. Tiêu Anh cũng thành thật không giấu giếm, bí mật nói với Phú Bật những điều chủ nhà Liêu muốn, và nói: “Nếu được thì theo, không được thì dùng việc khác thay thế. Vương giả yêu dưỡng sinh dân, tình hữu nghị cũ không nên mất.” Phú Bật tâu hết lên Vua.
Khi sứ giả nhà Liêu đến, Vua sai Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều làm quán ban sứ. Triều đình bàn việc nhượng bộ, không cho cắt đất, nhưng đồng ý gả con gái của Tín An Hi Giản vương Doãn Ninh cho con trai của Lương vương Hồng Cơ, hoặc tăng thêm lễ vật hàng năm; chỉ có Phú Bật cho rằng việc kết hôn là không nên.
Ban đầu, em trai của quốc chủ nhà Liêu là Tông Nguyên[33], hiệu là Đại Đệ, dựa thế Thái hậu lộng quyền, ngang ngược trong nước, từng tự gửi thư và lễ vật. Vua muốn nhân dịp này trả lời, bèn sai Giả Xương Triều hỏi ý Lục Phù. Lục Phù từ chối: “Việc này đối với Thái hậu thì tốt, nhưng đối với bổn triều không tiện.” Giả Xương Triều nói: “Nếu vậy, mà lại muốn dùng Lương vương để cầu hòa thân, hoàng đế há yên lòng được sao?” Lục Phù không trả lời được, sau đó nhà Liêu bỏ ý định kết hôn.
[83] Ngày Tân Mùi, phong cho Phú Bật làm Lễ bộ viên ngoại lang, Xu mật trực học sĩ, vì sắp cử Bật đi sứ báo đáp. Bật nói: “Quốc gia có việc gấp, chỉ theo mệnh lệnh, không dám ngại khó nhọc, đó là chức phận của thần, sao lại dùng quan tước để đút lót trước!” Kiên quyết từ chối không nhận.
(Việc này căn cứ theo Sóc lịch, Thực lục không ghi chép. Ngày Kỷ Tỵ, Nhâm Thân tháng giêng đều căn cứ theo Ký văn. Ngày Bính Tý tháng hai, căn cứ theo tấu nghị của Bật, Quốc sử và Thực lục đều không ghi.)
[84] Ngày Canh Ngọ, lệnh cho Tri Thanh Châu Trần Chấp Trung kiêm chức Kinh Đông lộ An phủ sứ.
(Việc Chấp Trung kiêm An phủ sứ là ngày Canh Ngọ, trước ngày Tân Mùi, vì sợ lẫn lộn với việc Khiết Đan nên tách ra ghi riêng.)
[85] Mùa xuân năm đó, Phạm Trọng Yêm tuần tra biên giới đến Hoàn Châu, các bộ tộc Khương bí mật liên kết với địch gây họa ở biên cương. Trọng Yêm cho rằng Chủng Thế Hoành vốn được lòng các bộ tộc Khương, mà thành Thanh Giản đã vững chắc, bèn tâu xin cho Thế Hoành làm Tri Hoàn Châu để trấn phủ. Bàng Tịch xin giữ Thế Hoành lại, chiếu lệnh Trọng Yêm chọn người khác. Trọng Yêm nói nếu không phải Thế Hoành thì không thể thu phục được các bộ tộc Khương, chiếu theo lời xin của Trọng Yêm.
Có người nô lệ tên Ngoa thuộc gia tộc Ngưu, tính tình cứng cỏi, chưa từng ra ngoài, nghe tin Thế Hoành đến, liền vội vàng ra ngoài thành đón. Thế Hoành hẹn với hắn, sáng hôm sau sẽ đến thăm và ban thưởng cho gia tộc của hắn[34].
Đêm đó, tuyết rơi dày ba thước, tả hữu báo rằng địa hình hiểm trở không thể đi được. Thế Hoành nói: “Ta đang kết giao với các tộc Khương bằng lòng tin, không thể thất hẹn.” Rồi ông vượt qua hiểm trở mà tiến lên. Ngoa đang nằm trong trướng, cho rằng Thế Hoành chắc chắn không thể đến, Thế Hoành bước vào và đứng dậy, Ngoa vô cùng kinh ngạc, dẫn cả gia tộc quỳ lạy nghe theo mệnh lệnh. Lại có tộc Ngột Nhị, nhận chức quan giả của địch, Thế Hoành chiêu dụ nhưng họ không đến, bèn sai quan người Phiên là Mộ Ân đem quân đi đánh.
Sau đó, hơn trăm trướng đều tự quy phục, không dám phản bội. Ông bèn lệnh cho các tộc đặt lửa hiệu, khi có việc khẩn cấp thì đốt lửa, chuẩn bị ngựa để ứng phó. Ông cũng bắt quan lại và dân chúng tập bắn, nếu ai phạm lỗi mà bắn trúng thì được tha tội; nếu ai có việc gì cần thưa kiện hoặc xin việc, đều căn cứ vào việc bắn trúng hay không mà quyết định. Từ đó, mọi người đều tự giác rèn luyện, dù là kẻ bán thịt hay kẻ hát xướng đều giỏi bắn cung, quân địch không dám lại gần Hoàn Châu.
Trước đây, khi Thế Hoành ở Thanh Giản, bị thuộc hạ kiện vì những việc không đúng pháp luật, xét nghiệm đều có chứng cứ. Bàng Tịch nói: “Thế Hoành khai phá rừng rậm lập nên thành Thanh Giản, nếu cứ khư khư theo pháp luật, thì tướng biên cương sẽ không biết làm thế nào.” Triều đình ra chiếu không hỏi tội. Khi ông dời đến Hoàn Châu, đến gặp Bàng Tịch, lạy và khóc nói: “Thế Hoành, lòng dạ như sắt đá, hôm nay vì ngài mà rơi lệ.”
(Thế Hoành từ Thanh Giản dời đến Hoàn Châu, sách 《Thực lục》 không ghi chép. Căn cứ vào bài văn bia mộ của Thế Hoành do Trọng Yêm soạn, ghi là mùa xuân năm Khánh Lịch thứ hai, nay phụ chép vào đây. Đã nói là tuyết lớn, thì chắc chắn không phải là tháng hạ. Nhưng tháng tư ngày Tân Tỵ, bổ nhiệm Vương Tung làm quan, vẫn còn dùng tấu chương từ Thanh Giản. Có lẽ lúc phát tấu chương, Thế Hoành chưa rời Thanh Giản, đến tháng tư mới theo tấu chương của Thế Hoành từ Thanh Giản mà bổ nhiệm Vương Tung, nhưng thực tế Thế Hoành đã đến Hoàn Châu rồi.)
[86] Mùa hạ, tháng 4, ngày Ất Hợi, lấy Độ chi phó sứ Dương Nhật Hoa làm Diêm thiết phó sứ, Thi Xương Ngôn làm Độ chi phó sứ. Ban đầu, Quyền Tam ty sứ Diêu Trọng Tôn nói rằng việc Độ chi so với Diêm thiết phức tạp hơn, mà Nhật Hoa vì bệnh thường xin nghỉ, lại tiến cử Xương Ngôn, nên đổi như vậy.
[87] Tư chính điện học sĩ, Cấp sự trung Triều Tông Xác mất, được tặng chức Công bộ thượng thư, thụy là Văn Trang.
[88] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu cho hai chế, đại lưỡng tỉnh cùng các quan gián, Cáp môn sứ trở lên, mỗi người tiến cử hai người có tài năng làm tướng súy từ chức Nội điện sùng ban trở xuống để tâu lên.
[89] Ngày Mậu Dần, sai quyền Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều, Hữu chánh ngôn Điền Huống, Tri gián viện Trương Phương Bình, Nhập nội đô tri Trương Vĩnh Hòa cùng quyền Tam ty sứ Diêu Trọng Tôn bàn việc cắt giảm chi phí không cần thiết. Trước đó, Phương Bình dâng sớ tâu:
“Thần thấy từ khi có việc phương Tây, việc ứng phó biên phòng khiến thiên hạ chịu khổ nhọc, trăm thứ thuế má đều tăng lên gấp mấy lần. Lúc đó, chỉ dụ triều đình là vì trong lúc dùng binh, tạm thời ứng phó khẩn cấp, há có thể coi đó là thường lệ? Nay biên phòng tuy đã dần yên, nhưng việc phòng thủ biên giới vẫn chưa thể rút bỏ, bốn phương thêm quân số cũng rất nhiều, những khoản thuế má tăng thêm trước kia khó lòng trở lại như cũ, làm sao để an ủi lòng mong mỏi của trăm họ trong thiên hạ?
Triều đình dùng cách khoan dung tài chính, giảm nhẹ sức dân để chuẩn bị kỹ càng, chính là để vỗ về người xa. Nay nhân lúc việc biên giới tạm yên, há có thể thong thả, lãng phí thời gian, không chú tâm bàn tính kế lâu dài? Nếu cứ thản nhiên ngại làm việc, thần e rằng sức dân ngày càng kiệt quệ, tài chính ngày càng cạn kiệt, khó lòng giữ được ổn định về sau.
Hiện nay, từ Tam ty trong triều đến các chức Phát vận, Chuyển vận sứ bên ngoài, những quan chức quản lý tài chính, sổ sách công việc còn không kịp xử lý, há có thời gian lo nghĩ việc lâu dài cho quốc gia và dân chúng?
Thần xin chọn hai ba viên quan tài giỏi từ cấp Lưỡng tỉnh trở lên, đến Tam ty cùng các sứ phó căn cứ vào số thu chi hàng năm của quốc gia, cân nhắc thu chi, điều hòa giá cả hàng hóa, thông suốt nguồn cung trong thiên hạ, xem xét gốc rễ lợi hại, để cải cách những tệ nạn cũ kỹ. Sau đó, soạn thảo các điều khoản, trước tiên đưa đến Trung thư, Xu mật viện bàn bạc, những việc nào khả thi lâu dài thì tâu lên xin quyết định. Những việc vụn vặt, không có lợi hại lớn, chỉ gây phiền nhiễu, thì không cần thi hành. Mong rằng việc này sẽ giúp ích cho tài chính, giảm nhẹ sức dân, là việc cấp thiết hiện nay.”
Bấy giờ [Phương Bình] lại tâu rằng: “Việc cấp thiết của thiên hạ, không gì quan trọng hơn việc tiền tệ và lương thực. Nguồn gốc của tiền tệ và lương thực nằm ở Tam ty, nhưng công việc của các quan kế toán rất phiền phức và phức tạp, sổ sách và hội họp không có thời gian rảnh[35], làm sao có thời gian lo nghĩ đến những vấn đề căn bản của quốc gia?
Thần năm ngoái từng tâu lên, xin chọn hai ba viên quan từ Lưỡng tỉnh trở lên, đến Tam ty cùng với các quan chức phụ trách, căn cứ vào thu nhập hàng năm, ước tính chi tiêu trong và ngoài nước, phương pháp sử dụng thì cân nhắc mức độ quan trọng, thu thuế thì thông qua việc có hay không, nghiên cứu nguồn gốc lợi hại, loại bỏ những tệ nạn cũ, hy vọng sẽ tiết kiệm tài chính, giảm bớt gánh nặng cho dân, giúp Tam ty điều tiết hợp lý.
Nếu không tranh thủ lúc biên giới yên ổn để bàn luận về chính sách lâu dài, thần e rằng sức dân ngày càng suy yếu, ngân sách quốc gia ngày càng cạn kiệt. Nếu triều đình ngại sinh sự, xin hãy tạm lệnh cho Tam ty đem số thuế thu được trong một năm dưới thời Thiên Thánh và sổ chi tiêu trong và ngoài nước, so sánh với năm trước, rồi trình lên, thì kế hoạch lớn của quốc gia có thể thấy rõ. Như vậy thì có thể kéo dài lâu dài và được coi là tốt, nếu không, sao có thể yên lòng mà không suy nghĩ sâu xa? Tờ trát trước đây, xin được xem xét kỹ lưỡng hơn.”
(《Thực lục》 chép: Ban đầu, Xương Triều cùng với quyền Tam ty sứ Diêu Trọng Tôn đều tâu rằng, từ khi dùng binh ở Thiểm Tây, chi phí biên giới không đủ, xin so sánh số chi tiêu từ thời Cảnh Đức trở lại đây, ước tính theo chế độ cũ của tổ tông, những khoản không cấp thiết thì cắt giảm hết, nên mới có mệnh lệnh này. Xét rằng kiến nghị của Xương Triều vào tháng 5 năm Bảo Nguyên thứ 2, lúc đó lệnh cho Trương Nhược Cốc, Nhậm Trung Sư, Hàn Kỳ định đoạt, khác với việc này. 《Thực lục》 gộp làm một việc, là sai.
《Bản chí》 chép: Quân đội phía Tây lâu ngày không giải ngũ, tài chính ngày càng kiệt quệ, thiên tử lại xuống chiếu cho nội thị lấy sổ sách thời tiên đế và đầu năm Thiên Thánh, so sánh với chi tiêu trong cung những năm gần đây, bên ngoài thì lệnh cho Trung thừa Giả Xương Triều, Gián quan Điền Huống, Trương Phương Bình, Nhập nội đô tri Trương Vĩnh Hòa cùng Tam ty bàn việc cắt giảm chi phí dư thừa. Xét rằng việc lấy chi tiêu thời Thiên Thánh so sánh với những năm gần đây, thực ra là kiến nghị của Phương Bình. Còn thời Cảnh Đức thì là kiến nghị trước đây của Xương Triều.
《Sóc ký》 cũng chép: Tam ty sứ Diêu Trọng Tôn tâu rằng quân đội đóng ở Thiểm Tây rất đông, xin theo quy chế chi tiêu thời Cảnh Đức, ngoài ra đều bãi bỏ. Giống với 《Thực lục》, khác một chút với 《Thực hóa chí》, nay không lấy, chỉ lấy hai tờ sớ của Phương Bình liên kết lại. Việc lệnh cho Xương Triều, chắc là do Phương Bình tấu lên, cần xem số lượng cắt giảm sau này, đầu năm Hi Ninh, Tư Mã Quang từ chối việc cắt giảm chi tiêu quốc gia trong tờ trát nói rằng: Muốn biết số lượng chi tiêu cắt giảm năm Khánh Lịch thứ 2 so với hiện nay, chỉ cần hạ lệnh cho Tam ty cung cấp và tâu lên[36], có thể thấy ngay. Nên tìm hiểu thêm.)
[90] Ngày Kỷ Mão, Kinh Đông an phủ sứ Trần Chấp Trung xin rằng những việc thuộc về Khiết Đan mà An phủ ty vùng biên giới Hà Bắc nắm được, đều phải báo cáo về bản ty. Vua theo lời xin.
[91] Ngày Canh Thìn, lấy Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo Phú Bật làm Hồi tạ Khiết Đan quốc tín sứ, Tây thượng các môn sứ Phù Duy Trung làm phó. Thư trả lời viết:
“Xưa kia, Liệt tổ Chương Thánh hoàng đế của ta giữ vững cơ đồ, nuôi dưỡng dân chúng, cùng với Chiêu Thánh hoàng đế nước Đại Khiết Đan ngừng binh giảng hòa, thông sứ kết minh. Nay ta kế thừa[37], cùng tuân theo mưu huấn, biên dân yên ổn, đã hơn bốn mươi năm. Nay đặc phái sứ thần, gửi thư hỏi han. Lại nói về đất Ngoã Kiều, cõi cũ Tấn Dương, viện dẫn việc họ Thạch cắt đất[38], kể lại việc nhà Chu khôi phục cương thổ, những việc thuộc về đời khác, sao lại liên quan đến triều ta!
Từ đầu niên hiệu Cảnh Đức, bắt đầu giữ gìn tín nghĩa láng giềng, những việc nhỏ nhặt đều không để ý. Huống chi Thái Tông hoàng đế thân chinh đất Tịnh, không mưu đồ đất Yên, lúc đó quý quốc vội phát viện binh, đã giao chiến ở Thạch Lĩnh, rồi khởi binh ở Kế Môn, nghĩa không phải là phản phúc, lý có nhân duyên. Nguyên Hạo được ban họ, xưng phiên, nhận lộc, bỗng mưu việc tiếm đoạt[39], quấy nhiễu biên cương.
Trước đây bàn việc thảo phạt, đã từng thông báo, Đỗ Phòng, Quách Chẩn truyền đạt đầy đủ, nay xuất chinh phía tây, sao lại nói là không báo. Sứ giả đi lại tấp nập, nhiều lần nghe lời bàn về việc ghét ác, thư hỏi thăm qua lại, chưa hiểu rõ nguyên do kết thân, bỗng thấy lời bàn khác, thật đáng buồn! Nói rằng sẽ thương xót người trong họ, lại dẫn đến lời chê trách kẻ sợ vỡ bình.
Lại nói việc đắp đê, khơi thông ao hồ, trước đây do mưa lũ, gây nên nạn ngập lụt lớn, đã không thể khơi thông, nên sửa sang phòng ngừa, đâu phải vì nghi ngờ mà làm tổn hại tín nghĩa hòa hảo. Còn việc phòng bị nơi hiểm yếu, tập hợp binh lính, vốn là việc thường của biên thần giữ chức, cũng là lệ cũ của hương binh sung quân[40], ở quý cảnh, há lại bãi bỏ quân đồn trú. Tất cả đều tỏ ra thẳng thắn[41], sao lại tỏ ra nghi ngờ.
Mong rằng tình hữu nghị sẽ được giữ gìn lâu dài, bỗng dưng nảy ra lời xin đất, thật không đúng với lời ước trong thư. Lời lẽ chân thành, thần linh soi xét rõ ràng, hai nước không được xâm phạm lẫn nhau, biên giới mỗi bên giữ vững cương thổ. Ngoài lời thề, không đòi hỏi gì thêm, mong giữ lâu dài, đừng trái với chí nguyện trước. Mong rằng thông suốt, nên cảm kích suy nghĩ. Vừa vào tiết thanh hòa, cầu được phúc lành. Những điều khác xin để Phú Bật trình bày miệng.”
Thư từ do Hàn lâm học sĩ Vương Củng Thần soạn.
Lúc đầu, thư của Khiết Đan nói rằng Thái Tông khởi binh vô cớ, thẳng đến Yên Kế, lúc đó không ai biết trả lời thế nào. Duy chỉ có Củng Thần xin được nói riêng rằng: “Chiến dịch Hà Đông vốn là để trừng phạt kẻ tiếm ngụy, Khiết Đan đã phái sứ giả đến hành tại bày tỏ thành ý, nhưng sau đó lại đánh chiếm Thạch Lĩnh Quan, ngầm hỗ trợ quân cho giặc. Thái Tông nổi giận vì sự phản phúc của họ, sau khi dẹp yên Kế Nguyên, liền hạ lệnh Bắc chinh, sao có thể nói là vô cớ được!”
Vua mừng rỡ nói: “Sự việc nguyên do là như vậy.” Rồi dụ bảo các quan chấp chính rằng: “Nếu không phải Củng Thần am hiểu sự việc cũ, thì khó mà trả lời được.”
Lưu Lục Phù từng nói với Giả Xương Triều rằng: “Đầm lầy ở Nam triều để làm gì vậy? Một cọng lau có thể vượt qua, ném roi cũng có thể san bằng. Nếu không, phá đê đi, mười vạn bao đất là có thể vượt qua được.” Lúc đó, có người bàn xin làm cạn đầm lầy để nuôi quân[42].
Vua hỏi Củng Thần, ông trả lời: “Việc binh quý ở sự quỷ quyệt, nếu họ thực sự có mưu kế, thì không nên nói ra với địch, đây chỉ là lời khoa trương của Lục Phù mà thôi. Đặt hiểm yếu để giữ nước, các bậc tiên vương không bỏ qua, huống chi đây là cách mà tổ tiên dùng để ngăn chặn kỵ binh Hồ.” Vua rất tán thành.
[92] Trung thư môn hạ tấu rằng, gần đây phóng thích những người đặc cách tấu danh, tiến sĩ, các khoa và quan lại trong nước có người giỏi võ nghệ, biết phương lược, xin tuyển chọn thử bổ làm Ban hàng. Chiếu cho Hàn lâm học sĩ Tô Thân, Nội thị đô tri Vương Thủ Trung thử nghiệm rồi tâu lên. Bổ làm Ban hàng tổng cộng 37 người.
[93] Tri châu Vị Châu là Vương Duyên xin cho trích ba vạn người làm thủ lĩnh cung tiễn ở bản lộ sung vào quân đội, Vua đồng ý. Việc này theo sách《Sóc Lịch》[43].
[94] Hàn lâm học sĩ Vương Củng Thần, Thị ngự sử Trọng Giản tâu rằng, gần đây các quan lên điện chầu do thứ tự hơi đông, có khi bị tắc nghẽn, xin sau khi thiết triều ở hậu điện xong, dùng bữa xong, lại ngự ở tiện điện đặc cách cho vào yết kiến. Vua chuẩn tấu, nhưng đợi khi thứ tự ít thì vẫn theo lệ cũ.
Giản là người Giang Đô.
(Việc này theo sách《Sóc Lịch》.)
[95] Ngày Tân Tỵ, Vũ An tiết độ sứ Cao Hóa được cử làm Tri châu Tương Châu. Bản truyền chép: Hóa tuy xuất thân hàng ngũ, nhưng rất hiểu việc dân. Ở Tương Châu có một vụ án lớn đã xét xử xong, tất cả đều bị kết án tử hình, Hóa nghi ngờ, sai điều tra lại, quả nhiên có ba người không đáng chết.
(Xét tháng này ngày Bính Thân, Điền Huống xin chọn thông phán để giúp Hóa, e rằng Hóa không thể tự mình làm việc này, nên nay bỏ đi.)
[96] Bổ nhiệm tăng Quang Tín ở Diên Châu làm Tam ban tá chức. Tri châu Thanh Giản Thành là Chủng Thế Hoành tâu rằng Quang Tín đã nhiều lần chém được thủ cấp quân địch trong các trận đánh với giặc phương Tây. Lại tâu rằng Quang Tín vốn họ Vương, xin ban tên là Tung, và xin thăng một chức quan. Vì thế mà có mệnh lệnh này. Lúc đó, Thế Hoành đã sai Tung vào địch cảnh để ly gián anh em Dã Lợi Vượng Vinh. Tung là người dũng cảm, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, quen thuộc địa hình sông núi và đường đi ở vùng Tây. Ban đầu làm tăng, Thế Hoành biết là có thể dùng được, bèn gọi về dưới trướng, chiều theo mọi ý muốn, cung cấp không kể. Tung say rượu, không việc gì không làm, Thế Hoành càng đối xử hậu hĩnh, Tung cũng rất cảm kích Thế Hoành.
Khi Thế Hoành xuất quân, thường sai Tung làm người dẫn đường, nhiều lần đánh tan các trại địch. Khi sắp sai Tung vào địch cảnh, gọi đến uống rượu, bảo rằng: “Nếu giặc bắt được ngươi, tra tấn hỏi cung, ngươi không chịu nổi đau đớn, sẽ khai thật chăng?” Tung đáp: “Thề chết không nói.” Thế Hoành nói: “Hãy thử trước đi.” Tung quả nhiên không khuất phục, Thế Hoành nói: “Ngươi thật đáng dùng.” Bèn sai đi.
(Việc của Vương Tung, tham khảo từ truyện Chủng Thế Hoành, 《Tư Mã Quang ký văn》, 《Thẩm Quát bút đàm》 sửa chữa, còn lại ghi đầy đủ ở cuối năm.)
[97] Ngày Nhâm Ngọ, Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo Lưu Hãng bị điều ra làm Tri châu Đàm Châu. Trước đây, Hãng đi sứ Khiết Đan, người tiếp đón là Đỗ Phòng ép Hãng uống rượu, Hãng say, vén tay áo đứng dậy, nói: “Ta không uống được, sao lại ép ta!” Rồi mắng chửi, vì thế sứ Khiết Đan đến, đem việc này tâu lên, nên bị điều ra ngoài. Sau lại giáng làm Tri châu Hòa Châu. Nhân đó ban chiếu rằng các quan đi sứ Khiết Đan và tiếp đón, tiễn đưa sứ thần, mỗi khi yến tiệc không được uống quá chén, lời nói ứng đối phải giữ đại thể.
(Chiếu bảo các quan phải giữ đại thể, vào ngày Giáp Thân. Hãng lại bị giáng làm Tri châu Hòa Châu, vào ngày Canh Tý.)
[98] Ghi chép con trai của Khấu Ninh, chủ trại An Tắc, châu Hoàn, tước Đông đầu cung phụng quan là Khấu Bình làm Hữu thị cấm. Vì Khấu Ninh đã tử trận khi giao chiến với giặc phương Tây.
[99] Ngày Giáp Thân, quốc mẫu nước Khiết Đan cử Bảo Ninh tiết độ sứ Gia Luật Thản, Tả giám môn vệ Thượng tướng quân Tiêu Ninh; Khiết Đan chủ[44] cử Nghiêm châu phòng ngự sứ Mã Thế Trường, Đông thượng các môn sứ Thôi Vũ sang chúc mừng lễ Càn Nguyên.
[100] Ngày Ất Dậu, ra chiếu cho con cháu của quan lại đã về hưu được nhận chức Trai lang thí hàm, nếu đủ tuổi thì được miễn tuyển chọn và bổ nhiệm vào chức vụ thuận tiện gần nhà.
[101] Ngày Mậu Tý, ra chiếu gần đây lệnh cho Tam ty cắt giảm các khoản chi phí, nhưng tiền lương, lương tháng, áo quần, thưởng và đặc chi của các quan văn võ cùng các ban, các quân vẫn được chi như cũ.
[102] Lại ra chiếu cho các chỉ huy Nghĩa dũng ở Hà Bắc được tập luyện, lệnh cho họ thay phiên nghỉ ngơi tại nhà. Những kẻ lười biếng, không chịu làm ruộng, cho phép gia trưởng tố cáo lên quan, sẽ bị xử phạt nghiêm khắc.
[103] Ngày hôm đó, ban chiếu khen ngợi Tri châu Diên Châu là Bàng Tịch và những người khác, vì Bàng Tịch đã xây dựng xong trại Kiều Tử Cốc.
Ban đầu, Nguyên Hạo chiếm được Kim Minh, Thừa Bình, Tắc Môn, An Viễn, Khảo Lão trại, phá được Ngũ Long Xuyên, dân biên giới bị đốt phá gần hết. Bàng Tịch đến nơi, bắt đầu sửa sang lại. Quân đồn trú hơn mười vạn người, chưa có thành lũy, phân tán trong thành, sợ uy nghiêm của Bàng Tịch, không dám phạm pháp. Phía tây bắc Kim Minh có Hồn Châu Xuyên, đất đai bằng phẳng màu mỡ. Cuối xuyên gọi là Kiều Tử Cốc, là đường hiểm yếu để địch ra vào.
Bàng Tịch sai bộ tướng Địch Thanh dẫn hơn một vạn người, xây dựng trại Chiêu An bên cạnh cốc, đẩy lui mấy vạn quân địch. Chiêu mộ dân cày cấy, thu được thóc để cung cấp cho quân đội. Chu Mỹ đánh chiếm lại trại Thừa Bình, Vương Tín xây dựng trại Long An, khôi phục lại toàn bộ đất đai đã mất, xây dựng mười một đồn là Thanh Thủy, An Định, Hắc Thủy, Phật Đường, Bắc Hoành Sơn, Can Cốc, Thổ Minh, Liễu Cốc, Điêu Khoa, Ngu Nhi, Nguyên An.
(Truyện Bàng Tịch chỉ nói mười một thành, ban đầu không liệt kê tên thành, nay căn cứ vào truyện Chu Mỹ thêm vào. Cùng với việc mở đường Quy Danh, Bình Nhung, thông với Vĩnh Hòa, Ô Nhân Quan, lại thay đổi bốn trận pháp, sửa đổi thêm bớt binh khí. Tư Mã Quang trong 《Sóc Lịch》 nói rằng Vua vì Tri châu Diên Châu Bàng Tịch và những người khác xây dựng xong trại Kiều Tử Cốc và phá tan các trại của giặc phương Tây, ra lệnh ban chiếu khen ngợi vào ngày Mậu Tý, nay theo đó, và lấy những việc của Bàng Tịch được ghi trong bản truyện để phụ chép. Từ việc Chu Mỹ đánh chiếm trại Thừa Bình trở xuống, chắc có ngày tháng riêng, cần xem xét kỹ hơn. Trại Long An, ngày 1 tháng 6 năm thứ 4 mới được ban tên là đồn An Định, vốn tên là Mã Đề Xuyên, tháng 10 năm thứ 5 mới được ban tên.)
[104] Nguyên Hạo chiếm giữ trại Thừa Bình, các tướng hội quân bàn kế đánh dẹp.
Lạc Uyển phó sứ Chủng Thế Hoành xin mang lương thực ba ngày đánh thẳng vào sào huyệt giặc. Văn Tư sứ Chu Mĩ nói: “Chúng biết ta đến, ắt sẽ bày mai phục đợi ta. Chi bằng đi đường tắt đánh úp khi chúng không đề phòng.” Thế Hoành không nghe. Chu Mĩ một mình đem quân ra phía tây khe Phù Dung, đánh bại lớn quân giặc. Còn Thế Hoành quả nhiên không lập được công.
Chẳng bao lâu, giặc lại cướp phá trại Sĩ Đôi, Chu Mĩ đón đánh ở quán Dã Gia, đuổi đến tận khe Thác Bạt, đánh bại quân giặc. Nhờ công được thăng làm Hữu Kỵ Kỵ sứ. Quân trở về, đóng ở trại Vĩnh Bình, lại đóng trại ở khe Quan Đạo Ngư Mai để chặn đường giặc. Lệnh cho quân sĩ tăng cường khai khẩn ruộng đồn điền, mỗi năm thu được sáu ngàn hộc thóc. Lại dẫn quân từ bộ Sảnh Tử vượt sông Đại Lý về phía tây, giết sạch hai trăm trại của Trát Vạn Đa Di, đốt sạch kho tàng rồi rút về. Bàng Tịch và Phạm Trọng Yêm cùng tiến cử, được bổ làm Đô giám Phu Diên, thăng làm Thứ sử châu Hạ.
(Việc bổ làm Đô giám Phu Diên, Thứ sử châu Hạ, chắc có ghi rõ ngày tháng.)
[105] Trong chiến dịch An Định, do thám báo tin giặc sắp kéo vài vạn quân đến, Bàng Tịch sai Quản câu cơ nghi Sở Kiến Trung chia quân các tướng, tiến đến thành Hắc Thủy để đợi. Các tướng sợ giặc sắp đến, không chịu giao quân. Chu Mĩ nói: “Quân ta nên lấy ít đánh nhiều, sao lại sợ hãi?” Bèn đem hai ngàn quân giao cho Kiến Trung, nhưng giặc cũng tự rút lui. Mỗi khi có thư từ biên giới gửi đến, các tướng đều chọn việc dễ, chỉ có Chu Mĩ chưa từng từ chối việc khó, mà đi đâu cũng thắng, các tướng đều kính phục.
Kiến Trung là người Hà Nam.
[106] Ngày Canh Dần, Trung thư, Xu mật viện tâu việc châu Phủ tu sửa thành trại Ninh Viễn, muốn lệnh cho Chuyển vận ty Hà Đông và Cao Kế Tuyên ở châu Tịnh xem xét phân bố quân mã đóng ở châu Thứ, Vua nghe theo. (Việc này căn cứ theo 《Sóc Lịch》.)
[107] Ngày Giáp Ngọ, điều Tri châu Thiền Châu Vương Đức Dùng làm Đô bộ thự lộ Chân Định phủ, Định Châu, đồng thời ban chiếu dụ về ý nghĩa của việc tuyển chọn.
Trước đây, Lưu Lục Phú gặp Vương Đức Dùng ở Thiền Châu, vui mừng nói: “Nghe danh ông đã lâu, nay may mắn được gặp ở đây. Năm nay được mùa lớn, chẳng phải là nhờ nhân chính của ông sao?” Vương Đức Dùng từ chối rằng: “Nhờ thiên tử sáng suốt ở trên, nên thường được nhiều năm mùa màng bội thu.” Ông còn nói mình đã già yếu, trong nước có nhiều hiền sĩ, rồi chỉ vào các khách ngồi cùng kể rõ gia thế của họ, Lưu Lục Phú chăm chú lắng nghe.
[108] Chiêu mộ những người Bảo Nghị, Cường Tráng ở lộ Hoàn Khánh làm quân.
[109] Ngày Bính Thân, Hữu chánh ngôn Điền Huống tâu rằng triều đình chọn dùng tướng soái để phòng bị quân Bắc, nhưng lại dùng Dương Sùng Huân, Hạ Thủ Uân, Cao Hóa, v.v., trong ngoài đều không đồng tình, e rằng sẽ lỡ việc quân cơ. Triều đình ban chiếu, chọn các quan Thông phán, Mạc chức đến giúp đỡ họ.
[110] Tri gián viện Trương Phương Bình tâu rằng: “Gần đây sứ giả Khiết Đan là Tiêu Anh trở về, triều đình xử trí việc biên giới phía bắc, tuy tăng thêm quân lính, tu sửa đồn lũy, chuẩn bị sẵn sàng, nhưng những tướng lĩnh được cử đi chưa được lựa chọn kỹ càng. Thần nghe trong binh thư có nói: ‘Người khéo đối phó với kẻ địch thì không ỷ vào việc chúng không đến, mà phải làm sao để không thể bị đánh bại, dựa vào sự chuẩn bị sẵn sàng của mình để đối phó.’ Vì vậy, thành dù kiên cố, quân dù đông, tài chính dù đủ, nhưng nếu tướng lĩnh không phải là người tài, thì cũng không đáng tin cậy. Tướng lĩnh là người nắm giữ sinh mệnh của quân lính, là chủ chốt liên quan đến an nguy của quốc gia, xin bệ hạ hãy suy nghĩ và cảnh giác về điều này.
Nếu quân địch dám vượt qua biên giới, mà để Dương Sùng Huân ở Trấn, Định, Hạ Thủ Uân ở Doanh châu, Lưu Hoán ở Thương châu, Trương Kỳ ở Hà Dương, thì bệ hạ có thể yên tâm ngủ được chăng? Dù là kẻ ngu dốt hay trẻ con cũng biết rằng việc này ắt sẽ thất bại. Triều đình không phải không biết rằng Sùng Huân và những người khác không đủ năng lực, nhưng vì bị ràng buộc bởi lệ thường dùng người, nên đành phải cử họ đi. Nếu muốn trên làm vơi bớt nỗi lo của bệ hạ, dưới được lòng tin của mọi người, thì phải chọn những người đã có thành tích qua thử thách, mới đáng tin cậy.
Trong tình thế bất đắc dĩ, chi bằng chọn những tướng lĩnh phó nổi tiếng ở Thiểm Tây như Địch Thanh, Phạm Toàn, mỗi nơi điều động một hai người. Hơn nữa, từ khi biên giới phía tây có chiến sự đến nay đã ba năm, những tướng sĩ lập công như Địch Thanh chưa từng được một lần về kinh đô, ngưỡng vọng long nhan. Nếu lấy cớ này triệu họ về kinh, xét tài năng mà thăng chức, thay thế Sùng Huân và những người khác, cho họ làm quan trong triều. Có người bàn rằng việc phía tây và phía bắc đều quan trọng, nếu lấy Địch Thanh đi, e rằng tướng lĩnh phía tây sẽ có lời phàn nàn. Nhưng Thiểm Tây có bốn lộ, mỗi lộ chiếm đất ngàn dặm, thành trì liên tiếp, quan lại tướng lĩnh hàng nghìn, quân lính đông đảo, lẽ nào không thể chọn luyện tướng phó để tự dùng? Một khi thiên tử thăng một tiểu hiệu vào triều mà họ từ chối, thì những người yêu nước trung quân không thể làm như vậy.
Nhân dịp hè này, biên giới chưa có việc gì, nên mau chóng triệu họ về. Đợi khi Phú Bật đi sứ trở về, may mà hòa ước chưa bị phá vỡ, thì cho họ trở về nguyên lộ. Nếu quân địch tiến xuống phía nam, thì để họ chia nhau chống giữ phương bắc. Việc này rất quan trọng, xin bệ hạ xem xét quyết định.”
(Tờ tâu của Phương Bình không rõ thời gian, nhân việc Điền Huống bàn về Sùng Huân và những người khác mà chép thêm vào. Cuối tháng 5, Sùng Huân và những người khác đều được điều chuyển, Địch Thanh và Phạm Toàn sau đó đều được triệu kiến, có lẽ là do nghe theo lời tâu của Phương Bình.
Truyện Địch Thanh chép: “Nhân Tông thấy Thanh nhiều lần lập công, muốn triệu về hỏi kế sách, gặp lúc giặc cướp phá Vị châu, vội sai vẽ hình dâng lên,” việc này xảy ra sau khi Thanh được thăng làm Phụng Nhật Thiên Vũ sương chủ, Huệ đoàn vào tháng 8 năm thứ 4. Theo khảo chứng, giặc cướp phá Vị châu là vào cuối thu năm đó, truyện Địch Thanh chép sai.
Lại xem truyện Phạm Khác chép: “Vua đặc biệt triệu kiến Khác, Khác tâu rằng gần đây đã dò biết quân ở Thiên Đô tả hữu sương đang điểm binh, nhưng chưa rõ giặc sẽ tiến theo đường nào. Nhân Tông nói: ‘Vừa có tin báo từ biên giới, giặc đã đánh vào Lưu Phan bảo thuộc Cao Bình quân, khanh hãy đi ngay bằng ngựa trạm.’ Bèn thăng Khác làm Lễ tân sứ, Vinh châu thứ sử, Kiềm hạt Hoàn Khánh, lệnh đến dưới quyền Phạm Trọng Yêm,” việc này xảy ra vào tháng 10 năm đó[45].)
[111] Ngày Đinh Dậu, ban chiếu rằng: “Nghe nói ở Kinh Đông, Kinh Tây, giặc cướp hoành hành, hãy lệnh cho Ty Chuyển vận cử Thông phán hoặc quan Mạc chức cùng các Lệnh tá của các huyện chọn những người dân trong làng có sức mạnh và dũng cảm, tăng thêm số lượng Cung thủ gấp đôi. Lại lệnh cho Lưu nội tuyển chọn những người từng giữ chức vụ mà không phạm tội tham nhũng, tuổi chưa đến 60, làm Huyện uý, để đốc thúc việc bắt giặc.”
(Năm trước, tháng 2 ngày Tân Sửu, tháng 6 ngày Nhâm Dần, tháng 8 ngày Tân Tỵ, có thể tra cứu.)
[112] Ghi chép việc Tần Lương, Giám áp trại Vĩnh Bình châu Ung, Hữu Thị cấm, con là Cổn được bổ làm Hữu Ban Điện trực, vì Lương đã tử trận khi đánh nhau với người Man.
[113] Ngày Mậu Tuất, vì buổi giảng 《Chu Dịch》 đã xong, triệu tập các quan Giảng độc cùng hai chế, tông thất từ chức Thứ sử trở lên, dự yến ở điện Sùng Chính.
[114] Điều Chu Quan, Kinh nguyên Kiềm hạt, Tri Trấn Nhung quân, Sùng nghi sứ, làm Cao Dương quan Kiềm hạt, sau đổi làm Phu Diên lộ Kiềm hạt, rồi lại đổi làm Tịnh Đại lộ Kiềm hạt, chuyên quản việc quân mã Lân Phủ lộ.
(Tháng 5 ngày Giáp Thìn đổi làm Lân Phủ lộ Kiềm hạt, ngày Canh Tuất đổi làm Tịnh Đại đô Kiềm hạt, nay ghi chép, hoặc bỏ đi cả.)
[115] Ngày Kỷ Hợi, lấy Hàn Kỳ, Xu mật trực học sĩ, Lễ bộ Lang trung, Tri Tần châu, làm Tần châu Quan sát sứ; Vương Duyên, Xu mật trực học sĩ, Lại bộ Lang trung, Tri Vị châu, làm Kinh châu Quan sát sứ; Bàng Tịch, Long đồ các trực học sĩ, Lại bộ Lang trung, Tri Diên châu, làm Phu châu Quan sát sứ; Phạm Trọng Yêm, Long đồ các trực học sĩ, Hữu ty Lang trung, Tri Khánh châu, làm Bân châu[46] Quan sát sứ.
[116] Ngày Tân Sửu, Quyền Ngự sử trung thừa Giả Xương Triều tâu rằng, các quan Phán ty Tam ty, Suy phán quan phủ Khai Phong, Chuyển vận sứ phó, Đề điểm hình ngục là triều thần tuổi quá 70, già yếu không đủ năng lực, xin đều cách chức, được chấp thuận.
[117] Ban thưởng khí tệ cho các quan tu sửa trại Ninh Viễn ở Hà Đông theo thứ bậc.
- Xin cấp tờ tuyên không đề tên của Xu mật viện: Chữ 'tuyên' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản mà bổ sung. Xem 《Phạm Văn Chính công tập》 phụ lục niên phổ cũng chép tháng 3 năm này ngày Quý Sửu 'ông xin cấp 100 tờ tuyên không đề tên của Xu mật viện và 100 tờ đầu tử không đề tên của Tuyên huy viện', có thể chứng minh. ↵
- 'Quý' trong 'quý bất lậu tiết', bản các các làm 'thứ'. ↵
- 'Vua' chữ 'thượng' nguyên không có, theo 《Tống sử》 quyển 155, chí về tuyển cử bổ sung. 《Thông khảo》 quyển 31, phần khảo về tuyển cử chép là 'Đế'. ↵
- 'Tiến sĩ thi tạp văn', chữ 'thi' dưới nguyên có chữ 'sách', theo các bản và 《Tân Đường thư》 quyển 44, chí về tuyển cử, 《Trị tích thống loại》 quyển 28, phần về tổ tông khoa cử lấy người, 《Tống sử》 quyển 155, chí về tuyển cử bỏ. ↵
- 'Người thông được thì thi văn phú', chữ 'phú' nguyên không có, theo 《Trị tích thống loại》 và 《Tống sử》 bổ sung. ↵
- 'Triệu Tán xin thi năm bài sách về thời vụ', chữ 'thi' nguyên thiếu, theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống, các bản và 《Tống sử》 bổ sung. ↵
- 'Năm Đại Hòa thứ 3', chữ 'tam' nguyên là 'nhị', theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống, bản đại điển, các bản và 《Thông khảo》 quyển 31, phần khảo về tuyển cử, 《Tống sử》 quyển 155, chí về tuyển cử sửa. ↵
- 'Lấy thơ phú làm trường thi thứ nhất', chữ 'phú' nguyên là 'thi', theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống, bản đại điển, các bản và 《Thông khảo》, 《Tống sử》, 《Trị tích thống loại》 sửa. ↵
- Chữ 'Đồng' này nguyên bản không có, căn cứ vào văn bản nói về việc cấm thương nhân ở mười một châu Vĩnh Hưng quân, xét theo địa vị, có lẽ thiếu châu Đồng, dựa vào 《Tống sử》 quyển 181, chí về thực hóa bổ sung. ↵
- 'Mạc' nguyên bản là 'Hán', theo bản Đại điển và các bản khác sửa lại. ↵
- 'tiên' chữ nguyên thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Đại điển bản, Các bản bổ sung. ↵
- 'vấn' nguyên là 'gian', theo các bản trên sửa. ↵
- 'Nhung' nguyên là 'Ngã', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 sửa. ↵
- Chữ 'cố' nguyên bản không có, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 17/6 bổ sung. Bản các bản chữ 'sự' viết thành 'tự', không có chữ 'cố'. ↵
- Chữ 'tự' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 bổ sung. ↵
- 'Xuyên' nguyên bản là 'Châu', căn cứ theo bản Đại điển, các bản khác và 《Tống hội yếu》 phương vực 18-27, 《Vũ kinh tổng yếu》 quyển 18 trên mà sửa ↵
- Chữ 'chiếu' nguyên bản không có, căn cứ theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 trên mà bổ sung. Bản Đại điển chép là 'triệu' ↵
- 'Xin' nguyên bản là 'Cũ', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản, Đại Điển bản và Biên Niên Cương Mục quyển 11, Tống Sử Toàn Văn quyển 8 sửa lại. ↵
- Vốn nên cấp nhà cửa, bản Đại điển và quyển 11 gia truyền trong 《Hàn Ngụy công tập》 chép là 'Kiêm không cấp nhà cửa'. ↵
- Gần đây vâng chiếu xem xét kỹ lưỡng về sách lược công thủ mà Phạm Trọng Yêm dâng lên, chữ 'phụng' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản để bổ sung. ↵
- Thông đường từ Tần châu đến Vị châu, chữ 'Tần' nguyên bản là 'Trại', căn cứ theo bản Đại Điển, bản các và 《Hàn Ngụy Công Tập》 quyển 11 gia truyền mà sửa. ↵
- Chiếu cho các châu ở Hà Bắc tuyển chọn người cường tráng, 'các châu' nguyên bản viết là 'lộ Đề điểm', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách 《Biên niên cương mục》 quyển 11, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 thượng sửa lại. ↵
- Nghĩa dũng quân, chữ 'dũng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và sách 《Thập triều cương yếu》 quyển 5, 《Biên niên cương mục》 quyển 11, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 thượng bổ sung. ↵
- Tháng 3 nguyên bản viết là tháng 2, căn cứ theo Đại điển bản và các bản khác sửa lại. Chính văn ghi 'từ tháng 3 trở đi đều đến châu tập luyện' cũng có thể chứng minh. ↵
- Lưỡng triều binh chí, chữ 'chí' nguyên bản viết là 'chế', căn cứ theo Đại điển bản và các bản khác sửa lại. ↵
- Bí mật đóng chiến thuyền, chữ 'đóng' nguyên bản là 'sai', căn cứ theo bản Đại Điển sửa lại ↵
- Chữ 'lao' nguyên là 'yêm', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- Chữ 'tứ' nguyên là 'sai', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- 'Quân Phiên' trong 《Thông khảo》 quyển 156, Binh khảo và 《Tống sử》 quyển 191, Binh chí đều chép là 'quan Phiên', có lẽ đúng là vậy. ↵
- Đê dài nguyên bản là 'Trường thành', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu Phiên di nhị chi nhất tam, Khiết Đan quốc chí quyển 20, Trị tích thống loại quyển 8 Nhân Tông triều Khiết Đan nghị Quan Nam địa giới, Biên niên cương mục quyển 11 sửa lại. ↵
- 'Giới' nguyên bản là 'Cư', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và Khiết Đan quốc chí, Trị tích thống loại sửa lại. Tống hội yếu ghi là 'Thích trị xuân dương'. ↵
- 'Thả' nguyên bản viết nhầm xuống dưới 'kì chủ', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Đại điển bản và Trị tích thống loại, Biên niên cương mục sửa lại. ↵
- Tông Nguyên nguyên bản chép là 'Sùng Nguyên', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Đại điển bản và sách 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- Sáng hôm sau sẽ đến thăm và ban thưởng cho gia tộc của hắn, chữ 'ban thưởng' nguyên bản không có, căn cứ theo sách 《Trị tích thống loại》 bổ sung. 《Tống sử》 quyển 335, bản truyện chép: 'Ngày mai sẽ đến trướng của họ, đi ban thưởng cho bộ lạc.' ↵
- Sổ sách và hội họp không có thời gian rảnh 'không có thời gian rảnh', trong 《Lạc Toàn Tập》 quyển 23, 'Tái Tấu Thỉnh Trát Tử' viết là 'không có thời gian rảnh', có lẽ là đúng. ↵
- Lệnh cung cấp và tâu lên 'lệnh' chữ nguyên không có, theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Tập》 quyển 39, 'Từ Miễn Tài Giảm Quốc Dụng Trát Tử' bổ sung. ↵
- 'Dư' nguyên là 'Mệnh', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Khiết Đan quốc chí》 quyển 20 sửa. 《Tống hội yếu》 Phiên di 2-14 viết là 'Đãi vu toản thừa'. ↵
- 'Cát thành' nguyên là 'Chế vực', theo 《Tống hội yếu》, 《Khiết Đan quốc chí》 và 《Trị tích thống loại》 quyển 8 sửa. ↵
- 'Hốt' nguyên là 'Cấp', theo sách trên sửa. ↵
- 'Nãi' nguyên là 'Cập', theo Đại điển bản và 《Tống hội yếu》, 《Khiết Đan quốc chí》 sửa. ↵
- 'Dĩ' nguyên là 'Ư', theo 《Khiết Đan quốc chí》 sửa. ↵
- 'Địa' nguyên là 'Trì', theo bản Tống Toát Yếu và các bản khác sửa lại. ↵
- 'Thử cứ' hai chữ nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung. ↵
- Chữ 'chủ' trong 'Khiết Đan chủ' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các các mà bổ sung. ↵
- 'Việc' chữ này nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung. ↵
- Bân châu nguyên bản chép là 'Phần châu', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 314 bản truyện và 《Phạm Văn Chính công tập》 quyển 16 các biểu 'Nhượng Quan sát sứ' thứ nhất và thứ ba mà sửa. ↵