"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 143: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 3 (QUÝ MÙI, 1043)

Bắt đầu từ tháng 9 năm Khánh Lịch thứ 3 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 9, ngày Ất Sửu mùng một, đặt một chức Tuần kiểm ở các nơi thuộc Khai Phong phủ. Lại chia làm hai lộ Đông và Tây, mỗi lộ đặt một chức Đề cử tróc tặc.

[2] Chuyển vận sứ Hồ Nam tâu rằng người Man Dao ở Giám Quế Dương nổi loạn bên trong.

Người Man Dao sống ở trong núi non, dãy núi đó từ huyện Thường Ninh thuộc châu Hoành kéo dài đến bốn châu Quế Dương, Sâm, Liên, Hạ, Thiều, uốn lượn hơn nghìn dặm, người Man ở trong đó, không chịu thuế khóa và lao dịch, gọi là người Dao. Ban đầu, có thầy phù thủy Hoàng Tróc Quỷ ở châu Cát cùng vài người anh em đều học phép của người Man, đi lại ở Thường Ninh, ra vào các khe động, dụ dỗ mấy trăm người Man, buôn lậu muối, giết quân quan, trốn tránh trong động. Sau khi dụ ra rồi giết đi, lại dời dân dưới núi đến nơi khác, đến lúc này, đồng đảng của họ hợp lại đến năm nghìn người, kéo ra động Hoa Âm thuộc huyện Lam Sơn, châu Quế Dương, giết Tuần kiểm Lý Diên Tộ và Đô giám châu Đàm là Trương Khắc Minh. Triều đình xuống chiếu phát binh đi bắt giết.

(Xét theo sớ của Âu Dương Tu tháng 3 năm sau và sớ của Dư Tĩnh tháng 5 năm sau, việc giết Hoàng Tróc Quỷ là do Đề hình Thiệu Sức và Tri châu Hoành là Trần Chấp Phương.)

[3] Ngày Bính Dần, xuống chiếu cho thiên hạ chọn người giỏi y thuật đến kinh đô, sẽ khảo thí phương thuật để bổ vào Thái y.

[4] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu cho các phụ thần và Tri tạp Ngự sử trở lên, đến các Thiên Chương triều yết chân dung Thái Tổ, Thái Tông và xem các vật quý. Sau đó Vua hỏi về kế sách lớn phòng giữ biên cương, hồi lâu mới thôi. Hành trạng của Hàn Kỳ chép: “Kỳ đối đáp ở Thiên Chương, trình bày chín việc, sau lại dâng bảy việc.”

(Chín việc có thể phụ vào đây, nhưng Kỳ đã nhận chiếu đi tuyên phủ Thiểm Tây vào ngày 18 tháng trước, cách đây 15 ngày rồi, không biết còn ở triều đình không. Lại thấy chiếu chỉ chỉ đốc thúc Trọng Yêm và Bật, e rằng Kỳ đã đi rồi, nay tạm phụ chín việc vào cuối tháng 7.)

[5] Vua đã thăng chức cho Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, Phú Bật, mỗi khi vào yết kiến, đều giao trách nhiệm thái bình, nhiều lần sai họ dâng tấu chương về những việc cấp thiết đương thời. Trọng Yêm nói với mọi người: “Bệ hạ dùng ta đến mức này, nhưng việc có trước sau[1], hơn nữa cải cách tệ nạn trong thời bình lâu dài, không phải việc có thể làm trong một sớm một chiều.”

Vua lại ban chiếu thư thúc giục rằng[2]: “Gần đây vì lòng mong mỏi của trong ngoài, Trẫm đã không theo thứ tự mà dùng các khanh, nay Kỳ tạm thời đi Thiểm Tây, Trọng Yêm, Bật nên cùng tể thần Chương Đắc Tượng hết lòng lo việc nước, không được có chút do dự né tránh. Những việc cấp thiết đương thời có thể kiến nghị, hãy vì Trẫm trình bày hết.”

Sau đó lại mở Thiên Chương các, triệu vào đối đáp, ban ngồi, cấp bút giấy để họ viết ngay trước mặt. Trọng Yêm, Bật đều hoảng sợ tránh chỗ ngồi, lui về rồi dâng tấu chương rằng:

“Nước ta dẹp loạn Ngũ đại, giàu có bốn biển, đã gần tám mươi năm, kỷ cương phép tắc[3], ngày càng suy yếu, quan lại bế tắc dưới, dân chúng khốn khổ ngoài, biên giới không yên, giặc cướp hoành hành, không thể không thay đổi để cứu vãn. Nhưng muốn sửa ngọn, ắt phải sửa gốc, muốn trong dòng, ắt phải lắng nguồn.

Thần xin tóm tắt đạo của đế vương đời trước, tìm hiểu công lao của tổ tông triều ta, chọn những điều khả thi để dâng tấu. Mong bệ hạ thuận lòng thiên hạ, ra sức thực hiện việc này, may ra phép tắc được thiết lập, kỷ cương được chấn hưng, thì tông miếu lâu dài, thiên hạ được hưởng phúc.

Một là minh bạch việc thăng giáng. Sách 《Ngu thư》 viết: ‘Ba năm xét công trạng, ba lần xét thì thăng giáng người hiền kẻ kém’. Triều đại tổ tiên ta, văn võ bá quan đều không có lệ xét duyệt (ma khám), chỉ những người có tài năng chính trị đáng khen thì được thăng chức không theo thứ tự, còn những người không có gì nổi bật thì đến già vẫn không được thăng. Vì vậy mọi người đều tự rèn luyện để cầu thành tích.

Nay quan văn ba năm thăng một lần, quan võ năm năm thăng một lần, gọi là xét duyệt (ma khám). Không phân biệt trong ngoài, không hỏi lao nhọc hay nhàn hạ, người hiền kẻ kém đều được thăng tiến, như thế há phải là ý nghĩa của việc thăng giáng người hiền kẻ kém sao? Giả như trong hàng ngũ quan lại có một người hiền hơn mọi người, trị lý một quận huyện, đảm nhiệm một công việc, nghĩ đến việc hưng lợi trừ hại mà hành động, thì mọi người đều chỉ trích là sinh sự; tất nhiên sẽ ghen ghét, ngăn cản, chê bai, chế giễu, chỉ cần có chút sai sót là lập tức đè bẹp, vì vậy kẻ bất tài vẫn ngồi không hưởng lộc, an nhiên mà không làm gì. Dù ngu muội, đê tiện, không ai coi trọng, nhưng ba năm lại được thăng một lần, ngồi không mà lên đến chức khanh giám, thừa lang, trường hợp như vậy đầy rẫy.

Ai còn muốn vì bệ hạ mà hưng lợi ích cho nhà nước, cứu vớt nỗi khổ của dân, loại bỏ tệ nạn chính sự, sửa chữa sự đổ nát của kỷ cương? Các cơ quan trong kinh thành, vàng bạc lương thực chất đống, con em quyền thế chiếm giữ lâu ngày, có kẻ ăn không ngồi rồi chờ khuyết chức một hai năm, đến khi nhậm chức, ỷ thế lực, há chịu kính cẩn làm việc! Khiến nơi căn bản của tổ tông, kỷ cương ngày càng suy sụp. Vì vậy trong các cơ quan kinh thành, hễ có một chức khuyết thì có mấy người tranh giành. Còn các quan kinh triều nhậm chức ngoại thành, thì có kẻ ở nhà riêng chờ khuyết, thường kéo dài cả năm, thường khi mới nhậm chức đã đến kỳ xét duyệt, chẳng có chút công lao gì, nhưng vẫn được thăng chức theo lệ. Đó là nguyên nhân khiến mọi người cứ theo lối cũ, không còn phấn đấu.

Thần xin đặc biệt ban chiếu thư, từ nay về sau, các quan lại ở hai nơi[4], nếu có công lao và đức hạnh lớn, thì sẽ được đặc cách phong tước; nếu không có công lao và đức hạnh lớn, thì không được thăng chức bất thường. Những người có thành tích bình thường, chỉ giữ chức vụ hiện tại, không được kiêm nhiệm chức vụ tốt đẹp khác.

Các quan lại ở kinh đô, đang giữ chức vụ tại các cơ quan như Đài tỉnh, Quán các, Thẩm hình, Đại Lý tự, Khai Phong phủ, hai huyện Xích[5], Quốc Tử Giám, các phủ vương, và những người được bảo cử hoặc tuyển chọn giám sát các kho tàng trọng yếu ở kinh đô, đều phải tại nhiệm đủ ba năm mới được xét duyệt.

Nếu do tự xin, hoặc tại Trung thư, Thẩm quan viện muốn được bổ nhiệm ở kinh đô, thì khác với việc bảo cử và tuyển chọn, phải làm việc đủ năm năm mới được xét duyệt. Như vậy, con em quyền thế sẽ chịu đi nhậm chức ở ngoại địa, hiểu được sự khó khăn; cũng có người tài giỏi, nhờ đó mà lập được công danh, có thể được trọng dụng.

Những người trước đây đã nhận chức ở kinh đô và đã làm việc, thì vẫn theo thời hạn cũ để xét duyệt; những người chưa giao nhiệm vụ mà xin đi nhậm chức ngoại địa, thì đều được chấp thuận. Các quan lại ở kinh đô, sau khi nhậm chức và làm việc đủ ba năm thì được xét duyệt, trong đó thời gian làm việc trước đây, ngày tháng công trình, và thời gian di chuyển do thuyên chuyển chức vụ không phải do tự xin, cũng như thời gian các quan triều chầu ở kinh đô[6], đều được tính chung. Những người làm việc ở xa hay gần, khó nhọc hay nhàn hạ khác nhau, cũng như thời gian nghỉ phép, chờ bổ nhiệm, hoặc bị trì hoãn ngoài thời gian công trình, hoặc do công vụ mà bị thuyên chuyển bất thường, đều do các cơ quan có thẩm quyền xem xét và tâu lên.

Nếu trong thời gian tại chức có phạm tội riêng, hoặc tội công từ tội đồ trở lên, đến ngày xét duyệt, phải trình bày tình tiết nặng nhẹ[7], để xin chỉ thị riêng. Những người tài năng xuất chúng, có nhiều đóng góp, hoặc có kế sách hay được Vua tin dùng, thì sẽ được đặc ân thăng chức[8], không bị ràng buộc bởi việc xét duyệt thông thường.

Lại nữa, những người làm quan ngoài có chính sự tốt nổi tiếng, có thể bổ sung phong hóa; hoặc xử lý được những vụ án tích tụ lâu ngày, giải oan cho người bị hàm oan; hoặc qua năm lần xét xử mà không ai kêu oán; hoặc khuyến khích nông tang, thu được lợi lớn; hoặc ở kho tàng kinh thành, có thể cải cách được tệ nạn lớn, tiết kiệm được hàng vạn tiền, thì bản hạt phải bảo đảm minh bạch tâu lên, giao xuống Thượng thư tỉnh tập nghị, nếu được mọi người tán thành thì liệt kê tình trạng tâu lên, và cho cải chức, không bị cách trở bởi việc khảo xét.

Nếu có ý kiến khác nhau, thì mỗi người căn cứ vào lập trường của mình để xin chỉ thị, do Thánh thượng quyết định. Lại xin hạ chiếu cho Thẩm quan viện, Lưu nội tuyển, Thượng thư khảo công, đối với các quan kinh triều và tuyển nhân mỗi khi thay đổi chức vụ, phải nêu rõ việc xét định thành tích, kết tội tâu lên. Trong đó, nếu có người làm việc bừa bãi, hoặc già yếu ngu muội, không đủ khả năng trị dân, thì xin riêng xử lý. Những điều kiện khảo xét thành tích nêu trên, nếu có gì chưa nói hết, thì các cơ quan liên quan so sánh loại tình huống tâu lên.

Như vậy, thì những người làm việc theo lối cũ sẽ bị ràng buộc bởi giới hạn khảo xét thành tích[9], còn những người xuất chúng sẽ được ban thưởng đặc biệt, từ đó lợi ích chung của thiên hạ sẽ được phát huy, nỗi khổ của dân chúng sẽ được cứu giúp, tệ nạn chính sự sẽ được loại bỏ, kỷ cương đổ nát sẽ được tu sửa, mọi người tự giác phấn đấu, thiên hạ sẽ hưng thịnh, thì sự nghiệp của tiên vương, quyền uy của tổ tông, sẽ được chấn hưng trong tay Bệ hạ. Còn về thời hạn khảo xét đối với võ quan, thì giao cho Xu mật viện so sánh với văn quan để định đoạt tâu lên. (Tháng 11, ngày Nhâm Tuất thi hành.)

Thứ hai là ngăn chặn sự may mắn bất chính. Thần nghe rằng các vị Vua xưa ban thưởng để truyền lại cho đời sau, chư hầu có con trai nối ngôi, công khanh được bổ nhiệm dựa trên đức hạnh, nếu có người được thừa kế tước vị thì sách 《Xuân Thu》 chê trách. Đến thời Hán, các công khanh được phong tước mà qua đời, lập một con trai làm người kế thừa, chưa từng nghe các con trai khác đều được ban tước mệnh[10].

Tiếp theo, việc sủng ái đối đãi đại thần, ban cho một con trai làm quan thì có, nhưng chưa từng nghe mỗi năm có người tự tiến cử con em mình. Triều đại của tổ tông cũng không vượt quá mức này. Từ thời Chân Tông hoàng đế, lấy niềm vui thái bình cùng chia sẻ với bề tôi, ân điển dần lan rộng, từ chức Đại lưỡng tỉnh trở lên đến Tri tạp Ngự sử, mỗi khi gặp lễ Nam Giao và Thánh tiết, đều được tấu cử một con trai làm Kinh quan, Thiếu khanh, Giám được tấu cử một con trai làm Thí hàm.

Các chức Chính lang, Viên ngoại lang kiêm chức, cùng các chức vụ từ Đề điểm hình ngục trở lên ở các lộ, mỗi khi gặp lễ Nam Giao, được tấu cử một con trai làm Trai lang. Các quan chức Đại lưỡng tỉnh, sau khi đã tấu cử con trai làm Kinh quan, được ưu đãi hơn các quan thường[11], lại còn mỗi năm tấu cử, tích tụ thành quan chức dư thừa.

Giả sử có người làm quan từ Học sĩ trở lên trong 20 năm, thì một nhà anh em con cháu có đến 20 người làm Kinh quan, lại tiếp tục thăng chức triều đình, đây là sự tiến cử quá mức. Hiện nay dân chúng nghèo khó, quan chức dư thừa quá nhiều, việc bổ nhiệm nhẹ nhàng, chính sự không được thực hiện, bổng lộc quá rộng, việc bóc lột không kịp. Thẩm quan viện thường lo lắng vì quá đông, không có chỗ trống để bổ nhiệm.

Thần xin đặc biệt ban chiếu chỉ, từ nay về sau[12], các quan chức Lưỡng phủ và Lưỡng tỉnh, khi gặp đại lễ được phép tấu cử một con trai làm Kinh quan, nếu tấu cử em cháu ruột thịt thì chỉ được làm Thí hàm, mỗi năm vào Thánh tiết không được phép xin thêm. Nếu có công lao đặc biệt[13] nổi tiếng trong ngoài, được ban cho một con trai làm quan không theo thời hạn, thì đó là do ân điển của Thánh thượng.

Các chức Chuyển vận sứ và quan văn ở biên giới, sau khi nhậm chức, được phép tấu cử con em làm chức vụ[14], phải đợi đến khi nhậm chức được hai năm không có sai sót, mới được phép xin. Nếu trong hai năm bị thuyên chuyển bất thường, thì được tính gộp ba năm để xin.

Các chức Tam ty phó sứ, Tri tạp Ngự sử, Thiếu khanh giám trở lên đều giống như Lưỡng tỉnh, khi gặp đại lễ được tấu cử con cháu.

Các chức Chính lang, Viên ngoại lang kiêm quán chức, cùng các chức Suy phán quan ở tỉnh phủ, các chức Đề điểm hình ngục trở lên ở ngoại nhiệm, khi gặp đại lễ được tấu cử con cháu, phải tại chức đủ hai năm mới được xin. Những điều trên nếu có gì chưa nói hết, giao cho hữu ty so sánh loại mà tấu lên. Như vậy, thì các quan trong ngoài triều đình đều cố gắng giữ chức lâu dài, không làm chính sự cẩu thả, đồng thời ngăn chặn tâm lý nóng vội. Cũng tránh được việc con em đông đúc ở Thuyên tào, tranh giành đường tiến với người cô hàn, coi thường quận huyện, khiến dân chúng chịu thiệt.

Các võ thần được cử đến biên giới nhận nhiệm vụ, và những người hợp lệ trong các đại lễ được tiến cử con em, xin hạ lệnh cho Xu mật viện xem xét, so sánh và tâu lên. Lại nữa, quốc gia mở Văn quán, chiêu mộ anh tài trong thiên hạ, cho họ vào làm việc ở Bí đình, đọc sách vở, để chuẩn bị cho việc tham vấn, bồi dưỡng tài năng, làm nền tảng cho việc trọng dụng sau này.

Nhưng nay, những người đỗ tiến sĩ cao đẳng, vừa kết thúc một nhiệm kỳ, bất kể năng lực thế nào, đều được triệu tập thi cử và bổ nhiệm; con em, thân thích của các quan trong Lưỡng phủ, Lưỡng tỉnh, bất kể hiền tài hay không, đều tự xin vào làm việc ở các quán các, cũng được bổ nhiệm. Thái Tông hoàng đế xây dựng Sùng Văn viện, Bí các, tự tay viết văn bia, coi trọng hiền tài trong thiên hạ. Bệ hạ nên suy nghĩ về ý nguyện của tổ tiên, không nên xem nhẹ việc này.

Thần xin đặc biệt ban chiếu chỉ, từ nay về sau, những người đỗ tiến sĩ trong ba người đạt loại cao[15], sau khi kết thúc một nhiệm kỳ, được phép dâng lên mười bản văn về giáo hóa và kinh thuật, giao cho Lưỡng chế xem xét[16], phân thành năm loại, những người đạt loại nhất và nhì[17], sẽ được triệu tập thi cử, nếu thi đạt loại ưu, sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ ở quán các.

Con em của Lưỡng phủ, Lưỡng tỉnh không được phép xin vào làm việc hoặc đọc sách ở quán các. Ngự sử đài sẽ kịp thời đàn hặc, và Gián viện sẽ tâu lên. Nếu quán các thiếu người, sẽ giao cho hai địa phương tiến cử những người có văn chương cổ đạo, tài năng xứng đáng trọng dụng, cùng tiến cử, và Lưỡng chế sẽ ký tên vào biểu chương, rồi lên điện tiến cử, để bổ nhiệm vào chức vụ. Như vậy, các chức vụ ở quán các sẽ không bị trao một cách tùy tiện, đủ để phục hồi phong thái của triều đình, kế thừa ý nguyện của tổ tiên, và đáp ứng sự cẩn trọng trong tuyển chọn của bệ hạ. (Tháng 11, ngày Quý Mùi thi chức quán các, ngày Đinh Hợi giảm bớt việc bổ nhiệm con em.)

Thứ ba là tinh thông việc tiến cử. Thần xin xét theo chức vụ Hương đại phu trong 《Chu Lễ》, chức này đã bị bãi bỏ từ lâu. Nay các trường học ở các đạo nếu có được thầy giỏi, vẫn có thể dạy người ta sáu kinh, truyền đạo trị quốc và trị người. Nhưng quốc gia chỉ chuyên dùng văn từ và phú để chọn tiến sĩ, dùng nghĩa mực để chọn các khoa khác, khiến các sĩ tử đều bỏ đại đạo mà theo tiểu đạo. Dù đông đảo trong triều, nhưng tìm được người có tài có thức thì mười người không được một hai. Huống chi thiên hạ đang nguy khốn, thiếu người như vậy, nên phải dạy họ nghiệp kinh tế, chọn người có tài kinh tế, may ra có thể cứu được sự thiếu sót.

Có người cho rằng cách cứu tệ đã quá muộn, nhưng thần cho rằng bốn biển vẫn còn nguyên, nếu triều đình bàn bạc và thực hiện ngay, may ra có thể cứu được. Sao có thể ngồi yên không cứu, đợi đến lúc loạn lạc? Thần xin các châu quận có trường học, tâu cử những người thông kinh có đạo, chuyên dạy học, cốt để hưng thịnh. Việc chọn sĩ tử, nên theo đề nghị của Giả Xương Triều, tiến sĩ trước hết phải thi sách luận rồi mới đến thơ phú, các khoa khác ngoài nghĩa mực còn phải thông hiểu ý chỉ kinh điển. Khiến người ta không chỉ chuyên về từ chương, mà còn phải hiểu rõ đạo lý, thì việc giảng học trong thiên hạ tất sẽ hưng thịnh, kẻ phù phiếm sẽ biết tự khuyên răn, đây là điều quan trọng nhất.

Trong đó, Âu Dương Tu và Thái Tương lại xin loại bỏ dần từng trường thi, quý ở chỗ văn quyển ít mà việc khảo sát được tinh tế. Thần cho rằng nếu bắt loại bỏ hết từng trường thi, thì e rằng người cũ sẽ khó thích nghi, không thể học tập sách luận, cũng không thể ngay lập tức thông hiểu ý chỉ kinh điển, đều lo bị bỏ rơi, không còn đường tiến thân.

Thần xin những người cũ đã thi ba lần trở lên, trước hết thi sách luận rồi mới đến thơ phú, cho phép thông khảo ba trường văn quyển, lấy ưu điểm của nhau. Những người thi hai lần và lần đầu đều là thanh niên, đủ khả năng tiến học, xin loại bỏ dần từng trường thi. Trong các khoa, người nào thông hiểu ý chỉ kinh điển, đến trường thi cuối cùng, hỏi thêm mười câu về ý chỉ kinh điển, nếu không thể trả lời bằng lời, thì trước mặt quan chủ khảo, giảng giải đúng bảy câu là đạt. Người không thông hiểu ý chỉ kinh điển, đã thi ba lần trở lên, thì cứ theo nghĩa mực đã đối đáp từng trường, theo cách thông thô vẫn làm. Những người thi hai lần và lần đầu, đến ngày trường thi cuối cùng, phải đúng tám câu mới đạt.

Lại nói, các quận ngoài giải tiến sĩ, các khoa nhân, theo lệ hương cử lý tuyển, trước hết phải xét hạnh kiểm, sau đó mới lấy tài nghệ. Nay lại không xét hạnh kiểm, chỉ lấy văn từ, nghĩa lý mà chọn, lại thêm dùng niêm phong[18], không thấy tên họ, thực không phải là ý nghĩa ban đầu của hương lý cử tuyển.

Lại nữa, ở Nam tỉnh thi cử nhân, một trường thi thơ phú, một trường thi sách, mọi người đều dốc lòng, hết sức mình. Lại xét duyệt lâu ngày, thực ít sai sót. Đến ngày thi ở triều đình, thơ phú văn luận cùng làm một trường, đã bị ràng buộc bởi thanh bệnh, ý tứ không thông[19]. Hoặc trong âm vận có một chữ sai, dù cả đời khổ tâm[20], lập tức bị loại; nếu âm vận không sai, dù học vấn nông cạn, cũng dễ dàng đỗ đạt. Đã không xét hạnh kiểm ở nơi hương cử, lại thêm ràng buộc thanh bệnh ngày thi triều đình[21], khiến sĩ nhân tiến thoái, phần nhiều nói mệnh vận mà không nói hành nghiệp. Minh quân ở trên, vốn nên khiến người ta tiến thân bằng hành nghiệp, mà nói mệnh vận, là không phân biệt thiện ác mà quy về trời, há phải là việc tốt của quốc gia sao?

Thần xin định lại điều ước giải tiến ở các quận ngoài, phải là người hạnh kiểm không xấu, tài nghệ đạt mức, mới được tiến cử, không niêm phong quyển thi. Còn người thi ở Nam tỉnh, đã được hương lý xét hạnh kiểm, thì phải niêm phong quyển thi, xét kỹ tài nghệ. Định xong thứ bậc, đưa lên triều đình, chọn quan xét lại, định lại thứ bậc xong, rồi mới mở xem. Trong thứ bậc định ở Nam tỉnh, nếu tên họ trùng nhau mà thứ bậc hơi khác[22], không thay đổi. Nếu thứ bậc khác nhau, số người ắt ít, lại niêm phong, nên để hai nơi tham khảo[23], rồi triều đình mới yết bảng, như thế là rất hợp lý. Trong ba người trở lên, thì chọn trong người thứ bậc cao[24], nhờ vào Thánh ý.

Việc xét tiến sĩ, lấy sách luận cao, thơ phú thứ làm ưu đẳng, sách luận bình, thơ phú ưu làm thứ đẳng; các khoa thông kinh chỉ làm ưu đẳng, thông nghĩa lý làm thứ đẳng. Trên đây tiến sĩ, các khoa, đều lấy ưu đẳng đỗ mà bổ nhiệm, thứ đẳng đỗ thì giữ hạn tuyển của khoa mình. Từ đời Đường đến nay, người đỗ đều giữ hạn tuyển. Quốc gia vì thu phục các nước, quận ấp thiếu quan, người mới đỗ, tạm cho bổ nhiệm. Nay người chờ bổ nhiệm đông, nên cải cách, lại đủ khuyến học, khiến biết đạo trị thân của thánh nhân, thì quốc gia được người, trăm họ được nhờ. (Tháng ba năm sau ngày Ất Hợi, thi hành chế độ cống cử mới.)

Thứ tư là chọn quan trưởng. Thần nghe rằng chức Thứ sử, Huyện lệnh ngày nay tức là chư hầu thời xưa, một phương vui buồn, dân chúng sướng khổ đều thực sự liên quan đến người đó, nên các triều đại thịnh trị đều coi trọng chức vụ này. Nay lại không hỏi hiền ngu, không xét năng lực, chỉ dựa vào thâm niên mà thăng lên địa vị cao. Kẻ nhu nhược không thể kiểm soát lại thuộc, để họ làm hại dân; kẻ cường cán chỉ lo mưu cầu danh lợi, thường gây hại cho vật chất. Nền tảng quốc gia từ đó suy tàn.

Triều đình dù hết sức lo lắng, thiên hạ làm sao được yên ổn! Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục đi thanh tra các thành, nên chọn người hiền tài hơn người. Thần xin đặc biệt ban chiếu chỉ, giao cho Trung thư, Xu mật viện mỗi nơi chọn mười Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục; mười Tri châu ở các đại phiên; giao cho hai chế cùng tiến cử mười Tri châu; Phó sứ và Phán quan của Tam ty cùng tiến cử năm Tri châu; Trung thừa, Tri tạp và ba viện của Ngự sử đài cùng tiến cử năm Tri châu; Tri phủ và Suy quan của Khai Phong cùng tiến cử năm Tri châu; Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục của các lộ cùng tiến cử năm Tri châu, mười Tri huyện, Huyện lệnh; Tri châu và Thông phán của các châu cùng tiến cử hai Tri huyện, Huyện lệnh. Những người được tiến cử như trên, ai được nhiều người tiến cử thì ưu tiên bổ nhiệm.

Lại chỉ thị cho Thẩm quan viện và Lưu nội tuyển từ nay về sau, khi bổ nhiệm Tri châu, Tri huyện, Huyện lệnh đều phải trình bày rõ công trạng và lỗi lầm trong quá khứ, số lượng người tiến cử, tâu lên để Trung thư xem xét. Nếu thấy hợp lý thì mới cho vào yết kiến. Làm như vậy thì quan lại các đạo mới có thể được người tài, vì bệ hạ thương yêu dân chúng, điều hòa lao dịch, giảm nhẹ thuế má, khiến mọi người được yên ổn, không gây họa loạn. (Tháng 10, ngày Bính Ngọ thi hành.)

Thứ năm là việc quân bình ruộng công. Thần nghe sách 《Dịch》 nói: ‘Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền để giúp đỡ muôn dân’. Điều này nói rằng khi thánh nhân nuôi dưỡng dân chúng, trước hết phải nuôi dưỡng người hiền, mà phương pháp nuôi dưỡng người hiền, trước hết phải có bổng lộc hậu hĩnh. Có bổng lộc hậu hĩnh thì mới có thể yêu cầu họ liêm khiết, an tâm với chức vụ. Khi triều đình mới thành lập, sau thời kỳ loạn lạc của Ngũ đại, dân chúng khốn khó, vật giá rất rẻ. Đến khi các nước được thu phục, quan lại ở các quận huyện thiếu người bổ nhiệm, có người giữ chức đến năm bảy năm không thay thế, hoặc vừa mới bãi chức đã được bổ nhiệm ngay. Khi vật giá rẻ, bổng lộc không ngừng, các sĩ đại phu đều tự túc.

Từ niên hiệu Hàm Bình về sau, dân số tăng dần, vật giá trở nên đắt đỏ, đường vào quan trường nhiều, người được bổ nhiệm chức vụ cũng nhiều, có người phải chờ đợi một hai năm mới được bổ nhiệm, rồi lại phải chờ một hai năm nữa mới nhận được chức vụ. Khi vật giá trong thiên hạ đã đắt đỏ mà bổng lộc không đủ, các sĩ đại phu phần lớn đều rơi vào cảnh nghèo khó, con trai không thể lấy vợ, con gái không thể gả chồng, người chết không thể chôn cất, tình cảnh này rất phổ biến.

Trong thời gian chờ đợi bổ nhiệm, họ không đủ cơm ăn áo mặc, phải vay mượn để sống qua ngày, đến khi nhậm chức, chắc chắn sẽ bị đòi nợ[25]. Có người dám phạm pháp nhận hối lộ, vay mượn để sống, hoặc không ngại buôn bán, tranh giành lợi ích với dân.

Khi đã trở thành kẻ phạm tội, không giữ được danh tiết, quan lại tham nhũng mà không dám tố cáo, dân chúng cường hào mà không dám trừng trị. Quan lại tham nhũng và cường hào có thể ức hiếp dân chúng, khiến người nghèo yếu không được công bằng, oan ức không được giải quyết, lao dịch không đều, hình phạt không công minh, nhà nhà đều chịu thiệt hại mà không thể làm gì được, nguyên nhân là do chế độ bổng lộc chưa được hoàn thiện.

Chân Tông hoàng đế suy nghĩ sâu xa[26], khôi phục lại chế độ ruộng chức điền của các triều đại trước, khiến những người tầm thường cũng có thể giữ được tiết tháo, cưới gả đúng thời, tang ma đúng lễ, đều là nhờ ơn nước. Người có thể giữ được tiết tháo mới có thể trừng trị quan lại tham nhũng, đàn áp cường hào, pháp luật sẽ không thiên vị, dân chúng sẽ không bị oan ức.

Gần đây, nhiều quan lại xin bãi bỏ ruộng chức điền, vì cho rằng nó gây ra sự bất công và xâm hại dân chúng. Thần cho rằng ruộng chức điền vốn dùng để nuôi dưỡng người hiền, nhưng cũng có trường hợp xâm hại dân chúng, so với việc không đủ cơm ăn áo mặc, làm hỏng danh tiết, không thể tuân thủ pháp luật, lấy đúng làm sai, lấy sai làm đúng, khiến dân chúng oán hận muốn nổi loạn, thiên hạ chịu thiệt hại, thì tác hại của ruộng chức điền có đáng kể gì? Hơn nữa, từ xưa đến nay, thường lo ngại rằng trăm quan coi trọng chức vụ trong triều mà coi nhẹ chức vụ ngoại trấn. Thời Đường, bổng lộc của quan ngoại trấn rất hậu hĩnh, ngay cả bổng lộc của chức Bạ uý cũng lên đến hai mươi quan.

Hiện nay, do tài chính khó khăn, chưa thể tăng thêm. Thần xin hai nơi cùng bàn bạc về ruộng chức điền của quan ngoại trấn, nếu có chỗ không đều thì điều chỉnh, chỗ chưa cấp thì cấp thêm, để họ có đủ cơm ăn áo mặc, không bỏ bê việc cưới gả tang ma, sau đó mới có thể yêu cầu họ liêm khiết, đốc thúc họ làm việc tốt. Nếu có kẻ phạm pháp, có thể bãi chức hoặc xử tử, đồng thời khiến những người tài giỏi vui vẻ nhận chức ở quận huyện, thì dân chúng sẽ được hưởng lợi.

Hơn nữa, trong tương lai khi thăng chức, phần lớn sẽ chọn những người từng làm việc ở quận huyện, hiểu rõ nỗi khổ của dân chúng, đó cũng là cơ sở để giáo hóa. (Tháng 11, ngày Nhâm Tuất, thi hành.)

Thứ sáu là coi trọng nông tang. Thần nghe rằng: ‘Đức là ở chính sách tốt, chính sách tốt là ở nuôi dưỡng dân chúng’, ý nói đức của thánh nhân chỉ ở chính sách tốt, yếu lĩnh của chính sách tốt là ở nuôi dưỡng dân chúng, chính sách nuôi dưỡng dân chúng tất phải coi trọng nông nghiệp trước.

Chính sách nông nghiệp đã được tu sửa, thì cơm áo đủ đầy, cơm áo đủ đầy thì yêu quý thân thể, yêu quý thân thể thì sợ hình phạt, sợ hình phạt thì giặc cướp tự nhiên tiêu tan, họa loạn không nổi lên. Đó là đức của thánh nhân phát xuất từ chính sách tốt[27], sự giáo hóa của thiên hạ bắt đầu từ ruộng đồng. Cho nên trong 《Thi Kinh》 có thiên ‘Thất Nguyệt’, nói về sự nghiệp của Vua.

Nay quốc gia không coi trọng nông tang, lúa gạo và vải lụa thường đắt đỏ[28], các lộ Giang Chiết, mỗi năm mua hai triệu thạch gạo, giá mua và chi phí vận chuyển[29], mỗi năm tổng cộng dùng hơn ba trăm vạn quan tiền. L

ại thêm dân nghèo yếu bị khốn đốn vì thuế má, mỗi năm chặt cây dâu và cây táo, bán làm củi, phương pháp khuyến khích và thu thuế, có danh mà không có thực. Cho nên lúa gạo và vải lụa thường đắt đỏ, kho tàng ngày càng trống rỗng, việc này mà không lo liệu, thì lấy gì để cứu giúp?

Ví như thời kỳ Ngũ đại, các thế lực tranh giành bá quyền, khi nước mình gặp nạn đói, liền xin mua lúa từ nước láng giềng, do đó các nước đều chú trọng phát triển nông nghiệp, tự đạt được sự sung túc. Ở Giang Nam trước đây có ruộng đê bao, mỗi ruộng đê bao rộng hàng chục dặm, như một thành lớn, bên trong có sông ngòi, bên ngoài có cửa cống, khi hạn hán thì mở cống dẫn nước sông vào, khi lũ lụt thì đóng cống ngăn nước sông tràn vào, hạn hán và lũ lụt đều không ảnh hưởng, đem lại lợi ích lớn cho nông nghiệp.

Lại nữa, vùng Chiết Tây đất thấp, thường bị nước lụt làm khổ, tuy có kênh rạch thông ra biển, nhưng chỉ khi thường xuyên nạo vét thì bùn đất mới không bồi lấp. Tuy có đê đập để phòng chống lũ lụt, nhưng chỉ khi thường xuyên tu sửa thì mới không bị hư hỏng[30].

Khi thần làm quan ở Tô Châu, kiểm tra sổ sách, thấy ruộng đất của một châu phải nộp thuế là ba mươi bốn nghìn khoảnh. Với mức thu hoạch trung bình, mỗi mẫu thu được từ hai đến ba thạc gạo, tổng cộng thu được hơn bảy triệu thạc gạo. Số gạo mà Đông Nam nộp lên triều đình mỗi năm là sáu triệu thạc, chỉ riêng một châu đã cung cấp được.

Thần hỏi thăm các bậc cao niên, họ nói rằng trước đây khi Lưỡng Chiết chưa thuộc về triều đình, Tô Châu có bốn đội quân đồn điền, tổng cộng bảy tám nghìn người, chuyên lo việc ruộng đất, đào sông đắp đê để giảm thiểu nạn lụt, lúc ấy dân gian chỉ cần năm mươi đồng tiền là mua được một thạc gạo trắng. Từ khi triều đình thống nhất, nếu Giang Nam mất mùa thì lấy gạo từ Chiết Hữu, Chiết Hữu mất mùa thì lấy từ Hoài Nam, do đó việc chính sách nông nghiệp bị lơ là, không còn được chú trọng. Ruộng đê bao ở Giang Nam, kênh đê ở Chiết Tây, phần lớn đã bị đổ nát, làm mất đi lợi ích lớn của vùng Đông Nam.

Hiện nay, gạo ở Giang, Chiết, mỗi thạc không dưới sáu bảy trăm đồng tiền đủ[31] đến một quan tiền, so với thời đó, giá đắt gấp mười lần, dân không thể không khốn khổ, nước không thể không suy yếu.

Lại nữa, ở Kinh Đông, Kinh Tây có những vùng đất thấp trũng, tích nước, trước đây triều đình đặc biệt ra lệnh khơi thông, nạn lụt đã giảm nhiều. Nay đã ngừng việc này mấy năm, dần dần bị bồi lấp, lại sắp gây ra tai họa.

Thần xin mỗi năm vào mùa thu, ban sắc chỉ xuống các lộ Chuyển vận ty, lệnh cho các châu, quân, lại, dân trong hạt mình đều nói về những lợi ích có thể phát triển nông tang, những tai họa cần loại bỏ, hoặc nên đào sông ngòi, hoặc đắp đê đập, hồ chứa nước, đều giao cho châu, quân đó chọn quan lại tính toán định ra vật liệu và nhân công[32], mỗi năm vào tháng hai bắt đầu thi công, nửa tháng thì xong, rồi báo cáo thành tích lên triều đình. Nếu làm như vậy không ngừng, trong vài năm, nông nghiệp sẽ phát triển mạnh, dân ít bị đói kém, triều đình không phải mua gạo đắt, thì chi phí vận chuyển gạo từ Đông Nam mỗi năm sẽ giảm được rất nhiều.

Còn về phương pháp khuyến khích nông nghiệp, nên chọn quan lại thảo luận về chế độ cổ, lấy những biện pháp đơn giản dễ thực hiện[33], ban cho các lộ Chuyển vận sứ, và ban riêng một bản cho các chức Tri châu, Tri huyện, Huyện lệnh mới nhậm chức. Đó là chính sách nuôi dân, gốc rễ làm giàu đất nước vậy.

Thứ bảy là tu sửa võ bị. Thần nghe rằng ngày xưa thiên tử có sáu quân để giữ yên đất nước. Đầu thời Đường, kinh sư đặt mười sáu quân quan thuộc, cũng là ý nghĩa của sáu quân. Các đạo thì mở các phủ Chiết xung, Quả nghị, tổng cộng năm trăm bảy mươi tư, để dự trữ binh lính. Mỗi năm ba mùa làm ruộng, một mùa tập võ.

Từ niên hiệu Trinh Quan đến niên hiệu Khai Nguyên, một trăm ba mươi năm, binh lính và tướng sĩ không một ai làm phản. Đến cuối niên hiệu Khai Nguyên, nghe lời kẻ xấu, bèn bãi bỏ phủ binh. Nhà Đường suy yếu, binh lính đều là hạng người phố chợ, không có giáo dục lễ nghĩa, không có lòng trung tín, kiêu căng hung hãn, đến nỗi mất nước.

Từ khi tổ tông ta lên ngôi, bãi bỏ quyền các chư hầu, tập trung binh lính ở kinh sư, áo quần lương thực và ban thưởng thường được đầy đủ, đã tám mươi năm rồi. Tuy đã làm khổ dân chúng, làm cạn kiệt kho tàng, nhưng khó thay đổi, là vì coi trọng kinh sư. Nay phương Tây Bắc còn mạnh mẽ, biên phòng chưa dỡ bỏ[34], binh lính bảo vệ kinh sư phần nhiều đi đóng xa, nếu có việc gấp, kinh đô không có phòng bị, điều này rất đáng lo. Binh lính đóng xa để phòng ngừa họa biên thùy[35], nếu có việc gấp rút điều về, thì phòng ngự bên ngoài không nghiêm, quân địch tiến đánh, có thể thẳng tiến vào vùng quan phụ. Binh lính mới chiêu mộ là hạng người phố chợ, dễ bị kích động, nếu tài lực không đủ, cấp phát không đầy đủ, ắt sẽ tan thành bọn cướp.

Nay dân chúng đã khốn khổ, không thể bắt nộp thêm, nếu gặp năm mất mùa liên tiếp, lấy gì để cứu giúp, kế sách nuôi quân, há không nên tính toán trước? Nếu cứ trì hoãn qua thời gian, thần e rằng lúc nguy cấp, tông miếu xã tắc sẽ đáng lo.

Thần xin bí mật giao cho hai nơi xem xét số quân mã hiện có ở kinh kỳ, cùng bàn xem có thiếu sót gì không, nếu sáu quân chưa chỉnh đốn, cần bàn việc đặt thêm binh, thì xin theo phép nhà Đường, trước hết ở trong kinh kỳ và các châu phụ cận, chiêu mộ người khỏe mạnh sung làm vệ sĩ kinh kỳ, được năm vạn người để giúp chính binh, đủ làm mạnh mẽ. Khiến họ ba mùa làm ruộng, tiết kiệm được nhiều chi phí cấp dưỡng, một mùa tập võ, tự có thể phòng ngự họa ngoài.

Phép chiêu mộ và thứ bậc tướng hiệu, đều trước hết bí mật định đoạt rồi tâu lên. Đây thực là điều cốt yếu để mạnh binh và tiết kiệm tài lực. Đợi khi việc chiêu mộ vệ binh ở kinh kỳ và phụ cận đã có thứ tự, sau đó các đạo noi theo, dần dần thi hành, xin bệ hạ lưu tâm.

Tám là giảm bớt lao dịch. Thần xem 《Tây Kinh đồ kinh》, vào niên hiệu Hội Xương đời Đường, phủ Hà Nam có 194.700 hộ, đặt 20 huyện. Nay phủ Hà Nam có 75.900 hộ chủ và khách, vẫn đặt 19 huyện. Hộ chủ là 50.700, hộ khách là 25.200. Huyện Củng có 700 hộ, huyện Yển Sư có 1.100 hộ, mỗi huyện chia làm ba bậc mà số người có thể chịu được lao dịch không quá một trăm nhà[36], nhưng số người cần phải đi phục dịch không dưới hai trăm người. Cũ mới thay phiên nhau, nếu không phải là người goá vợ, goá chồng, cô độc thì không thể không đi phục dịch. Dân ở Tây Lạc là những người cùng khổ nhất.

Thần xin theo lệ cũ năm Kiến Vũ thứ 6 đời Hậu Hán, sai sứ trước đến Tây Kinh, hợp nhất và giảm bớt các ấp thành 10 huyện, những ấp bị bãi bỏ đều đổi thành trấn. Lệnh cho lộ này cử một viên chức văn, đảm nhiệm việc thu thuế rượu và thuế quan kiêm cả việc công về dân số, những người làm việc công bị bãi bỏ, ngoài việc trở về làm ruộng, ai muốn ở lại làm việc nơi công môn thì đưa đến các ấp còn tồn tại, số người phục dịch ở các ấp đó có thể giảm bớt để trở về làm ruộng, như vậy cả hai đều không mất chỗ. Đợi khi việc hợp nhất và giảm bớt ở Tây Kinh đã có chút trật tự, thì thi hành ở phủ Đại Danh, sau đó sai sứ đến các đạo, theo cách này mà thi hành. Vẫn trước hết chỉ huy các đạo từ châu Phòng Đoàn trở xuống[37], nơi nào có hai viện sứ châu thì hợp thành một viện, những người làm việc công muốn bỏ đi thì đều cho về làm ruộng. Sảnh chức quan có thể cấp từ bảy đến mười binh sĩ bản thành, thay sức người về làm ruộng. Những kỳ bảo ở thôn quê gần nhau cũng lệnh hợp nhất. Nếu hợp nhất được một kỳ bảo quản, cũng giảm được hơn mười hộ phải đi phục dịch, chỉ cần giảm bớt lao dịch, người dân tự cày cấy, có thể mong được giàu có. Tháng 5 năm sau, ngày Kỷ Sửu thi hành.

Điều thứ chín là mở rộng ân tín. Thần trộm thấy quốc gia ba năm một lần tế giao, thiên tử trai giới, mặc áo cổn đội mũ miện, vào yết kiến tông miếu, rồi tế thượng đế. Đại lễ xong, trở về ngự ở cửa Đoan, ban bố ân xá cho thiên hạ, nói rằng: ‘Chiếu xá thư mỗi ngày đi năm trăm dặm, ai dám đem việc trước khi xá mà nói, sẽ lấy tội ấy mà trị tội.’ Muốn cho ân trạch của Vua đến với dân chúng nhanh chóng như vậy.

Nay mỗi khi đại xá ban xuống, thiên hạ đều vui mừng. Nhưng chỉ một hai tháng sau, các ty tiền lương lại đốc thúc thu nộp như cũ, xiềng xích cả người già trẻ nhỏ, tịch thu gia sản. Còn những việc như giảm nhẹ thuế má, bớt sưu dịch, cứu giúp kẻ cô quả[38], đề bạt người bị chìm đắm, thì chưa từng thi hành, khiến cho ý tốt của thiên tử đối với dân chúng đều thành lời nói suông, làm phụ lòng thánh, tổn thương hòa khí.

Thần xin đặc biệt ban chiếu thư, từ nay về sau, trong chiếu xá thư[39] có tuyên bố ân trạch cần thi hành, mà Tam ty, Chuyển vận ty, châu huyện không nghiêm túc tuân theo, thì đều theo luật vi chế, xử tội đồ hai năm[40], trường hợp nặng thì phải xử thích phối. Những khoản nợ của thiên hạ từ năm Thiên Hi trở về trước, không kể có xâm phạm, lừa dối hay trộm cắp, đều được xóa bỏ. Kẻ nào vi phạm, xin Ngự sử đài, Đề điểm hình ngục ty thường xuyên kiểm tra, tố cáo, không để bị ngăn trở.

Thần lại nghe 《Kinh Dịch》 nói: ‘Tiên vương dùng việc xem xét phương hướng để quan sát dân chúng mà thiết lập giáo hóa’, nên có lễ tuần thú, xem xét việc thiện ác của chư hầu, quan sát phong tục dày mỏng, đó là ý của thánh nhân thuận theo sự vận động. Nay lễ tuần thú không thể thực hiện được nữa, dân tình ẩn kín vô cùng, tai trời nghe xa.

Thần xin ban chiếu cho Trung thư, từ nay về sau, mỗi khi gặp lễ Nam Giao xá tội xong, hãy tinh tuyển bề tôi đi các lộ an phủ, xem xét năng lực của quan lại, tìm hiểu nỗi khổ của bách tính, khiến những việc trong chiếu xá thư liên quan đến dân chúng đều được thi hành. Bách tính trong thiên hạ, không ai là không may mắn!

Thứ mười là coi trọng mệnh lệnh. Thần nghe sách viết: ‘Cẩn thận khi ban bố mệnh lệnh, mệnh lệnh ban ra thì phải thi hành.’ Theo luật văn, những người nhận được chiếu thư mà thi hành sai thì bị phạt tù hai năm; nếu sai sót thì bị đánh một trăm trượng. Lại nữa, các quan giám sát và chủ ty[41] nhận hối lộ mà làm trái pháp luật, nếu số tiền từ mười lăm trở lên thì bị xử tử. Đó là vì các vị Vua trước coi trọng pháp lệnh, khiến không ai dám xâm phạm, nhằm thực thi chính sự trong thiên hạ.

Nay thấy quốc gia mỗi khi ban bố các điều lệnh, thường rườm rà mà không đáng tin, nhẹ dạ mà không tuân thủ[42]. Trên mất uy tín, dưới chịu tai họa. Đó là do triều đình nghe theo lời đề nghị của trăm quan, vội vàng ban hành, vừa không hiểu rõ thường lệ, lại lập tức thay đổi, đây chính là bằng chứng của sự rườm rà mà không đáng tin. Lại nữa, các điều lệnh ban hành khắp nơi, dù là cố ý vi phạm, đều bị xử như sai sót, hoàn toàn trái với ý luật, khiến đại pháp bị hủy hoại, đây chính là sự nhẹ dạ mà không tuân thủ đến cực điểm.

Thần xin đặc biệt ban chiếu thư[43], từ nay về sau, các điều lệnh do trăm quan đề nghị, phải giao cho Trung thư, Xu mật viện xem xét kỹ lưỡng, hội nghị bàn bạc, chỉ khi nào thực sự có thể tồn tại lâu dài, mới được thi hành.

Nếu việc liên quan đến hình pháp[44], lại phải giao cho Thẩm hình viện, Đại Lý tự, cùng các quan viên am hiểu luật pháp tham gia xem xét lời đề nghị, bỏ bớt những phần rườm rà, soạn thành chế sắc, rồi mới ban hành khắp thiên hạ, nhất định phải tuân thủ. Các điều lệnh bị thay đổi đều phải thu hồi, tránh gây nhầm lẫn, thi hành sai.

Lại mong ban thêm sắc lệnh, từ nay về sau, các quan lại tại chức, nếu nhận được chiếu thư hoặc sau khi nhậm chức mà nhận được điều lệnh, dám cố ý vi phạm, không kể là điều lệnh ban hành khắp nơi, đều bị xử theo tội vi phạm chế độ, phạt tù hai năm. Trước khi nhậm chức, nếu điều lệnh đã ban mà không kiểm tra sử dụng, không phải do cố ý vi phạm, thì đều xử theo điều lệnh về sai sót[45], đánh một trăm trượng. Những người khác vi phạm điều lệnh ban hành khắp nơi, nếu không chỉ rõ hình phạt vi phạm chế độ, thì đều xử theo tội sai sót.

Nếu điều lệnh có sai sót, gây hại cho việc, các quan địa phương thấy có cơ hội, cần phải tùy nghi thi hành[46], đều phải trình bày rõ lý do, tâu lên triều đình, giao cho Trung thư, Xu mật viện xem xét kỹ lưỡng. Nếu hợp lý, thì được miễn tội. Lại phải cân nhắc[47], thay đổi cho phù hợp.”

(Trọng Yêm trong chính truyện lược bớt mười việc, lại đổi việc ban ân tín thành thứ tám, coi trọng mệnh lệnh thành thứ chín, giảm bớt lao dịch thành thứ mười, nay đều căn cứ vào tấu nghị của Trọng Yêm để ghi chép đầy đủ.)

Thượng tin tưởng và nghe theo Trọng Yêm (Phạm Trọng Yêm) và những người khác, đều dùng thuyết của họ. Những điều đáng ghi thành lệnh, đều dùng chiếu thư vẽ thành một, lần lượt ban bố. Chỉ có việc phủ binh, các phụ thần đều cho là không thể nên dừng lại.

(Mười việc, căn cứ theo chính truyện của Trọng Yêm và tấu nghị của triều đình, phụ truyện và thực lục đều không có. Thực lục vào tháng 10 ngày Bính Ngọ chép Trọng Yêm, Bật (Hàn Kỳ) đáp thủ chiếu điều thượng bảy việc[48], thứ tư là chọn quan trưởng, tức phụ kiến ngày Bính Ngọ. Lại ngày Nhâm Tuất chép hạn kỳ khảo xét, tức là thứ nhất là minh xét thăng giáng. Tháng 11 ngày Quý Mùi chép pháp thí quán chức, ngày Đinh Hợi chép pháp nhiệm tử, hai việc đều là thứ hai, là ngăn chặn sự may mắn. Ngày Nhâm Tuất chép việc chia đều ruộng công, tức là nghị thứ năm.

Lại năm sau tháng 3 ngày Ất Hợi chép chế độ mới về khoa cử[49], thực là việc thứ ba trong mười việc, thứ tám là giảm nhẹ lao dịch. Xem ngày Kỷ Sửu tháng 5. Còn sáu, bảy, chín, mười đều chưa rõ.)

[6] Tư đồ Lữ Di Giản cố xin về hưu, ngày Mậu Thìn, được phong làm Thái úy trí sĩ, vào các ngày sóc vọng và đại triều hội, đều đứng vào hàng Trung thư môn hạ.

Gián quan Âu Dương Tu tâu rằng: “Lữ Di Giản làm tể tướng của bệ hạ, khiến bốn phương đều có chiến tranh, trăm họ khốn khổ, người hiền kẻ ngu đảo lộn, kỷ cương đổ nát, hơn hai mươi năm qua, làm rối loạn thiên hạ. Bậc bề tôi hưởng giàu sang, Di Giản hưởng rồi bỏ đi, để lại cho bệ hạ gánh chịu những loạn lạc lớn của thiên hạ. Tội ác của Di Giản đã đầy, sự việc rõ ràng, nhưng vẫn chưa bị diệt vong, là vì khi còn tại chức, ông ta chuyên quyền, áp chế trong ngoài, mọi người đều sợ hãi, không dám tố cáo.

Đến khi ông ta bệnh nặng, thần dân trong thiên hạ đều vui mừng vì kẻ gian tà khó trừ đã bị trời trừng phạt. Lại thấy từ khi Di Giản rời đi, bệ hạ trọng dụng người hiền, chăm lo chính sự, đức sáng ngày càng mới mẻ, nên người hiểu biết đều nói ‘chỉ cần kẻ gian đã bị trừ, không làm hại chính sự của bệ hạ, thì không cần nói thêm gì nữa’. Vì thế, tội ác của Di Giản không bị phơi bày, chính là nhờ bệ hạ luôn bảo vệ, chưa bị trừng phạt[50]. Đây là bệ hạ không phụ Di Giản, mà Di Giản phụ bệ hạ. Nay dù bệ hạ ban ân lớn, hậu đãi lễ nghi, nhưng thần nghĩ Di Giản chắc không dám nhận, ắt sẽ từ chối.

Thần xin nhân lúc ông ta từ chối, hãy dừng lại, tra cứu lệ cũ của tổ tông về việc quan tể tướng về hưu, ban cho một chức vụ phù hợp. Nhưng thần vẫn lo Di Giản không biết liêm sỉ, sẽ nhận ân điển quá mức của quốc gia. Vì con cháu Di Giản nhờ cha mà được ơn huệ đã quá nhiều. Nay biên cương nhiều việc, bề ngoài các quan lại vất vả, chưa được thăng chức bất thường, sao có thể tiếp tục ban ân cho gia đình gian tà tham lam, con cháu ngu muội! Con cháu ông ta, thần xin đừng bàn thêm ân điển.”

Tu lại tâu: “Thần trộm thấy quốc gia mỗi khi ban bố chiếu lệnh, thường lo ngại quan lại không thể tuân hành, không biết rằng mối lo nằm ở chính triều đình tự mình làm hỏng pháp luật. Triều đình không thể tự tin, thì ai còn dám tin và làm theo? Hơn nữa, phần nhiều do tiểu nhân may mắn mà không bị ngăn chặn, ân huệ ban ra tuy ít, nhưng tổn hại đến thể chế thì nhiều.

Thần nghe rằng vào tháng mười năm ngoái, có thần liêu dâng lời xin rằng từ nay về sau, tôi tớ của các đại thần không được tiến cử vào hàng ngũ quan chức. Sắc chỉ ban xuống chưa đầy ba bốn tháng, đã lại dùng hai người tôi tớ của Lữ Di Giản là Viên Tông làm Phụng chức. Di Giản là đại thần, đã nhiều lần làm rối loạn triều chính của bệ hạ, nếu có lợi cho riêng mình, dù làm hỏng việc thiên hạ cũng không màng, huống chi lại tiếc pháp luật của bệ hạ, chỉ là triều đình tự nên làm thế nào!

Nay một pháp lệnh vừa ban ra, mà đại thần đã phá hỏng trước, thì những tôi tớ của các thần liêu tiếp theo há lại không được ban ơn? Nếu không ban, thì là có hai cách thi hành pháp luật; nếu ban, thì sắc chỉ mới ban gần đây lại bị bãi bỏ. Các cơ quan giữ pháp luật cho bệ hạ, không nghĩ đến quốc gia, chỉ xuôi theo tình riêng. Hoặc có người nói rằng hai tên tôi tớ được ban chức trước khi sắc chỉ ban xuống, nhưng sao lại trao chức sau khi sắc chỉ ban xuống?

Phàm ban bố mệnh lệnh, vốn là để sửa đổi tệ nạn trước đây, các nhà pháp luật lấy sắc chỉ sau đè lên sắc chỉ trước, nay Viên Tông tuy đã được ban chỉ, nhưng chưa nhận mệnh, đã thuộc về chế độ mới, tự nhiên phải sửa đổi. Di Giản không thể ngăn chặn, mà để họ cầu may, triều đình lại không thi hành sắc chỉ gần đây, mà tự hủy điển chương pháp luật, thì từ nay về sau chiếu lệnh làm sao tuân hành? Viên Tông, xin đặc biệt thu hồi mệnh lệnh ban chức Phụng chức, ban cho một chức vụ nhàn tản như quân tướng, đủ để tỏ rõ ân điển, không thể vì sủng ái tôi tớ của bề tôi vô công mà làm rối loạn quốc pháp.”

(Viên Tông được ban chức, không rõ tháng nào, cần khảo cứu. Tháng mười năm ngoái ban sắc chỉ, không được dùng tôi tớ của đại thần làm quan chức. Ba bốn tháng sau, lại ban chức cho Viên Tông, cần khảo cứu xem sắc chỉ ban xuống lần đầu là tháng mười năm nào.)

Tu lại nói: “Nghe đồn Lữ Di Giản gần đây thường xuyên có mật tấu, lại nghe nói tự xin vào Ngự Dược Viện bí mật dâng văn bản, không biết thực sự có việc này không? Nhưng người ngoài truyền nhau, trên dưới đều nghi ngờ và lo sợ. Thần cho rằng Di Giản là đại thần, lâu năm ở ngôi tể tướng, vẫn không thể giúp bệ hạ ngoài dẹp loạn binh đao, trong yên ổn trăm họ, khiến hai kẻ thù kết giao, Trung Quốc lo nguy, binh lính và dân chúng mệt mỏi, trên dưới khốn khó, hiền tài và ngu muội đảo lộn, hình phạt và ban thưởng không đúng, mọi kỷ cương gần như đổ nát. Sức lực đã suy yếu, tinh thần mụ mị, sao có thể tiếp tục lo việc nước?

Xét Di Giản đang bệnh tật[51], nên đóng cửa tự giữ, không giao thiệp với người khác. Dù còn chút ý muốn báo quốc, mọi việc nên công khai nói ra, để triều đình thấy các đại thần đang nắm quốc chính, cùng bàn bạc được hay không, sao có thể bí mật dâng văn bản, làm mê hoặc thánh thính?

Huống chi Di Giản bị bệnh phong, tay chân không cử động được, mọi tấu sớ chắc khó tự viết; con cháu lại không ra gì[52], cần đề phòng giả mạo, hoặc sợ lộ ra ngoài, điều này càng bất tiện. Dù bệ hạ cực thánh cực minh, nếu Di Giản có mưu đồ gian tà[53], chắc chắn không nghe theo, nhưng người ngoài thấy Di Giản bí mật dâng văn bản, e rằng không phải là công luận, nếu sai lầm quốc kế, họa hại không nhỏ. Văn bản Di Giản dâng lên, xin bệ hạ minh xét ngăn chặn.

Thần nghe rằng dùng người hiền thì không nghi ngờ, bỏ kẻ gian thì không do dự, hiện nay các quan trong ngoài đều có chức trách, nếu có sai sót, tự có thể chịu trách nhiệm, không thể để kẻ bề tôi đã thất bại tiếp tục gây mê hoặc.”

Ban đầu, Vua sai Tể thần Chương Đắc Tượng giám tu quốc sử. Trước đó, Lữ Di Giản bị bãi chức Tể tướng, giữ chức Tư đồ, vẫn kiêm nhiệm giám tu quốc sử. Chương Đắc Tượng chỉ được bổ nhiệm làm Chiêu Văn Quán Đại học sĩ. Đến khi Lữ Di Giản về hưu, chức giám tu quốc sử mới được trao lại cho Chương Đắc Tượng.

[7] Vua ban cho Tri gián viện Vương Tố áo mặc tam phẩm, còn Dư Tĩnh, Âu Dương Tu, Thái Tương được ban áo mặc ngũ phẩm, và dụ rằng: “Các khanh đều do Trẫm tự chọn, nhiều lần dâng lời can gián không né tránh, nên có ban thưởng này.” Thái Tương nhiều lần xin bổ nhiệm ra ngoài để tiện phụng dưỡng cha mẹ. Xu mật phó sứ Phú Bật tâu: “Gián quan không nên đi xa, chỉ nên cho phép nghỉ phép để đón thân nhân.” Vua đồng ý cho Thái Tương về thăm nhà nhưng không cho từ chức.

(Việc cho Thái Tương về thăm nhà được ghi trong 《Bảo Huấn》, thực tế liên quan đến việc ban áo mặc.)

[8] Ngày Kỷ Tỵ, Vua sai Thiên Chương các Thị giảng, Sử quán Kiểm thảo Vương Chu và Tập Hiền hiệu lý, Đồng tri gián viện Âu Dương Tu cùng xem xét định thứ bậc công thần triều đình, theo chiếu thư đại xá năm đầu, sẽ ghi chép lại sau.

[9] Bọn giặc cướp Trương Hải đang hoành hành. Ngày Canh Ngọ, Vua sai Giám sát ngự sử Thái Bẩm làm Kinh Tây An phủ, đi đốc thúc bắt giặc. Chiếu cho các lộ Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục và các châu Trưởng lại tiến cử các quan Đô giám binh mã và Giám lâm trường vụ có tài dũng, có thể đảm nhiệm chức Tuần kiểm[54], tâu tên lên, nếu bắt giặc có công sẽ được thăng chức không theo thứ tự.

[10] Ngày Tân Mùi, Tây thượng các môn sứ, Vinh Châu Thứ sử, Quảng Nam Tây lộ Kiềm hạt kiêm Tri Nghi Châu Phùng Thân Kỷ được lĩnh chức Quả Châu Đoàn luyện sứ, lưu lại nhiệm kỳ tiếp theo.

[11] Ngày Nhâm Thân, chiếu cho Kinh Tây Chuyển vận Án sát sứ kiêm Bạch Ba Phát vận ty, từ nay mỗi năm luân phiên một người vào triều tâu việc.

[12] Ngày Giáp Tuất, Long Thần vệ Tứ sương Đô chỉ huy sứ, Vệ Châu Phòng ngự sứ Quách Thừa Hữu được bổ làm Tri Tương Châu. Quách Thừa Hữu vừa bị bãi chức Chân Định phủ, Định Châu Bộ thự, lại muốn xin làm Tri Chân Định phủ. Dư Tĩnh tâu rằng Thừa Hữu không có tài, nên Vua bổ nhiệm ông làm Tri Tương Châu. (《Thực lục》 ở đây vẫn ghi chức Chân Định phủ, Định Châu Bộ thự, nay bỏ đi.)

[13] Xu mật phó sứ, Cấp sự trung Nhậm Trung Sư xin bổ nhiệm làm quan ở quận. Ngày Ất Hợi, bãi chức, giáng làm Lễ bộ Thị lang, Tư chính điện Học sĩ, nhậm chức Tri Vĩnh Hưng quân.

[14] Ngày Bính Tý, Hàn lâm Học sĩ Ngô Dục được quyền giữ chức Tri Khai Phong phủ.

[15] Đoan Minh điện Học sĩ kiêm Hàn lâm Thị độc Học sĩ Lý Thục được bổ nhiệm làm Hàn lâm Học sĩ.

[16] Gián quan Âu Dương Tu tâu việc ở điện Diên Hòa, đối diện bàn luận về sự gian tà của Lý Thục, khi ở Khai Phong vẫn bị xa lánh, nay lại được bái làm học sĩ, càng thân cận, xin bãi chức. Lui về lại dâng lời:

“Việc gian tà âm hiểm của Thục, bệ hạ vốn đã biết. Nay các quan viên ngoài biên cùng ngồi với thân nhân, không dám nhắc đến tên họ Lý Thục, vì đức hạnh ô uế xấu xa không thể chịu nổi[55]. Cứ theo sự ghét bỏ của người ngoài như vậy, há hợp lại ở bên cạnh bệ hạ?

Thục vốn quen thân cận với Di Giản, nằm trong số ‘Tam Thi’, ‘Ngũ Quỷ’, vì Di Giản muốn làm chỗ dựa, nên mới dẫn dắt đến đây. Không biết triều đình ngày nay thanh minh như vậy, còn cần người này làm gì? Nếu muốn dựa vào tài văn chương, thì thần cho rằng tài đức là gốc của bề tôi, văn chương chỉ là trang sức bên ngoài, huống chi nay những kẻ có tài văn chương làm học sĩ, chỉ cần một hai người là đủ. Giả như hoàn toàn không có văn sĩ, chiếu sắc của triều đình, viết thẳng lời Vua để tỏ ra thiên hạ, càng đủ để đề cao vẻ đẹp cổ phác, không cần sự hoa mỹ điêu khắc.

Từ xưa những kẻ có văn mà không có đức, phần nhiều bị minh chủ bỏ rơi, như Từ Huyền, Hồ Đán, đều là người tiền triều nổi tiếng văn chương trong thiên hạ, hai người đều vì tội lỗi mà bị phế bỏ suốt đời, không được nhắc đến đương thời, triều đình cũng không đến nỗi thiếu người. Thục ở Khai Phong, phạm lỗi rất nhiều, nhưng chỉ là mối hại cho một phủ; nay ở triều đình, nếu có hành động gì, hơi buông thả chí hướng, thì sẽ hại đến trung lương, làm hỏng chính trị, thành mối hại cho thiên hạ.

Vì thế thần không thể không nói. Nay tuy bệ hạ chủ trương người chính trực, không tin lời gièm pha xảo trá, nhưng cái ác của Thục xuất phát từ bản tính, e rằng không thể sửa đổi, thần lo rằng vẫn sẽ gièm pha người tốt như cũ. Kính mong bệ hạ đừng nghe theo, sớm cho một chức vụ ngoài, khiến người chính trực yên tâm làm việc, không lo lời gièm pha.”

Sau đó có chỉ, lệnh Thục làm Tri châu Thọ Châu, nhưng rồi không thực hiện.

Tu lại tâu: “Thần nghe nói Trung thư phải đợi Lý Thục dâng sớ xin ra ngoài, mới dám bãi chức. Thần cho rằng hành vi gian tà của Lý Thục, Bệ hạ đã biết rõ, nếu Bệ hạ quyết đoán, thì khiến thiên hạ đều biết Bệ hạ sáng suốt, phân biệt trung tà, cách chức tiểu nhân, xuất phát từ quyết định của Bệ hạ. Như vậy, từ nay về sau, những kẻ gian tà hiểm ác sẽ biết sợ mà không dám làm hại.

Nay nếu theo ý Trung thư, phải đợi hắn tự xin từ chức, thì quyền thưởng phạt không do minh chủ quyết định, việc ở lại hay ra đi đều do bề tôi tự tiện. Như vậy, từ nay về sau, tiểu nhân dù gian tà hiểm ác, thiên tử muốn cách chức, nhưng Trung thư chưa chắc đã làm. Nếu hắn không tự xin từ chức, thì không ai dám bãi chức. Thần e rằng từ đây tiểu nhân sẽ được đắc chí, không chịu sửa đổi.

Tiến cử người hiền, cách chức kẻ bất tài là trách nhiệm của tể tướng. Nay đại thần đã tự tránh oán, không chịu vì Bệ hạ trừ bỏ gian tà, nhờ Bệ hạ sáng suốt, phân biệt rõ ràng tà chính, lại không thể ngay lập tức tuân theo thánh chỉ, trực tiếp bãi chức, lại phải uốn nắn tình cảm, khoan dung cho bọn tiểu nhân.

Mấy ngày nay, bên ngoài nghe tin Bệ hạ muốn cách chức Lý Thục ra Thọ châu, ai nấy đều vui mừng, ca ngợi đức sáng của Bệ hạ, vì Thục hai ba mươi năm qua, ra vào triều đình, gian hiểm xảo trá, hại người không ít, một sớm thấy quân chủ đuổi bọn hắn đi, ai cũng vui mừng. Nhưng Trung thư lại quanh co như vậy, tự lo tránh né, đáng tiếc cho quyết đoán sáng suốt của Bệ hạ không được thực hiện triệt để.

Thần mong Bệ hạ không cần đợi hắn xin ra ngoài, nhân lúc hai phủ tấu sự, đặc biệt ra thánh chỉ xử lý, trực tiếp cách chức ra ngoại quận, để thiên hạ đều biết kẻ gian tà xấu xa này là do Bệ hạ tự cách chức, để làm rõ đức sáng của Bệ hạ.”

[17] Chỉ huy sứ Lân châu, Điện thị Lý Tuyên được thăng làm Hữu ban Điện trực. Trước đây, Chỉ huy sứ Phi kị Ngô Hữu cùng 49 người bị giặc vây, Tuyên đã chiến đấu dũng cảm giải cứu họ. Kinh lược ty bản lộ cũng tâu rằng Tuyên nhiều lần giao chiến với giặc Tây, bị trúng tên. Đặc cách thăng chức.

[18] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu rằng các đại thần chấp chính không được phép tiếp khách tại tư đệ nếu không phải là ngày nghỉ, theo lời tâu của Tri giám viện Thái Tương. Có người bàn rằng vào thời Đường Nguyên Hòa dùng binh, Bùi Độ làm tể tướng, xin được tiếp kiến các hiền tài bốn phương tại tư đệ để mở rộng mưu lược; nay cấm tuyệt hết việc tiếp khách, không phải là điều mà chức gián quan nên nói.

[19] Cùng ngày, bọn cướp vào sáng sớm đột nhập Kim Châu, cướp phá kho vũ khí của phủ, phân phát tiền bạc cho đồng bọn và dân nghèo. Tri châu, Tỷ bộ viên ngoại lang Vương Mậu Tiên dẫn 24 binh lính chống cự, nhưng không địch nổi, bèn chạy ra ngoài thành. Bọn cướp tha hồ cướp bóc, đến chiều tối mới rời khỏi thành. Mậu Tiên tâu lên đầy đủ sự việc.

Xu mật phó sứ Phú Bật tâu: “Thần nghĩ rằng trước khi giặc phương Tây nổi loạn, các nơi tuy có trộm cướp, nhưng chưa từng có kẻ nào dám giết hại quan lại. Từ bốn, năm năm nay, giặc đột nhập vào thành châu cướp phá, khoảng ba, bốn mươi châu. Trước đây chúng vào thành thường hoạt động lén lút vào ban đêm, nay lại công khai hành động giữa ban ngày, tự ý mở kho phủ, thế lực ngày càng mạnh.

Từ nay về sau, chỉ lo càng thêm dữ dội, nếu không sớm đề phòng, việc gì cũng có thể xảy ra. Thần trước đây từng dâng sách lược phòng giặc, nhưng lúc đó không được thi hành. Gần đây nhân việc hai phủ tâu bàn về nạn trộm cướp ở Hoài Nam, bệ hạ hỏi thần về sách lược trước đây, thần đã chép lại dâng lên.

Tuy nhiên, sách lược trước đây chỉ tập trung vào việc bố trí binh lính phòng thủ chín lộ phía Đông Nam và một lộ Đông Kinh. Nay căn cứ theo lời tâu của Vương Mậu Tiên, binh lính trong thành Kim Châu chỉ có 24 người, rõ ràng là không có phòng bị, khiến bọn cướp nảy sinh ý đồ.

Xin hãy bố trí thêm binh lính tại các nơi trọng yếu ở lộ Kinh Tây để làm viện trợ cho các châu. Cần phải thi hành ngay, nếu lại chậm trễ, e rằng sẽ không kịp.”

Phú Bật lại tâu:

“Thần thấy từ khi dùng binh ở biên giới phía tây, thiên hạ bị xáo trộn, vật lực cùng kiệt, lòng người oán than. Triều đình không thể vỗ về an định, khiến họ trở thành giặc cướp. Nay Trương Hải, Quách Mạc Sơn cùng một số người khác quấy nhiễu châu huyện, giết hại quan lại và dân chúng, phô trương uy lực tàn bạo, giải tỏa khí phẫn nộ, khiến Tuần kiểm, Huyện úy không dám tiến lên.

Triều đình phải điều quân từ kinh sư, lại sai Trung sứ giám sát, nhưng bọn giặc vẫn kéo dài thời gian, cố thủ trong núi rừng, đến mức ban ngày công khai hoành hành, xông vào châu huyện, mở kho phủ, cướp bóc của cải, chiêu mộ bọn hung ác, tụ tập ngày càng đông. Các nơi như Thiểm Phủ, Tây Kinh, Đường Châu, Nhữ Châu, Quân Châu, Phòng Châu, Kim Châu, Thương Châu, Tương Châu, Đặng Châu, cách nhau hơn nghìn dặm, đều bị cướp phá nặng nề, giết người đốt phá, nơi nào cũng tan hoang. Giặc đi qua, ngay cả người thân cũng không thể bảo vệ nhau, dân chúng hoảng sợ, đường sá nguy hiểm, mỗi quận không có binh lính, không thể tự vệ. Nếu giặc tập hợp đông đảo, đánh chiếm các châu, lúc nguy cấp cũng chưa có kế sách gì để đối phó. Giặc đã trở nên mạnh mẽ, không thể không phòng bị.

Cuối thời Tần, cuối thời Tùy, cuối thời Đường, các đám giặc cướp hoặc khởi phát từ nông dân, hoặc từ thương nhân, hoặc từ binh lính, hoặc từ những người gánh vác. Xem lúc mới nổi dậy, chúng đều rất yếu, chưa mạnh như Trương Hải, Quách Mạc Sơn bây giờ. Nhưng từ nhỏ hợp thành lớn, dần trở thành giặc cướp lớn, tung hoành khó trị, rồi gây loạn thiên hạ. Nay bọn giặc này chưa bị tiêu diệt, nên đặt nhiều biện pháp phòng ngừa để ngăn chúng lan rộng. Thần trước đây từng dâng tấu, xin chọn mấy châu trọng yếu ở Kinh Tây lộ, đóng quân tập trung, làm viện binh cho các nơi. Đây là việc cấp bách nhất, nên nhanh chóng thi hành.

Thần lại nghĩ rằng các quan trưởng lại ở các châu thuộc Tây Kinh đều không phải là người thích hợp, như các châu Tương, Đặng, Đường, Nhữ, Quang, Tùy, Quân, Phòng, Kim, Thương, An, Dĩnh, hơn mười châu, đều là nơi giặc cướp hiện nay qua lại, quan trưởng lại càng cần phải chọn người giỏi.

Kính xin trước hết chọn hai người làm chuyển vận, sai họ đến đó xem xét, các quan trưởng lại ở các châu không có tài hoặc tham nhũng, già yếu, bệnh tật thì lập tức cách chức, trong số thông phán hoặc tri huyện thuộc quyền hạn của mình, bảo cử người tạm thời làm tri châu. Nếu không đủ, thì triều đình xuống chiếu cho Viện Thẩm quan chọn người bổ sung. Tri châu có người giỏi, thì liền sai họ chọn tri huyện, huyện lệnh trong bộ. Xưa vào thời Hán Tuyên Đế, giặc cướp nổi lên ở quận Bột Hải, Vua chọn người có tài trị giặc, thừa tướng tiến cử Cung Toại, Cung Toại đến quận, giặc cướp đều bị dẹp yên.

Thời Hán An Đế, giặc cướp ở huyện Triều Ca tụ tập, nhiều năm không bắt được, bèn lấy Ngu Hủ làm huyện trưởng Triều Ca, giặc liền tan rã[56]. Đó là chứng cớ ở thời hai nhà Hán, một quận một huyện có giặc, chỉ cần có Cung Toại, Ngu Hủ hai người làm thủ tể, tự nhiên giặc bị tiêu diệt. Nay lấy hơn mười châu như Tương, Đặng nói trên mà bàn, các tri châu, tri huyện, huyện lệnh đều là những người tầm thường, nhu nhược, nhút nhát, giặc cướp đến nơi, như vào chỗ không người. Tuần kiểm, huyện úy lại đều không đáng dùng, giặc không hoành hành tự do, thì còn làm gì nữa!

Thần trộm nghĩ rằng không phải giặc cướp thực sự mạnh mẽ, mà là triều đình chỉ biết giữ lấy phép tệ, không chịu đổi mới, chỉ sợ những kẻ bất tài bất đức oán hận, không sớm cách chức, nên mới để cho châu huyện bị giặc tàn phá. Thần cho rằng việc giặc cướp nổi lên đã là muộn rồi. Nếu theo cách xử lý của triều đình từ trước đến nay, sớm muộn gì giặc cũng sẽ tràn ngập thiên hạ. Chỉ nhờ tông miếu linh thiêng, nhờ đức nhân của bệ hạ cảm hóa, nên chưa đến mức đó. Nhưng nay giặc cướp đã nổi lên, đó là dấu hiệu chúng sẽ tràn ngập khắp thiên hạ.

Nếu triều đình vẫn tránh né sự oán hận của người khác, không sớm đổi mới, thần e rằng giặc cướp sẽ ngày càng nhiều, chiếm cứ châu huyện, hoặc xưng là tướng quân, hoặc xưng là thái uý, hoặc xưng là đế vương, binh đao nổi lên khắp nơi, chỗ nào cũng có kẻ tiếm ngụy. Đến lúc đó, sinh linh sẽ ra sao, xã tắc sẽ ra sao! Triều đình giữ được một thành này, liệu có được yên ổn không?

Huống chi hiện nay khác với thời Hán, Đường đóng đô ở Quan Trung, Lạc Dương, Quan Trung và Lạc Dương đều có chỗ hiểm yếu để dựa, khi có biến cố, dùng binh giữ chỗ hiểm, cũng chưa đến mức nguy ngập ngay. Ngày xưa, Minh Hoàng, Đức Tông đều từng phải chạy loạn, nhà Đường nhiều lần nguy như sợi dây treo cờ. Nay kinh thành không có chỗ hiểm yếu, bị tám mặt thù địch vây bọc, từ xưa đến nay vốn là một chiến trường. Nếu bốn phương đều có giặc lớn, triều đình không đủ sức đối phó, chúng dần dần tiến gần kinh thành, không biết sẽ tính sao, thần mỗi khi nghĩ đến điều này, không khỏi rùng mình.

Thần lại nghĩ rằng, từ xưa đến nay, thời loạn lạc không đời nào là không có, nhưng những triều đại sụp đổ nhanh chóng cũng đều kéo dài ít nhất ba mươi đến năm mươi năm. Chỉ có sau thời nhà Đường, trải qua năm đời mười hai Vua, tổng cộng chỉ được năm mươi bốn năm. Thời gian trị vì ngắn ngủi như vậy, từ xưa đến nay chưa từng có. Nguyên nhân là gì? Đó là vì kinh đô nằm ở vùng đất bốn mặt đều có thể bị tấn công, không có địa thế hiểm trở kiên cố, bốn phương có biến loạn, quân địch có thể thẳng tiến đến dưới thành mà không gặp trở ngại gì. Chỉ có bậc vương giả mới có thể trấn an thiên hạ, khiến cho mọi nơi yên ổn, tai họa không sinh, trộm cướp không nổi lên, như vậy thì kinh đô mới có thể bảo toàn.

Vì thế, sự hưng thịnh của nhà Đại Tống thực sự là nhờ tài năng anh dũng của Thái Tổ, dẹp yên họa loạn, tước bỏ hoàn toàn binh quyền của các phiên trấn, chỉ dùng quan văn cai trị đất đai, đồng thời điều động quân đội khắp nơi, thay đổi nơi đóng quân, không để họ ở một chỗ lâu dài, nhờ đó mà phá được âm mưu phản loạn. Lại nhờ Thái Tông kế tiếp, chinh phục các nước, thống nhất thiên hạ, và nhờ Chân Tông vì dân mà nhún nhường, giảng hòa với Khiết Đan và Tây Hạ, nên mới có được hơn tám mươi năm kinh đô yên ổn, trong nước giàu có, không cần dùng đến binh đao. Tuy là nhờ mưu lược của con người, nhưng cũng có phần may mắn của trời.

Hiện nay, Tây Nhung đã phản loạn, nhiều lần làm mất quân biên giới, Khiết Đan ngày càng mạnh, lại tăng thêm lễ vật hàng năm. Ngân khố quốc gia cạn kiệt, sức dân suy yếu, lao dịch ngày càng nhiều, thuế khóa ngày càng nặng. Quan lại tham nhũng, không nghĩ đến việc thanh lọc; dân chúng khổ cực, không được quan tâm xem xét. Dân chúng không biết kêu ai, triều đình không làm chỗ dựa cho họ, không để họ nổi loạn thành giặc cướp, thì còn làm gì được nữa?

Triều chính không được củng cố, kinh đô không có chỗ dựa, tình hình thời Ngũ Đại đã lại lộ ra, vận nước nguy nan, chính là lúc này. Cần phải có sự đồng lòng hiệp lực của Vua tôi trên dưới, thức khuya dậy sớm, gấp rút chấn chỉnh cứu vãn, thì trong vài năm, có thể đạt được sự yên ổn nhỏ. Nếu cứ dựa dẫm, cẩu thả, chỉ lo hưởng an nhàn, không rèn luyện mưu lược, chỉ mong trời may, thần e rằng họa Ngũ Đại sẽ không lâu nữa mà đến.

Thần nhân bàn về việc giặc cướp ở Kinh Tây, liền đề cập đến việc trị loạn, vì lo sợ bức bách nên không kìm được lời thẳng thắn, dù Bệ hạ ban cho muôn cái chết, thần cũng cam lòng. Thần xin được tuyển chọn và bổ nhiệm[57] chuyển vận sứ, tri châu, tri huyện ở Kinh Tây, không thể chậm trễ, vì trong thời loạn lạc, cần phải có chuyển vận sứ tài mưu để đi lại kiểm tra, kinh doanh, lại cần các tri châu, tri huyện ở các nơi bảo vệ thành trì, an định dân chúng, và đặt ra phương lược để đuổi trừ giặc cướp.

Những việc mà triều đình không kịp nghĩ đến hoặc chỉ huy không kịp, các quan lại tốt ắt sẽ tự biết xử lý kịp thời, không để xảy ra sự cố. Các châu, huyện đã có người phụ trách, lại có quân đồn trú ở các quận trọng yếu, hỗ trợ lẫn nhau, thì giặc cướp không khó bắt giữ. Còn các chức tuần kiểm, huyện úy, cũng có thể giao cho chuyển vận sứ và tri châu tuyển chọn, không cần triều đình tốn sức. Kế sách này rất đơn giản và hiệu quả, không có gì phải nghi ngờ. Kinh Tây đã thực hiện, tiếp theo là các lộ khác. Biến cố có thể xảy ra bất ngờ, việc chuẩn bị không thể chậm trễ.

Triều đình chỉ cần không ngại thay đổi, không sợ bị oán trách, thì việc gì trong thiên hạ cũng có thể làm được. Những chuyển vận sứ, tri châu, tri huyện, huyện úy ở các lộ bị loại bỏ vì bất tài, tham nhũng, già yếu, bệnh tật, xin cho họ ở lại chỗ cũ chờ chỉ dụ của triều đình, không cần phải về kinh. Lại xin xem xét lại tờ tấu trước của thần, cân nhắc thi hành.”

[20] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu cho các hộ dân và bộ lạc ở biên giới Thiểm Tây đặt phong hỏa để cảnh giác giặc cướp.

[21] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu cho các ty bộ thự ở các lộ, những binh sĩ đã được huấn luyện qua năm, chia làm ba hạng theo võ nghệ tinh thông hay yếu kém không thể chiến đấu, báo lên triều đình.

[22] Ngày Giáp Thân, sao Thái Bạch xâm phạm sao Tuế Tinh, lại xâm phạm sao Thái Vi Tả Chấp Pháp. Gián quan Dư Tĩnh tâu rằng:

“Thấy sao Thái Bạch xâm phạm sao Tuế Tinh ở bên phải cửa Đoan Môn của chòm Thái Vi, phía trước sao Chấp Pháp. Dân chúng đều thấy. Nghe đồn rằng bản tấu của Ty Thiên cho rằng bọn giặc ở Thương, Lạc ứng với điềm báo này. Đây là điều mà các quan coi sao kiêng kỵ, không dám nói thẳng. Thần xem qua các sách chí của các triều Hán, Tấn, Tùy, thấy rằng mọi biến động của năm sao, sao Kim và sao Hỏa được gọi là sao Phạt.

Sao Thái Bạch xâm phạm sao Tuế đều chủ về binh đao, tang tóc và đói kém, chỉ ba điều này là đại họa của quốc gia. Biến động này xuất hiện ở bên phải cửa Đoan Môn, bên cạnh sao Chấp Pháp[58], theo chiêm nghiệm trước đây, sẽ có biến cố đổ máu chết chóc, lẽ nào bọn giặc nhỏ ở núi rừng có thể ứng với điềm này?

Thần nghe sách 《Dịch》 nói: ‘Trời hiện tượng, thấy điềm lành dữ, thánh nhân noi theo.’ Lại nói: ‘Xem thiên văn để biết thời biến.’ Từ đó biết rằng các bậc thánh vương xưa kính cẩn lo sợ, thuận theo trời, ứng nghiệm của trời đều tùy theo loại. Hơn nữa, Mộc là đức, Kim là hình, chỉ có Kim làm hại Mộc, là điều ngũ hành kiêng kỵ. Nay hai sao cùng ở một chỗ, che lấp nhau lâu, có lẽ là do hình đức lệch lạc chăng?

Quốc gia từ những năm gần đây, Tây Nhung không thần phục, Khiết Đan cậy mạnh, lòng người dao động, chiến đấu và phòng thủ đều không đủ, mà mọi vật dụng quân sự đều lấy từ dân. Các quan lại tàn nhẫn, sáng đòi chiều phải có, tiếng búa rèn vang khắp thiên hạ. Đây có phải là do khí Kim quá thịnh mà hình phạt sai lầm chăng?

Thanh niên trong dân bị bắt đi lính, người ở nhà lại bị bóc lột tài sản, kẻ tham tiến vì tư lợi bòn rút của dân để mong được ân sủng[59], chưa thấy triều đình bàn luận tìm cách khoan dung với dân. Đây có phải là do khí Mộc suy yếu mà đức không hưng thịnh chăng?

Huống chi nay châu quận trống rỗng, không có phòng bị, quan lại hỗn tạp, không có phương pháp trị an, một người hô to thì không ai dám đối đầu. Thần mong bệ hạ tự trách mình tu đức để tạ lỗi với trời.

Chính sách trong ngoài, lấy việc an dân làm gốc. Phàm binh lính các châu quận không đủ để phòng thủ thì phải khẩn trương bổ sung chỗ thiếu; quan lại địa phương không đủ năng lực thì phải nhanh chóng chọn người thay thế; nguyên liệu làm khí giáp lấy từ nông dân thì nên kéo dài thời hạn nộp; việc vận chuyển gạo muối gây tổn hại tài chính thì nên nới lỏng sức ép; thợ làm da sắt bị bắt buộc làm việc cho quan phủ thì nên giảm bớt lao dịch.

Dân đủ của cải thì yên ổn nơi ở và gắn bó với cuộc sống, dù có bị xúi giục làm giặc cũng không chịu bỏ yên ổn để lao vào nguy hiểm. Không áp đặt thuế má nặng nề và thu gom bừa bãi thì dân không oán giận, âm dương hòa hợp, tai họa binh đao và đói kém có thể tiêu tan.

Việc thăng tiến trăm quan phải xét thực tài, khiến họ trình bày rõ chức trách để khảo sát năng lực. Quan lại địa phương phải lấy thành tích làm dân yên ổn làm tiêu chuẩn, quan lại triều đình phải xem xét hiệu quả chăm chỉ làm việc, như vậy mọi việc sẽ được xử lý hợp lý, thiên hạ yên ổn.

Đến như giảm bớt thú vui thanh sắc, ngăn chặn sở thích xa xỉ dâm đãng, dứt bỏ thú vui săn bắn du ngoạn, tiết chế việc xây dựng đài tạ, thuận theo bốn mùa để giữ gìn thân thể, gần gũi vạn vật để quyết đoán sáng suốt, bệ hạ ngày ngày lo lắng nạn ngoài, ắt phải tự mình nỗ lực thực hiện, không cần thần phải trình bày dài dòng.

Kính mong bệ hạ, trong thì truyền bá lòng nhân ái để củng cố chín tộc, ngoài thì tuyển chọn người tài giỏi để yên ổn trăm họ, cùng các đại thần trong triều hợp sức lo việc tốt, không lơ là chính sự, thì thiên hạ may mắn lắm thay.”

[23] Ngày Bính Tuất, sai quan Kiểm thảo Sử quán là Vương Chu, Hiệu lí Tập hiền là Dư Tĩnh, Hiệu lí Bí các là Tôn Phủ, Hiệu lí Tập hiền là Âu Dương Tu, cùng biên soạn “Tổ tông cố sự”.

Trước đó, Xu mật phó sứ Phú Bật tâu: “Thần xem xét từ xưa các bậc đế vương trị thiên hạ, chưa có ai không lấy pháp chế làm việc đầu tiên. Pháp chế được thiết lập, sau đó mọi việc mới có quy củ, và đạo trị quốc mới có thể đạt được.

Nhà Tống có thiên hạ hơn chín mươi năm, Thái Tổ bắt đầu cải cách những tệ nạn của thời Ngũ Đại, sáng lập ra pháp độ. Thái Tông kế thừa sự nghiệp của tiền nhân, kỷ cương càng thêm rõ ràng. Chân Tông kế thừa nền tảng thái bình của hai triều, cẩn thận giữ gìn hiến pháp.

Những năm gần đây, kỷ cương rất hỗn loạn, tùy tiện thay đổi theo sự việc. Hai phủ cứ khư khư giữ lấy, coi đó là lệ thường. Áp dụng ra thiên hạ, ai cũng cho là sai, nhưng triều đình vẫn yên tâm thi hành, không nghĩ đến việc cải cách. Đến nỗi khiến sức dân kiệt quệ, quốc khố thiếu thốn, quan lại nhiều mà phần lớn không có người tài, chính đạo thiếu sót và sắp dẫn đến loạn lạc.

Thưởng phạt không có chuẩn mực, tà chính không phân biệt. Phía tây bắc bị xâm lấn, giặc cướp đầy rẫy. Quân đội xuất chinh không có kỷ luật, đánh trận ắt thua, mệnh lệnh ban ra không có uy tín, dân chúng không tuân theo. Những việc như thế nhiều không kể xiết.

Nguyên nhân là do pháp chế không được thiết lập, dẫn đến tình trạng này. Thần nay muốn chọn quan lập cục, đem các điển cố của ba triều và các văn bản có thể sử dụng từ lâu của các cơ quan, phân loại theo từng mục, biên soạn thành một bộ sách, đặt ở hai phủ[60], để làm khuôn mẫu. Hy vọng kỷ cương suy đồi được chấn chỉnh, pháp chế hủ bại dần được loại bỏ, đây là cái gốc để giữ vững cơ đồ và cứu vãn loạn lạc.”

Vua nghe theo lời tâu, nên sai Tĩnh cùng những người khác biên soạn, Bật đứng đầu. Tháng 9 năm sau, sách hoàn thành, phân loại sự việc, tổng cộng 96 mục, 20 quyển. Trong đó những điển pháp sâu xa lớn lao, đời nay không thể tuân theo, thì sau mỗi việc đều giải thích ý nghĩa. Những ý tương tự nhau, chỉ giải thích một việc, những việc lý lẽ rõ ràng thì không giải thích thêm.

[24] Ngày Đinh Hợi, điều Tri Khánh châu Đằng Tông Lượng quyền Tri Phượng Tường phủ. Lúc đó, Trịnh Tiển tố cáo Tông Lượng trước đây ở Kinh châu lãng phí 16 vạn quan tiền công, Giám sát ngự sử Lương Kiên cũng hặc tấu việc này. Vua sai Thái thường bác sĩ Yến Độ đến Bân châu xét việc. Tông Lượng vì thế bị điều đi.

[25] Ngày Mậu Tý, lệnh cho Tuyên phủ phó sứ Điền Huống tạm quyền coi việc ở Khánh Châu.

[26] Phạm Trọng Yêm tâu rằng:

“Thần hôm qua đã tâu trực tiếp việc của Đằng Tông Lượng, lúc thiên uy nổi giận, lời thần không thể nói hết. Lại thêm Chương Đắc Tượng và những người khác không biết rõ sự tình thực hư ở đó, đều không dám lên tiếng, chỉ có thần biết rõ từ đầu nên đã một mình trình bày, rõ ràng là có ý thiên vị Tông Lượng. Tuy đã tiến hành điều tra, chắc chắn sẽ làm rõ thực hư, nhưng vẫn còn những điều chưa thông suốt, cần phải làm phiền đến thánh thượng. Nay xin trình bày cụ thể như sau:

– Lương Kiên nguyên tấu rằng Tông Lượng ở Kinh Châu mua rẻ trâu lừa của dân để khao quân sĩ. Thần thấy rằng năm ngoái sau khi Cát Hoài Mẫn thất bại, các quan viên ở các châu quân phía tây đều lo sợ[61], không biết làm thế nào. Kinh Châu không có quân, giặc đã đến Uy Châu, chỉ cách một trăm hai mươi dặm, Tông Lượng đã huy động hàng nghìn người dân khỏe mạnh vào thành phòng thủ.

Lúc đó trời lạnh giá, băng đóng trên cây[62], tình hình quân sĩ buồn thảm, nhờ Tông Lượng lo liệu việc khao thưởng bốn đạo quân ứng cứu của Hoàn Khánh lộ, hơn một vạn năm nghìn người, rượu thịt củi đều đủ, lòng quân rất vui. Tuy chưa có công lớn, nhưng rõ ràng là người có thể dùng trong lúc nguy cấp, nên mới tiến cử làm tri Khánh Châu. Việc vội vàng mua trâu lừa khao quân, dù có thiệt hại về giá cả, tình cảnh cũng đáng được tha thứ.

– Lương Kiên tâu rằng Tông Lượng ở Bân Châu mở tiệc ca nhạc mấy ngày, các nhạc công và đệ tử đều được nhận từ ba đến hai mươi mảnh bạc. Thần cùng Hàn Kỳ đến Bân Châu, dự tiệc một ngày, lúc đó các quan bắn cung, ai bắn trúng thì phân phát bạc cho quân lính bắn cung và ca kỹ, việc này không phải do Tông Lượng phân phát mà tội lại quy về Tông Lượng[63]. Lại nói ‘quân lính oán than’, huống chi tiệc ở biên giới là việc thường, quân lính trực ban thay phiên nhau phục vụ, sao lại có thể ngay ngày đó đã oán than?

– Lương Kiên tâu rằng: ‘Tông Lượng[64] sau khi nhậm chức đã sử dụng hơn mười sáu vạn quan tiền, trong đó có mấy vạn quan không rõ ràng.’ Nay sứ giả điều tra lại nói chỉ sử dụng ba nghìn quan vào việc công, đã có mười lăm vạn quan là bị vu cáo, số tiền và vật liệu là để các quân đội nhận lương, nằm trong mười sáu vạn quan, lẽ nào tiền lương của các quân đội cũng tính là Tông Lượng sử dụng? Khi thần ở Khánh Châu, cũng mượn tiền từ kho quân đội để buôn bán, thu được hơn hai vạn quan lãi, dùng vào việc công của quân đội, sau đó trả đủ vốn cho quan phủ. Nay số tiền và vật liệu Tông Lượng sử dụng chắc cũng là mượn vốn quan để buôn bán, dùng vào việc công.

– Một lộ Hoàn Khánh gồm bốn châu, tổng cộng hai mươi sáu trại, mấy chục tướng tá, năm vạn quân. Từ khi Tông Lượng đảm nhiệm, đã được tám chín tháng, không có sơ suất gì. Quân dân biên giới cũng không có kiện tụng. Việc xử lý công vụ quân mã của bộ tộc phiên cũng không có gì không xong. Nếu là người không có tài năng, sao có thể đảm đương được một lộ này?

– Chủ tướng biên giới, nếu không dựa vào uy thế triều đình, sao có thể đàn áp tướng tá quân dân, khiến họ ra sức chiến đấu, chống lại kẻ địch mạnh? Tông Lượng là Đô bộ thự, Kinh lược sứ, một sớm một chiều bị đuổi như một tiểu lại, sau này chủ tướng còn dám tùy tiện hành sự sao?

– Việc phòng thủ mùa thu đúng lúc, chủ tướng chưa có lỗi lầm rõ ràng mà đã đoạt lấy chức vụ, khiến tướng lĩnh bị bắt giam. Nếu gặp giặc cướp xâm phạm biên giới, không biết sẽ giao cho ai đột nhiên xử lý? Hiện nay, đường này giao cho Vương Nguyên quyền lĩnh, huống hồ Vương Nguyên ở Hà Đông đã từng nhút nhát[65], đã từng bị khiển trách giáng chức, hiện chỉ là người dự bị ở biên giới, sao có thể giao phó trọng trách một đường? Sợ rằng sẽ còn gây thêm rắc rối.

– Tông Lượng trước đây phóng túng, lại thích tiến thân, nên dễ bị người đời chê bai, dễ bị lấy làm tin.

– Các quan Đài gián nghe tin đồn chưa xác thực, triều đình đã vội thi hành. Thần tận mắt chứng kiến không sai, nhưng chưa được triều đình nghe theo. Nếu thần là kẻ dối trá[66], thì không đáng được dùng ở hai phủ. Đã có việc tận mắt chứng kiến, sao có thể làm hại người để tự an, làm lầm lạc việc thưởng phạt của bệ hạ.

Hơn nữa, phương Tây Bắc chưa yên, thấy tìm kiếm người có thể dùng ở biên cương, liền khen thưởng thăng chức, sao nên lần lượt phá hoại, khiến các quan biên cương lo sợ, không dám làm việc! Dù uy lệnh quốc gia không thể không thi hành, nhưng phải đợi thấy rõ sự thật, mới có thể cách chức làm nhục. Thần xin triều đình chỉ thị, Tông Lượng tạm ở lại nhiệm sở[67], giao cho Phạm Tông Kiệt ở Bân Châu một mặt tra xét những người liên quan, và kiểm tra lại sổ sách tiền bạc đã lấy được ở Khánh Châu.

Nếu Tông Lượng rõ ràng có hành vi lừa dối chiếm đoạt và vi phạm nghiêm trọng, thì triệu Tông Lượng đến tra xét. Nếu không có vi phạm nghiêm trọng, cũng không có lừa dối chiếm đoạt, thì sai người hỏi rõ nguyên do, gửi nhanh tấu trình, chờ chỉ thị tiếp theo. Còn Trương Kháng cũng đã phụng chỉ lệnh tra xét, thần thấy Trương Kháng không cẩn trọng, làm việc hấp tấp, trước đây ở Vị Châu cũng không có vi phạm lớn. Xin giao cho Phạm Tông Kiệt cùng tra xét những người liên quan, xử lý theo việc tra xét Đằng Tông Lượng rồi tấu trình.

Lại xin tuyên bố tấu chương này của thần cho các quan Đài gián, đợi khi tra xét thấy Đằng Tông Lượng, Trương Kháng thực sự có vi phạm nghiêm trọng và lừa dối chiếm đoạt, thì các quan Đài gián lại đàn hặc, thần xin cùng hai người đó chịu tội biếm truất.

Thần dám nói thẳng là vì bệ hạ giao phó cho các quan biên cương, để họ một lòng chống giặc ngoài mà không lo họa bên trong[68], thì các lộ biên cương ai nấy đều chuyên tâm, không đến nỗi tan rã, làm hỏng việc lớn.”

(Trương Kháng từ Vị Châu dời đến Tịnh Đại, vào ngày Giáp Tuất tháng 7 năm thứ 3.)

[27] Ngày Tân Mão, Thị ngự sử Triệu Cập và các quan khác tâu rằng: Thái Miếu nằm gần khu dân cư, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng khóc, xin dời dân ra xa khu vực miếu. Vua xuống chiếu, mỗi khi có việc tế lễ, phải cấm dân không được khóc lóc.

[28] Ngày Nhâm Thìn, Hàn lâm học sĩ, Đoan minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm viện Thị độc học sĩ, Trung thư xá nhân Lý Thục bị cách chức Hàn lâm học sĩ, giáng làm Cấp sự trung, điều ra làm Tri châu Trịnh Châu. Quyền Tri Khai Phong phủ Ngô Dục tâu rằng Thục trước đây ở phủ thường gần gũi thân mật với các lại viên. Dục mới nhận chức phủ doãn vài ngày, đã phát giác một lại viên gian ác lớn, đày ra ngoài Lĩnh Nam. Lại bắt được một tên đại đạo tặc, tích trữ của cải tới 19.000 quan. Vụ án đã xong, nhưng lại thay đổi hai lần, mọi người nghi ngờ có oan khuất, Vua sai quan khác xét lại, cuối cùng tên đạo tặc bị xử tử, từ đó kinh thành yên ổn.

[29] Vua xuống chiếu cho các lộ Đề điểm hình ngục ty chuyên trách việc tuần tra, kiểm soát trộm cướp.

[30] Trước đó, Tham tri chính sự Phạm Trọng Yêm tâu rằng: “Thần thấy rằng biên kế ở Thiểm Tây, Hà Đông không đủ, nên đúc tiền sắt để giúp quân phí. Nhưng dân chúng nhiều kẻ đúc trộm, ngày ngày phạm tội nặng, thành tệ hại của pháp luật, lâu ngày sẽ không chịu nổi. Thần xem 《Thuấn điển》 có nói ‘dùng vàng để chuộc tội’, lại xem 《Lã hình》 nói ‘năm hình phạt không xét kỹ, thì sửa bằng năm mức phạt’. Đó là Vua Thuấn, Chu Công đều dùng phép chuộc tội. Khổng Tử san định sách vở, lưu truyền cho đời sau, chứng tỏ đó là phép có thể thi hành. Các đời trước từng thi hành, nay lâu không dùng, người ta có thể nghi ngờ. Thần xin tạm thời thi hành ở các châu quân ven biên giới Thiểm Tây, Hà Đông, đợi khi việc quân lắng xuống, quan phủ không thiếu tiền, thì sẽ theo chỉ dụ triều đình:

1. Tội từ đồ trở lên (tức là lưu đày, tử hình…) không được chuộc.

2. Tội từ trượng trở xuống (tức là đánh roi, đánh trượng…) được chuộc theo các điều sau.

3. Tội xâm hại người khác đều không được chuộc: ‘Xâm’ là chiếm đoạt tài vật, ‘Hại’ là gây thương tổn cho người.

4. Tội trộm cắp, làm giả, vu cáo việc không liên quan đến mình đều không được chuộc.

5. Tội buôn lậu trà, muối, bán rượu lậu và đánh bạc đều không được chuộc.

6. Tội công nhân bắt trộm cướp quá hạn đều không được chuộc.

7. Binh sĩ, công nhân không được chuộc. Trong đó, công nhân nếu không vì công vụ mà tự ý sai phạm, thì cũng được chuộc.

8. Tội mới có điều luật cho phép chuộc, đến lần phạm thứ ba thì không được chuộc nữa.

9. Trường hợp nhiều người cùng phạm một tội: Nếu giàu nghèo không đều, thì không được chuộc; Nếu người có của nguyện nộp thay, thì tất cả được chuộc; Người chủ mưu, bất kể giàu nghèo, đều không được chuộc.

10. Quân nhân và dân thường cùng phạm một tội thì đều không được chuộc.

11. Người hưởng ân điển, trẻ nhỏ, người bệnh tật: Nếu theo luật cũ được chuộc, thì vẫn theo luật cũ. Mỗi cân nộp 120 đồng tiền đủ.

12. Những tội luật cũ không được chuộc, nay được chuộc: Chỉ nhận người tự nguyện; Mỗi cân nộp 1 quan 200 đồng tiền đủ; Cho phép dùng thóc, vải theo giá thời điểm để quy ra tiền; Người không có của cải thì xử lý theo luật thường.

13. Mỗi huyện cử một viên lại điển có hạnh kiểm, biết chữ:

– Đến pháp ty của châu học tập luật pháp.

– Được các quan trong châu khảo hạch tại sảnh đường.

– Nếu hiểu đại ý hình luật, được về huyện làm pháp ty.

– Sau ba năm xử án không sai, thì thăng một bậc.

– Nếu có sai nhưng không tham, sau năm năm được thăng một bậc.

14. Xử án chuộc tội có sai sót: Quan lại đều bị xử theo đúng tội, không được giảm nhẹ.

15. Quan lại nhận hối lộ, bị xử theo tội tham nhũng.”

Trọng Yêm lại tâu: “Thần vài ngày trước, đã diện kiến tâu[69] rằng con cháu các đế vương ba đời được kéo dài lâu dài, là do tích đức sâu dày. Thần xin bệ hạ mỗi ngày tu dưỡng đức nhân cao cả, ban xuống cho dân chúng, để cảm động trời đất, đó là gốc rễ của việc con cháu thánh nhân được vô cùng.

Nay có ba tờ tấu trình lên, trong đó một tờ là bàn về việc chuộc tội, xin được ban ra. Thần gần đây thấy chiếu chỉ, lệnh cho Ngự sử đài, Thẩm hình viện, Đại Lý tự, Tu biên sắc sở cùng bàn về việc chuộc tội. Đây là đức lớn và lòng nhân sâu sắc của bệ hạ, ban cho trăm họ, thiên hạ thật may mắn. Nay Gián quan Tôn Phủ tâu lên, xin lệnh cho các đại thần quyết định thi hành. Thần xin đặc biệt ban thánh chỉ, lệnh cho Trung thư, Xu mật viện cùng với các quan viên đang bàn bạc[70] nhanh chóng quyết định tâu lên. Lại xin tạm thời chuộc những tội nhẹ từ trượng tội trở xuống[71], để dễ thi hành. Hai tờ còn lại xin không ban ra.”

Tờ thứ nhất nói: “Thần nghe rằng vào ngày 18 tháng 8 năm Vũ Đức thứ 9 đời Đường, có chiếu rằng: ‘Xem xét trong cung, số lượng thật nhiều, thương xót những người bị giam cầm sâu xa, lâu ngày xa cách người thân, một lần giảm bớt, cho họ được lấy chồng.’ Từ đó, trong cung đã thả ra hơn ba nghìn người. Lại vào ngày 2 tháng 7 năm Trinh Quán thứ 2[72], Thái Tông nói với các quan hầu rằng: ‘Phụ nữ bị giam cầm trong cung, tình cảnh thật đáng thương. Cuối đời Tùy, việc tuyển chọn không ngừng[73], đều là hao tổn tài lực của dân[74], Trẫm không làm vậy. Ngoài việc quét dọn, còn dùng vào việc gì?’ Bèn lệnh cho Thượng thư Hữu thừa Đái Trụ, Cấp sự trung Đỗ Chính Luân ở cửa Tây Dịch Đình chọn ra. Thần không biết hiện nay số người trong cung là bao nhiêu, hoặc có người thừa để sai khiến[75], nên ban chiếu chỉ, đặc biệt lệnh giảm bớt, để thỏa lòng người, lại tiết kiệm chi phí, cũng là việc đức lớn của bậc quân vương, có thể cảm động ý trời.”

Tờ thứ hai nói: “Thần nghe rằng vào năm Thuần Hóa, Thái Tông hoàng đế thấy dân biên giới đói khổ, nhiều người bán con vào đất Phiên, rất thương xót, bèn sai sứ dùng vật phẩm chuộc lại, cho họ trở về với cha mẹ. Đó là đức lớn của bậc quân vương. Gần đây, dân Hán ở biên giới bị Tây Nhung bắt đi không ít, nay đã thông sứ, xin bệ hạ xuất ý chỉ, dùng vật phẩm trong kho, giao cho quan biên giới dần dần chuộc lại những người Hán bị bắt[76], cho họ trở về nhà, để cha mẹ con cháu được đoàn tụ. Như vậy không chỉ dân biên giới cảm kích sâu sắc, mà đức lớn còn cảm động trời, ban phúc cho hoàng tộc, ghi vào sử sách, rạng rỡ đời sau.”

[31] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu rằng: “Các bậc tiên vương dùng pháp luật giản dị, khiến người dân biết điều cấm mà dễ theo. Đời sau đặt ra các lệnh cấm về trà, muối, rượu, thuế, đoạt lợi lớn của dân, hình phạt ngày càng nhiều.

Nay các điều lệ biên soạn đều nằm ngoài luật, lại thường xuyên thay đổi, quan lại còn không thể hiểu hết, huống chi dân thường sao có thể biết mà không phạm phải[77]. Thân thể, tóc da vì thế mà bị tổn thương. Cha mẹ, vợ con vì thế mà ly tán. Tình cảnh tuy đáng thương, nhưng pháp luật không thể dung thứ. Há chẳng phải do giáo hóa lễ nhạc chưa được thực hiện, mà chỉ chuyên dùng hình phạt hay sao?

Khổng Tử nói: ‘Lễ nhạc không hưng thịnh, thì hình phạt không đúng mực; hình phạt không đúng mực, thì dân chúng không biết đặt tay chân vào đâu.’ Hán Văn Đế khiến thiên hạ nộp thóc ra biên giới để được phong tước, miễn tội, gần như không còn hình phạt. Sau đó, tiền ở kinh đô tích lũy đến hàng trăm vạn, thóc trong Thái thương chất đống chồng chất.

Nay hãy bàn các điều khoản, những gì không ghi trong luật, hoặc dân thường khó biết, hoặc tình người khó tránh, hoặc vì lợi mà phạm cấm, hoặc xa xỉ vi phạm lệnh, hoặc lỗi lầm đáng thương, hãy đặt riêng phép chuộc tội, dân quê dùng lúa mạch, dân chợ dùng tiền lụa. Khiến dân coi trọng lúa vải, miễn hình phạt, thì nông tang tự khuyến khích, giàu thọ có thể mong vậy.”

[32] Gián quan Dư Tĩnh tâu: “Thần không biết ai là người vạch ra kế sách này cho bệ hạ, chỉ biết nói cao xa mà không hiểu được sự biến đổi của thời thế. Hiện nay ba vùng biên giới có hàng triệu quân lính đang chờ được nuôi dưỡng, tính toán ngoài hai khoản thuế chính của thiên hạ, liệu có đủ lương thực cho họ không?

Vì vậy, lợi nhuận từ trà, muối, rượu, thuế và các sản phẩm khác từ núi rừng đều thuộc về triều đình, nhưng vẫn phải tính toán hàng ngày, hàng năm, sợ rằng không đủ. Dân tham lợi mà phạm pháp, dù chết cũng không tránh. Nay lại đưa ra hình phạt chuộc tội để nới lỏng lệnh cấm, vậy lương thực cho ba quân lấy từ đâu?

Thần thấy trong hai năm qua, các vùng Thiểm Tây, Hoài Nam, Giang, Chiết[78] đã tăng giá muối và rượu, nhưng dân phạm pháp càng nhiều. Nay nếu lại giảm nhẹ hình phạt, cho phép chuộc tội, thì dân sẽ coi thường pháp luật mà không ai ngăn cấm được.

Uy tín của triều đình phải dựa trên chế độ, nay bỏ qua luật lệ, để cho sự xa xỉ vượt quyền, trên dưới không có kỷ cương, không gì tệ hơn. Thần xin thu hồi chiếu chỉ trước, đặc biệt ra lệnh bãi bỏ. Giá muối và rượu tăng thêm trong hai năm qua ở Thiểm Tây, Hoài Nam, Giang, Chiết cũng nên trả lại như cũ. Như vậy, hy vọng dân sẽ được nghỉ ngơi, không phạm pháp nữa.”

Lúc đó, các quan bàn luận cũng cho rằng nếu thi hành chiếu chỉ này, người giàu sẽ được chuộc tội, còn người nghèo không thể tự thoát, không phải là ý của triều đình khi áp dụng pháp luật. Cuối cùng, chiếu chỉ không được thực hiện.

[33] Âu Dương Tu tâu:

“Thần từ sau khi giặc cướp Vương Luân bại trận, đã nhiều lần dâng lời tâu bày, lo sợ rằng giặc cướp sẽ dần dần nổi lên nhiều hơn, kính xin triều đình sớm lo phòng bị. Những người lo lắng cho quốc gia về nạn giặc cướp không chỉ riêng thần, mà trước sau có rất nhiều người dâng lời tâu bày, nhưng đều bị các đại thần bỏ qua, không được thi hành. Còn các đại thần thì lại không có kế hoạch gì, nên mới dẫn đến việc gần đây giặc cướp nổi lên khắp nơi.

Từ sau khi Hoài Nam vừa bị Vương Luân quấy nhiễu, nay các châu huyện phía tây kinh thành lại bị Trương Hải, Quách Mạc Sơn cướp bóc, đốt phá[79]. Quế Dương giám trước đây tâu rằng có mấy trăm giặc man, Khuê, Hạp, Kinh, Hồ đều tâu có mấy trăm giặc man, Giải châu lại tâu hiện có hơn mười nhóm giặc chưa bắt được[80], Hoạt châu lại nghe nói có hơn ba mươi tên cướp mạnh đốt phá trấn Sa Di, Hứa châu lại nghe nói có ba bốn mươi tên cướp cướp phá trấn Châm Giản[81], đó là những nơi thần nghe nói giặc cướp đang nổi lên khắp nơi. Ngoài ra, Kinh Đông năm nay từ mùa thu đến nay không mưa, đến nay vẫn chưa gieo được lúa mạch, vùng Giang Hoài sau nạn giặc Luân[82], lại tiếp tục bị đói kém và châu chấu; Thiểm Tây bị hạn hán, dân chúng lưu vong trên đường, ngày đêm không dứt. Những nơi như vậy, tương lai chắc chắn sẽ nổi lên giặc cướp, đó là những nơi hiện tại chưa dẹp yên[83], mà những nơi tiếp theo sẽ còn nhiều hơn.

Còn thiên tượng biến đổi, trời quở trách không ngừng, theo phép chiêm tinh cổ xưa thường nói[84] ‘thiên hạ sẽ có binh đao lớn’. Nay mầm mống binh đao đã động dưới đất[85], thiên tượng lại cảnh báo trên trời, mà triều đình vẫn an nhiên thong thả, không khác gì thường ngày, đó chính là điều thần đã từng tâu trong bản tấu trước, rằng người xưa có trí tuệ có thể lo xa trước khi việc xảy ra, còn các mưu thần ngày nay không nhận ra tai họa đã hiện rõ.

Thần nghe rằng phép tắc của hai triều Hán, phàm việc giặc cướp nổi lên, dân chúng lưu vong, thiên văn tai dị, những việc như thế đều quy trách nhiệm cho Tam công, hoặc bị giết chết, hoặc bị cách chức đuổi đi. Nay may mắn triều đình nhân từ khoan dung, các đại thần tạm thoát khỏi trách nhiệm nặng nề, nhưng vẫn quên mất họa hoạn, chỉ quen theo lối cũ, đó là điều thần cho rằng các đại thần không chịu nghiêm khắc thi hành quốc pháp để răn dạy quan lại[86], chính là do bệ hạ không dùng uy hình để trách phạt các đại thần vậy.

Hiện nay giặc cướp đã như thế, về sau chắc chắn sẽ còn nhiều hơn, nếu không sớm lo liệu, e rằng sẽ khó tránh khỏi hối hận. Thần tính toán rằng hiện nay việc chống giặc không ngoài bốn việc: Một là các châu quận đặt quân để phòng bị; Hai là chọn quan lại chuyên trách bắt giặc; Ba là quy định rõ phép thưởng phạt; Bốn là bỏ bớt quan lại thừa, dùng quan lại tốt để an ủi dân chúng mệt mỏi, khiến họ không nổi lên làm giặc. Bốn việc này, các đại thần thường bỏ qua, cho là chuyện thường tình.

Nhưng thần thấy triều đình đối với bốn việc này, chưa chắc đã làm được một việc nào hợp lý. Kính mong bệ hạ nghiêm khắc ra lệnh cho các đại thần hai phủ, hỏi xem ngoài bốn việc này[87], còn có phương pháp nào khác không[88], nếu không có phương pháp nào khác, thì bốn việc này nên được thi hành. Thần nghe nói việc các châu quận đặt quân, Phú Bật đã có điều trần tấu, ba việc còn lại, những người tấu sự trước sau đã bàn luận rất nhiều, kính xin tập hợp các ý kiến, chọn lấy những điều hay mà thi hành.”

[34] Tu lại nói:

“Thần từ khi mới nhận chức Gián quan, trong lần đầu tiên lên điện đã từng dâng lời rằng: Hiện nay đất nước đang suy yếu, công tư đều khốn đốn, nguyên nhân chính là do quan lại tham nhũng, lộng quyền quá nhiều, xin triều đình chọn cử các quan Án sát để điều tra, xử lý bốn hạng người: già yếu, bệnh tật, tham nhũng và bất tài, đồng thời tiến hành thanh lọc.

Thần cũng đã trình bày chi tiết về phương pháp án sát, các điều khoản rất rõ ràng. Theo ý kiến của thần, vốn muốn sai sứ giả đi khắp nơi, khiến thiên hạ kinh sợ, biết rõ triều đình có ý thưởng thiện phạt ác, sau đó căn cứ vào văn bản mà xét thực tế, kẻ ác thì bãi chức, người thiện thì thăng chức, những người có tài năng trung bình đều phải cảnh tỉnh, răn đe. Tất cả những điều thần nói đều nhằm cứu dân khỏi cảnh khốn cùng, thanh lọc những tệ nạn đã tồn tại suốt bốn mươi năm, nếu không gặp được thánh chúa quyết tâm trị quốc, trên dưới cùng nhau ra sức thực hiện thì không thể thành công. Thế nhưng những người bàn luận lại ngại làm việc, chỉ thích theo lối cũ, chỉ sai các quan Chuyển vận sứ ở các lộ kiêm nhiệm chức vụ đó. Lúc đó tuy thần đã nhiều lần dâng tấu trình bày, nhưng ý kiến bị bác bỏ, không được thực hiện, việc án sát chỉ còn là văn bản suông, nay đã bị bỏ dở, dân chúng lâm vào cảnh khốn khổ, ngày càng đáng thương.

Thần trộm thấy bệ hạ thánh đức ngày càng mới mẻ, lo lắng cho chính sự, gần đây ban bố chiếu thư, đốc thúc khuyến khích các tể tướng. Nhưng việc thiên hạ tích tệ đã nhiều, như búi tóc rối, chưa biết đầu mối. Muốn thay đổi từng việc thì sức không đủ, mà phiền nhiễu khó thi hành; muốn dần dần chỉnh đốn thì tình trạng suy yếu đã cực điểm, mà chưa thể nhanh chóng thấy hiệu quả. Thần cho rằng nếu muốn dùng ít công sức mà được lợi nhiều[89], và giúp dân nhanh chóng thấy thành quả, thì không gì bằng chọn lựa kỹ càng mười mấy vị đại thần tài giỏi sáng suốt, phân phái đi khắp thiên hạ, ghi chép đầy đủ năng lực của quan lại, rồi ngồi lại thăng chức hay cách chức, như thần đã trình bày thì mới được.

Thần nghe nói trị thiên hạ cũng như người nông dân cày ruộng, không thể áp dụng một cách chung chung. Đối với đất đai cỏ dại um tùm, bỏ hoang lâu ngày, trước hết phải ra sức dọn dẹp, sau đó mới cày cấy đúng thời vụ.

Nay đặc phái sứ giả đi, cũng như dọn dẹp đất hoang lâu ngày, chuyển vận kiêm án sát, là để cày cấy đúng thời vụ, khoan hồng hay nghiêm khắc, nhanh hay chậm, đều có chỗ thích hợp. Việc thăng giáng chức vụ thời Hán, sứ giả khảo khóa thời Đường, đều là những việc được cử đi hàng năm. Triều đại tổ tông cũng có viện khảo khóa. Việc án sát thăng giáng, là phép thường xưa nay, không phải là việc khó làm khác thường.

Hiện nay bàn việc, nhiều người thường bị bỏ qua vì nói quá cao xa, hoặc cho là có hại khó thi hành. Như thần nói, chỉ là chọn hơn mười vị đại thần tài giỏi sáng suốt đi xem xét thiện ác của quan lại, những việc rõ ràng dễ thấy thì ghi vào sổ sách, triều đình xem xét kỹ, cách chức những người quá tệ mà thôi. Thần tự cho rằng lời bàn của mình không quá cao xa, thi hành thì có lợi không hại, nhưng vẫn lo người bàn luận chưa cho là phải, xin kính cẩn trình bày riêng sáu việc lợi hại của quan lại dư thừa, để chứng minh lợi nhiều hiệu quả nhanh mà có thể thi hành không nghi ngờ, mong bệ hạ đặc biệt xem xét chọn lựa:

Một, bỏ bớt quan lại thừa, thì sự đóng góp của dân sẽ giảm được chín phần. Thần thấy rằng từ khi có chiến tranh, việc công tư đều khó khăn, không chỉ vì thuế má nặng nề, mà còn do quan lại làm điều gian ác. Mỗi năm đánh thuế một thứ, thì những quan lại tham tàn đã bóc lột dân chúng trước, những kẻ già yếu sai lầm lại để cho thuộc hạ tùy tiện đòi hỏi. Triều đình chỉ thu được một phần, còn quan lại gian ác thì lấy gấp mười lần. Dân chúng khốn khổ, nguyên nhân chính là ở đây. Nay nếu bỏ bớt bốn hạng quan lại thừa này, thay bằng những quan lại tốt, xử lý công việc thuận tiện, loại bỏ sự quấy nhiễu, để dân chúng chỉ phải đóng góp đúng số lượng quy định của triều đình, không phải chịu thêm những đòi hỏi ngoài luật định của châu huyện. Vì vậy, thần cho rằng sức dân sẽ giảm được chín phần. So với việc tìm cách giảm bớt những khoản nhỏ nhặt vô ích khác, thì lợi ích này lớn hơn nhiều.

Hai, những kẻ bất tài gây hại còn hơn cả quan lại tham nhũng. Theo pháp luật của quốc gia, chỉ trừng trị quan lại tham nhũng khi có dân chúng tố cáo; còn những kẻ bất tài khác, lớn thì làm hại cả châu, nhỏ thì làm hại cả huyện, đều biết rõ mà không xử lý. Thần cho rằng những quan lại tham nhũng phần nhiều là kẻ mạnh mẽ xảo quyệt, chúng chỉ lấy của cải từ những nhà giàu có, hoặc không động đến kẻ nghèo yếu. Còn những kẻ bất tài không thể quản lý thuộc hạ, tuy bản thân chúng không dám đòi hỏi, nhưng lại để cho thuộc hạ tùy tiện bóc lột, không phân biệt giàu nghèo, đều bị tai họa, gây hại rất lớn, nhưng lại được tha thứ không xử lý. Vì vậy, thần đặc biệt muốn loại bỏ những kẻ già yếu sai lầm hèn nhát, cùng với quan lại tham nhũng, đều phải bị cách chức.

Ba, trong ngoài là một thể, nếu quan lại bên ngoài không trong sạch, thì triều đình không thể đạt được sự trị yên. Hiện nay triều đình tuy có những mệnh lệnh tốt[90] ban ra ngoài, nhưng nếu rơi vào tay bốn loại quan lại thừa này, thì việc thi hành có thể sai lệch, không đúng với ý định ban đầu của triều đình[91], trở thành hại dân. Hoặc bị trì hoãn, bỏ phế, không thi hành, lại không có sự kiểm tra, chỉ làm ra những văn bản vô ích. Nếu bên ngoài loại bỏ được những quan lại thừa, toàn bộ là quan lại tốt, thì những mệnh lệnh ban ra từ triều đình, dù có sai sót, họ cũng tự sửa đổi, hoặc tấu trình thay đổi, cuối cùng sẽ không gây hại lớn. Như vậy, sự được mất của dân không chỉ dựa vào triều đình, mà còn phụ thuộc vào sự tốt xấu của quan lại. Vì thế, quan lại thừa há có thể không loại bỏ?

Bốn, loại bỏ quan lại thừa, thì số lượng quan lại sẽ giảm bớt, việc bổ nhiệm sẽ thông suốt. Hiện nay trong thiên hạ, số lượng quan chức có định mức, nhưng số người nhập sĩ thì không có hạn định, không có sự thăng giáng, kẻ lạm dụng nhiều, việc bổ nhiệm không thực hiện được, người hiền kẻ ngu đều bị trì trệ. Mỗi khi có một chỗ khuyết, mọi người tranh giành, người được thì không có phong khí liêm sỉ, người không được thì nổi lên lời oán than, tệ nạn quan lại lạm dụng, từ xưa đến nay chưa từng có. Nay nếu chọn bốn loại quan lại thừa để loại bỏ, thì những người chờ bổ nhiệm sẽ không còn oán trách.

Năm, loại bỏ quan lại thừa, thì những người có tài năng trung bình sẽ tự giác cố gắng. Hiện nay quan lại trong thiên hạ, đâu phải tất cả đều bất tài, chỉ vì triều đình vốn không có sự thăng giáng, không phân biệt tốt xấu. Nay nếu thấy quốc gia yêu cầu thực chất để cầu trị, mọi người đều tinh tế phân biệt, thì những người có tài năng trung bình đều tự cố gắng, không dám dựa dẫm. Dù có kẻ tham tàn, cũng phải thu tay lại.

Sáu, bỏ bớt quan lại thừa, thì không quá một năm, dân sẽ được hưởng ơn. Hiện nay triều đình tuy có ý lo lắng chăm sóc dân, nhưng trên dưới đều khốn khó, chắc chắn chưa có đủ sức để ban ơn rộng rãi cho dân. Nếu chỉ bỏ bớt quan lại thừa, thì dân sẽ được hưởng ơn nhanh chóng. Bởi vì thần từng thấy ở các châu huyện bên ngoài, mỗi khi một quan lại kém cỏi được thay thế bằng một người có năng lực, thì chỉ trong vài ngày, dân đã ca ngợi. Nay nếu bỏ hết những quan lại thừa thãi, mà thay bằng những người có năng lực, thì không quá một năm, dân chắc chắn sẽ được hưởng ơn. Đây là điều thần cho rằng có thể giúp dân nhanh hơn việc công.”

(Tấu chương này không rõ thời gian, trong chương có nói gần đây có chiếu chỉ khuyến khích các tể tướng. Theo 《Thực lục》 thì vào ngày 12 tháng 12 mới có chiếu chỉ. Nhưng chiếu chỉ đã ban xuống nhiều lần, 《Thực lục》 đều không ghi chép, chỉ cùng lúc chọn sai Trương Ôn Chi và những người khác nói đến, như vậy chắc chắn không phải ngày 12 tháng 10 mới ban chiếu chỉ. Nay xếp tấu chương này vào cuối tháng 9.)


  1. Nhiên sự hữu hậu tiên 'Sự' tự nguyên thoát, cứ Tống bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 38 Phú Phạm điều tấu thập sự bản mạt, 《Biên niên cương mục》 quyển 12 bổ.
  2. Thượng tái tứ thủ chiếu đốc xúc viết 'Đốc' tự nguyên thoát, cứ Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 thượng bổ.
  3. Cương kỉ chế độ 'Chế' nguyên tác 'Pháp', cứ Tống bản, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Phạm Văn Chính công tập tấu nghị》 quyển thượng, 《Tống văn giám》 quyển 43 đáp thủ chiếu điều trần thập sự cải.
  4. 'Hai nơi' trong 《Tống sử》 quyển 314, truyện Phạm Trọng Yêm viết là 'Nhị phủ'.
  5. 'Xích' nguyên bản viết là 'Kinh', căn cứ theo bản Tống, bản các và sách trên sửa lại.
  6. 'Thăng' nguyên bản viết là 'Ngoại', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính Công tập》, 《Tống Văn Giám》 sửa lại.
  7. 'Cụ' nguyên bản viết là 'Nguyên', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 42, 《Phạm Văn Chính Công tập》, 《Tống Văn Giám》 sửa lại.
  8. 'Tiến cải' trong 《Phạm Văn Chính Công tập》 viết là 'Cải thiên'.
  9. 'Giới hạn' nguyên văn là 'công', căn cứ vào Tống bản, Các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42, 《Phạm Văn Chính công tập tấu nghị thượng》, 《Tống văn giám》 quyển 43 《Đáp thủ chiếu thập sự》 sửa lại.
  10. 'Đều được ban tước mệnh', chữ 'hữu' nguyên bản là 'dĩ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42 'Ức nghiêu hãnh', cùng 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》 sửa lại.
  11. 'Ưu đãi hơn các quan thường', các bản đều giống nhau. Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》 đều viết là 'Minh dị với các quan thường để thể hiện sự phân biệt'.
  12. 'Từ nay về sau', nguyên bản là 'từ đó về sau', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và sách trên sửa lại.
  13. 'Công lao đặc biệt', chữ 'biệt' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo các bản trên và sách trên bổ sung.
  14. 'Được phép tấu cử con em làm chức vụ', chữ 'chức sự', các bản trên và 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》 đều viết là 'thân sự', 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 giống với bản sách này.
  15. 'Đạt loại cao' nguyên văn là 'Đệ', theo 《Phạm Văn Chính Công tập》 và 《Tống Văn Giám》 sửa lại.
  16. 'Xem xét' nguyên văn là 'Hứa', theo bản Tống và sách trên sửa lại.
  17. 'Loại nhì' nguyên văn là 'Đẳng', theo bản Tống và sách trên sửa lại.
  18. 'Gia' nguyên là 'Như', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》, 《Trị tích thống loại》 quyển 28 sửa.
  19. 'Đạt' nguyên là 'Viễn', theo 《Trị tích thống loại》 sửa.
  20. 'Khổ', 'Tân' hai chữ nguyên đảo lộn, theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》, 《Trị tích thống loại》 sửa lại.
  21. Nguyên không có chữ 'Hựu', theo văn và 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》 bổ sung.
  22. Trên câu này nguyên có hai chữ 'Đẳng đệ', theo 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》 và 《Trị tích thống loại》 bỏ.
  23. 《Trị tích thống loại》 quyển 28 'Tuyên' chép là 'Nghi'.
  24. Nguyên thiếu chữ 'Ư', theo Tống toát yếu bản và 《Phạm Văn Chính công tập》, 《Tống văn giám》, 《Trị tích thống loại》 bổ sung.
  25. 'Chắc chắn sẽ bị đòi nợ', chữ 'lai' nguyên bản là 'cầu', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Phạm Văn Chính Công tập》, 《Tống Văn Giám》 sửa lại.
  26. 'Suy nghĩ sâu xa', chữ 'lự' nguyên bản là 'mưu', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 42 'Quân Công Điền', 《Phạm Văn Chính Công tập》 sửa lại.
  27. chính sách tốt 'tốt' nguyên bản là 'Thánh', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách 《Phạm Văn Chính Công Tập》, 《Tống Văn Giám》 sửa lại.
  28. lúa gạo và vải lụa thường đắt đỏ 'đắt' nguyên bản là 'trách', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và sách trên sửa lại.
  29. chi phí vận chuyển 'vận' nguyên bản là 'thế', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách trên sửa lại.
  30. Hư hỏng, chữ 'hỏng' nguyên bản là 'bại', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và sách trên sửa lại
  31. Sáu bảy trăm đồng tiền đủ, chữ 'đồng' nguyên bản không có, căn cứ theo sách trên bổ sung
  32. Vật liệu và nhân công, nguyên bản là 'công khoa', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và sách trên sửa lại
  33. Đơn giản dễ thực hiện, chữ 'đơn' nguyên bản là 'giảm', căn cứ theo các bản trên và sách trên sửa lại
  34. Biên phòng chưa dỡ bỏ 'dỡ bỏ' nguyên văn là 'triệt', căn cứ theo các bản khác và sách trên đổi.
  35. Họa biên thùy 'biên' nguyên văn là 'viễn', căn cứ theo các bản khác và sách trên đổi.
  36. Không quá một trăm nhà, chữ 'bách' trên nguyên bản có chữ 'tam', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách trên mà bỏ.
  37. Châu Phòng Đoàn, chữ 'châu' nguyên bản thiếu, theo các bản trên và sách trên mà bổ sung.
  38. Cô quả: Bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Phạm Văn Chính công tập》 tấu nghị quyển hạ, phần 'Đáp thủ chiếu điều trần thập sự' đều chép là 'cô bần'.
  39. Chiếu xá thư: Chữ 'thư' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách trên bổ sung.
  40. Đồ hai năm: Các bản và sách trên đều giống nhau. Bản Tống, bản Tống toát yếu chép 'hai' thành 'ba'.
  41. Chữ 'giám' trong 'giám lâm chủ ty' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách trên để bổ sung.
  42. Chữ 'bẩm' trong 'khinh nhi phất bẩm' vốn viết là 'lẫm', nay căn cứ vào các bản trên và sách trên để sửa lại. Sau đây cũng vậy.
  43. Chữ 'thư' trong 'chiếu thư' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và sách trên để bổ sung.
  44. Chữ 'sự' trong 'như sự can hình danh giả' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào các bản trên và sách trên để bổ sung.
  45. Hai chữ 'khoa đoạn' vốn đảo ngược, nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách trên để sửa lại.
  46. Chữ 'giả' trong 'tu chí tiện nghi nhi hành giả' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào các bản trên và sách trên để bổ sung.
  47. Chữ 'tiện' trong 'nhưng tiện tương độ' vốn viết là 'sứ', nay căn cứ vào các bản trên và sách trên để sửa lại.
  48. Đáp thủ chiếu điều thượng bảy việc, bản Tống toát yếu, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 38 giống nhau. Bản Tống chữ 'bảy' viết thành 'mười'.
  49. Chế độ mới về khoa cử, chữ 'mới' nguyên là chữ 'sở', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 38 Phạm Phú điều tấu mười việc bản mạt sửa.
  50. Phủ chất 'chất' nguyên là 'chí', theo 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 37 chuyện Lữ Di Giản, 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 100 bài luận về Lữ Di Giản sửa lại
  51. Bệnh tật 'Tật' nguyên là 'phát', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 100 《Luận Chỉ Tuyệt Lữ Di Giản Ám Nhập Văn Tự Trát Tử》 sửa.
  52. Con cháu lại không ra gì 'Cháu' nguyên thiếu, theo các bản trên và sách trên bổ sung.
  53. Nếu Di Giản có mưu đồ gian tà 'Nếu', sách trên viết 'về'.
  54. Chữ 'kham' nguyên bản không có, theo 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 48, phần Ngoại quận khấu tặc bổ sung.
  55. vì đức hạnh ô uế xấu xa không thể chịu nổi, bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các đều viết 'vì đức hạnh ô uế ác xấu không thể chịu nổi', trong 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 100, bài 'Luận Lý Thục Gian Tà Trát Tử' không có chữ 'đức'.
  56. Giặc liền tan rã, chữ 'liền' nguyên là 'giặc', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 48, mục Ngoại quận khấu tặc sửa lại.
  57. chữ 'sai' nguyên bản không có, căn cứ theo sách trên mà bổ sung
  58. Bên cạnh sao Chấp Pháp 'Cạnh' nguyên bản là 'trước', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và bản Toàn văn Tống sử quyển 8 trên sửa lại.
  59. Ân sủng 'Sủng' nguyên bản là 'Vinh', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các sửa lại.
  60. Đặt ở hai phủ, chữ 'hai' nguyên bản là 'tây', căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 trên mà sửa.
  61. Cảnh ưu: 'Ưu' nguyên là 'Nhiễu', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Phạm Văn Chính Công tập tấu nghị》 quyển hạ, chương 'Tuyết Đằng Tông Lượng Trương Kháng' sửa lại.
  62. Mộc băng hàn khổ: 'Mộc' nguyên là 'Thủy', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và sách trên sửa lại.
  63. Chữ 'quy' trong 'tội quy Tông Lượng' vốn bị thiếu, căn cứ theo các bản khác và sách trên bổ sung.
  64. Hai chữ 'Tông Lượng' vốn bị thiếu, căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 40 'Lương Kiên đàn hặc Đằng Tông Lượng', cùng 《Phạm Văn Chính công tập》 bổ sung.
  65. 'Nhút nhát' nguyên bản là 'Pháp', căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và bản sự mạt trường biên kỷ sự cùng trên đã sửa.
  66. Nếu thần là kẻ dối trá, chữ 'thị' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Phạm Văn Chính công tập》 bổ sung.
  67. Tạm ở lại nhiệm sở, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 giống nhau, 《Phạm Văn Chính công tập》 viết là 'tạm ở lại nhiệm sở'.
  68. Họa bên trong, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 giống nhau, Tống bản, Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính công tập》 viết là 'họa bên ngoài', có lẽ đúng.
  69. 'tâu' nguyên là 'nghị', căn cứ vào các bản khác và 《Phạm Văn Chính Công Tập》 quyển thượng, tấu về việc chuộc tội, sửa lại.
  70. 'đang bàn bạc' nguyên là 'gián', căn cứ vào các bản khác và sách trên, sửa lại.
  71. 'tạm thời' nguyên là 'cụ', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu và sách trên, sửa lại.
  72. Ngày 2 tháng 7, các bản đều giống nhau. 《Phạm Văn Chính Công Tập》 chép '7' là '10', 《Cựu Đường Thư》 quyển 2 và 《Thông Giám》 quyển 193 đều chép việc này vào ngày Đinh Mùi tháng 9.
  73. 'tuyển chọn' nguyên là 'thám', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính Công Tập》, sửa lại.
  74. 'tài lực' nguyên là 'tài', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu và 《Cựu Đường Thư》 quyển 2, 《Phạm Văn Chính Công Tập》, sửa lại.
  75. 'sai khiến' nguyên là 'sự', căn cứ vào các bản khác, 《Phạm Văn Chính Công Tập》 và 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 8, sửa lại.
  76. 'người Hán' nguyên thiếu chữ 'Hán', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu và 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 8, bổ sung.
  77. Chữ 'chi' trong câu 'an đắc văn chi nhi bất nhất hãm ư lí' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và bản các bản khác để bổ sung.
  78. Chiết nguyên bản là 'Tân', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác sửa lại.
  79. Lại bị Trương Hải, Quách Mạc Sơn cướp bóc, đốt phá: 'bị' nguyên bản là 'sai', 'Mạc' nguyên bản là 'Mậu', theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 48, 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 quyển 101 sửa lại.
  80. Hơn mười nhóm: 'nhóm' nguyên bản là 'người', theo bản Tống và 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 sửa lại. Bản Tống toát yếu viết là 'bọn', nghĩa giống với 'nhóm'.
  81. Trấn Châm Giản: 'Giản' nguyên bản là 'gian', theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 sửa lại.
  82. Sau nạn giặc Luân: 'giặc Luân' nguyên bản là 'chìm đắm', theo bản Tống, các bản khác và 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 sửa lại.
  83. Những nơi hiện tại chưa dẹp yên: 'nơi' nguyên bản thiếu, theo bản Tống và sách trên bổ sung.
  84. Theo phép chiêm tinh cổ xưa thường nói: 'chiêm' nguyên bản là 'cổ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và sách trên sửa lại.
  85. Nay mầm mống binh đao đã động dưới đất: 'đã' nguyên bản thiếu, 'dưới' nguyên bản là 'thiên hạ', theo bản Tống và sách trên bổ sung, bỏ.
  86. 'Răn dạy' nguyên văn là 'Tuân', căn cứ vào bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và sách trên sửa lại.
  87. 'Bốn việc' nguyên văn là 'Bốn việc của bốn điều', căn cứ vào các bản trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 48 'Ngoại quận khấu tặc', 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 quyển 101 'Luận ngự tặc tứ sự trát tử》 mà bỏ đi.
  88. 'Phương pháp nào' hai chữ nguyên văn không có, căn cứ vào 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 bổ sung.
  89. 'nhiều' nguyên văn là 'đa', theo bản Tống, bản Tống tóm lược, bản các và 《Âu Dương Văn Trung Công văn tập》 quyển 97, bài 'Tái luận án sát quan lại trạng' sửa lại.
  90. 'Chi' trong 'Hiệu lệnh chi thiện giả' vốn không có, căn cứ theo sách trên bổ sung.
  91. 'Như' trong 'bất như triều đình bổn ý' vốn là 'tri', căn cứ theo sách trên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.