"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 140: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 3 (QUÝ MÙI, 1043)

Từ tháng 3 đến tháng 4 năm Khánh Lịch thứ 3 đời Nhân Tông.

[1] Tháng 3, ngày Mậu Thìn (mùng 1), xuống chiếu cho Hình bộ và Đại Lý tự biên soạn các vụ án đã xét xử trước đây và các việc công đã quyết định thành các điển lệ.

(Theo 《Vương Tử Dung truyền》: Khi làm Phán Đại Lý tự, ông dâng lời rằng: “Pháp tự xét các vụ án nghi ngờ, trước đây quá nhiều, khó khăn trong việc tra cứu, nên chọn những vụ án có thể làm chuẩn mực về mức độ nặng nhẹ, phân loại và sắp xếp thành các điển lệ xét xử.” Việc này chắc chắn là việc nói trên. Vương Tử Dung tháng trước đã được bổ làm Đãi chế, tri Kinh Nam, cần xem xét thêm.)

[2] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự điện Diên Hòa xem vệ sĩ biểu diễn võ nghệ.

[3] Ngày Ất Hợi, Giao Châu dâng năm con voi thuần.

[4] Ngày Ất Dậu, Hữu Chánh ngôn, Trực Tập Hiền viện Điền Huống tâu: “Tây giới sai Hạ Tòng Húc mang thư đến cửa quan, sắp cho vào yết kiến. Từ khi giặc Nguyên Hạo làm phản đến nay, đã nhiều lần gửi thư, nay danh phận chưa định, nếu chỉ gọi là sứ giả của Nguyên Hạo, thì Tòng Húc chưa chắc nghe theo, nếu dùng chức quan ngụy để tiến danh, thì triều đình tự mở ra lễ nghi của kẻ bất thần. Nên tạm cho Tòng Húc ở lại quán dịch rồi đến hỏi han.”

[5] Hữu Bộc xạ, kiêm Môn hạ Thị lang, Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ Lữ Di Giản lại xin từ chức. Vua ngự điện Diên Hòa triệu kiến, cho phép cưỡi ngựa đến cửa điện, sai nội thị lấy ghế đẩu đưa vào. Di Giản từ chối lâu, Vua xuống chiếu cho người đỡ, không phải lạy. Ngày Mậu Tý, bãi chức Tể tướng, giữ chức Tư đồ, Giám tu Quốc sử, tham gia bàn việc quân quốc đại sự cùng Trung thư và Xu mật viện.

(Phụ truyền chép rằng Di Giản lại xin từ chức, tiến cử Phú Bật và một số người khác có thể trọng dụng, nhưng chính truyện đã bỏ đi. E rằng Di Giản chưa chắc đã tiến cử Phú Bật, nay theo chính truyện.)

[6] Hộ bộ Thị lang, Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ Chương Đắc Tượng được thăng làm Công bộ Thượng thư, Xu mật sứ. Hình bộ Thượng thư, Đồng bình chương sự Yến Thù giữ nguyên chức vụ Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ. Tuyên huy Nam viện sứ, Trung Vũ Tiết độ sứ, phán Thái Châu Hạ Tủng được bổ làm Hộ bộ Thượng thư, sung chức Xu mật sứ. Hữu Gián nghị Đại phu, quyền Ngự sử Trung thừa Giả Xương Triều được bổ làm Tham tri chính sự.

Hữu Chánh ngôn, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn Phú Bật được thăng làm Hữu Gián nghị Đại phu, Xu mật phó sứ. Phú Bật vì có công trong việc đi sứ, Giả Xương Triều vì có công trong việc tiếp đón sứ thần, nên đều được thăng chức. Phú Bật từ chối không nhận.

(Việc này căn cứ theo 《Phú Bật tự thuật tiền hậu từ miễn ân mệnh biện sàm báng tráp tử》.)

[7] Ngày Tân Mão, thăng Xu mật phó sứ, Bảo Khánh Tiết độ sứ Vương Di Vĩnh làm Tuyên huy Nam viện sứ. Xu mật phó sứ, Hình bộ Thị lang Đỗ Diễn được thăng làm Lại bộ Thị lang. Hữu Gián nghị Đại phu, Tham tri chính sự Vương Cử Chính, Xu mật phó sứ, Hữu Gián nghị Đại phu Nhậm Trung Sư đều được thăng làm Cấp sự trung.

Lúc này Lữ Di Giản bị bãi chức Tể tướng, các quan đại thần đều được thăng chức. Thị ngự sử Trầm Mạc tâu: “Tước lộc là để khuyến khích bề tôi, nếu không có công mà được thăng chức thì là lạm dụng. Nay quân giặc liên tục gây hấn, chưa thấy triều đình có kế sách gì để chống lại ngoại xâm, mà lại thăng chức vô cớ, thì bề tôi lấy gì để khuyến khích?”

Trầm Mạc là người Dặc Dương.

[8] Ngày Quý Tỵ, Thị ngự sử Ngư Chu Tuân được bổ làm Khởi cư xá nhân, Chức phương viên ngoại lang Vương Tố làm Binh bộ viên ngoại lang, Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý Âu Dương Tu làm Thái thường thừa, đều kiêm chức tri gián viện. Chu Tuân cố từ chối, nên lấy Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Dư Tĩnh làm Hữu chính ngôn, phụ trách việc gián viện. Lúc này, quân đội Thiểm Hữu già yếu mệt mỏi, giặc cướp nổi lên ở Kinh Đông và Kinh Tây, Lữ Di Giản vừa bị bãi chức tể tướng, Vua bèn muốn thay đổi những việc tệ hại trong thiên hạ, nên tăng thêm số lượng quan gián, đầu tiên bổ nhiệm Vương Tố và những người khác.

(《Chu sử》 trong phần truyện của Âu Dương Tu chép: “Lữ Di Giản bị bãi chức tể tướng, Hạ Tủng được bổ làm Xu mật sứ, nhưng vừa bổ lại bị bãi, thay bằng Đỗ Diễn. Lại có Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Hàn Kỳ cùng được thăng làm chấp chính, thu nạp những danh sĩ đương thời, tăng thêm số lượng quan gián, và Âu Dương Tu là người đầu tiên được chọn.”

Xét rằng khi Âu Dương Tu được bổ làm quan gián, Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm và Phú Bật đều chưa được bổ nhiệm. Căn cứ vào truyện của Yến Thù, Âu Dương Tu là do Yến Thù tiến cử, 《Chu sử》 chép sai vậy. Lúc đó, bên ngoài xôn xao đồn rằng hoàng tử vừa sinh, sẽ bàn việc đại xá, thăng chức cho quần thần và ban thưởng cho quân đội. Vương Tố dâng sớ nói: “Khi Nguyên Hạo làm phản, Khiết Đan đòi hỏi nhiều, ngân khố nhà nước cạn kiệt, nên tiết kiệm chi tiêu để giảm bớt gánh nặng cho dân, hơn nữa tướng sĩ đã lâu ngày vất vả chờ đợi ban thưởng, mà bề tôi lại ngồi hưởng bổng lộc vô cùng[1], đều không phải là cách tính toán vì lợi ích quốc gia.” Bàn luận ấy bèn bị bác bỏ.

Xét rằng năm đó không có hoàng tử sinh ra, nhưng trong phần phụ truyện của Vương Tố và bài văn bia mộ Vương Tố do Vương Khuê soạn đều chép lời tâu này, phần phụ truyện lại chép ngay lúc Vương Tố được bổ làm quan gián, chắc chắn không phải vào lúc này. Nay tạm theo đó, nhưng hơi đảo lộn câu chữ, để không sai lệch sự thực. Năm đó, Trương Tu viện thực sự sinh con gái, nhưng còn nhỏ, không rõ là tháng nào. Đến tháng 4 năm thứ 5 thì mất, mới 3 tuổi. Có lẽ chữ “hoàng tử” nên đổi thành “hoàng nữ”, cần xem xét kỹ hơn.

Vào niên hiệu Khánh Lịch đời Vua Nhân Tông, Vua tự tay bổ nhiệm Vương Tố, Âu Dương Tu, Thái Tương, Dư Tĩnh làm quan gián, phong thái của họ khiến cả thiên hạ ngưỡng mộ. Vương công tâu việc Vương Đức Dụng tiến cung nữ, Vua ban đầu hỏi: “Việc trong cung cấm, khanh làm sao biết được?” Vương công không chịu khuất. Vua cười nói: “Trẫm là con của Chân Tông, khanh là con của Vương Đán, có tình thế cựu, há giống người khác? Vương Đức Dụng thực sự tiến cung nữ, đã phục vụ bên cạnh Trẫm, thế nào?” Vương công nói: “Nỗi lo của thần chính là sợ họ ở bên cạnh bệ hạ.” Vua liền sai cung thần ban cho mỗi cung nữ do Vương Đức Dụng tiến 300 quan tiền, đưa ra khỏi cửa Đông Nội, xong việc tâu lên, Vua rơi nước mắt. Vương công nói: “Bệ hạ đã không bỏ lời thần, sao lại vội vàng thế!” Vua nói: “Nếu Trẫm thấy họ lưu luyến không muốn đi, e rằng cũng không thể đuổi được.” Một lát sau, cung quan tâu rằng cung nữ đã ra khỏi cửa Đông Nội, Vua xúc động đứng dậy. Việc này căn cứ theo 《Thiệu Bác kiến văn hậu lục》, cần xem xét thêm.)

[9] Ngày Giáp Ngọ, Xu mật phó sứ, Hữu gián nghị đại phu Phú Bật được đổi làm Tư chính điện học sĩ, kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ. Bật lúc ấy dâng chương từ chối chức vụ được bổ nhiệm, nói: “Thần trước đây phụng mệnh đi sứ Khiết Đan, những chức quan chấp chính của họ mà sứ thần nhà Hán chưa từng gặp, thần đều đã gặp. Những điều mà sứ thần hai triều trước đây từng kiêng kỵ không nói, thần đều nói ra. Vì thế mà biết rõ tình hình của họ. Họ chỉ chưa đến, nếu đến thì không dễ chống đỡ, mong triều đình đừng vì đã hòa hiếu mà xem nhẹ. Thần nay nhận thưởng, nếu một mai họ bội ước, thần không chỉ bị triều đình trừng phạt, mà luận bàn trong thiên hạ sẽ nói thần thế nào! Thần sợ luận bàn của thiên hạ hơn cả hình phạt, mong thu hồi mệnh lệnh mới, thì người trong ngoài ắt sẽ nói: ‘Sứ thần không nhận thưởng, là việc chưa thể biết trước, về việc phòng bị hẳn không dám lơ là.’ Không phải thần cố làm ra vẻ liêm khiết, mà thực sự lo sợ làm hỏng việc nước.” Vua thấy ý ông kiên quyết, đặc cách đổi mệnh lệnh.

[10] Ngày Bính Thân, xuống chiếu cho Thái thường lễ viện rằng, các quan hiến tế ở các đền miếu nhỏ đều mặc thường phục làm việc, không hợp lễ nghi, từ nay trở đi đều mặc tế phục từ tứ phẩm trở xuống, nếu là tế lễ báo cáo không theo thời gian quy định, dùng hương tệ, lễ khí cũng như vậy.

[11] Tháng đó, Vua sai nội thị tuyên dụ Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch rằng: “Đợi khi việc biên giới tạm yên, sẽ dùng các khanh ở hai chức vụ, đã có chiếu cho Trung thư ghi chép. Đây là ý riêng của Trẫm, không phải do đại thần tiến cử.” Lại sai Kỳ bí mật tâu lên người có thể thay thế giữ chức vụ biên giới. Kỳ nói Nguyên Hạo tuy đã ước hòa, nhưng thành ý hay giả dối chưa thể biết, nguyện tận lực ở biên cương, không dám nghĩ đến người khác thay thế.

(Theo 《Hàn Kỳ gia truyền》, tên nội thị là Lý Nguyên Hanh[2], theo 《Phạm Trọng Yêm tập》, tên nội thị là Trần Thuấn Phong. Đợi khi việc biên giới yên ổn, sẽ bổ nhiệm vào hai phủ, Bàng Tịch, Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ cùng nhận mật chiếu. Theo 《Ký văn》 là lời Bàng Tịch tự nói, không rõ tên nội thị. Nay phụ chép.)

[12] Xuống chiếu tạm ngừng thi cử.

[13] Mùa hạ, tháng tư, ngày Kỷ Hợi, Tư chính điện học sĩ Phú Bật tâu:

“Nay Nguyên Hạo sai quan ngụy mang thư đến, muốn bàn việc thông hảo, nhưng bên ngoài đều đồn rằng Nguyên Hạo chưa chịu xưng thần. Trước đây nghe truyền lệnh xuống các châu quận mà sứ Tây Hạ đi qua, tăng thêm lễ nghênh tiếp, lại sai các châu cử thông phán đến dịch trạm yến tiệc khoản đãi. Đối đãi quá hậu, sợ rằng sau này khó xử lý, làm mất phương pháp chế ngự người xa của Trung Quốc. Lại nghe sứ Tây Hạ đến đây là do Khiết Đan sai bảo, Nguyên Hạo vốn đã sợ Khiết Đan, thì triều đình có thể tạm giữ thế trọng. Dù việc bàn bạc chưa hợp, cũng còn có kế hoạch sau.

Phàm việc chế định phải làm ngay từ đầu, nếu đầu đã sai lầm, sau khó cứu vãn. Nay lại nghe sứ Tây Hạ vào yết kiến, ban thưởng rất hậu, đã cho phép xưng phụ, thì Nguyên Hạo tự cho là đắc chí. Thần năm ngoái đi sứ Khiết Đan, cùng quán bạn Lưu Lục Phù nói chuyện, nếu sau này khiến Nguyên Hạo lại xưng thần, thì triều đình ta mỗi năm tăng thêm vàng lụa cống nạp. Ban đầu đã không tránh danh hiệu ấy, nay lại chưa thực hiện đúng ước hẹn, uổng chịu nhục trước mà không được hiệu quả sau, thật đáng tiếc.

Nay triều đình quá dễ dãi chấp thuận, có hai điều đáng lo: Nếu Khiết Đan cho rằng Trung Quốc đã không thể bắt Nguyên Hạo xưng thần, thì há chịu thụ chế với ta, ắt sẽ sai sứ đến, không biết lấy lời gì để đáp lại; Nếu Khiết Đan cho rằng Nguyên Hạo vốn xưng thần với cả hai triều, nay đã không xưng thần với Nam triều, dần thành nước địch, thì sẽ tự cho mình là duy nhất tôn quý. Ngày sau nhân có việc biên giới, lại đòi hỏi thêm, không biết dùng cách gì để từ chối. Thần ngày đêm suy nghĩ, hai điều ấy ắt sẽ xảy ra một, không thể không lo tính trước.”

[14] Ngày Canh Tý, xuống chiếu cho Thẩm quan viện, Lại bộ Lưu nội tuyển, những người được tuyển có người thân cùng ở tại Xuyên, Quảng, đã cho miễn làm quan xa, từ nay phải triệu hai quan bảo lãnh, mới được thi hành.

[15] Ngày Nhâm Dần, có người dâng thư lên nói: “Thần thấy gần đây các quan lại đem các bản tấu chương, thư sớ của mình dâng lên, sai người chép lại đem ra ngoài, rồi bí mật sai những kẻ phù phiếm truyền tụng khen ngợi, cốt để lấy danh tiếng cho mình, muốn làm rõ lỗi của Vua. Triều đình đã nhiều lần ra lệnh cảnh cáo, nhưng cuối cùng vẫn không tuân theo, gây nên thói xấu, không có lợi cho sự giáo hóa của thánh nhân. Đại để làm bề thờ Vua, tất phải giữ lòng trung hậu, không nên quá kích động. Nếu chỉ giữ gìn tiết hạnh, há lo không lập được công danh? Nếu vi phạm lời răn, tất có phép tắc xử phạt. Xin hãy ra lệnh cho trong ngoài biết rõ, nếu còn vi phạm, điều tra được, sẽ bị giáng chức nặng, để răn đe mọi người.” Vua nghe theo. Lại sai Ngự sử đại niêm yết lệnh này ở triều đường.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》, cần tra cứu tên người dâng thư.)

[16] Ngày Quý Mão, Trứ tác tá lang, Thiêm thư Bảo An quân phán quan sự Thiệu Lương Tá được giả làm Trứ tác lang đi sứ Hạ Châu.

[17] Trước đó, Lương Tá cùng Hạ Tòng Húc đến kinh đô, được đón tiếp ở Đô Đình Tây Dịch. Sứ thần nhận được thư của Nguyên Hạo đưa đến Trung thư, Xu mật viện, rồi bảo Tòng Húc rằng: “Những văn thư mang đến, danh thể chưa đúng, chữ trên danh hiệu lại phạm húy Thánh tổ, không dám dâng lên, nên trả lại. Tuy xưng là con, tỏ ra cung kính thuận phục, nhưng cha con cũng không có lễ không xưng thần. Từ nay về sau, khi dâng biểu, chỉ xưng tên cũ, triều đình sẽ ban sách phong làm Hạ quốc chủ, ban chiếu không gọi tên, cho phép tự đặt quan thuộc. Khi tiếp đãi sứ thần, cho ngồi ở điện Đóa, hoặc khi sai sứ đến đó, sẽ tiếp đãi như lễ tiếp sứ Khiết Đan. Nếu muốn sai người đến biên giới nhận lễ vật ban tặng, cũng được cho phép. Đặt chợ ở Bảo An quân, hàng năm ban tặng 10 vạn tấm lụa, 3 vạn cân trà, vào ngày sinh và ngày mùng một tháng 10 sẽ ban thưởng. Cho phép dâng lễ vào tiết Càn Nguyên và chúc mừng ngày chính đán. Các trại sách ở biên giới khôi phục như cũ.” Lại sai Lương Tá cùng Tòng Húc đi thương nghị rồi tâu lên.

[18] Ra chiếu rằng từ nay, vào các tiết Thiên Khánh và 4 tiết khác, cho phép xử tội lưu và nhẹ hơn.

[19] Ngày Giáp Thìn, lấy Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm, đều là Tư mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, kiêm chức Đô bộ thự mã bộ quân bốn lộ Thiểm Tây, Kinh lược an phủ chiêu thảo đẳng sứ, làm Tư mật phó sứ; lấy Trịnh Tiển,

Tư chính điện học sĩ, Cấp sự trung, Tri Vĩnh Hưng quân, làm Đô bộ thự mã bộ quân bốn lộ Thiểm Tây, kiêm Kinh lược an phủ chiêu thảo đẳng sứ, đóng quân ở Kinh châu. Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm đều năm lần từ chối, nhưng không được chấp thuận, bèn lên đường nhậm chức. Tư chính điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ Phú Bật tâu:

“Thần nghe gần đây có chiếu chỉ, phong Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm làm Tư mật phó sứ. Thần nhận thấy thánh ý chỉ theo công luận, không nghe lời gièm pha, đề bạt người tài ở nơi xa. Thiên hạ đều cho rằng nếu triều đình dùng người như thế này, thì thái bình không khó đạt được. Tuy nhiên, có người bàn rằng việc dùng đại thần tuy tốt, nhưng giặc phương Tây chưa diệt, cần phải có người tài. Nếu cả hai người đều về triều, e rằng sẽ thiếu người lo việc. Mọi người đều mong một người được triệu về, ở trong triều, còn một người nhận chức Tư mật phó sứ, tạm ở biên giới, trong ngoài phối hợp, việc gì cũng xong.

Theo thần nghĩ, ý kiến này rất hợp lý. Tuy nhiên, gần đây có người bàn rằng Tư mật phó sứ không nên cho ra ngoài nhậm chức, e rằng sau này võ quan sẽ lấy đó làm lệ, rất bất tiện. Đây là ý kiến ngang ngược, khéo léo biện luận, làm hại sự quyết đoán sáng suốt của bệ hạ, tổn hại công luận của thiên hạ. Những người đưa ra ý kiến này hẳn biết Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm đang bận việc phương Tây, kiên quyết từ chối chức vụ, nếu không chịu về triều, lại không cho ra ngoài nhậm chức, là muốn làm mê hoặc tai nghe của bệ hạ, kìm hãm hiền tài. Gian tà dụng tâm đến thế. Huống chi, triều trước từng có đại thần mang chức vụ Lưỡng phủ ra ngoài ứng phó việc gấp, xong việc lại về triều, chưa từng nghe sau này có võ quan lấy đó làm lệ.

Thần mong bệ hạ đừng tin lời dị nghị, hãy chuyên nghe công luận, triệu một người về, ở trong triều, còn một người nhận chức Tư mật phó sứ, tạm ở biên giới. Hoặc hai người mỗi năm thay đổi một lần, chia đều lao nhọc, cũng rất tiện lợi. Trong ngoài phối hợp, không gì tốt hơn thế. Nghe nói Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm đã tâu rằng việc phương Tây chưa xong, xin từ chối ân mệnh, triều đình nhân đó xử lý, rất hợp tình thế. Thần vô cùng khẩn thiết.”

[20] Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, Long Đồ các trực học sĩ, Binh bộ lang trung Ngô Tuân Lộ làm Tri Vĩnh Hưng quân, Thiểm Tây chuyển vận sứ, Khởi cư xá nhân Tôn Miễn làm Thiên Chương các đãi chế, bản lộ đô chuyển vận sứ.

[21] Ghi công Đại Danh phủ Kinh Thành huyện[3] uý Đông Phương Triều Tông, cho anh là Hạnh làm Chủ bạ Đăng Châu Hoàng huyện, cháu là Hữu Chi làm Giao xã trai lang, vì Triều Tông đã chiến đấu với giặc đến chết.

[22] Ngày Ất Tỵ, Xu mật phó sứ, Lại bộ thị lang Đỗ Diễn giữ nguyên chức sung làm Xu mật sứ, Tuyên huy Nam viện sứ, Trung Vũ tiết độ sứ Hạ Tủng về bản trấn.

Trước đó, Vua triệu hồi Hạ Tủng từ Sái Châu về làm Xu mật sứ, các quan ngự sử và gián quan đều dâng sớ luận tội Hạ Tủng, nói rằng: “Hạ Tủng ở Thiểm Tây, nhút nhát, cẩu thả, không chịu tận lực, mỗi khi bàn việc biên cương, chỉ liệt kê ý kiến của mọi người, đến khi Vua sai sứ giả đến đốc thúc, mới trình bày mười kế sách. Ông ta từng đi tuần tra biên giới, đem theo thị nữ vào trướng trung quân, suýt nữa gây ra biến loạn trong quân. Lại có việc Nguyên Hạo từng treo bảng ở biên ải, hứa thưởng ba nghìn quan tiền cho ai lấy được đầu Hạ Tủng, bị giặc khinh thường đến thế. Cuối cùng, ông ta làm mất quân đội, không có chút thành tích gì. Nay nếu dùng ông ta, thì chí khí của tướng lĩnh biên cương sẽ nản lòng.”

Lại nói: “Hạ Tủng dùng mưu mẹo, gian trá, xảo quyệt, không hòa hợp với Lữ Di Giản, Di Giản sợ tính cách của ông ta, không muốn dẫn ông ta vào hàng ngũ đồng liệt, chỉ khi về hưu mới tiến cử, để giải tỏa hiềm khích cũ. Nay bệ hạ đang chăm lo việc chính sự, lại dùng người gian trá, bất trung như thế, thì làm sao cầu được sự thịnh trị?” Thị ngự sử Trầm Mạc lại nói Hạ Tủng âm thầm kết giao với nội thị Lưu Tòng Nguyện[4], bên trong thì dùng mưu mẹo hiểm độc, bên ngoài thì nắm quyền cơ mật, khiến bè đảng gian thần được thế, quyền lực của nhà Vua bị suy yếu. Lời tâu càng thêm khẩn thiết.

Khi Hạ Tủng đã đến kinh thành, các quan càng gấp gáp dâng sớ, xin đừng cho ông ta vào yết kiến. Gián quan Dư Tĩnh lại nói: “Hạ Tủng nhiều lần dâng biểu xin từ chức vì bệnh, nhưng nghe tin được triệu dụng, liền vội vàng lên đường. Nếu không sớm quyết định, Hạ Tủng ắt sẽ cố xin được diện kiến, kể lể ân tình, khóc lóc, lại có tả hữu giúp ông ta giải thích, thì thánh thượng sẽ bị mê hoặc.” Ngự sử trung thừa Vương Củng Thần hết lời can gián, Vua chưa tỉnh ngộ, đứng dậy bỏ đi, Củng Thần liền kéo áo Vua, nói hết lời. Trước sau có tới mười tám tờ sớ, Vua mới bãi chức Hạ Tủng và dùng Đỗ Diễn thay thế.

(Đoạn này nên tìm rộng các chương sớ của đài gián, ghi rõ từng người, mới tốt. Thạch Giới trong bài thơ 《Thánh đức》 nói rằng dùng Ngự sử trung thừa Củng Thần, Ngự sử Bình, Mạc[5], Gián quan Tu, Tĩnh[6], tổng cộng mười một tờ sớ truy hồi chiếu chỉ triệu Hạ Tủng, nhưng chính truyện của Hạ Tủng nói[7] là mười tám tờ sớ, nay theo chính truyện. Ngự sử Bình, tức là Tịch Bình. Bình sau vì bất tài bị đuổi, nhưng lại có thể can gián Hạ Tủng, thật đáng lạ. Lời của Trầm Mạc, theo truyện của Mạc. Việc Củng Thần kéo áo Vua, theo hành trạng của Củng Thần do Lưu Chí soạn.)

[23] Ngày Bính Ngọ, bổ nhiệm Hữu thị cấm Mông Thủ Trung làm Đại Lý bình sự. Thủ Trung vốn là người Càn Ninh, đầu niên hiệu Cảnh Đức bị bắt sang Khiết Đan, từng đỗ tiến sĩ. Khi trở về triều được bổ làm Hữu thị cấm, giám sát thuế ở Hòa Châu. Đến đây, tự tâu xin không muốn làm quan võ, nên được đổi chức.

[24] Ngày Mậu Thân, quốc mẫu nước Khiết Đan sai Quy Nghĩa tiết độ sứ Gia Luật Hi Liệt, Uy Vệ đại tướng quân Mã Di Giáo, Khiết Đan chủ[8]sai Sóc Phương tiết độ sứ Tiêu Nhật Hưu, Phu Châu quan sát sứ Triệu Vi Tiết đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.

[25] Lữ Di Giản vừa bãi chức tể tướng, con ông là Công bộ viên ngoại lang, Trực Tập Hiền viện Công Xước được bổ làm Sử quán tu soạn. Công Xước cho rằng Di Giản tuy đã từ chức nhưng vẫn đảm nhiệm biên soạn quốc sử, nên cố từ chối chức tu soạn. Ngày Kỷ Dậu, Công Xước được lệnh trở lại làm Trực Tập Hiền viện.

[26] Trứ tác tá lang, Quán các hiệu khám Thái Tương được bổ làm Bí thư thừa, Tri gián viện. Trước đây, Vương Tố, Dư Tĩnh, Âu Dương Tu được bổ làm gián quan, Tương làm thơ chúc mừng, lời lẽ đầy khích lệ. Ba người này dâng thơ lên Vua, nên có lệnh bổ nhiệm này. (Việc này căn cứ theo 《Ký văn》.)

[27] Ngày Bính Thìn, sai quan đến Ngũ Nhạc, Tứ Độc cầu mưa.

[28] Ngày Mậu Ngọ, Quyền Tam ty sứ, Long đồ các trực học sĩ, Lễ bộ lang trung Diêu Trọng Tôn nhận chức Tri Thái Châu, Hộ bộ phó sứ, Binh bộ lang trung Lý Tông Vịnh nhận chức Tri Từ Châu, Hộ bộ phán quan, Ty phong viên ngoại lang Lý Việt nhận chức Tri Tương Châu, đều bị cách chức vì không phát hiện được việc lại thuộc của Bộ là Thôi Ban giả mạo văn thư của sứ phó để chiếm đoạt tài sản của thương nhân.

(《Trọng Tôn truyền》 chép: Ở biên giới tây bắc, chi phí chiêu mộ binh lính, tăng cường đồn trú cùng thưởng công, sứ bộ không thể kể xiết. Trọng Tôn dốc lòng tính toán, dù ốm đau cũng không bỏ việc. Vì để lại thuộc giả mạo văn thư nên bị điều đi làm Tri Thái Châu. Xét lại, lại thuộc dám giả mạo văn thư, thì Trọng Tôn có dốc lòng gì? Nay không chép theo.)

[29] Ngày Kỷ Mùi, Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Binh bộ viên ngoại lang Vương Nghiêu Thần được bổ làm Hộ bộ lang trung, quyền Tam ty sứ sự. Khi nhận mệnh, Nghiêu Thần tâu với Vua rằng: “Nay quốc gia và dân chúng đều suy yếu, xin bệ hạ xem xét việc giao phó cho thần.” Ông xin tự chọn thuộc hạ, Vua nghe theo, và Nghiêu Thần đã nổi tiếng vì tài trị nước. Năm đó, ông thu thập số liệu về thu chi tài chính của ba lộ Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà Đông trước và sau khi dùng binh, rồi báo cáo lên triều đình. Năm Bảo Nguyên thứ nhất chưa dùng binh, ba lộ thu chi tiền bạc, lương thảo như sau: Thiểm Tây thu 19.780.000, chi 15.510.000[9]; Hà Bắc thu 20.140.000, chi 18.230.000; Hà Đông thu 10.380.000, chi 8.590.000. Sau khi dùng binh: Thiểm Tây thu 33.900.000, chi 33.630.000; Hà Bắc thu 27.450.000, chi 25.520.000; Hà Đông thu 11.760.000, chi 13.030.000. Lại tính thu chi vàng bạc ở kinh kỳ: Năm Bảo Nguyên thứ nhất, thu 19.500.000, chi 21.850.000. Năm đó có lễ giao tế, nên số thu chi nhiều hơn năm thường. Năm Khánh Lịch thứ hai, thu 29.290.000, chi 26.170.000, không kể số lẻ. Từ đó suy ra, chi phí quân sự rất lớn.

[30] Ngày Canh Thân, Diêm thiết phán quan, Tư huân viên ngoại lang Lã Thiệu Ninh được bổ làm Hoài Nam chuyển vận sứ. Thiệu Ninh đến Hoài Nam, liền dâng lên 100.000 quan tiền thừa. Gián quan Âu Dương Tu xin trả lại số tiền đó và trị tội Thiệu Ninh về tội lừa dối, để răn đe những kẻ gian lại bóc lột. Việc này căn cứ theo tấu chương của Âu Dương Tu, còn việc có làm theo hay không cần xem xét thêm.

[31] Ngày Nhâm Tuất, phát lương thóc từ quân Khang Định để cứu đói dân chúng.

[32] Lữ Di Giản tuy đã bị bãi chức tướng, nhưng vẫn được giữ chức Tư đồ để tham gia bàn việc quân quốc đại sự, được Vua yêu quý và đối đãi không suy giảm. Bấy giờ, gián quan Thái Tương dâng sớ nói:

“Từ khi Di Giản bị bệnh, các đại thần hai phủ nhiều lần đến nhà ông ta để bàn việc. Lại nghe rằng khi Di Giản bệnh, bệ hạ trong cung cấm đã làm lễ cầu đảo cho ông ta, ban thưởng rất nhiều, sự quan tâm không ai sánh bằng. Thần trộm nghĩ rằng các đại thần hai phủ là người giúp bệ hạ trị thiên hạ, nay lại cùng cầm hốt nhận việc ở cửa nhà Di Giản, người trong xóm làng chỉ trỏ cười thầm.”

Xét việc Di Giản chỉ lo mưu cầu lợi ích cá nhân mà quên việc công, dẫn đến tạo thành mối họa cho thiên hạ như ngày nay. Khi Bệ hạ mới lên ngôi, Di Giản đã giữ chức Tham tri chính sự, rồi lên đến chức Tể tướng, kéo dài hơn hai mươi năm. Những việc ông ta nói, Bệ hạ đều nghe theo và thi hành, lẽ ra phải làm cho phong hóa giáo dục được thuần hậu, quan lại được chỉnh đốn, địch quốc được khuất phục, trăm họ được yên ổn. Thế nhưng công nghiệp chẳng thấy đâu, chỉ lo mưu tính việc riêng.

Từ khi nắm quyền chính, ông ta nhiều lần giáng chức những người dám nói thẳng, như Tào Tu Cổ, Đoàn Thiếu Liên, Khổng Đạo Phụ, Dương Giai, Tôn Miễn, Phạm Trọng Yêm, Dư Tĩnh, Doãn Chu, Âu Dương Tu, v.v., hoặc đày đi nghìn dặm, hoặc ức chế nhiều năm, hoặc vì thù riêng, mượn uy quyền của nhà Vua để đuổi những người trung hiền, nhằm trút giận cá nhân, chẳng hề nghĩ đến việc mình sẽ mang tiếng xấu. Tính cách không tốt, muốn người khác phải theo mình, thấy ai cương trực tự lập thì đều cho là tham danh, cầu phú quý mà bôi nhọ. Người tốt thấy thế xấu hổ, thường rút lui để tránh tiếng tham danh, cầu tiến. Vì thế, hai mươi năm qua, mọi người không còn coi trọng liêm sỉ, danh tiết. Kẻ nông cạn thì sống qua loa, kẻ sâu sắc thì làm đủ điều xấu xa, không biết xấu hổ. Chỉ cần biết nịnh bợ, Di Giản đều hết sức che chở, khiến kẻ gian tà không bị đổ, dần thành thói quen, thiên hạ coi đó là lẽ thường.

Coi việc đuổi theo lợi lộc là khôn ngoan, xa lánh quyền thế là ngu dốt, bỏ mất tiết tháo liêm sỉ, tạo thành phong trào chạy chọt. Một ân huệ nhỏ cũng phải xuất phát từ cửa nhà mình, hoặc trước tiên tiết lộ việc để người khác biết trước; hoặc trước tiên kìm hãm việc, sau đó mới cho thi hành. Nếu việc không thể làm được, nhỏ thì đổ lỗi cho đồng liêu, lớn thì nói là phụng chỉ thánh thượng. Các viện tuyển chọn quan văn võ, quan lại thừa rất nhiều, nhưng chưa từng cắt giảm, nhân tài xuất chúng, công tích đặc biệt không được khen thưởng, đề bạt. Những kẻ tham nhũng, hôn ám, từng bị miễn chức, trách phạt, lại được minh oan[10], cố gắng ban phát ân huệ nhỏ, thu nạp nhiều người. Tham liêm lẫn lộn, thiện ác không phân biệt.

Từ khi binh lính vùng Quan Thiểm nổi dậy, việc tu sửa thành lũy, vận chuyển lương thảo, cùng các khoản thuế má trăm đường, đều do các châu quận đảm nhận. Bên trong thì kho tàng trống rỗng, bên ngoài thì tài sản của dân đã cạn kiệt, tiếng than oán vang khắp nơi. Nếu không may gặp phải thiên tai hạn hán, thì hậu quả sẽ không thể lường được. Nguyên nhân là do không chọn người tài giỏi để giữ chức Tam ty sứ phó, phát vận, chuyển vận, mà dùng người không xứng đáng, chỉ lo thu vén tình cảm cá nhân, dùng làm bước đệm, mới đến vài tháng đã lại thuyên chuyển, chạy vòng quanh, ngày ngày mong được thăng tiến. Muốn dùng cách này để làm giàu, giảm bớt gánh nặng cho dân, làm sao có thể được?

Khi Di Giản nắm quyền, sau trận thua ở Sơn Ngoại, từ Nhậm Phúc trở xuống, chết mấy vạn người. Trận chiến ở Phong Châu, mất đất, mất quân. Trận Trấn Nhung, từ Cát Hoài Mẫn trở xuống, lại chết mấy vạn người. Ở triều đình, kế sách gì đã được tính toán? Sau khi quân Tây thất bại, Khiết Đan nhân cơ hội, sai sứ vào triều, vi phạm lời thề của tiên đế, ngang nhiên đòi đất Quan Nam, tăng thêm vàng lụa đến hai mươi vạn, lại còn đem quân áp sát biên giới, kiên quyết đòi chữ “Nạp”, uy hiếp Trung Quốc, thật là nỗi nhục lớn. Xem xét mối họa này, giống như ung nhọt, chỉ chưa vỡ mủ mà thôi.

Di Giản ra vào Trung thư gần hai mươi năm, không giúp bệ hạ hưng lợi trừ hại, chỉ làm qua loa, dung túng, khiến vạn sự đổ nát như vậy. Nay vì bệnh mà về, vẫn còn tham quyền thế, không chịu từ chối. Có nghe nói ông ta xin chỉ cho một hai người trong triều đình đến nhà bàn việc lớn, đủ thấy tấm lòng của Di Giản tuy lui mà chưa dừng. Xin đặc cách bãi bỏ việc bàn bạc quân quốc đại sự, để các đại thần hai phủ chuyên trách trách nhiệm, không còn đùn đẩy.”

Ngày Giáp Tí, Di Giản xin thôi dự bàn việc quân quốc đại sự, Vua đồng ý.

[33] [Thái] Tương lại tâu:

“Thấy rằng Chiêu thảo sứ Thiểm Tây lộ là Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm đều được bổ nhiệm làm Xu mật phó sứ, nhưng vì giặc phía Tây chưa yên, nên họ đều khẩn thiết từ chối ân mệnh, triều đình lại ban chiếu thư, thúc giục họ về kinh. Thần nghĩ rằng Kỳ ắt sẽ lại tâu trình, từ chối trong khi chưa quyết định, và có ba ý kiến khác nhau: Một là để Kỳ và Trọng Yêm cùng về kinh; hai là một người ở trong triều, một người ở ngoài biên; ba là đều lưu lại biên cương. Việc để họ cùng về kinh là ý định ban đầu của triều đình. Bệ hạ đã suy xét sáng suốt, nghe theo ý kiến công bằng, vì hai người này đã lâu ở biên cương, hiểu rõ tình hình, nên triệu về triều để bàn việc thay đổi, nhằm tìm kế phá giặc.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, việc khổ nhất của quan biên là tấu trình văn thư, có khi bị chậm trễ, có khi bị cắt xén, động tác không như ý, nên lâu nay không thành công. Nay dùng quan biên mà giao trách nhiệm, thì việc lớn nhỏ đều biết, trong ngoài tương ứng. Dùng binh không thắng, là do quân chế chưa ổn định, không có phép thống lĩnh, nếu không thay đổi, thì khó thấy ngày thắng lợi. Nay dùng quan biên mà giao trách nhiệm, có thể trách nhiệm về thuật thay đổi, nên nên để một người ở trong triều.

Giặc phía Tây tuy đã xin hòa, nhưng lòng người Nhung không thể tin cậy, Kỳ vốn quen việc binh, tình cảm trên dưới thông suốt, nay đều về triều, tướng mới là Trịnh Tiển, chưa biết địa hình hiểm trở, quân đội chưa luyện tập, nếu giặc thừa cơ, đột ngột tấn công, ắt khó chế ngự. Đó là lý do nên để một người ở ngoài biên.

Đều là những người ở lại biên giới, đây là lời bàn ngăn trở. Những kẻ ghét Kỳ, Trọng Yêm, nếu ở trước mặt bệ hạ trăm phương hủy báng họ, bệ hạ tất không tin. Nếu khen tài đức của họ mà nói, bệ hạ không thể nghi ngờ. Tất nói rằng Trọng Yêm uy danh đã nổi, Khương Nhung rất sợ, nay rời biên giới, tất sẽ xâm nhiễu. Thần cho là không phải vậy, Trọng Yêm làm Chiêu thảo sứ, Khương Nhung đã sợ uy danh, nay ở Xu phủ, bàn việc binh, sự sợ hãi càng lớn. Nếu nói dân tình Quan Trung vốn nương tựa, nay về triều, dân chúng thất vọng, thần lại cho là không phải vậy. Ở Thiểm Tây, dân đã nương tựa, nay ở Xu phủ, tất trình bày lợi hại mà thi hành, sự nương tựa càng lớn.

Xét như vậy, thật giả rất rõ. Nhưng có người nói hai người nên ở trong hay ngoài, theo dư luận, hai bề tôi trung dũng, lòng như nhau. Nếu xét tài mưu và lòng người, thì Trọng Yêm hơn Hàn Kỳ. Người ở trong bàn mưu, người ở ngoài thi hành, nên Trọng Yêm nên về, Kỳ nên ở lại biên giới, rất hợp lý. Xin triều đình đừng nghe lời từ chối của Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, hãy ban ân mệnh[11]. Trên để tỏ ý kiên quyết dùng người hiền của bệ hạ, dưới để hợp với công luận của dân chúng.”

[34] Ngày Ất Sửu, chiếu rằng nghe nói việc bắt phu dịch trong thiên hạ không đều, hãy lệnh cho các hộ ở làng xã và phường quách đều phải chịu.

[35] Tháng này, Thái tử Trung doãn, Quốc tử giám Trực giảng Thạch Giới làm bài thơ 《Khánh Lịch Thánh Đức》.


  1. 'Ngồi hưởng bổng lộc vô cùng' trong Tống bản và Tống toát yếu bản chép là 'Ngồi hưởng bổng lộc vô công'.
  2. Lý Nguyên Hanh trong 《Hàn Ngụy công tập》 quyển 12 gia truyền chép là 'Lý Doãn Hanh'.
  3. Đại Danh phủ Kinh Thành huyện, 'Kinh' nguyên là 'Kinh', căn cứ 《Hoàn Vũ ký》 quyển 54 Nguỵ Châu điều, 《Cửu Vực chí》 quyển 1 Bắc Kinh điều và 《Tống sử》 quyển 86 Địa lý chí Đại Danh phủ điều sửa.
  4. Lưu Tòng Nguyện, chữ 'Tòng' nguyên bản là 'Trọng', theo Tống bản, Các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 37 sửa lại.
  5. Ngự sử Bình, Mạc, chữ 'Mạc' nguyên bản thiếu, theo văn trên dưới và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung.
  6. Gián quan Tu, Tĩnh, chữ 'Tĩnh' nguyên bản thiếu, theo văn trên và sách trên bổ sung.
  7. Chính truyện của Hạ Tủng nói, chữ 'Tủng' nguyên bản thiếu, theo Tống bản và sách trên bổ sung.
  8. Chữ 'chủ' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung
  9. Chi 15.510.000, bản Tống ghi là 11.510.000, sách 《Biên niên cương mục》 quyển 12 ghi là 21.500.000
  10. 'minh oan' trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 37, sự tích Hạ Tủng chép là 'phản vi minh oan'.
  11. Các thụ ân mệnh 'thụ' nguyên là 'thụ', theo bản Tống toát yếu và 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 trên sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.