IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 150: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 4 (GIÁP THÂN, 1044)
Bắt đầu từ tháng 6 năm Khánh Lịch thứ tư đời Vua Nhân Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 6, ngày mùng một Tân Mão, các phụ thần dâng tấu, trả lời những điều Vua hỏi trong chiếu thư, rằng:
“Thần đây đều được ơn Vua tin dùng, giữ chức ở hai phủ, không thể giúp Vua điều hòa chính sự, sửa chữa lỗi lầm, khiến thiên hạ được giáo hóa, lại để Vua phải lo nghĩ nhiều, đặc biệt ban xuống lời dạy bảo, trên lo cho tông miếu, dưới thương xót sinh linh, thần đây không khỏi lo sợ, run sợ, tội đáng chết!
Chiếu chỉ hỏi: ‘Nên dùng người nào để trấn giữ phương Tây?’ Thần đây suy nghĩ, nay Nguyên Hạo đã sai người đến triều đình, danh phận đã tạm thuận, nhưng người Nhung khó tin, chỉ có thể tạm thời ứng phó. Nếu họ còn lật lọng chưa yên, thì nên chọn tướng có tài thống lĩnh; nếu họ muốn hòa hảo, cũng cần nhờ tài năng trấn phủ, lo liệu biên cương để phòng ngừa họa về sau. Hiện đang chọn người, sẽ kê tên tâu lên sau.
Chiếu chỉ nói: ‘Sức dân khốn khổ, tài chính chưa mạnh.’ Bề tôi bàn rằng, quốc gia đã dẹp bỏ sự bạo ngược của chư hầu thời Ngũ đại, tước bỏ uy quyền của họ, dùng tài chính để tự nuôi quân đội trong thiên hạ. Thời gian đã lâu, thuế má ngày càng nặng, việc biên cương một khi xảy ra, điều động trăm đường, sức dân càng kiệt quệ. Nông nghiệp càng suy yếu[1], hạn hán không có biện pháp phòng bị, thuế má không thu đủ, số lượng giảm thuế thường vượt quá trăm vạn. Nay đang tuyển chọn quan lại tốt, chú trọng gốc rễ để yên dân, tu sửa phòng chống hạn hán, thu lợi từ trời đất.
Lại ban hành mệnh lệnh nghiêm khắc khuyến khích nông nghiệp[2], khiến quan lại trong thiên hạ chuyên tâm khuyến khích sản xuất, dân chúng chăm chỉ làm ruộng, trong vài năm[3], lợi ích lớn sẽ thấy rõ.
Lại nữa, hàng hóa từ núi biển vốn không bao giờ cạn kiệt, chỉ vì quốc gia thay đổi pháp luật một cách nhẹ dạ, thu thuế quá nặng, thương nhân không thông thương, tài chính tự nhiên khốn đốn. Nay cần triều đình tập hợp bàn bạc, cải cách lâu dài, khiến tài chính trong thiên hạ thông suốt, không bị trở ngại. Lại giảm bớt binh lính thừa, chi tiêu theo thu nhập, thì thời kỳ giàu mạnh có thể mong đợi.
Chiếu chỉ nói: ‘Quân mã còn nhiều, làm sao có thể tinh nhuệ?’ Gần đây, Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm dâng văn thư về phòng thủ biên giới, trong đó có năm việc ở Hà Bắc, tám việc ở Thiểm Tây, việc chọn lọc binh mã và kế sách công thủ đều đã bao gồm. Bề tôi đang bàn bạc thực hiện theo thứ tự.
Chiếu chỉ nói: ‘Tướng thần không hòa thuận, làm sao xử trí[4]?’ Xu mật viện trước đây vì Hứa Hoài Đức và Trương Kháng không hòa hợp, đã từng chỉ huy răn dạy, nhưng trong hàng tướng tá, tính tình không giống nhau, yêu ghét đối địch, tất cả đều do chủ tướng phân biệt rõ ràng, vỗ về ngăn chặn, tùy tài mà sử dụng, khiến mỗi người đều được đúng vị trí, thì oán hận sẽ không sinh ra. Vì vậy, tài năng của người đứng đầu, không dám dễ dàng lựa chọn sử dụng.
Chiếu chỉ nói: ‘Những kẻ háo danh tiến thân, nên ngăn chặn sự tranh giành.’ Chúng thần cho rằng những kẻ háo danh tham lam, đời nào chẳng có? Do triều đình phân biệt rõ ràng mà thăng giáng họ. Như trách cứ người thực hiệu, khen ngợi người giữ tiết tháo, kẻ tham lam phải bãi bỏ, kẻ xu nịnh phải chế ngự. Như vậy, thì nhiều người sẽ biết khuyên răn, ai nấy đều mang tấm lòng liêm khiết nhường nhịn.”
[2] Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm lại tâu về việc phân định lợi hại ở Thiểm Tây và Hà Bắc.
– Thiểm Tây có tám việc:
Một, xem xét những nơi dọc biên giới thành trại chưa kiên cố, sửa chữa thêm;
Hai, trong số thổ binh các châu Thiểm Tây, chiêu mộ những người nguyện giữ trại, điều làm biên binh;
Ba, trong số thổ binh Bảo Tiệp mới tuyển, có những người yếu kém không thể chiến đấu, giảm bớt cho về làm ruộng;
Bốn, điều giảm đông binh vào các châu quân thứ biên đóng trại, để tiện lương thảo, khi có việc thì điều động lên biên giới;
Năm, các chỉ huy cung tiễn thủ dọc biên giới, mỗi người xây một pháo đài nhỏ để ở;
Sáu, các lộ cử người, bí mật trước xem xét những nơi hiểm yếu có thể khống chế, và những nơi có thể phục binh;
Bảy, mỗi lộ chọn ba đến năm tướng tá, mười đến hai mươi sứ thần, hai vạn bộ binh, ba nghìn kỵ binh, để chuẩn bị đánh trận;
Tám, xem xét những nơi hiểm yếu dọc dãy Hoành Sơn, nếu tiến quân đánh dẹp thì chiếm chỗ hiểm xây trại, để đoạt đất, khuất phục dân chúng.
– Hà Bắc có năm việc:
Một, cử bề tôi có tài tạm lĩnh chức Chuyển vận sứ Hà Bắc, bí mật lo việc biên giới;
Hai, bàn lại việc hợp quân ba lộ Hà Bắc ở đâu;
Ba, giao cho Xu mật viện chọn người từ chức Các môn chi hầu trở lên, Tam ban viện chọn người trong số sứ thần, mỗi mười ngày hoặc một tháng, trình số người được chọn;
Bốn, ở Thiểm Tây rút mười mấy sứ thần đội chiến đấu, dạy phép Bát trận mới bàn, để huấn luyện các quân;
Năm, các châu huyện Hà Bắc chọn riêng những Tri châu, Tri huyện, Huyện lệnh có thể trị quân, huấn luyện nghĩa dũng[5], và thêm tướng hiệu.
Sau đó, Phạm Trọng Yêm lại tấu: “Thần gần đây cùng Hàn Kỳ dâng tâu về việc biên phòng Thiểm Tây, tạm trình bày tám việc, cần triều đình phái sứ giả đến xử lý linh hoạt mới có thể hoàn thành. Gần đây lại thấy chiếu chỉ hỏi: ‘Nên dùng người nào để trấn giữ phương Tây?’ Hai phủ đã tâu lên và đang chọn người để tiến cử. Hiện người Tây đang nghị hòa, nhưng mưu mẹo khó lường, dù thành hay không, cũng cần phòng bị hậu họa.
Thần đã lâu ở biên cương, thực không có chút công lao nào, nếu nói về việc trấn giữ phương Tây, đảm bảo yên ổn, thì thần không dám nhận, chỉ biết chút ít về tình hình biên cương, nguyện được sai khiến. Dù không có kỳ tích để dẹp đại họa, chỉ mong ngày đêm lo liệu, bố trí binh mã tài chính, cùng chỉ huy các tướng đồng lòng hiệp lực, để ngăn chặn nguy cơ xâm lược. Nay việc phòng thủ mùa thu đã gần, sợ lỡ thời cơ, mong bệ hạ sớm ban chỉ dụ, miễn chức Tham tri chính sự của thần, cho thần làm tri châu một quận biên giới, kiêm chức An phủ, đủ để lo liệu việc biên cương. Xin đừng kiêm thêm chức Chiêu thảo, Bộ thự.” [6].
[3] Đổi trại Long Khẩu Bình ở Diên Châu thành trại Long An, và ban tiền cho quân lính tu sửa trại.
[4] Trước đó, Đô giám Phu Diên là Chu Mĩ đánh bại giặc ở sông Vô Định, thừa thắng tiến đến Châu Tuy, giết tướng giặc, đốt trại, thu được hàng trăm trâu, dê, ngựa, lạc đà và vũ khí, rồi xây thành trại Long Khẩu Bình. Giặc dùng hàng ngàn kỵ binh tinh nhuệ đến tập kích, Chu Mĩ dẫn hơn trăm kỵ binh đánh bại chúng, được thăng làm Kiềm hạt bản lộ.
(Việc này căn cứ theo truyện Chu Mĩ. Tuy nhiên, truyện Bàng Tịch lại nói rằng Vương Tín xây trại Long An, đã ghi kèm vào ngày Mậu Tý tháng 4 năm Khánh Lịch thứ 2, nhưng truyện Vương Tín lại không nhắc gì đến việc xây trại Long An, không rõ vì sao? Cần xem xét thêm.)
[5] Ngày Nhâm Thìn, cho con của Tán trực Lý Khánh là Lý Trung làm Hạ ban Điện thị. Vì Lý Khánh tử trận khi đánh giặc man ở Giám Dục Tỉnh.
[6] Đặt chức Thông phán ở các châu Quân, Phòng, mỗi nơi một người.
[7] Ngày Đinh Dậu, ban sắc bảng xuống cho Tri châu Đàm Châu là Lưu Hãng chiêu dụ bọn giặc man ở Quế Dương Giám, ai đến đầu thú sẽ được ban ân điển theo thứ bậc.
(《Hội yếu》 chương Xuất sư chép việc này sau đó chiêu dụ được hơn hai nghìn người, có lẽ là ghi chép liền mạch. Nay theo 《Thực lục》, vẫn ghi vào tháng mười.)
[8] Ngày Mậu Tuất, Gián quan Dư Tĩnh tâu: “Nguyên Hạo sai người đến cầu hòa, đều là do ý của Khiết Đan, mọi lời nói và hành động của ta, họ ắt đều biết cả. Trước đây vào niên hiệu Cảnh Đức, Khiết Đan huy động cả nước đem quân tiến sâu vào, Tiên đế cùng họ đối trận bên sông, tên bắn đến xa giá, an nguy của thiên hạ chỉ trong khoảnh khắc, cuối cùng chỉ dùng ba mươi vạn vật phẩm để thông hòa với họ.
Nay Nguyên Hạo tuy nhiều lần thắng trận, nhưng đều là do tướng súy khinh địch dễ động, nên mới thành mối lo nơi biên giới. Mấy năm qua tuyển tướng luyện binh, mới biết cách phòng thủ và tác chiến, nhưng lại vội vàng giải hòa, ban vật phẩm lên đến hai mươi sáu vạn. Nếu họ không chấp thuận, lẽ nào lại tăng thêm?
Huống chi việc quân sự có cơ hội, sức nước có hạn, đã lỡ mất từ đầu, dù hối hận cũng không kịp. Thần cho rằng mối lo thời Cảnh Đức, an nguy chỉ trong khoảnh khắc, mà vật phẩm ban ra như thế. Còn mối lo ngày nay, xa tận ngoài biên giới, mà vật phẩm lại nhiều như vậy, thần tuy ngu hèn, cũng lấy làm xấu hổ.
Hơn nữa, thư của Nguyên Hạo, tuy danh nghĩa thuận theo, nhưng lời lẽ rất ngạo mạn, tự nói việc thông hòa không phải là bản tâm của hắn. Nay dù ban thêm nhiều vật phẩm, biên giới đâu dám bỏ phòng bị? Huống chi sức mạnh của Khiết Đan có thể khống chế Nguyên Hạo, nếu nghe tin số vật phẩm ta ban ra, lẽ nào không sinh lòng tham? Những yêu cầu vô độ ấy, rốt cuộc khó lòng đáp ứng, nếu chuyển hướng phòng bị từ phía tây sang phía bắc, họa càng thêm sâu.
Kính xin triều đình suy xét kỹ lưỡng, nhất định phải khiến cho mức độ nặng nhẹ được hợp lý. Việc có hình thái so sánh, cần phải đề phòng. Những yêu cầu quá đáng của Nguyên Hạo, không nên đều chấp thuận, một khi mở đầu nguồn cơn, ngăn chặn thực khó. Chỉ cần xét lợi hại mà tính toán kỹ, nghĩ rằng dù hòa hay không hòa đều có hậu họa, thì không cần phải cố ý chiều theo, để lại nỗi nhục cho nước.”
Tĩnh lại tâu: “Nghe đồn Dương Thủ Tố dâng sớ, xin sớm trở về nước, chưa nghe triều đình chỉ thị. Thần nghĩ rằng kế hoạch hòa hảo, việc báo cáo đồng ý hay không, là do Nguyên Hạo, không phải do sứ giả. Thủ Tố tuy có danh nghĩa thương lượng, nhưng chắc chắn chưa chịu quyết đoán. Nay nếu không sớm phái đi, e rằng sẽ nảy sinh oán hận.
Xét Nguyên Hạo bên ngoài thì làm theo Khiết Đan, bên trong thì tham lam vàng bạc của ta, nhưng tính hung hãn của hắn, chắc chắn không thật lòng. Bởi từ khi xuất quân đến nay, chưa từng thất bại, thế lực vẫn còn lớn mạnh, lòng tham không đáy. Lần này dù hòa hay chưa hòa, chắc chắn sẽ đại cử binh mã. Tính cách của rợ phương Bắc hay thay đổi, thắng thì kiêu ngạo, bại thì quay về, đó là lẽ thường tình.
Thần cho rằng kế sách hiện nay, không gì bằng ấn định số lượng cống phẩm hàng năm và giới hạn buôn bán, nói rằng hai nước giữ gìn biên giới, không xâm phạm lẫn nhau, quan hệ Vua tôi như xưa, không còn nghi ngờ. Đã ra lệnh cho biên thủ, chờ đợi sứ giả đến. Xử lý như vậy, không cần biết Thủ Tố đồng ý hay không. Thần lại sợ rằng quan hệ hai nước nhờ Thủ Tố mà thành, Khiết Đan sẽ đòi công, thế không thể ngăn.
Huống chi Lương Thích nói sai, kẻ địch đã mong đợi lâu. Việc thành mà tạ ơn cũng có hại, việc thành mà không báo cũng có hại. Tạ ơn thì hại nhỏ, không báo thì hại lớn, đó lại là mối lo về sau. Nếu may mà Nguyên Hạo chưa thỏa mãn, thì ta có thể thắng nhỏ, hắn sẽ tự đến. Nếu cầm chân sứ giả, đợi hắn quy phục, dù có được ước thúc, cũng chưa thể tin được.
Còn Doãn Dữ Tắc, Dương Thủ Tố[7], xin sớm phái đi.”
(Tấu này của Tĩnh không rõ ngày nào, nay phụ chép vào đây.)
[9] Ngày Quý Mão, đổi Tôn Miễn, người mới nhận chức Tri châu Vị Châu, lại làm Tri châu Khánh Châu; Doãn Chu, người mới nhận chức Tri châu Khánh Châu, làm Tri châu Tấn Châu.
Ban đầu, triều đình muốn hoàn thành việc xây thành Thủy Lạc, nên lệnh cho Doãn Chu và Tôn Miễn đổi chức vụ. Tôn Miễn lấy cớ bệnh từ chối, bèn điều Doãn Chu đi nơi khác. Do đó, chức Thứ sử châu Vị bị khuyết, triều đình ra chiếu ủy thác cho Địch Thanh. Gián quan Dư Tĩnh tâu rằng: “Kinh Nguyên là nơi trọng yếu nhất ở Thiểm Tây, ngay cả Phạm Trọng Yêm cũng không dám một mình đảm đương, huống chi Địch Thanh là người thô bạo, sao có thể giao trọng trách một mình?” Dư Tĩnh dâng tới bốn chương sớ, trong đó có một chương viết: “Tĩnh bàn rằng Địch Thanh là võ tướng, nếu để một mình giữ châu Vị, e rằng sẽ làm hỏng việc biên cương.”
(Việc này được ghi trong bản truyện của ông. Sáu chương sớ dựa theo bản thảo của Dư Tĩnh, nhưng bản truyện và thực lục đều không ghi chép. Hai chương bàn riêng về Thủy Lạc, bốn chương chuyên bàn về việc Địch Thanh nhận chức ở châu Vị:
“Thần trộm nghĩ, triều đình dùng uy thế để chế ngự thiên hạ, chủ yếu dựa vào hai phương diện là hình phạt và ban thưởng. Bậc thánh nhân không tùy tiện ban thưởng, cũng không tùy tiện trừng phạt. Việc cùng một tội mà hình phạt khác nhau là điều mà bậc minh chủ không làm. Nay Địch Thanh và Doãn Chu đều bị xử tội vì việc không hợp lý trong việc giam cùm Lưu Hỗ để tranh chấp xây thành Thủy Lạc. Nhưng Doãn Chu bị cách chức, còn Địch Thanh lại được giữ chức ở châu. Điều này không chỉ khiến việc thưởng phạt không minh bạch, mà còn là sự sắp xếp không hợp lý.
Thần xin trình bày rõ: Ban đầu, triều đình cho rằng Địch Thanh và Doãn Chu tuy có lỗi trong việc đột ngột bạo hành, không nên giam cùm Lưu Hỗ, nhưng vì chiếu chỉ của triều đình không cho phép xây thành, lại sợ làm tổn hại uy thế của các tướng, nên đã điều Doãn Chu sang nơi khác, còn Địch Thanh vẫn giữ chức vụ.
Âu Dương Tu trong sớ ngày 26 tháng 4 năm Bính Thìn có nói rằng điều Doãn Chu mà không động đến Địch Thanh, tức là việc mà Dư Tĩnh gọi là “đương lộ”, nhưng không rõ là chức vụ gì. Nay đã không cho Địch Thanh một mình giữ châu Vị, ắt là sẽ điều ông ta sang Bính Đại. Việc điều Địch Thanh “đương lộ” chưa rõ ràng.
Ngày 16 tháng 8 năm Ất Tỵ, Địch Thanh từ chức Quyền Bính Đại Bộ Thự lại được làm Kinh Nguyên Bộ Thự, nhưng không rõ ngày nào ông ta nhận chức Quyền Bính Đại Bộ Thự, có lẽ là sau khi có ý định cho ông ta một mình giữ châu Vị. Điều này thể hiện ý tốt của triều đình muốn bảo vệ uy thế của các tướng. Nhưng nay chỉ vì Tôn Miễn cáo bệnh, triều đình đã quên mất những thỏa thuận trước đây. Ngoài việc cùng tội mà hình phạt khác nhau, Địch Thanh còn được thăng chức, điều này có sáu điểm không hợp lý:
1. Thần cho rằng trong các chức quan hiện nay trong thiên hạ, người có tài năng khó kiếm nhất chính là ở bốn phủ Súy phủ Thiểm Tây. Trong bốn lộ này, nơi đối mặt với giặc cướp và dân chúng bị tàn phá, quân đội suy yếu, thì Kinh Nguyên là nơi nghiêm trọng nhất. Nên chọn người tài trí bậc nhất trong thiên hạ, giao cho việc chính sự quân dân ở Kinh Nguyên. Nay giao cho Địch Thanh, một người cương cường hung hãn, là điều không thể chấp nhận thứ nhất.
2. Triều đình vốn cho rằng võ tướng thô bạo, sợ khi xử lý việc không được tinh tường, nên sai văn thần trấn phủ, chuyên quyết định việc tiến lui. Nay Địch Thanh không nghĩ đến ý nghĩa chế ngự từ trước, là điều không thể chấp nhận thứ hai.
3. Ban đầu vì Địch Thanh xuất thân từ hàng ngũ, nổi tiếng dũng cảm, chưa từng gặp đại địch, chưa lập được công lớn, triều đình khen thưởng quá mức, lòng người chưa phục. Nay giao cho thống lĩnh một lộ binh mã, chắc chắn không có tài năng kiêm nhiệm để khiến người dưới phục. Huống chi với tài năng của Doãn Chu mà còn như vậy, nếu giao cho một người cương cường cố chấp, mọi người chưa phục, ắt sẽ dẫn đến thất bại, là điều không thể chấp nhận thứ ba.
4. Vốn chọn dùng Địch Thanh, cho rằng ông ta cương quyết có thể làm tướng chiến đấu, nay lại kiêm nhiệm chức Tri châu Vị Châu. Hơn nữa, tướng giữ thành lấy việc phòng thủ làm năng lực, tướng chiến đấu lấy dã chiến làm dũng cảm, mỗi người đều có cách an ủi quân dân. Nay Địch Thanh ra trận, thì phải có người khác giữ thành, giữ thành thì phải tìm tướng giữ thành, lẽ nào một người có thể kiêm nhiệm được? Là điều không thể chấp nhận thứ tư.
5. Hôm qua Địch Thanh và Doãn Chu cùng giam khảo Lưu Hỗ, triều đình cho rằng họ quá bạo ngược, nên điều Doãn Chu đến Khánh Châu, nay Doãn Chu bị giáng chức, còn Địch Thanh được thăng chức, là triều đình đổ lỗi cho Doãn Chu. Hơn nữa, Địch Thanh là võ tướng thô lỗ, lẽ nào hoàn toàn không có khí phách? Việc giam cầm Lưu Hỗ, chưa chắc hoàn toàn do Doãn Chu, đổ lỗi cho Doãn Chu, việc chưa rõ ràng, là điều không thể chấp nhận thứ năm.
6. Phàm người đột nhiên được quý hiển, không thể không kiêu ngạo, Địch Thanh xuất thân từ hàng ngũ, lên đến chức tướng suý, khí chất thô hào đã lộ rõ, như việc triều đình sai y quan đến, người này mang chức ở kinh thành, Địch Thanh vì một cơn giận mà đánh đập. Hành động tùy tiện như vậy, lẽ nào là do Doãn Chu sai khiến? Triều đình đổ lỗi cho người khác, cũng phải xem xét sự thật, là điều không thể chấp nhận thứ sáu.
Hơn nữa, Khánh Châu là biên giới xa xôi, không phải nơi dưỡng bệnh, kính xin triều đình chọn người tài trí khác, để giữ chức Tri châu Vị Châu, kiêm quản việc tiến lui của một lộ binh mã, giao riêng cho Địch Thanh việc chiến đấu. Nếu Tôn Miễn không bệnh, thì nên sai đến nhậm chức ở Vị Châu, nếu thực sự bệnh, thì triệu về kinh sư chữa trị, để thể hiện ý lo lắng biên cương và cẩn trọng trong việc trừng phạt của triều đình.”
Lại nói: “Thần gần đây tấu rằng việc Địch Thanh làm Tri châu Vị Châu, Doãn Chu làm Tri châu Tấn Châu không hợp với dư luận, nhưng chưa nhận được chỉ dụ của triều đình. Thần trộm nghĩ, nếu không phải là do các đại thần hoàn toàn không có lòng lo lắng biên cương, thì chính là do thần phải chịu tội lừa dối bề trên, trong hai điều này ắt có một.
Thần suy nghĩ về bốn lộ Thiểm Tây, chỉ có Kinh Nguyên là nơi núi sông rộng rãi, bằng phẳng, dễ bị xâm phạm. Nếu thế lực quân địch không bị ngăn chặn, thì sẽ trở thành mối lo cho Quan Trung. Quan Trung chấn động, thì sẽ là mối lo của cả thiên hạ. Vì vậy, từ khi quốc gia có việc phương Tây[8], Kinh Nguyên luôn được coi là nơi đặt phủ thống soái.
Năm ngoái, sau khi Cát Hoài Mẫn thất bại, triều đình muốn cử Phạm Trọng Yêm đến đó để chỉnh đốn, còn phái trung sứ đến truyền đạt ý chỉ. Lúc đó, Trọng Yêm không dám một mình đảm nhận việc này, nên xin cử Hàn Kỳ cùng đi. Triều đình giao cho Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm cùng nhau kinh lược, lại cử Trương Kháng làm Tri châu Vị Châu, Địch Thanh cùng làm Bộ thự một lộ. Hàn Kỳ và Trọng Yêm tuy danh là Chiêu thảo bốn lộ, nhưng thực chất chỉ lo việc Kinh Nguyên, Trương Kháng đảm nhận châu ký, Địch Thanh làm tướng chiến đấu, từ đó cho thấy triều đình lo lắng cho Kinh Nguyên sâu sắc đến mức nào.
Đến năm ngoái, triều đình triệu Hàn Kỳ và Trọng Yêm về kinh, lại sai trung sứ hỏi Trọng Yêm ai có thể thay thế, bèn cử Trịnh Tiển thay Hàn Kỳ và Trọng Yêm làm Chiêu thảo bốn lộ, Doãn Chu thay Trương Kháng làm Tri châu Vị Châu[9].
Đến mùa thu, lại cử Hàn Kỳ và Điền Huống đến đó tuyên phủ, từ đó thấy rõ triều đình chưa từng quên Kinh Nguyên. Năm nay đã bãi chức Trịnh Tiển về Vĩnh Hưng, lại điều Doãn Chu làm Tri châu Tấn Châu, khiến Địch Thanh một mình kiêm nhiệm ba chức vụ.
Hơn nữa, Phạm Trọng Yêm vốn được coi là người hiểu rõ việc biên cương, nhưng cũng không dám một mình đảm nhận, Tôn Miễn cũng là người được triều đình tinh tuyển, nhưng lại viện cớ bệnh tật không đi, điều này cho thấy Kinh Nguyên có tình thế đáng lo, lẽ nào Địch Thanh một mình có thể đảm đương được! Phạm Trọng Yêm há quên điều đó sao? Các đại thần ắt cho rằng Hàn Kỳ và Trọng Yêm hai năm ở Kinh Nguyên đã xây dựng được quy củ, nên chỉ cần giao cho Địch Thanh là đủ giải quyết việc, nhưng thần thực sự cho rằng không phải vậy.
Từ sau khi Hoài Mẫn bại vong, khí thế quân đội suy sụp, chưa có được chiến thắng nhỏ nào, dân chúng sau khi bị cướp bóc, tuy có người trở về, nhưng sinh kế chưa ổn định. May mắn là giặc chưa đến nên tưởng rằng mọi thứ vẫn nguyên vẹn, việc nghị hòa chưa định đoạt mà đã sớm buông lỏng, giảm bớt tướng lĩnh, lòng quân dân còn trông cậy vào đâu mà dám tự an lòng? Hơn nữa, trước đây trong khu vực sinh hộ xây dựng một thành trại, vẫn còn bị cướp bóc giết hại, không thể bảo vệ lẫn nhau, nếu ngựa giặc đến, ai còn dám yên tâm? Điều này cho thấy các đại thần hoàn toàn không có lòng lo lắng biên cương.
Ban đầu, do Địch Thanh và Doãn Chu hành sự vội vàng, làm phiền triều đình, thần nghĩ rằng ý triều đình cho rằng hai người này có tình cảm thiên lệch, cùng nhau xướng họa, nên đổi Tôn Miễn lên trên Địch Thanh, muốn mọi việc có thể bàn bạc. Nay chỉ vì Tôn Miễn cáo bệnh, nên toàn bộ binh mã Kinh Nguyên đều giao cho Địch Thanh quyết định. Lẽ nào thiên hạ rộng lớn lại không có một nhân tài kỳ lạ nào có thể cùng Địch Thanh xử lý việc ở Vị Châu? Điều này cho thấy các đại thần không suy nghĩ kỹ.
Hơn nữa, ban đầu do hành sự vội vàng, triều đình không muốn trị tội, nên Địch Thanh được nắm quyền binh, không biết đó là thưởng phạt gì? Vả lại, Địch Thanh từ trong quân ngũ bỗng nhiên được thăng tiến, chưa lập đại công, được ân điển siêu thăng, tính tình lại thô bạo keo kiệt, các tướng dưới quyền không phục, nên Lưu Hỗ dám mắng Doãn Chu là “sữa còn thơm”, Địch Thanh chỉ là một kẻ tầm thường.
Nay để Địch Thanh một mình đảm nhiệm một lộ, lẽ nào không lo các tướng dưới quyền không phục mà làm hỏng việc quốc gia? Dù nghe đồn Trọng Yêm xin đi, nếu triều đình đồng ý, cũng chỉ đóng quân ở Kinh Châu để kiểm soát đại cục, cần phải có Tri châu Vị Châu khác cùng Địch Thanh bàn bạc tình thế chiến thủ. Huống chi Bàng Tịch giữ Diên Châu còn cùng Vương Tín đồng sự, nay lại không bằng Địch Thanh một mình đảm nhiệm lộ khó khăn nhất, lẽ nào Bàng Tịch xấu hổ không muốn cùng làm việc, nên oán hận? Triều đình thiếu nhân tài đến mức này.
Thần xin bệ hạ hỏi các đại thần, nếu sau này ngựa giặc xông vào Kinh Nguyên, Địch Thanh quả thật có thể đảm bảo thế tất thắng, không để triều đình lo lắng, thì thần xin chịu tội chết trước, để đền tội lừa dối.”
Lại nói:
“Thần đã nhiều lần dâng sớ tâu bày, cho rằng việc Địch Thanh kiêm nhiệm chức Tri châu Vị Châu là không thích đáng, nhưng chưa được triều đình nghe theo. Điều này là do các đại thần hai phủ không quan tâm đến lợi hại của xã tắc, chỉ muốn cố chấp làm việc sai trái. Kể từ khi giặc Tây tiếm loạn, Kinh Nguyên liên tục bị xâm phạm, Nhậm Phúc thua trận ở Hảo Thủy, Cát Hoài Mẫn thua trận ở Định Xuyên, Quan Trung chấn động, Vua tôi phải lo lắng đến mức ăn không ngon.
Thần cho rằng triều đình nên tuyển chọn kỹ lưỡng những người tài giỏi văn võ để cùng nhau giữ gìn biên cương. Nhưng kế hoạch chưa chu toàn, nghe can gián mà không chịu nghe theo, há chẳng phải là không quan tâm đến lợi hại của xã tắc sao? Lợi hại của Kinh Nguyên có thể tính toán được, và trước đây khi Phạm Trọng Yêm được cử đi, nhất định phải có Hàn Kỳ cùng đi, nhưng ngày nay những mưu tính trong chính sự lại không vì lo lắng cho đất nước, những người cùng bàn luận việc này cũng nên xem xét kỹ lưỡng.
Thần đoán rằng các đại thần cố gắng biện minh, lý lẽ của họ có hai điểm: thứ nhất là hiện nay không có người văn võ nào có thể cử đi, thứ hai là từ trước đến nay, võ tướng ở biên cương thường bị văn thần chèn ép, không bằng giao phó hoàn toàn cho võ tướng, yêu cầu họ lập công. Đây đều là những lời biện minh thiển cận, vốn không phải là luận điệu thông suốt.
Hiện nay thiên hạ rộng lớn, người đội mũ cửu quan, đeo đai ngọc, ra vào triều đình, đứng hàng thị tòng nhiều như nêm cối, nhưng tìm một người làm Tri châu biên quận thì lại không thể có được, đó là lỗi của người chấp chính trong việc tiến cử hiền tài. Tìm một người tài mà chia sẻ trách nhiệm, dù không có kỳ tài, so với việc giao phó hoàn toàn cho một người, chẳng phải tốt hơn sao?
Huống chi trận thua ở Hảo Thủy, Hàn Kỳ làm Chiêu thảo sứ, trận thua ở Định Xuyên, Vương Duyên làm Đô bộ thự, đều được coi là những người tinh nhuệ của triều đình, nhưng vẫn không tránh khỏi thất bại, lẽ nào Địch Thanh một mình có thể làm được? Hơn nữa, luận điệu cho rằng võ tướng ở biên cương bị văn thần chèn ép vốn là điều không hợp tình lý, và khi Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm cầm quân, tự xưng là mưu thần an biên, nhưng khi về triều lại sinh ra luận điệu sai lầm về việc bị chèn ép. Nếu theo lý lẽ đó, thì Bàng Tịch, Văn Ngạn Bác, Tôn Miễn đều có thể bãi chức hết.
Xem xét việc làm của Địch Thanh, như việc quyết định về y quan, bắt giữ Lưu Hỗ, đều là những hành động kiêu ngạo quá mức, làm sao có thể một mình thống lĩnh quân đội được?
Hơn nữa, việc Thủy Lạc sắp thành công lại vội bắt Lưu Hỗ, dẫn đến họa cướp bóc, giết chóc, khiến cho rợ Di cười nhạo, tài năng của tướng súy từ đây có thể thấy rõ. Huống hồ triều đình đặc phái Ngư Chu Tuân đi điều tra và phát hiện có lỗi lầm, lại được thăng chức, mệnh lệnh của triều đình, lấy gì để tin tưởng?
Đừng cho rằng Dương Thủ Tố đến đây giảng hòa[10], mà nói rằng biên giới không đáng lo. Mùa xuân năm nay, sau khi Trương Diên Thọ đi, quân đánh tới Tần Châu, hơn một nghìn hộ dân quen thuộc ở Bình Xuyên[11], bị quét sạch, trong thành hoảng sợ, quan biên thần không báo cáo sự thật, đây là mối họa trước mắt, không cần dẫn chứng từ xưa.
Xin sớm chọn cử người tài trung thành cần mẫn, để làm Tri châu Vị. Nếu lời tôi không có giá trị, xin cho trở lại chức cũ, đó là phần của tôi. Nếu cho rằng mệnh lệnh đã ban ra khó thay đổi, thì triều đình từ nay về sau cứ đặc cách thi hành[12], cần gì phải can gián.”
Lại cùng với đồng liêu nói:
“Chúng thần đã nhiều lần dâng sớ, bàn về việc bổ nhiệm Địch Thanh và các viên chức khác không hợp lý. Nay nghe rằng các đại thần vẫn kiên quyết không chịu thay đổi. Gần đây, chúng thần đã cùng bàn về hai việc của Sầm Thủ Tố và Địch Thanh. Sầm Thủ Tố là người thân cận của bệ hạ, chỉ vừa mới bị cách chức ở Hoàng thành ty, chưa nên bổ nhiệm lại, nhưng bệ hạ muốn mệnh lệnh được thi hành ngay, nên đã lập tức thay đổi quyết định.
Còn Địch Thanh vốn có lỗi[13], đáng bị giáng chức, nhưng triều đình vì tiếc tướng biên cương nên chỉ cho tiếp tục giữ chức cũ. Các đại thần không chọn được người tài, lại giao chức vụ ở châu cho Địch Thanh, rõ ràng là sai lầm. Chúng thần đã nhiều lần tâu trình, lợi hại rất rõ ràng, nhưng các đại thần vẫn cố chấp, không chịu thay đổi quyết định ban đầu.
Xét tình hình thiên hạ hiện nay, điều đáng lo nhất là mối họa từ phương Bắc, mà mối họa đó ở Thiểm Tây, trong đó việc an nguy cấp bách nhất lại nằm ở Kinh Nguyên. Từ khi xảy ra việc phương Tây, giặc chỉ một hai lần xâm phạm các lộ như Diên Châu, duy chỉ có Kinh Nguyên từ sau khi Cao Kế Tung và Vương Quy nhiều lần chống cự đẩy lui được giặc, lại thêm thất bại ở Hảo Thủy và Định Xuyên, nên ý đồ của giặc há chẳng phải là luôn nhắm đến lộ này?
Bởi Kinh Nguyên núi sông rộng lớn, đường sá bằng phẳng, nếu biên thần không khống chế được, giặc có thể thẳng tiến vào Quan Trung. Tình thế như vậy, sao có thể giao phó nhẹ dạ cho người khác? Giả sử giặc vây đánh Trấn Nhung, Địch Thanh vốn là bộ thự, há lại không xuất quân cứu viện? Nhưng nếu Địch Thanh xuất quân, ai sẽ giữ thành? Nếu giặc dùng một hai vạn quân chặn Địch Thanh, rồi từ đường tắt dẫn quân thẳng tới Vị Châu, thì lại còn ai phòng thủ?
Thần nghe các đại thần bàn luận, chỉ muốn chọn lựa kỹ lưỡng chức Thông phán. Trước đây, Doãn Chu giữ chức Tri châu với chức vụ ở Quán, người Quan Trung cho rằng khí thế của Chu còn nhẹ, lo trước rằng khi có việc gấp sẽ không thể khống chế được quân sĩ, huống chi chỉ giao phó cho một chức Thông phán nhỏ, sao có thể giải quyết được việc! Nói như vậy, thì châu Vị cần phải có người tài giỏi khác cùng với Địch Thanh chia nhau đảm nhiệm công việc, mới tránh được nỗi lo sâu xa của triều đình.
Bệ hạ muốn mệnh lệnh được thi hành, dù người thân cận đã được bổ nhiệm, cũng lập tức thay đổi, các đại thần nhìn thấy tình hình biên giới như vậy, không lo lắng nhiều, cứ khăng khăng giữ ý kiến sai lầm, cố chấp bàn luận, khiến ý của thiên tử dễ thay đổi, còn thành kiến của đại thần thì khó sửa. Xin Bệ hạ lấy ý an nguy mà thẳng thắn bảo các đại thần, lệnh chọn người có tài năng và danh tiếng lâu nay, giao phó chức vụ ở phủ Kinh Nguyên. Nếu không xử lý như vậy, e rằng sau này hối hận cũng khó kịp.”)
Sau đó có chiếu, điều Địch Thanh tạm giữ chức Bộ thự ở Tịnh Đại. Bảy ngày sau ngày Quý Mão[14], bèn bổ nhiệm Vương Tố làm chức Suy phủ Kinh Nguyên, có lẽ là do Tĩnh nhiều lần nói vậy.
(Lại theo 《Thực lục》, ngày 16 tháng 8 năm Ất Tỵ, Thứ sử châu Tần, quyền Bộ thự Tịnh Đại Địch Thanh được làm Đoàn luyện sứ châu Huệ, Đô chỉ huy sứ Phủng Nhật Thiên Vũ, Bộ thự Kinh Nguyên. Việc Địch Thanh điều đến Tịnh Đại không rõ ngày tháng nào, chắc cũng do Tĩnh nhiều lần bàn luận không thôi, nên tạm điều đi. Chưa đầy ba tháng, lại trở về chức cũ. Nhưng 《Thực lục》 không chép việc này, nay tạm ghi lại, đợi sau khảo xét thêm. Việc của Sầm Thủ Tố, 《Thực lục》 cũng không chép.)
[10] Ban tiền cho quân sĩ và dân đinh ở giám Dục Tỉnh vì đã bắt giết giặc Di.
[11] Ngày Giáp Thìn, ty Kinh lược an phủ lộ Kinh Nguyên tâu rằng việc tu sửa thành Thủy Lạc đã xong.
[12] Ngày Đinh Mùi, tháp Linh Bảo ở chùa Khai Bảo bị cháy, Gián quan Dư Tĩnh tâu rằng:
“Thần thấy tháp chùa Khai Bảo bị lửa trời thiêu rụi. Theo chiêm nghiệm ngũ hành, đây vốn là điềm tai biến, triều đình nên cảnh giác lo sợ để đáp lại ý trời. Nghe nói đã sai người đào nền tháp tìm được xá lợi chôn cất từ trước, đưa vào nội đình xem xong rồi gửi trả lại chùa, cho phép sĩ thứ đốt hương chiêm bái. Trên đường đồn đại rằng, khi xá lợi ở trong nội đình, có nhiều điềm quang quái. Thần sợ rằng những kẻ xảo nịnh sẽ nhân đó suy tôn là linh dị, làm mê hoặc thị hiếu, trước từ nội đình, sau lan ra bốn phương, thu gom tiền của, để mưu tính xây dựng lại. Thần kém cỏi giữ chức gián quan, thấy việc này không thể không nói.
Thần nghe nói việc làm của đế vương, chỉ cần siêng năng tiết kiệm, tu sửa đức hạnh, cảm động lòng người, thì dù gặp nguy nan, sau ắt được yên ổn. Thần xem thiên hạ ngày nay, từ khi dùng binh nơi biên thùy phía tây, kho tàng quốc gia trống rỗng, dân gian mười nhà chín nhà trống không. Nếu bệ hạ chăm chỉ tự trách mình, lo cái lo của dân, thì dân bốn phương yên ổn, đều được hưởng phúc. Nếu không thương xót nỗi khổ của dân, rộng làm việc phung phí, thờ Phật cầu phúc, thì không phải là điều mong đợi ở hiện tại. Huống chi Phật là giáo lý ngoài đời, người trị thiên hạ không nên theo. Cắt xén chỗ thiếu thốn của dân đen, cung phụng chỗ dư thừa của tăng nhân tầm thường, lại còn xa xỉ lộng lẫy, đó không phải là việc của đế vương.
Có người khuyên bảo thần rằng: ‘Nếu có xây dựng, ắt không lấy từ kho phủ, chỉ dùng những vật vô dụng trong nội đình[15], ước tính giá trị mà ban cho. Cũng không bắt buộc dân, để tự các tăng đồ kêu gọi người có lòng bố thí, tích năm dồn tháng mà thành, có hại gì đâu?’
Thần đáp rằng: ‘Dân trong thiên hạ đều chán ngán sự phiền hà của thuế má, không thể sống yên, đến nỗi có cha con vợ chồng nắm tay nhau nhảy xuống giếng mà chết, sự cùng khốn đã đến cực điểm. Bệ hạ nếu thương xót nỗi khổ của dân, lấy những vật vô dụng trong hậu cung, tiền bạc dư thừa trong nội phủ, đem ra giúp chi phí biên giới, miễn thu thuế ruộng một năm cho dân trung lưu, ban chiếu rõ ràng mà cáo tri trong ngoài, đó mới là Bệ hạ kết được lòng thiên hạ, cảm triệu được khí hòa, dù xây trăm tháp cũng không bằng được[16]. Nếu làm những việc phù phiếm vô dụng[17], dân càng oán hận thôi.’
Lại nữa, hai năm trở lại đây, việc giảm bớt chi tiêu trong hậu cung đều cho rằng trong cung bị bức bách, không như trước kia. Nay một ngày bố thí, thì của cải không có kỷ cương, làm sao lấy được lòng tin của thiên hạ? Ban đầu vì người dân chợ búa ít người biết, thấy trong cung kính trọng, liền cùng nhau xúi giục, đổ hết của cải, gây hại càng sâu. Nếu cho rằng vật qua lửa mà không hỏng là điều thần kỳ, thì vốn nó ở dưới đất, lửa không chạm tới. Nếu nói xá lợi có thể phát ra ánh sáng kỳ lạ, ắt có thần linh nương tựa, đó là lời nói dối[18].
Hơn nữa, một tòa tháp không thể tự bảo vệ, bị lửa thiêu hủy, thì phúc lành gì có thể che chở cho dân? Nay gỗ mục cỏ thối đều có ánh sáng, thủy tinh và ngọc tròn, ban đêm cũng có ánh sáng, huống chi xá lợi vốn là vật kỳ lạ từ phương Bắc, có ánh sáng cũng không phải là điềm lành ngày nay. Xưa Lương Vũ Đế xây tháp Trường Can, xá lợi cũng thường có ánh sáng, đến khi Đài Thành thất bại, sao có thể mang lại phúc lành? Xem việc này có thể rút ra bài học. Tháp xá lợi chùa Khai Bảo, xin hãy ra lệnh không xây dựng nữa, trên để thấy sự sáng suốt không mê muội của bệ hạ, dưới để tỏ rõ ý yêu dân của quốc gia, lại xin không đưa vào trong cung cúng dường nữa.
Hơn nữa, quân hiệu người Hồ đều gọi xá lợi, xá lợi vào cung là điềm không lành[19], càng nên cảnh giác. Những người đốt đầu cháy tay, cũng xin cấm tuyệt.”
Lúc đó đang là mùa hè nóng nực, Dư Tĩnh tâu với Vua hết lời. Dư Tĩnh vốn không chú trọng vẻ ngoài, Vua vào cung nói: “Bị một gã hôi hám làm cho ngạt thở, nhổ nước bọt lên mặt ta.” Vua khoan dung với bề tôi can gián như vậy. (Theo 《Giang thị chí》.)
Ngày Canh Tuất, Vương Tố, người giữ chức Hoài Nam đô chuyển vận án sát sứ, Binh bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế, được bổ nhiệm làm Hình bộ lang trung, Kinh Nguyên lộ kinh lược an phủ sứ, kiêm tri Vị châu.
Khi còn ở Hoài Nam, Vương Tố đi tuần tra đến các quận ấp và trường vụ, chỉ hỏi về việc thuế khoá có đủ hay không, chưa từng bới móc những việc nhỏ nhặt để bắt bẻ quan lại. Ban đầu mọi người thấy ông có vẻ không quan tâm đến chi tiết, nhưng thực chất ông bố trí tai mắt rất rộng, nếu có ai bị hặc tội, đều là những người phạm tội rõ ràng. Vì vậy, mọi người đều cảm thấy như Vương Tố đang ngồi nhìn vào nhà mình, nên không ai dám làm điều sai trái.
(Điều này được ghi trong 《Chu sử phụ truyền》, không rõ ai viết, tạm ghi lại để tham khảo. Giang Lân Kỷ nói: Vương Trọng Nghi (tức Vương Tố) làm tướng ở Bình Lương, khi ra khỏi cửa thành, đội mũ dài, mặc áo tứ giáo, đeo đai vàng, ngựa và yên cương đều xứng đáng. Tử Dã (tức Trương Tiên) đi cùng đến Cam Đường, quay lại nói với các con cháu: “Không ngờ Trọng Nghi lại sa sút đến mức này”. Xét tháng 8 năm đó, Vương Chất được bổ nhiệm làm Tri Hiệp châu, vì vậy Vương Tố tuy có lệnh bổ nhiệm này, nhưng đến tháng 8 mới rời kinh thành.)
[13] Lương Tế Thế, người Khiết Đan quy thuận, đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Chủ bạ huyện Sở Khâu, phủ Ứng Thiên. Tế Thế vốn là người Châu Trác, từng làm chủ văn thư dưới trướng quân địch, một ngày nọ phạm tội nên chạy về, và báo rằng quân địch sẽ yêu cầu cắt đất.
Sau đó, Lưu Lục Phù đến, Vua đưa thư cho các đại thần xem, sắc mặt họ đều không thay đổi, Lục Phù cũng nghi ngờ việc này đã bị lộ trước. Triều đình biết trước việc quân địch yêu cầu cắt đất là nhờ Vương Quả mua được bản thư của địch. Lại có chuyện Lương Tế Thế về báo, phải chăng Tế Thế nhờ Vương Quả mà quy thuận, chỉ là một việc nhưng sử sách ghi chép khác nhau nên không khớp? Cần xem xét thêm.
[14] Ngày Tân Hợi, thăng chức Chỉ huy Chế Thắng ở Thiểm Tây lên trên Chỉ huy Hùng Vũ.
[15] Ban cho Mông Thủ Trung, người quy thuận, chức Đại Lý bình sự, được phong tước Tiến sĩ xuất thân.
[16] Ngày Nhâm Tý, xuống chiếu xét xử các tù nhân trong thiên hạ, giảm tội lưu đày và đồ làm phạm một bậc, tha tội đánh trượng và roi, những người phạm tội tạp đến mức tử hình nhưng tình tiết đáng thương thì tâu lên xin xét lại, vì có hạn hán.
[17] Phạm Trọng Yêm, Tham tri chính sự, được bổ nhiệm làm Tuyên phủ sứ hai lộ Thiểm Tây và Hà Đông.
Trước đó, Trọng Yêm tâu rằng: “Thần trộm thấy Khiết Đan phái sứ giả đến nói muốn đánh phía tây, nay các tin tức thám báo ở biên giới đều nói Khiết Đan đang huy động một lượng lớn binh mã để đánh dẹp bộ tộc Ngai Nhi và Giáp Sơn, đồng thời cũng nói rằng họ đang giao chiến với quân đội của Nguyên Hạo. Lại có tin báo rằng Nguyên Hạo cũng đã tập hợp quân mã cánh tả. Đây là hành động của hai nước, ắt phải có việc lớn.
Theo thần suy đoán, các bộ tộc nhỏ như Giáp Sơn làm sao khiến hai nước phải huy động đại binh để đánh dẹp? Đây là điều đáng nghi thứ nhất.
Hơn nữa, Nguyên Hạo vốn chỉ dựa vào Khiết Đan để xâm lấn Trung Nguyên, nay không có lý do lớn, sao dám đột nhiên đoạn tuyệt với Khiết Đan và đem quân đối đầu? Đây là điều đáng nghi thứ hai.
Từ xưa, các bậc thánh hiền đều nói rằng kẻ địch không có chữ tín, nay triều đình lại muốn dựa vào họ, đây là điều đáng nghi thứ ba.
Trước đây, Khiết Đan đã yêu cầu Trung Quốc nộp vật phẩm, muốn khuất phục triều đình, còn Nguyên Hạo xưng hiệu tiếm vị, quấy nhiễu biên giới, nhiều lần bắt giữ tướng lĩnh. Nếu lời thề ước có thể tin được, sao lại có hành động như ngày nay? Đây là điều đáng nghi thứ tư.
Hà Đông đã xảy ra động đất nhiều năm, sách chiêm tinh cũng nói rằng thành sẽ sụp đổ[20]. Nay binh lực của hai nước tập trung ở đó, đây lại là điều đáng nghi thứ năm.
Lại có tin thám báo từ biên giới rằng Khiết Đan đã phái ba đoàn sứ giả đến phía sau Ninh Hóa quân và Khả Lam quân ở Nam Sơn, dò xét các đường vào thung lũng[21]. Đây lại là điều đáng nghi thứ sáu. Nếu hai nước không giữ lời thề ước, đột nhiên tấn công ồ ạt với hàng chục vạn quân, nhân lúc ta không phòng bị mà kéo đến, quân mã Hà Đông vốn không nhiều, danh tướng lại cực kỳ ít, lực lượng chênh lệch, ai dám quyết chiến? Đây là điều đáng lo thứ nhất.
Khiết Đan vốn giỏi đánh thành, nay thám báo cho biết họ đang tập hợp nỏ sàng và thủy thủ, đều là những công cụ đánh thành, khác xưa nhiều. Huống chi, trong lãnh thổ Nguyên Hạo không có thành trì để đánh[22]. Nếu họ tiến vào lãnh thổ nhà Hán, đánh phá hai ba thành, tàn sát dân chúng, thì các thành khác sẽ theo gió mà sụp đổ. Đây là điều đáng lo thứ hai.
Nếu lần này họ chưa tấn công ồ ạt, mà chỉ muốn lấy lòng tin của Trung Quốc, khiến ta yên lòng nghi ngờ, rồi từ từ thực hiện kế sách về sau. Đây là điều đáng lo thứ ba.
Nay thần xin Thánh thượng hỏi ý các đại thần, nếu Khiết Đan có thể tin cậy, chắc chắn không xâm lược, cũng không liên kết với Nguyên Hạo, thì xin hôm nay cùng ký một tờ tấu, dâng lên trước mặt Hoàng thượng, để trong ngoài yên ổn, không còn lo lắng nghi ngờ. Nếu sau này có sai lầm lớn, trách nhiệm sẽ có người gánh. Nếu các đại thần không dám tin cậy, thì xin chỉ thị cho họ, hôm nay không về dinh, mà lập tức vạch ra kế sách phòng thủ Hà Đông.
Điều động quân mã từ đâu[23], dùng tướng lĩnh nào, thêm bao nhiêu tiền bạc, chiếm giữ những nơi hiểm yếu nào. Lập kế sách như vậy, vẫn sợ rằng sẽ quá muộn, không đối phó được với thế lực của hai kẻ địch. Nếu cứ trì hoãn qua ngày, đợi đến khi giặc lớn vào cõi rồi mới tính toán, thì Hà Đông một khi sụp đổ, tông miếu xã tắc sẽ lâm nguy.
Thần đang giữ chức ở hai phủ, nghĩa phải nói hết lời[24], không dám giấu giếm, xin Thánh thượng quyết định.”
Ban đầu, Phạm Trọng Yêm vì chống lại Lữ Di Giản, bị đày ải nhiều năm, các sĩ đại phu bàn tán về sự đúng sai của hai người, đều cho rằng họ kết bè kết đảng. Đến khi quân đội Thiểm Tây ra trận, thiên tử thấy Phạm Trọng Yêm được sĩ phu kỳ vọng, bèn bổ nhiệm ông trấn giữ biên cương. Khi Lữ Di Giản bị cách chức, Vua triệu hồi Phạm Trọng Yêm về, dựa vào ông để trị quốc, trong ngoài đều mong đợi công nghiệp của ông. Phạm Trọng Yêm cũng cảm kích sự ưu ái của Vua, lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, bèn cùng Phú Bật ngày đêm bàn tính, mong muốn đưa đất nước đến thái bình.
Tuy nhiên, quy mô kế hoạch quá lớn, nhiều người cho rằng khó thực hiện. Khi các án sát sứ tiến hành nhiều cuộc điều tra và khiển trách, lòng người không yên; ân điển ban cho con cháu quan lại quá ít [25], pháp luật khảo hạch quá nghiêm ngặt, những kẻ may mắn cảm thấy bất tiện; do đó, lời phỉ báng ngày càng nhiều, luận điệu về bè phái càng không thể giải quyết. Tuy nhiên, Phạm Trọng Yêm và Phú Bật vẫn kiên trì với chủ trương của mình, không thay đổi.
Trước đó, Thạch Giới dâng tấu ký cho Phú Bật, trách nhiệm ông thực hiện việc của Y Doãn và Chu Công. Hạ Tủng oán hận Thạch Giới vì đã chỉ trích mình, lại muốn nhân cơ hội này hãm hại Phú Bật và những người khác, bèn sai nữ nô học chữ của Thạch Giới một cách bí mật. Sau một thời gian, chữ viết đã học thành thạo, liền đổi chữ “Y, Chu” thành “Y, Hoắc”, rồi giả mạo Thạch Giới viết chiếu thư phế lập cho Phú Bật, tung tin đồn lên triều đình.
Hoàng đế tuy không tin, nhưng Phạm Trọng Yêm và Phú Bật bắt đầu lo sợ, không dám yên tâm ở triều, đều xin ra ngoài điều tra biên giới tây bắc, nhưng chưa được chấp thuận. Vừa lúc có tấu chương từ biên giới, Phạm Trọng Yêm kiên quyết xin đi, bèn được cử làm Tuyên phủ Thiểm Tây, Hà Đông.
(《Chánh truyện》 cho rằng Phạm Trọng Yêm và Phú Bật thay đổi quá nhanh, quy mô quá lớn, người đương thời cho là không thể thực hiện được. Đây là lời gièm pha của bọn tiểu nhân đương thời đối với Phạm Trọng Yêm và Phú Bật, nên mới nói như vậy. Lý Thanh Thần và Bồ Tông Mạnh nhân đó ghi chép lại, không đáng tin. Nay xin lược bớt và chỉnh sửa, để không sai lệch sự thật.
《Chánh truyện》 chỉ nói lời gièm pha dần lan truyền, luận bàn về bè phái dần đến tai hoàng đế, nhân lúc biên giới có động, Phạm Trọng Yêm cùng Phú Bật xin ra biên giới. Do đó, Phạm Trọng Yêm được cử làm Tuyên phủ Thiểm Tây, Hà Đông. Nay căn cứ vào tờ trát tự thuật của Phú Bật, thêm việc Hạ Tủng giả mạo chiếu thư. Việc Khiết Đan và Tây Hạ hội quân đánh ngai nhi tộc, cũng căn cứ vào tấu nghị của Phú Bật, 《Quốc sử》 và 《Mộ chí》, 《Thần đạo bi》 của Phạm Trọng Yêm đều không nói rõ.
Tô Triệt trong 《Long Xuyên biệt chí》 viết: Phạm Văn Chính công trung thành sáng suốt, tuy thích công danh nhưng không kết bè kết phái. Thuở trẻ phản đối Lữ Di Giản, dũng cảm lập công, đồng đảng của ông vì thế mà đi quá đà, ông cũng không vui. Từ Mục Châu trở về triều, ra ngoài lo việc biên giới phía tây, sợ Lữ Di Giản không giúp đỡ, khó thành công, bèn viết thư tự trách, giải hòa rồi đi.
Sau khi làm Tham tri chính sự, Tuyên phủ Thiểm Tây, Lữ Di Giản đã già, ở Trịnh, hai người gặp nhau trên đường, Phạm Trọng Yêm từng trải qua chức vụ Trung thư, biết việc khó khăn, có lời hối lỗi. Lữ Di Giản vui vẻ nói chuyện suốt ngày. Lữ Di Giản hỏi: “Sao vội rời triều đình?” Phạm Trọng Yêm đáp: “Muốn lo việc biên giới phía tây.” Lữ Di Giản nói: “Lo việc biên giới phía tây, không gì tiện bằng ở triều đình.” Phạm Trọng Yêm ngạc nhiên. Vì thế, Âu Dương Tu viết 《Thần đạo bi》 cho Phạm Trọng Yêm, nói hai người về già vui vẻ hòa hợp[26], là do việc này. Hậu sinh không biết, đều trách Âu Dương Tu. Tôi thấy lời của Trương Công[27], mới tin.
Xét theo ghi chép của Tô Triệt, chưa hẳn đều đáng tin, như câu “Lo việc biên giới phía tây, không gì tiện bằng ở triều đình”, Phạm Trọng Yêm há không biết? Chỉ là đương thời tự biết lời gièm pha đáng sợ, không thể không tạm lánh đi, nên Phạm Trọng Yêm và Phú Bật đều xin ra ngoài. Việc họ ra ngoài, vốn biết không thể yên ổn lâu ở triều, không phải do lời của Lữ Di Giản mà Phạm Trọng Yêm mới nhận ra. Ngụy Thái trong 《Đông Hiên tạp ký》 cũng nói, nay đều không dùng.)
[18] Ngày Quý Sửu, các quân nhân bị thương tật phế bỏ, không thể tự nuôi sống, cùng những gia đình cô lão có người tử trận, mỗi tháng cấp cho mỗi người ba đấu gạo.
[19] Lại xuống chiếu cho những người vì việc phương Tây mà bị bắt phu, tuyển lính, bỏ trốn chưa trở về làm ăn, nơi nào có người ấy thì chiêu tập về.
[20] Ngày Giáp Dần, Vua bảo các quan phụ chính rằng: “Đang năm hạn hán mà châu chấu bay nhiều, trăm họ có tội gì mà phải chịu nạn này! Trẫm lặng lẽ cầu khấn Thượng đế, nguyện đem tội lỗi về mình.” Chương Đắc Tượng tâu rằng: “Bọn thần không thể giúp việc trị nước, tuyên dương giáo hóa, để dân gặp tai họa, lại khiến bệ hạ lo lắng. Nay thánh thượng nói đến việc này, ắt sẽ cảm động lòng trời.”
(《Ngũ hành chí》 chép: Năm ấy, kinh sư hạn hán, châu chấu bay che kín trời.)
[21] Ngày Mậu Ngọ, mưa.
[22] Truy phong Trấn quốc tiết độ sứ Lý Kế Hòa làm An quốc công, lấy miếu thờ ông làm An quốc miếu. Trước đây, Kế Hòa làm Tri quân Trấn nhung, xây thành đào hào, lại có uy đức, quan dân lập đền thờ. Khi giặc phương Tây xâm phạm, trong miếu nhiều lần có ánh sáng thần và ban đêm nghe tiếng ngựa giáp, nên đặc biệt biểu dương sự linh dị.
[23] Xu mật phó sứ Phú Bật tâu: “Thần thấy triều đình vì Khiết Đan phát binh hội với Nguyên Hạo đánh người Ngai Nhi, đường đi qua ngoài địa giới Hà Đông, nghi ngờ có mưu kế, sợ thành họa cho Hà Đông, nên sai Tham tri chính sự Phạm Trọng Yêm đi tuyên phủ, đó là lòng lo lắng yêu dân sâu sắc của bệ hạ. Trọng Yêm nghe mệnh, ngày đêm lo nghĩ, liền xin từ kinh sư và Thiểm Tây phát binh mã, điều tiền bạc, làm kế sách phòng bị, đó là lòng trung thành tận tụy vì nước của Trọng Yêm.
Nhưng theo ý thần, có lẽ hơi quá. Vì sao? Thần năm trước đi sứ Khiết Đan, thấy rõ tình hình; lại từ năm ngoái đến nay[28], xem các tin tức thám báo từ Hà Bắc, Hà Đông về việc Khiết Đan và người Ngai Nhi đối đầu, xét nghiệm thấy rõ, Khiết Đan chắc chắn không xâm phạm Hà Đông. Họ đã không đến, thì không nên vô cớ điều động, gây tốn kém vô ích. Dù họ không xâm lược, nhưng dọa nạt để làm ta khốn đốn, chưa hẳn là không có ý đó[29], nay nếu cứ tốn kém không ngừng, thì đúng là rơi vào kế của giặc, cũng để họ dò xét được nông sâu[30], không phải là kế sách hay.
Đây thần chỉ bàn việc năm nay chưa chắc thành họa, còn về sau thì thần không biết. Về sau dù họ muốn trái ước tự ý hành động, ắt sẽ đánh Hà Bắc, chỉ lấy Hà Đông làm địa bàn hỗ trợ mà thôi. Thần xin bệ hạ, hãy sai Phạm Trọng Yêm xem xét, tạm đến Hà Đông lo liệu, chưa nên điều động. Nếu sau này Hà Đông lại có Khiết Đan xâm lược, ấy là thần phạm tội lừa dối bệ hạ, làm hỏng đại kế của quốc gia, xin trị tội thần.”
Lúc đó Trọng Yêm nghi ngờ Khiết Đan xâm lược, muốn phát đại binh phòng bị, Đỗ Diễn cho rằng Khiết Đan chắc chắn không đến, binh không nên tùy tiện điều động. Trọng Yêm tranh luận trước mặt Vua, chỉ trích lời Diễn rất gay gắt. Trọng Yêm từng coi Diễn như cha, Diễn không hề oán hận. Khi lui ra, Trọng Yêm vẫn cố tranh, Hàn Kỳ nói: “Nếu vậy, thì Kỳ xin đi, không cần triều đình một người một ngựa.” Trọng Yêm tức giận, lại xin vào chầu, đầu tiên tâu lại lời Kỳ, nhưng cuối cùng binh không phát, Trọng Yêm cũng không cho là trái ý.
Trước đó, Trọng Yêm nhận mệnh lo việc phía Tây, Bật lo việc phía Bắc. Bật dâng sớ trình bày mười hai kế sách phòng thủ Hà Bắc như sau:
“Triều đình ta dùng binh lực để giành thiên hạ, uy vũ lẫy lừng. Thái Tổ hoàng đế đối đãi với kẻ thù phương Bắc như một bộ tộc nhỏ, mỗi lần giao chiến, chưa từng không thắng. Thái Tông hoàng đế vì thất bại trong lần thân chinh, khiến ý chí của kẻ thù trở nên kiêu ngạo, năm nào cũng xâm phạm biên giới, thắng bại ngang nhau. Chân Tông hoàng đế lên ngôi, chuyên dùng văn đức, lúc ấy binh lính cũ, tướng lĩnh lâu năm đều lần lượt qua đời, kỵ binh địch tiến sâu[31], thẳng đến Thiền Uyên, Hà Sóc náo loạn, xa giá tiến về phía bắc. Bấy giờ bàn đến việc dùng vàng lụa để dụ dỗ, kết giao hòa hảo. Từ đó, dân chúng Hà Hoàng gần bốn mươi năm không biết đến chiến tranh. Hàng năm cống nạp tuy nhiều, nhưng không bằng một phần trăm chi phí dùng binh. Như vậy có thể thấy, hòa ước Thiền Uyên không phải là một quyết định sai lầm.
Điều đáng đau lòng là các đại thần trong triều, sau khi bàn hòa, đều bỏ bê việc võ bị. Những người biên thần chăm lo phòng thủ bị coi là gây chuyện; những kẻ sĩ lo lắng cho đại sự bị cho là lỗi thời. Đại để đều ghét người ta bàn việc binh, mong thời bình vô sự, cho rằng kẻ thù không dám trái ước, biên giới không cần phòng bị, thế giới mãi yên ổn, chiến tranh vĩnh viễn chấm dứt, an nhiên tự tại, chẳng lo lắng gì. Hai kẻ thù phương Tây và Bắc biết rõ triều đình hành xử sai lầm như vậy, bèn âm thầm liên kết, nhân lúc sơ hở mà mưu tính.
Biên thần mỗi lần tấu trình tình hình địch, thì bảo rằng người do thám muốn được thưởng, chẳng bao giờ nghe theo. Sứ giả ngoại bang mỗi lần đến triều đình ngạo mạn, thì lại bảo rằng người Di Địch vô lễ là chuyện thường, chẳng đoái hoài gì. Chỉ biết tự lừa dối, giả vờ bao dung, kỳ thực là thủ an, không chịu trách nhiệm với quốc gia, không vạch ra kế sách lâu dài, nên mới để cho âm mưu của chúng[32], nuôi dưỡng thành mối họa lớn. Đến năm Bảo Nguyên thứ nhất, Nguyên Hạo nổi loạn, mấy năm dùng binh, người phương Tây khốn cùng, chưa có kế sách thắng lợi.
Lại đến năm Khánh Lịch thứ hai, Khiết Đan nhân cơ hội mà hành động, thư ngạo mạn dâng lên, trong ngoài hoảng loạn, không biết tính sao. Không thể không thêm vàng lụa, tạm thời yên ổn. Hai bên biên giới dám làm như vậy là vì sao? Là do triều đình trước đây khinh địch, liều lĩnh giao chiến, không chuẩn bị phòng bị mà ra.
Thần thấy rõ hai kẻ địch gây họa, chưa từng yên ổn, phía Tây đánh thì phía Bắc giúp, phía Bắc yên thì phía Tây động, nếu muốn khởi sự, không khó tìm cớ. Thông hòa thì ngồi hưởng lợi lớn, giao chiến thì ắt phá tan quân triều đình, phản bội rồi lại hòa, ai dám không chấp nhận? Bắt giữ hay thả tự do, đi lại không ngăn trở, hai bên kéo co, khiến Trung Quốc khốn đốn, có gì là đại họa mà không thành mối lo biên giới? Có gì phải hối hận mà mãi giữ hòa ước? Phá ước quấy nhiễu biên cương, ta sẽ lâm vào cảnh khốn cùng. Không may gặp liên tiếp thiên tai, giặc cướp nổi lên, hai kẻ địch mưu đồ, lại càng lớn hơn.
Từ khi Khiết Đan chiếm lấy Yên, Kỷ về phía Bắc, Thác Bạt chiếm được Linh, Hạ về phía Tây, những người tài giỏi sinh ra trong vùng đó, đều bị chúng sử dụng. Chiếm đất đai Trung Quốc, bắt dân Trung Quốc làm việc, xưng hiệu Trung Quốc, bắt chước quan chức Trung Quốc, dùng nhân tài Trung Quốc, đọc sách Trung Quốc, dùng xe phục Trung Quốc, thi hành pháp lệnh Trung Quốc, những việc hai kẻ địch làm, đều giống như Trung Quốc.
Hơn nữa, binh hùng tướng mạnh lại hơn cả Trung Quốc, những gì Trung Quốc có, chúng đều lấy được, những gì chúng giỏi, Trung Quốc không bằng. Nên coi chúng là kẻ địch mạnh của Trung Quốc, may ra có thể chống đỡ, há lại coi chúng như man di thời cổ đại sao? Trước đây đã khinh địch liều lĩnh giao chiến, không chuẩn bị trước, khiến hai kẻ địch liên kết gây họa, khiến triều đình lo lắng, nay lại muốn lấy thế cẩu an, coi như không có chuyện gì, hai kẻ địch đều thu lợi lớn, rút lui nuôi dưỡng sức mạnh, chẳng mấy năm nữa sẽ cùng nhau nổi dậy, khi đó sẽ không còn dùng vàng lụa để mua chuộc hay lấy hòa ước để thu phục được nữa. Kính xin trình bày sách lược phòng thủ như sau.
– Sách lược phòng thủ:
Một là: Trong ba mươi sáu châu quân ở Hà Bắc, dọc theo biên giới và kế cận biên giới có Bắc Kinh, Hùng, Bá, Ký, Kỳ, Bảo, Doanh, Mạc, Thương, Trấn, Định mười một châu; Quảng Tín, An Túc, Thuận An, Tín An, Bảo Ninh, Can Ninh, Vĩnh Ninh bảy quân; Bắc Bình một trại, tổng cộng mười chín thành, đều là những nơi trọng yếu, có thể khống chế giặc cướp không cho chúng tiến sâu vào. Định là cánh tay phải, Thương là cánh tay trái, Doanh là trái tim, Bắc Kinh là đầu não. Bốn thành này là những nơi trọng yếu của Hà Sóc, còn mười lăm thành kia là những ngón tay và chi tiết, là những nơi mà bốn thành này điều khiển. Định, Doanh, Thương mỗi nơi đặt một tướng, Bắc Kinh đặt một đại tướng, mười lăm thành còn lại chia thuộc về ba lộ Định, Doanh, Thương, chọn tướng giỏi để trấn giữ.
Mười chín thành tổng cộng dùng ba mươi vạn quân, Định năm vạn, Doanh, Thương mỗi nơi ba vạn, Trấn hai vạn, Hùng, Bá, Ký, Bảo, Quảng Tín, An Túc mỗi nơi một vạn, Kỳ, Mạc, Thuận An, Tín An, Bảo Ninh, Vĩnh Ninh, Bắc Bình mỗi nơi năm nghìn[33], Bắc Kinh năm vạn, làm quân cứu viện cho các lộ. Còn lại hai vạn quân phân bố ở các đạo, làm quân tuần tra và du kích. Hiện nay khi không có việc, Hà Sóc đã có quân trú đóng, đồn trú, quân lấy lương mười tám vạn, quân bản thành năm vạn, đến khi dùng binh, ước tính tăng thêm mười vạn người, thì quân chiến đấu đã đủ. Ba mươi vạn quân này, không giống như năm Cảnh Đức chỉ biết đóng cửa tự thủ, mà đều phải xuất chiến. Lúc đó giữ thành không dám ra, quân địch ngang nhiên tiến thẳng đến Thiền Uyên, suýt nữa vượt sông, gây nguy hiểm cho kinh sư.
Nay nếu dùng tướng giỏi trấn giữ mười chín thành, chia nhau chỉ huy ba mươi vạn quân, tả hữu xuất nhập, tung hoành cứu ứng, đánh lừa dụ dỗ, xông pha tập kích, thần tuy rất ngu, nhưng không tin rằng kỵ binh địch dám tiến sâu về phía nam. Những năm gần đây đại quân đều đóng ở Định châu, nhưng đóng cửa thành không cho ra đánh, là vì sợ một khi thất bại sẽ không có quân cứu viện, và đề phòng biến cố ở Trung Độ. Nay tuy dùng ba mươi vạn quân, nhưng phân bố ở mười chín thành, bên trái thất bại thì bên phải cứu viện, dọc mất thì ngang tiếp ứng, há còn lo ngại như trước kia sao? Mười bảy thành bên ngoài không cần tích trữ quân, chỉ dùng hương quân bản bộ kiên cố phòng thủ, không cho ra đánh.
Thứ hai: Các châu quân ở Hà Sóc cần phải chọn người tài giỏi để phòng ngừa biến cố từ Hung Nô. Từ trước đến nay, việc tuyển chọn không được chú trọng, những kẻ tham nhũng, bất tài, già yếu, hôn muội đều được bổ nhiệm. Hơn nữa, việc thay đổi chức vụ không ổn định, người giữ chức lâu nhất cũng chỉ được một hai năm, trong thời gian đó, những kẻ cẩu thả chỉ lo giải quyết những việc trước mắt, còn những lợi hại lâu dài thì biết rằng không liên quan đến bản thân nên đều không quan tâm. Tình trạng này kéo dài qua nhiều đời, tích tụ thành tệ nạn nghiêm trọng. Nếu không chọn người tài giỏi và để họ giữ chức lâu dài để sửa chữa những sai lầm trước đây, thì một ngày kia, khi kẻ địch có biến cố, biên thành không giữ được, chúng sẽ thừa cơ tiến sâu vào, gây họa không nhỏ.
Trong số 19 châu quân trại ở Hà Sóc, những nơi đặc biệt quan trọng gồm năm châu Định, Bảo, Hùng, Bá, Thương, và bốn quân Quảng Tín, An Túc, Thuận An, Tín An, gần đây đã được chỉ thị tuyển chọn người tài để bổ nhiệm, hiện đang thực hiện. Bắc Kinh đã có đại thần, còn lại năm châu Trấn, Ký, Doanh, Mạc, Kỳ, ba quân Bảo Định, Can Ninh, Vĩnh Ninh, và một trại Bắc Bình, cũng xin được tuyển chọn trưởng lại và để họ giữ chức lâu dài.
Những người có thành tích nổi bật sẽ được thăng chức, tăng bổng lộc và ban thưởng hậu hĩnh, khiến họ vui vẻ lo việc biên cương, không oán hận, từ đó tận tâm với chức vụ, tự nhiên có thể giữ chức lâu dài. Những người liêm chính, siêng năng nhưng tài lực không đủ thì bãi chức, điều về nội địa nhận nhiệm vụ phù hợp. Những kẻ cố tình lười biếng, muốn rời bỏ nhiệm vụ biên cương, hoặc có tội không thể lưu lại nhưng chưa đến mức tử hình, thì phế truất suốt đời. Làm như vậy, mọi người sẽ biết rằng họa phúc ắt sẽ đến với bản thân, ai mà không cố gắng?
Thứ ba: Ngoài việc chọn người giữ chức lâu dài ở 19 châu quân trại và các trưởng lại như đã nêu trên, các quan văn võ lớn nhỏ còn lại cùng các trưởng lại trở xuống ở 17 châu quân, xin ban chiếu cho các lộ chuyển vận, đề hình, an phủ, bộ thự, kiềm hạt phân chia cử người đảm nhiệm[34], hoặc giao cho Xu mật viện, Tam ban, Thẩm quan thuyên ty tuyển chọn, không được tùy tiện bổ nhiệm[35], và phải thay đổi mỗi ba năm một lần. Như vậy mới mong trên dưới đều có người tài, các chức vụ đều được đảm nhiệm tốt, khi dùng binh có người để sai khiến, so với việc tìm kiếm bên ngoài lúc cần, được mất khác nhau vạn lần.
Thứ tư rằng: Đóng quân phòng giữ biên giới là chế độ thường xuyên từ xưa đến nay, điều đáng lo là thuế má của dân có hạn, lương thực cho quân đội thường thiếu, phải tính toán rộng rãi mới đủ chi dùng[36]. Trong đó có năm mất mùa, mưu tính không thành, giặc đến lại phải tăng quân phòng thủ, số thường không đủ, thì cướp bóc thuế má, việc gì chẳng làm? Dân vì thế mà khốn khổ, giặc cướp vì thế mà nổi lên, đó là điều lo lắng của các đời vậy. Hà Bắc từ khi nhà Hậu Tấn mất đất Yên, Kế, không còn chỗ hiểm yếu để phòng thủ, vì thế nuôi quân càng nhiều, tích trữ lương thực càng dày.
Triều đình ta theo đó đã lâu, đến khi Cảnh Đức giảng hòa, việc phòng bị quân sự dần lơi lỏng, lương thực cũng theo đó giảm đi. Năm trước giặc bỗng sinh biến, tuy đã giảng hòa lại, nhưng rốt cuộc không phải là kế lâu dài, từ đó mầm họa biên giới đã xuất hiện, chưa có năm nào yên ổn, càng nên cẩn thận chính sách phòng thủ, để lâu dài mà không thiếu thốn.
Thần xin được hai điều về nuôi quân, điều thứ nhất, ngoài số quân phòng thủ biên giới cần giữ lại, các quân trú đóng, đồn trú, tự túc lương thực, chia nhau đóng ở các châu Vận, Tề, Tế, Bộc thuộc Hà Nam, để vừa huấn luyện vừa nuôi dưỡng. Huống chi đất đai nơi đó giàu có, không cần kinh doanh cũng đủ. Cứ hai năm thay một lần, gặp lúc có việc khẩn cấp, phát lệnh triệu tập, không đầy một tháng có thể đến nơi, há có việc chậm trễ không kịp sao? Nhờ đó có thể giảm bớt việc thu thuế nặng nề ở Hà Sóc, để dân mệt mỏi được nghỉ ngơi, ngồi chờ giặc đến mà dùng, hầu như quân đội có sức dư, có thể chống giặc. Điều thứ hai, dọc theo các châu quân ven sông lớn xây kho thóc, lấy thuế dân Hà Nam và lương thực chở từ Giang, Hoài, cung cấp cho quân mã đóng gần biên giới, cứ ba năm thay một lần, cũng đủ để giảm bớt sự khốn khổ của dân Hà Sóc. Hai điều này có thể chọn một, hoặc dùng cả hai cũng tốt. Nếu không, e rằng lúc không có việc, Hà Sóc đã kiệt quệ, một khi dùng đến vũ lực, dân oán giận nổi loạn, thì ngay dưới nách cũng thành kẻ thù, há còn rảnh để chống giặc ngoài sao?
Thứ năm: Hà Bắc là nơi có quân đội hùng mạnh nhất, nếu tập trung toàn bộ tinh nhuệ, thì sẽ vô địch thiên hạ, huống chi là vùng biên thùy! Gần đây triều đình chưa giảng hòa với người Nhung, quân địch thường xuyên xâm phạm, chỉ sợ quân Bắc, còn coi thường quân Nam như không. Ta thường chia quân Nam và Bắc thành hai cánh, mỗi khi đối trận, địch tất sẽ tấn công quân Nam trước, quân Nam tan vỡ, quân Bắc bị liên lụy mà thất bại. Rút kinh nghiệm từ đó, nếu có trận đánh hỗn hợp quân Nam và Bắc, thất bại càng thêm nặng nề. Như vậy không bằng chỉ dùng toàn quân Bắc thì sẽ thắng. Hiện nay ở Hà Bắc còn nhiều quân Nam đồn trú, chỉ có thể tạo thanh thế, nhưng thực chất không đủ sức chiến đấu.
Thần xin tự mình đến Hà Bắc, chỉ tuyển người địa phương làm cấm binh, tiền lương không quá năm trăm văn, mỗi một chỉ huy, sẽ thay thế một chỉ huy quân Nam trở về doanh trại, không mấy năm, ba mươi vạn quân sẽ toàn là quân Bắc. Lại huấn luyện họ tinh nhuệ dũng mãnh, thì quân địch tự nhiên sẽ kính sợ, đâu dám khinh động! E rằng có người bàn rằng ngân khố thiếu hụt không nên tăng quân, thì xin dừng tuyển quân ở các nơi khác, lấy chỗ này bù chỗ kia, không cần tăng thêm. Đã có quân địa phương, thì không nên điều họ đi đồn trú nơi khác, nếu lương thực không đủ, thì xin áp dụng hai điều dưỡng binh mà thần đã đề xuất trước đây.
Thứ sáu: Phong tục của giặc phương Bắc coi trọng người thân, thường dùng người thân cận làm vương tướng danh tiếng, để trị quốc sự, nắm binh quyền và được tin dùng, vì vậy họ xem cách dùng người của Trung Quốc cũng giống như nước mình. Uy vọng của Yến vương nổi tiếng ở phương Bắc, họ biết ông là hoàng thúc, lại được phong tước vương, địa vị tôn quý trong thiên hạ không ai sánh bằng, mọi việc triều đình đều do vương quyết định. Vương giỏi dùng binh, binh lực trong thiên hạ đều do vương nắm giữ, hình phạt nghiêm khắc, thích giết chóc, không ai dám đối đầu[37].
Giặc phương Bắc nghi ngờ điều này, càng thêm sợ hãi. Vì vậy, trẻ con ở Yến, Kế ban đêm khóc, thường nói ‘Bát đại vương đến đây’, thế là trẻ con liền ngừng khóc. Mỗi khi dắt trâu ngựa qua sông, quay đầu không dám tiến, lại nói ‘chắc là Bát đại vương đang ở trong sông’. Sự sợ hãi của họ như vậy. Sứ giặc mỗi lần gặp sứ phương Nam, không lần nào không hỏi thăm vương có khỏe không và đang ở đâu, triều đình nhờ có vương mà cũng được giặc phương Bắc coi trọng, cho rằng triều đình có người thân hiền như vậy, mỗi lần muốn hành động bừa bãi, chưa chắc đã không vì sợ vương mà dừng lại. Mùa xuân năm nay vương mất, người hiểu biết cũng lo lắng. Cho rằng khi vương còn sống, giặc phương Bắc coi trọng triều đình, khi vương mất, thì giặc phương Bắc coi thường triều đình.
Thần cũng từng nghĩ đến các tướng soái của quốc gia, vốn chưa được biết đến ở phương xa, mà các thân vương vốn có uy vọng khiến kẻ địch e sợ, lại đã qua đời, và cũng không còn nghe thấy hoàng thân nào có thể làm bình phong cho triều đình. Kẻ địch ắt sẽ cho rằng vương thất cô lập nguy hiểm, không có ai hỗ trợ, gốc rễ không vững, dễ bị lung lay, điều này thực sự là cơ hội để kẻ địch dò xét.
Thần mong bệ hạ tự chọn trong số các tông thất những người lớn tuổi, biết chữ, hiểu đạo lý, thông thạo việc đời, để làm châu trong phạm vi ngàn dặm quanh kinh đô. Lo rằng tông thất ra ngoài không thông hiểu dân chính, hoặc có kẻ tùy tiện làm việc, khiến thông phán trở xuống khó mà uốn nắn, nên chọn một vị quan triều nghiêm nghị, có năng lực, gần gũi với bệ hạ, làm đồng tri châu. Điều quý là thế lực ngang nhau, có thể cùng làm việc mà không xảy ra mâu thuẫn. Đợi khi trải qua một hai quận, biết chắc có thể đảm đương một mình, thì bãi bỏ đồng tri châu, chỉ đặt thông phán.
Lại chọn thêm một số người kém hơn, làm kiềm hạt các châu quận trong phạm vi ngàn dặm, cũng lo rằng chưa quen việc quân chính, công việc không tiến triển, nên chưa thể giảm bớt chức đô giám, giám áp, mà nên chọn người từng trải, liêm chính, có năng lực, tạm thời cho giữ chức, rồi chọn quan thủ tốt để theo dõi và xử lý thích đáng. Những người trẻ tuổi, chức thấp, nhưng xét thấy có thể đảm đương, thì cho làm đô giám, giám áp ở các huyện trong kinh đô, dù trẻ tuổi cũng phải chọn người trên hai mươi tuổi, và chọn quan lệnh tốt để khuyên răn, uốn nắn, đồng thời quy định hai năm thay một lần.
Cũng dùng thưởng phạt đối với quan lại văn võ để khuyến khích và ngăn chặn. Những người siêng năng, tiết kiệm, ham học, đối xử có lễ với thuộc hạ, thông thạo văn pháp, có khả năng xử lý việc dân, thì tùy mức độ cao thấp mà ban thưởng, hoặc ban lời khen, hoặc ban vàng lụa, hoặc thăng chức[38]. Những người có lỗi lầm, cũng tùy mức độ nặng nhẹ mà phạt bổng, hoặc bắt nộp tiền, hoặc giáng chức, nặng hơn thì đưa về cung trạch, để họ tự xét lỗi một hai năm, rồi lại bổ nhiệm ra ngoài.
Phàm ba lần phạm lỗi mà không sửa đổi, thì suốt đời chỉ được dự triều. Như thế, giáo dục, tuyển chọn, thử thách, người tốt ắt được thưởng, kẻ xấu ắt bị phạt, thần biết rằng không mấy năm nữa, sẽ có những tông thất hiền tài như Hà Gian vương đời Tiền Hán, Đông Bình vương đời Hậu Hán, không phải là việc khó. Trong thì có thể làm bình phong cho vương thất, ngoài thì có thể uy hiếp bốn phương, đây là việc cấp bách của người trị quốc, là kế sách lâu dài vậy.
Từ thời Tam đại về sau, các bậc vương giả khi mới lên ngôi, ngày nay được thiên hạ, ngày mai liền phong tước cho tông thất, đến cả những đứa trẻ còn trong tã cũng đều được phong hầu, phong vương, chia cắt đất đai, lập thành nước riêng. Đó là để phân bố cành lá, che chở gốc rễ, làm rộng lớn vương thất, làm hùng vĩ thiên hạ.
Khiến cho hào kiệt không có lời oán, không có ý khác, cho rằng trong bốn biển đều là một họ, dù có mưu đồ xấu xa cũng không dám manh động. Đó là cách các đế vương đời trước trị vì thiên hạ, được ghi chép trong sách vở, xét thấy rất đáng tin. Nay thì bị chôn vùi, đè nén, chỉ như nuôi dưỡng, để cho chúng ngu muội, hoàn toàn không dạy dỗ, dù có quan giảng sách nhưng cũng chỉ là hư danh, đó là muốn làm cho chúng ngu muội mà không cho biết đạo lý tốt, làm người tốt, thật không phải là đạo nghĩa lớn của việc nuôi dưỡng tông thất.
Đến như nhà của thần dân, có con cháu, em cháu, đều chăm chỉ dạy dỗ, khiến chúng thành tài, mong chúng lập nên gia đình, lo việc tế tự, nếu con cháu không ra gì thì gia đạo sẽ suy sụp. Lại có những người làm nghề gánh vác, thật là nhỏ bé, ngày ngày kiếm vài thăng gạo để nuôi vợ con, còn dành ra một hai đồng tiền cho con đi học, gọi là học khoá. Cũng là muốn khuyến khích con cái đọc sách biết chữ, có tiến bộ.
Quốc gia giàu có thiên hạ, cơ nghiệp hưng thịnh, thực là do tổ tiên gian nan mà có, nên để con cháu đời đời nối tiếp không dứt, làm kế lâu dài, há lại để tông thất đầy cung mà bệ hạ không biết dạy dỗ, để chúng làm điều xấu, khiến ngoại bang khinh cười, đó là bệ hạ làm tổn cành lá mà lấy gốc rễ cô đơn dễ lung lay vậy.
Lại nghĩ rằng bệ hạ bổ nhiệm Lý Dụng Hòa làm Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, bổ nhiệm Tào Tông làm Mã quân phó đô chỉ huy sứ, đó là bổ nhiệm người thân. Dụng Hòa và Tông tuy là người thân, nhưng đều là họ khác. Người họ khác còn có thể tin cậy, huống chi tông thất cùng họ, là người thân cốt nhục với bệ hạ, lại không thể tin sao?
Bệ hạ chỉ cho rằng tông thất không có người, thần cho rằng hiện nay tuy chưa thấy người, nhưng nếu dạy dỗ và thử thách, ắt sẽ có người. Hiện nay chỉ trong các buổi triều hội, họ cùng đi cùng tiến, xe xanh đầy đường, các sĩ đại phu thấy mới biết là tông thất, nhưng ra khỏi bốn cửa thành, không biết tông thất có hay không, huống chi cả thiên hạ? Huống chi cả bốn phương?
Từ thời thượng cổ cho đến đời Chu Thế Tông, trải qua biết bao đời, đến tông thất không dạy, không thử, không dùng, suy yếu đến mức chưa từng có như triều đại này. Đúng là điều khiến người hiểu biết lo lắng, và kẻ địch phương Bắc coi thường.
Ví như kẻ địch phương Bắc có Nam Đại Vương Tiêu Hiếu Mục, Bắc Đại Vương Tiêu Hiếu Huệ, Lỗ Vương Dịch Ẩn, Sở Vương Di Li Tất, những người thân cận của họ rất đông, thần năm trước phụng mệnh đi sứ, đều tiếp xúc với họ, lại hỏi người nước họ, chưa chắc thực sự có tài võ, nhưng người Trung Nguyên nghe thấy, không ai không nghi ngờ rằng họ đều là lương tướng, nguyên nhân là gì? Chỉ vì nghe danh mà nghi ngờ họ có thực tài.
Nay triều đình nếu có thể đề cao tông thất, khiến danh tiếng dần lan đến kẻ địch phương Bắc, kẻ địch ắt cũng cho rằng Nam triều có người, căn bản vững chắc, muốn mưu tính thì dừng, muốn hành động thì ngừng. Xưa có người dùng thực lực để cứu giúp, cũng có người dùng hư danh để uy hiếp, nhà binh càng coi trọng tiếng tăm trước rồi mới đến thực lực, huống chi điều thần nói, ắt khiến danh thực tương xứng, mong bệ hạ thực hiện không nghi ngờ.
– Kế sách phòng ngự:
Một là, trước niên hiệu Cảnh Đức, binh lính địa phương ở vùng biên giới, khi không có việc thì ở lại canh giữ tại châu quân của mình, khi giặc đến thì đều bị các lộ Bộ thự ty điều động. Vùng biên giới thiếu lương thực, lại phải dùng binh lính từ phương Nam đến đồn trú, thật là vô nghĩa. Binh lính địa phương ở biên giới, biết rõ địa hình sông núi, đường sá, quen thuộc với tình hình địa phương, lại thông thạo cách bố trí quân địch, cũng nhờ vào tinh thần bảo vệ gia đình của họ.
Hơn nữa, họ đã quen thuộc với mệnh lệnh của tướng lĩnh địa phương, nên khi phòng thủ thì kiên cố, khi chiến đấu thì tất thắng. Nếu di chuyển họ vào nội địa, họ sẽ không biết địa hình sông núi, đường sá, không quen thuộc với tình hình địa phương, không thông thạo quân địch, gia đình không ở châu huyện, không quen với mệnh lệnh, lại bị ảnh hưởng bởi sự nhút nhát, thì phòng thủ sẽ không kiên cố, chiến đấu sẽ không thắng.
Quân địch phương Bắc chỉ sợ binh lính biên giới, hễ nghe tin binh lính phương Nam thay thế vào nội địa, chúng rất vui mừng, nên khi đến thì quyết thắng rồi rút về. Năm trước, Hà Sóc có động, lại theo việc đầu niên hiệu Cảnh Đức, điều hết binh lính biên giới về giữ Định châu, dân Hà Sóc rất lo sợ, cho rằng quân triều đình tất thua, may mà quân địch ngừng lại, không thấy thất bại, nếu không, tất sẽ mất quân.
Thần mong từ nay về sau, nếu quân địch phương Bắc xâm lược, binh lính địa phương vùng biên giới chỉ ở lại địa phương, không để Bộ thự ty điều động. Nếu các nơi còn thiếu binh lính địa phương, thì dùng binh lính phương Nam bổ sung; nếu dư, mới cho phép Bộ thự ty điều động. Hơn nữa, Bộ thự ty vốn ở các châu quân gần nội địa, binh lính địa phương có thể tập hợp thành đại trận. Thần ở thiên trước đã bàn về việc chia 19 thành, lĩnh 30 vạn quân ra trận, còn 17 thành thuộc các châu quân gần nội địa, chỉ dùng hương binh phòng thủ, không ra trận. Các lộ Bộ thự ty có thể tập hợp binh lính thành đại trận ở 17 thành đó.
Binh lính biên giới dũng cảm, có tài võ nghệ, không sợ quân địch mạnh[39], khi quân địch mới vào, cho họ đương đầu với sức mạnh của địch, tất sẽ thắng. Như vậy, các châu quân gần nội địa, lòng người tự nhiên vững vàng, dù binh lính phương Nam nhút nhát, cũng tăng thêm khí thế. Nếu dùng binh lính phương Nam ở biên giới[40], gặp giặc một trận thua, quân địch thừa cơ tiến xuống phương Nam, thì trong ngoài đều hoảng sợ, dù tinh nhuệ đều ở Bộ thự ty, cũng đã nản lòng, làm sao bảo đảm toàn thắng được?
Hai là, trước niên hiệu Cảnh Đức, giặc phương Bắc xâm phạm biên giới, phần nhiều từ Phi Hồ, Dịch Châu theo đường giới đạo Đông Tây Khẩu qua Dương Sơn Tử, vượt Mãn Thành, vào từ phía tây Quảng Tín, sau đó lại thường xuất binh ở khoảng Quảng Tín, An Túc. Đại để kỵ binh giặc thường từ phía tây núi tiến vào cướp phá, cướp bóc lớn các châu quận, rồi sau đó tiến ra phía đông ở khoảng Hùng, Bá. Trước Cảnh Đức, nước ở hai châu này không thông nhau, nên gọi là Đường Đông, Đường Tây. Chỗ giao nhau của hai đường này, trống trải có thể làm đường về cho kỵ binh giặc, bèn đặt quân Bảo Định ở giữa hai châu để chặn đường tiến của giặc. Sau đó, đường mở không ngừng, hai đường nối liền nhau, tuy không quá rộng lớn, nhưng đường của giặc cũng bị cản trở ít nhiều.
Tuy nhiên, mùa đông giá lạnh băng cứng, năm hạn hán nước cạn, cũng có thể vượt qua, chưa phải là nơi chắc chắn an toàn. Dù vậy, chỉ cần dùng ít binh lính khống chế, thì kỵ binh giặc không thể vượt qua được. Từ phía đông Cô Hải đến phía tây Bảo Châu một dải mấy trăm dặm, đều là nước đường tràn ngập, nếu dùng làm hiểm trở, có thể tạo thành rào cản. Chỉ có từ Bảo Châu về phía tây đến chân núi mấy chục dặm, không có nước đường ngăn trở, giặc có thể tiến vào bằng đường bằng. Giặc nếu giữ lời ước không động binh, thì không thể chủ động tấn công[41], chỉ cần dùng pháp đồn binh như thần đã trình bày ở phần trước, đủ để phòng thủ vững chắc.
Nếu vạn nhất giặc bội ước xâm phạm, dùng sách lược của thần, có thể chuyển họa thành phúc, mà thỏa chí trút giận. Sao lại nói thế? Nay nếu giặc xâm phạm biên giới, tất từ phía tây Quảng Tín tiến vào[42], kỵ binh giặc vừa vào đường, các châu quân dọc biên giới củng cố thành lũy tỏ ra yếu thế, không được xuất binh, giặc tất không để ý mà tiến lên; khi sắp đến Trấn, Định, cũng củng cố thành lũy, giặc tất khinh thường ta mà lơ là; bấy giờ lệnh cho Quảng Tín, An Túc, Bảo Châu ba thành mở cửa thành hội binh, hô lớn đánh mà không giao chiến[43], giặc tất chia binh lại phòng thủ; sau đó lệnh cho Trấn, Định cũng đóng cửa thành không giao chiến, giặc đã bị đánh trước sau, tất không dám tiến sâu về phía nam.
Bấy giờ, ta gấp từ Thương Châu theo đường biển, dùng mấy nghìn chiến thuyền, xuất ba vạn quân nhẹ, tiến đến Bình Châu vào cửa trại Phù Gia, thì chỉ trong gang tấc đã đến Yên, Kế. Từ Thương Châu đến Bình Châu giới Bắc, đường thủy năm trăm dặm, không mấy ngày lên bờ, đất màu mỡ nước cỏ tốt, không cần mang nhiều lương thực. Khoảng Hùng, Bá, chính là đường về phía đông của kỵ binh giặc thời Cảnh Đức, lại xuất hai vạn tinh binh, thẳng đến Yên Kinh, hội với quân Thương Châu đánh vào tim gan, phá tan kho tàng tích trữ, giặc thấy quân ta từ hai phía tiến vào, tất không biết tính sao.
Đất Yên đã loạn, quân xâm phạm tất có lòng muốn về, lại bị quân triều đình vây đánh, mà không thể rút đi ngay. Bấy giờ nhân lúc chúng đang phân vân, sai quân ba thành dọc biên giới cùng quân Trấn, Định hợp lực đánh, tất đại phá được chúng, đuổi theo đến Yên, đuổi hết kỵ binh giặc qua phía sau núi. Quân giặc vào biên giới thì chỉnh tề, nếu thua mà rút khỏi trại, thì tán loạn mất hết, không còn hàng ngũ, dễ dàng đuổi đánh.
Dùng binh giữ Cư Dung Quan, Cổ Bắc Khẩu, Tùng Đình Quan, Phù Gia Trại, bốn cửa quan hiểm yếu này, mỗi nơi dùng ba nghìn quân giữ chắc. Thế thì kỵ binh giặc không còn tiến về phía nam. Nhân lúc chúng hành động liều lĩnh, có thể một trận mà thu phục toàn bộ đất Yên, cứu dân các quận khỏi cảnh lầm than, rửa sạch mối hận cắt da cắn thịt bao đời, thần tự cho là chắc chắn không có kế sách nào sót. Đã dùng binh giữ bốn cửa quan ngoài, phía tây núi có hai cửa Phụ Ngưu Thiết Cước Xung Khoa mới mở sau này, giặc dùng để thông với tám châu phía sau núi, nhưng đều hiểm trở, không thể đi xe ngựa, giặc đục núi làm đường, chỉ đi bộ được, có mưa thì thường hư hỏng, phải tu sửa đắp lũy rồi mới thông được hiểm trở, không phải đường hành quân.
Tuy không tăng cường phòng thủ, cũng không có hại gì, hoặc phục ít binh xa bên cạnh cửa[44], để giặc vào cướp, phục binh có thể giết sạch. Giả sử bệ hạ thận trọng, chưa muốn thực hiện kế sách thu phục Yên, thì xin sau khi giặc vào, đóng trọng binh ở phía tây núi, giặc tuy có cướp bóc nhưng không có đường ra phía đông, tiến thoái không xong, ta bấy giờ dùng quân mười chín thành phân bố đánh úp[45], tất khiến chúng thua chạy, đảm bảo không có nỗi lo bị tiến sâu. Thế giặc đã yếu, giảng hòa thì lâu dài, cũng là một kế sách chế ngự người Nhung vậy[46].
Thứ ba: Đất Yến bị cắt về Khiết Đan, tuy đã hơn trăm năm, nhưng phong tục vẫn là người Hoa, không bị người Nhung khống chế, cuối cùng vẫn có lòng hướng về giáo hóa, thường hận Trung Quốc không thể làm chủ cho chúng tôi, thường xuyên cảm thấy phẫn uất, biểu lộ qua tiếng khóc đau thương.
Thần năm trước phụng mệnh đi sứ phương Bắc, qua lại biên giới nhiều lần, người biên giới thường khuyên thần rằng: ‘Nếu chẳng may giặc xâm lược, người dân biên giới chúng tôi có nhiều hào kiệt, có thể tự dẫn vài trăm con em làm tiên phong cho quân triều đình, chỉ cần theo hướng của họ là có thể phá giặc, mong triều đình thu phục lại đất Yến, Kế, làm người Hoa, dù chết cũng hạnh phúc.’ Thần ngầm khen ngợi họ, an ủi cảm tạ rồi cho về.
Thần lui về nghĩ rằng sức triều đình chưa đủ để phòng thủ bên ngoài, nên đành bỏ qua lời thỉnh cầu của hào kiệt biên giới. Tuy nhiên, thần chưa từng quên, nghĩ đến việc sử dụng họ trong tương lai. Từ đó không ngừng tìm kiếm, thu được khá nhiều, nếu sau này giặc xâm lược, thần nhất định có thể dùng những hào kiệt biên giới đã thu phục được, bảo họ tự dẫn người làng, mỗi người thành lập một đội, hoặc làm hướng đạo, hoặc làm nội ứng, hoặc phá trận, hoặc công thành, đều có thể trở thành trợ lực lớn cho quân triều đình. Lúc đầu đi thì giữ gia đình họ làm con tin, khi thành công thì ban thưởng hậu hĩnh, thần cũng không lo họ gian trá mà quay lại hại ta.
Thứ tư nói rằng: Xưa kia khi có nạn ngoại xâm, thì dùng rợ đánh rợ, đó là lợi của Trung Quốc. Triều đình phía tây có nạn người Khương, sức đủ để phòng ngự, không cần cầu viện bên ngoài để tự giúp. Chỉ có kẻ địch phương bắc hùng mạnh, gấp mười lần người Khương, ngày nào đó phá bỏ minh ước, đem hết quân xuống phía nam, nếu sức quân không đủ, thì họa không thể lường được, nên tìm cách để kiềm chế, khiến họ có điều lo sau lưng mà không dám hành động, dù có hành động cũng có điều e ngại, không thể đem hết tinh binh đến, sức ta đủ để chống lại, điều này không thể không lo.
Nay Khiết Đan đã khuất phục hết các nước rợ[47], như Nguyên Hạo, Hồi Hột, Cao Ly, Nữ Chân, Bột Hải, Úy Nha, Thiết Lặc, Hắc Thủy Mạt Hạt, Thất Vi, Thát Đát, Bộ Hề v.v., nước yếu thì chiếm hết đất đai, nước mạnh thì chỉ thu nạp cống phẩm.
Chỉ có Cao Ly không chịu khuất phục, tự cho mình là hậu duệ của Di Tề, là nước cũ của Tam Hàn, phong khí thi thư lễ nghĩa không kém Trung Quốc. Khiết Đan dùng binh lực khuất phục Cao Ly; Cao Ly cũng ra sức chiến đấu, sau không đành phải thần phục. Khiết Đan biết đó không phải là bản ý của họ, nên thường phải vất vả kiềm chế. Cao Ly rốt cuộc cũng có lòng quy thuận triều đình.
Thần thấy trong niên hiệu Thuần Hóa, quốc chủ nước ấy là Vương Trị vì Khiết Đan đem quân vào cõi, sai sứ Nguyên Uất sang triều cống nạp, Thái Tông không theo, chỉ ôn tồn đáp lại. Lại vào năm Hàm Bình, quốc chủ nước ấy là Vương Tụng sai Hộ bộ lang trung Lý Tuyên Cổ sang sứ, Chân Tông cũng không nhận, chỉ ban chiếu ưu đãi mà thôi. Lại vào năm Tường Phù thứ bảy, quốc chủ nước ấy là Vương Tuân sai Công bộ lang trung Đan Trưng Cổ mang biểu sang sứ, biểu nói nay đã đoạn tuyệt với Khiết Đan[48], quy phụ nước lớn, lại xin ban chính sóc và tôn hiệu hoàng đế, Chân Tông lại không cho.
Sau khi bệ hạ lên ngôi, năm Thiên Thánh thứ hai, lại từng sai sứ sang triều, triều đình sai Liễu Thực tiếp đãi, việc ấy rất gần. Trước sau Cao Ly bốn lần sai sứ sang cống, mỗi biểu đều nói không muốn phụ thuộc Khiết Đan mà muốn phụ thuộc triều đình[49], triều đình rốt cuộc không chấp nhận. Tuy nhiên, xem lòng thành quy phụ của Cao Ly, như kẻ khát mong uống, kẻ đói mong ăn, không một ngày nào quên vậy[50].
Chỉ cần phái người đến gợi ý nhẹ nhàng[51], thì họ chắc chắn sẽ đến. Khi họ đến, hãy đối đãi tử tế, cho phép họ mỗi năm đến triều kiến kinh đô, ban thưởng nhiều hơn trước, để làm dịu lòng họ; soạn chiếu chỉ với lời lẽ ưu ái, để làm hài lòng họ.
Sau này, nếu Khiết Đan lại muốn gây hấn, thỏa mãn ý đồ hung hãn, ta sẽ phái sứ giả đến Cao Ly kích động họ, và thỏa thuận rằng: ‘Khiết Đan trước đây vô cớ chiếm đất Tam Hàn của Cao Ly, lại trong niên hiệu Cảnh Đức đem quân xâm lược sâu, đòi hỏi không ngừng, khiến Cao Ly rất khổ sở. Tiên đế của ta coi trọng sinh mệnh dân chúng[52], không muốn thường xuyên giao chiến với họ, nên hàng năm cống nạp cũng nhiều, đã được bốn mươi năm rồi.
Nay Khiết Đan lại muốn phản bội, gieo rắc độc hại, xâm phạm biên giới ta. Quân dân ta đều phẫn nộ, nguyện liều chết chiến đấu, ta không dám trái ý dân, sắp sửa xuất quân. Cao Ly hãy cử binh ứng chiến, cùng ta đánh giáp công. Khi Khiết Đan thất bại, đất Tam Hàn cùng nhân dân, kho tàng thu được sẽ hoàn toàn thuộc về Cao Ly, ta không lấy một mảy may, chỉ muốn khôi phục lại vùng đất cũ bị Tấn cắt nhượng mà thôi.’ Cao Ly vốn oán hận Khiết Đan xâm chiếm đất đai, lại bóc lột quá nặng, trước đây hận vì không có nước lớn giúp đỡ để chống lại, nghe lời đề nghị này, ắt sẽ vui vẻ nghe theo, như vậy Khiết Đan không khó để đánh bại.
Hoặc là nếu tiếp nhận Cao Ly, thì Khiết Đan có thể gây ra mối họa, hoặc cho là không tiện. Thần trả lời rằng: ‘Mối họa năm trước, há phải do tiếp nhận Cao Ly gây ra loạn sao?’ Tính cách của rợ phương Bắc, xảo trá nhiều mưu kế, nếu muốn phản bội minh ước, thì có gì không thể nói. Há nên tự mình ràng buộc, không dám hành động, chỉ đợi họa đến, ngồi chịu tai họa, người ngu còn không chịu như vậy, huống chi là mưu tính việc thiên hạ.
Cao Ly quả nhiên đến cống, giả sử Khiết Đan đến hỏi, ta nên trả lời rằng Trung Nguyên từ xưa đã nhận cống phẩm của vạn nước, huống chi Cao Ly vốn tuân theo chính sóc của triều đình, chỉ vì giữa chừng bị gián đoạn, nay lại khôi phục lại quan hệ cũ[53], khiến ta có lý do gì để từ chối, cũng giống như Khiết Đan tiếp nhận cống phẩm của các nước khác. Khiết Đan sao có thể bắt ta không tiếp nhận cống phẩm của Cao Ly? Thần lại nghĩ, nếu Khiết Đan yếu ớt, không đáng lo ngại, hoặc có thể giữ vững minh ước, không có ý xâm lược Trung Nguyên, thì cần gì phải tiếp nhận cống phẩm từ xa của Cao Ly, mà lại coi thường minh ước với Khiết Đan?
Nay Khiết Đan đã nuốt chửng các nước chư hầu, thế lực hùng mạnh, chỉ còn lại Trung Nguyên là đối thủ, lại thường có ý xâm lược, huống chi năm trước đã sinh ra mối họa, tự biết mình không đúng, cho rằng triều đình giả tăng vàng lụa, sau đó mưu tính giải hòa, không lâu sau lại sẽ chủ động tấn công để khống chế ta. Nếu chúng hành động rồi mới mưu tính, thì đã không kịp, việc chuẩn bị và sắp xếp, nay chính là thời cơ.
Thần lại từng nghe Khiết Đan bàn rằng: ‘Ta cùng Nguyên Hạo, Cao Ly liên minh tấn công Trung Nguyên, Nguyên Hạo chiếm Quan Tây, Cao Ly chiếm các châu Đăng, Lai, Nghi, Mật.’ Lại nói: ‘Cao Ly cách biển, e rằng không thể lâu dài chiếm giữ mấy châu này, chỉ cần cho quân cướp bóc tài sản công tư ở Sơn Đông rồi rút đi, ta sẽ chiếm ba mươi sáu châu quân ở Hà Đông, lấy sông làm giới.’
Thần nghe chuyện này đã lâu, vạn nhất quả nhiên như vậy, thần e rằng triều đình cũng không có cách nào ngăn chặn. Ngoại địch nhìn vào Trung Nguyên như vậy, ngày qua ngày cứ thế, thần không biết rốt cuộc sẽ ra sao? Cao Ly nhiều lần dâng biểu xin cống phẩm, triều đình cuối cùng không cho, nên quyết tâm theo Khiết Đan, vì thế mà bị Khiết Đan sử dụng, Khiết Đan dạy gì đều nghe theo. Triều đình nếu có thể cho phép Cao Ly tiến cống, chính là đạt được ý nguyện của họ, thì họ ắt sẽ quay lại phục vụ ta[54], Khiết Đan sao có thể sai khiến họ được?
Thần biết rõ Cao Ly tuy theo Khiết Đan, nhưng Khiết Đan lại sợ họ. Năm Thiên Thánh thứ ba, Khiết Đan từng đánh Cao Ly, năm đó, triều đình cử Lý Duy đi sứ, Cao Ly giết hai mươi vạn quân Khiết Đan, không một ngựa một xe nào trở về. Từ đó Khiết Đan thường sợ họ, không dám đem quân đánh. Triều đình nếu có được Cao Ly, không cần đợi Khiết Đan động binh mới cầu viện[55], thần đoán Khiết Đan ắt sẽ nghi ngờ Cao Ly là mối họa về sau, cuối cùng không dám đem toàn lực đánh xuống phía nam, chỉ cần như vậy đã là lợi lớn cho Trung Nguyên, cũng mong bệ hạ hành động không do dự.
Năm là: Phía tây núi Trấn, Định có hơn mười cửa ải, đều thông ra con đường phía sau núi giáp biên giới phía bắc. Trước niên hiệu Cảnh Đức, đường này chưa được khai phá nhiều, vì khe suối hiểm trở, cây cối um tùm, nên quân địch ít khi đi qua con đường này, dù có đến cũng gặp nhiều khó khăn. Thần vừa nghe người Hà Sóc nói rằng Khiết Đan từ phía sau núi đã chặt phá cây cối, mở đường, thẳng đến biên giới Hán phía tây núi. Hiện nay đường đi lại thuận tiện, có thể hành quân.
Thần cũng từng hỏi kỹ nguyên do, nghe nói Khiết Đan trước đây cũng nghi ngờ triều đình có kế hoạch khôi phục Yên, sợ quân thiên triều vượt sông[56], thẳng đến Yên Kinh. Vì thế, quân địch muốn đánh úp ta, từ phía sau núi tiến quân, đánh bên cạnh Trấn, Định, tung hoành khắp Hà Sóc, nhằm kìm chế quân triều đình.
Thần đoán trước đây dọc biên giới cũng từng có tin báo, triều đình đã biết. Nay nếu Khiết Đan từ Quảng Tín, An Túc xâm lược, ta dùng trọng binh chặn đánh, lại có quân từ phía tây núi đánh tập hậu, quân triều đình thất bại, thì đại sự đã mất. Đây là việc cấp bách của nhà binh, không thể không biết. Nên chọn người liêm chính, cẩn mật, bí mật đến xử lý, xem xét cách đóng quân, cách phòng thủ, tất có kế sách thắng lợi, chuẩn bị trước, đợi địch đến, đó là đạo giữ biên cương vậy.
Sáu là: Kỳ, Thâm vốn không phải là quận trọng yếu, quân đồn trú rất ít, thành lũy chật hẹp và thấp kém, không được tu bổ hoàn chỉnh. Nghe nói Khiết Đan sau này xâm lược, biết rằng quân ta đóng trọng binh ở Trấn, Định, nên không dám tiến thẳng về phía nam, chỉ qua Bảo Châu liền chọn đường phía đông nam, từ Kỳ, Thâm tiến về Ký, Bối, rồi đánh Thiền, Ngụy[57]. Ký, Bối, Thiền, Ngụy thành lớn và kiên cố, chỉ có hai thành Kỳ, Thâm cần mở rộng và nâng cao để phòng ngừa bị tấn công.
Theo thệ thư, không được xây mới thành trì, nhưng nếu mở rộng trên nền cũ thì không sao. Lại nói: Quân địch vốn sợ Trấn, Định mà coi thường Thâm, Kỳ, ắt cho rằng hai thành này binh lực phân tán, không phòng bị mà vượt qua. Nếu ta nhân lúc chúng không đề phòng, sai hai thành bí mật xuất kích tinh binh, đánh đầu đuôi tương ứng, ắt sẽ đại thắng. Việc này tùy thuộc vào thời cơ, không thể dự liệu trước, nhưng người biết binh pháp nên lưu ý.
Bảy là: Trước thời Đường, Hán, Hung Nô xâm lược thường đi qua Thượng Quận, Nhạn Môn, Đại Châu, Định Tương, vì lúc đó Trung Quốc chiếm cứ toàn bộ đất Yên, có hiểm trở để phòng thủ, Hung Nô không thể đi qua con đường này. Từ khi Thạch Tấn cắt đất Yên, Kế cho Khiết Đan, Trung Quốc không còn hiểm trở để phòng thủ, nên quân địch thẳng tiến về phía nam Yên, không còn tìm đường qua Định Tương. Nay triều đình nếu chú ý đến Hà Sóc, biên giới có phòng bị, quân địch không thể xâm nhập, ắt phải tìm đường khác.
Hoặc dù có thể xâm lược, cũng chỉ chọn đường Định Tương để tạo thế gọng kìm, nên Hà Đông không thể không phòng bị nghiêm ngặt. Hoặc xây dựng thành trì, hoặc tạo hiểm trở, xem xét nơi nào có thể đặt phục binh, đường nào có thể kéo quân khiên chế, việc này cần chuẩn bị trước, có kế hoạch phòng bị, thì khi xảy ra sự cố mới có thể chống cự, ứng phó kịp thời, không đến nỗi hoảng loạn. Khiến Hà Sóc trong ngoài tương ứng chống giặc, khiến chúng không thể thỏa mãn ý đồ, đây chính là việc cần làm để phòng thủ biên giới.
Tất cả các kế sách phòng thủ này gồm mười hai điều, tổng cộng mười ba điều, là những điều thần đã soạn ra trong năm Canh Thìn, Nhâm Ngọ khi phụng mệnh đi sứ Khiết Đan, qua lại vùng Hà Bắc hơn mười lần, hỏi han các hào trưởng vùng biên giới và các bậc lão thành trong nước, thu thập rộng rãi và so sánh kỹ lưỡng, đạt được sự hiểu biết rất chi tiết. Đến khi bàn việc ở triều đình phương Bắc, lại thấy rõ tình hình, rồi tra cứu sách vở, đối chiếu với thực tế, từ đó tổng hợp và soạn thuật, để đáp ứng ý chỉ ủy thác của bệ hạ, chứ không phải do thần tự ý bịa đặt làm mê hoặc thánh thính.
Thần kính mong bệ hạ hạ lệnh cho hai phủ họp bàn, điều nào khả thi thì nhanh chóng thi hành, điều nào chưa khả thi thì cùng nhau tra hỏi và sửa chữa cho đúng. Thần nhất định không dám cố chấp vì tư lợi mà bỏ qua các chứng cứ của mọi người, hai phủ cũng không được chỉ biết phê phán mà không có sáng kiến gì. Như vậy, mới có thể thực hiện được kế sách và ngăn chặn được mối họa.
Thần nghe rằng các bậc minh quân thời xưa gặp hoạn nạn thì lui về tu dưỡng đạo đức, có thể tránh được lỗi lầm. Vì thế, Văn Vương thoát khỏi ngục Dũ Lý, chuyên tâm giáo hóa mà cuối cùng diệt được kẻ độc tài; Câu Tiễn thoát khỏi đất Hội Kê, chăm lo việc võ mà cuối cùng đánh bại được Phù Sai. Lại nghe rằng: Vua lo thì bề tôi nhục, Vua nhục thì bề tôi chết. Vì thế, Trần chủ trả lời thư ngạo mạn mà Dương Tố xuống điện xin chết; giặc Thái ngang ngược khó trị mà Bùi Độ thề không cùng sống. Cuối cùng, nhà Tùy diệt Giang Nam và Bùi Độ dẹp yên Hoài Tây, cho thấy rằng các bậc quân thần xưa làm việc đúng đạo thì không ai không lập được công danh, tiếng thơm lưu truyền muôn đời.
Gần đây, Khiết Đan trái ước, đòi hỏi không ngừng, triều đình lấy địa vị tôn quý của Trung Quốc mà kẻ địch dám làm như vậy. Bệ hạ có lòng muốn như Văn Vương, Câu Tiễn rửa nhục khôi phục cơ đồ, nhưng bề tôi chưa thấy ai có chí như Dương Tố, Bùi Độ dám chết vì nạn, dẹp giặc. Như thế mà mong giải quyết được hoạn nạn, lập công danh như các bậc quân thần xưa, sao có thể được? Thần nghĩ rằng kẻ địch phương Bắc thế lực đang mạnh, có thể xâm lược mà lại chịu nghị hòa, ắt là có mưu đồ. Mưu đồ sau này hành động, coi đó là kế sách vạn toàn.
Lại nghĩ rằng thế lực của Trung Quốc như người ngồi trên đống củi mà lửa đã cháy, tuy ngọn lửa chưa chạm đến thân, nhưng cũng đã nguy hiểm lắm rồi. Kẻ địch phương Bắc mạnh như thế, Trung Quốc yếu như thế, mà vẫn không vội tìm cách cứu nguy, chẳng phải là muốn như nước Tần tan rã, nước Lương tự diệt hay sao?
Thần đang giữ chức trong Xu phủ, ngày đêm lo sợ, chỉ hận chưa tìm được chỗ chết để bớt nỗi khó khăn cho nước, chỉ mong được giải chức bí mật, nhận một quận trọng yếu ở Hà Sóc, dùng sức vụng về mà lo liệu việc biên cương, tuy chưa dám chắc là không có gì lo ngại, nhưng tự nghĩ có thể phần nào giảm bớt nỗi lo về phương Bắc của bệ hạ. Kính mong sớm được xem xét chọn lựa.”
[24] Tháng này, các quan gián là Dư Tĩnh và những người khác tâu rằng: “Thần trộm thấy Bệ hạ vì tai biến liên tiếp xảy ra, nạn châu chấu hoành hành, nên tự trách mình, nhận lỗi, cầu xin trời đất, tông miếu, xã tắc, không để tai họa ảnh hưởng đến muôn dân. Thần nghĩ rằng tai dị xảy ra thực sự là do việc con người, chính trị có thiếu sót, khiến trời đất cảm động. Vì vậy, các vị Vua thời xưa, khi gặp tai dị, thường tránh chính điện, bỏ bớt bữa ăn thường ngày, tự trách mình sâu sắc, suy nghĩ về nguyên nhân dẫn đến tai dị và cách sửa đổi chính trị, thậm chí có khi miễn chức Tam công, ban chiếu cầu lời nói thẳng, đều là những cách để tiêu trừ tai dị, đem lại hòa khí.
Hiện nay, tình thế thiên hạ rất nguy hiểm, hai kẻ thù phương Tây và Bắc đang uy hiếp Trung Quốc, giặc cướp hoành hành, cướp bóc các châu huyện. Việc nuôi quân quá nhiều, chọn tướng không tinh, thuế má nặng nề, công tư đều kiệt quệ. Các quan trong ngoài chỉ lo làm việc mà ít người biết thương xót; dân chúng trong thiên hạ phải gánh vác nặng nề mà chịu cảnh lưu ly khổ cực. Đạo trị nước đến mức này, chưa nghe thấy có cách nào cứu vãn.
Thần trộm thấy mấy năm gần đây, trời đã nhiều lần cảnh báo[58], triều đình tuy có ý lo sợ, nhưng vẫn theo thói cũ, chưa thay đổi nhiều, nên ngày nay tai biến liên tiếp xảy ra, có lẽ ý trời muốn triều đình phải sửa đổi lớn việc con người, để cứu vãn tai họa, mới có thể biến nguy thành an.
Phương cách cứu vãn tai họa, không gì bằng tìm hiểu nguyên nhân gây ra tai dị, mà nguyên nhân gây ra tai dị là do thiếu sót của Vua tôi trên dưới. Những thiếu sót đó, thần xin lần lượt trình bày. Bệ hạ không chuyên tâm nghe và quyết đoán, không nắm quyền uy, khiến hiệu lệnh không được tin tưởng, ân trạch không đến được với dân chúng, đó là lỗi của Bệ hạ. Nắm quyền trong thiên hạ, quản lý mạng sống của dân, mà không có kế sách hay ý kiến khác lạ để cứu vãn tệ nạn thời cuộc, không hết lòng trung thành để đáp ứng nhiệm vụ, đó là lỗi của các đại thần.
Triều đình có thiếu sót mà không cứu vãn, dân chúng có khổ cực mà không thấu hiểu, Bệ hạ khoan dung nhưng thiếu quyết đoán mà không sửa đổi, quần thần im lặng tránh việc mà không chỉ trích[59], trăm quan tà chính cùng tiến mà không phân biệt, bốn phương ngoại tộc liên kết xâm lược mà không có kế sách[60], có tâm tránh né mà không có tiết tháo tranh đấu, đó là tội của thần.
Nay Bệ hạ đã có lời nhận lỗi, thấu đến trời đất thần linh, mong Bệ hạ nhất định thực hiện lời nói, nhất định làm theo sự thật. Điều cốt yếu để thực hiện lời nói và hành động, không gì bằng chuyên tâm nghe và quyết đoán, nắm quyền uy, khiến hiệu lệnh được tin tưởng, ân trạch đến được với dân chúng, thì tai dị sẽ tiêu tan và hòa khí sẽ ứng nghiệm.
Còn về lỗi của các đại thần không làm tròn chức trách, thần mong Bệ hạ dựa vào nguyên nhân gây ra biến cố, nghiêm khắc trách phạt. Nếu trách phạt mà không có hiệu quả gần, thì nên theo lệ cũ dùng tai dị miễn chức Tam công mà bãi nhiệm, tìm người hiền tài khác để cứu vãn đại họa. Như thần đây được Bệ hạ bất thường tuyển chọn, không xứng chức, khiến Bệ hạ có lỗi như vậy, các đại thần có lỗi như thế, thần tội lỗi rất sâu, xin triều đình đày xa, tìm người ngay thẳng, có tài thức, để giữ chức gián, chắc chắn sẽ giúp ích cho triều cương, đáp ứng sự lựa chọn của Thánh thượng.”
Lại tâu: “Thần đã chịu tội, đến nay đã bảy ngày, vẫn chưa được hồi âm, lo lắng xấu hổ càng thêm sâu sắc[61], không biết phải làm sao. Thần trộm nghĩ tình thế thiên hạ hiện nay, bên ngoài có nỗi lo Khương Nhung liên kết xâm lược uy hiếp, bên trong có nỗi khổ biên cương phải phòng thủ chiến tranh. Binh lính hỗn loạn, tài chính kiệt quệ, thuế má bạo tăng, máu mỡ của dân chúng bị vơ vét không cùng, ví như ném đá xuống giếng, đến đáy mới dừng. Nếu không may gặp phải thiên tai hạn hán lụt lội đói kém, giặc cướp nhân cơ hội nổi dậy, thì lấy gì để chống đỡ?
Ngày nay so với một hai năm trước, quốc dụng và sức dân đã không bằng rồi[62]. Lại còn cứ theo lối cũ, không có biện pháp thay đổi những tệ nạn cũ, một hai năm sau, nhìn lại ngày nay, lại càng thấy rõ, không chỉ không bằng ngày nay, mà tai họa sẽ rất lớn, dù có người biết, cũng không thể mưu tính được.
Thần là quan gián, thấy tình thế thiên hạ nguy hiểm như vậy, vừa không thể mở rộng ân tín của bệ hạ để củng cố lòng dân, lại không thể sửa chữa những sai sót của đại thần để cứu vãn tệ nạn thời cuộc, khiến tai dị liên tiếp xảy ra, trong ngoài đều lo sợ. Thần trên phụ ơn bệ hạ tuyển dụng, dưới phụ mong mỏi của dân chúng khốn khổ, lo lắng suốt ngày, bị chê trách khắp nơi, còn mặt mũi nào ra vào triều đình? Thần tội lỗi thực sâu nặng, kính xin triều đình nhất định phải trục xuất, để tạ lỗi với thiên hạ.”
Lại tâu: “Thần lo rằng triều đình cho rằng tai dịch là do trên dưới đều có lỗi, không muốn quy tội riêng cho thần. Nhưng thần tự nghĩ, trước đây được bệ hạ vượt bậc chọn lựa trong đám đông, lúc ấy dư luận cho rằng thần ắt có kiến giải sáng suốt, thần cũng tự hứa sẽ cố gắng báo đáp. Nay xem tình thế thiên hạ, ngày càng đáng lo sợ, tai biến trời người liên tiếp xảy ra, há chẳng phải do thần không thể bổ trợ hay sao? Hoặc giả triều đình còn thương xót, không gia tội nặng, xin cho thần được nhận chức vụ ngoại nhiệm hợp lệ, để tận tâm tận lực, thực hiện hiệu quả. Triều đình chọn được người hiền tài khác, cho giữ chức gián quan, ắt sẽ có mưu kế giúp ích cho việc trị nước.”
[25] Tri chế cáo Trương Phương Bình tâu: “Thần nghe lời đồn bên ngoài rằng, quân địch phương Bắc không giữ phận sự, xây thành ở biên giới, quan lại biên thùy dò biết họ đang tập trận và chuẩn bị binh mã, lại còn sai sứ sang. Việc này tuy chưa rõ thực hư, nhưng nước ta đã giao hảo với địch bốn mươi năm, việc đến cùng tất biến, lợi hết thì tình giao cũng nhạt, đó là lẽ thường, chỉ là kéo dài thời gian. Các nước phương Bắc bị địch khống chế như Bộ Hề, Cao Ly, Thát Đát thường trong lòng không phục, chỉ vì bị ép phải thần phục mà thôi.
Mùa đông năm ngoái, địch đem quân đánh Hà Tây, tưởng dễ như nhặt cỏ, nhưng rồi tan tác trở về, trong lòng xấu hổ với các nước, lại nghi ngờ ta dung nạp người Hạ, vừa xấu hổ vừa nghi ngờ, ắt sẽ sinh sự, muốn trút giận lên ta, há có thể bảo đảm không có chuyện gì? Binh đao là việc nguy hiểm, không nên nói dễ dàng. Nếu tình hữu hảo có thể duy trì[63], triều đình há muốn giao chiến với tứ di? Nhưng nếu việc đến mức không thể tránh được, thì cũng phải trên dưới cùng gắng sức, bàn kế sách chống địch, tính toán cách ngăn chặn.
Quân Hà Sóc không dưới ba mươi vạn, biên giới dài ngàn dặm, nước hồ chiếm hai phần ba, có thể tập trung lực lượng khống chế các thành trì then chốt, phòng thủ vững chắc như ở chín tầng trời. Nếu đóng trọng binh ở Thiền, Ngụy, Trung Sơn, củng cố thành lũy không giao chiến, thanh dã chờ địch suy yếu, dùng mưu kế đánh úp khi thuận tiện, chặn đường rút lui của địch, thì thế bất bại thuộc về ta[64], thế thắng thuộc về địch[65].
Hơn nữa, địch đã lâu giao hảo với Trung Nguyên, quen hưởng lợi, tầng lớp quý tộc quen thói kiêu căng xa xỉ, binh lính không rèn luyện chiến đấu, phong tục bản địa đã suy yếu nhiều, lại thêm mẹ con, anh em trong nước nghi kỵ lẫn nhau, trên dưới chia rẽ, đó là dấu hiệu nguy loạn, là cơ hội để Trung Quốc lợi dụng. Nếu triều đình có chí hướng xa, đất U, Kế có thể thu phục, địch còn có thể gây họa cho Trung Nguyên sao? Bệ hạ nên phát huy uy linh, triều đình bàn bạc kế sách, văn võ trong ngoài cùng gắng sức, khiến địch một trận không thành công, nếu không có nội biến, ắt sẽ có ngoại phản, các nước phương Bắc sẽ tan rã, đất Sơn Hậu, trời có lẽ sẽ khiến nó trở về với Trung Thổ, chưa thể biết được.
Thần mong Bệ hạ lo xa phòng trước, bàn bạc kế sách trước, khí thu dần trong lành, cung điện mát mẻ, nhân lúc nhàn rỗi, triệu tập đại thần, để họ đưa ra mưu kế, quyết định trong màn trướng. Một ngày kia có biến cố biên giới, cũng không đến nỗi bối rối. Nay biên giới phía Tây vừa yên, dù không bảo đảm lâu dài, nhưng cũng chưa có nguy cơ trước mắt, các tướng hiệu có thể dùng, nên dần dần điều về Hà Bắc, để họ quen thuộc với binh sĩ, dần hiểu phong tục địa phương. Còn việc tuyển chọn quan lại, tích trữ lương thảo, sửa chữa khí giới, tu bổ chuồng trại, đều là việc cấp thiết hiện nay và có thể chuẩn bị trước. Chuẩn bị mà chưa dùng, là lẽ thường của chính sự, nếu đến lúc việc xảy ra mới bối rối, thì sao giữ được bình tĩnh?
Đây đều là những lời bàn quen thuộc của triều đình, và là lời thường của nho sinh. Thần ở gần bệ hạ, nghĩ đến điều gì, không dám giấu giếm, xin Bệ hạ xem xét chọn lựa.”
(Nước Hồ chiếm hai phần ba biên giới phía Bắc, đoạn này căn cứ vào tờ biểu riêng của Phương Bình sửa lại.)
- Sức dân càng kiệt quệ, nông nghiệp càng suy yếu. Bốn chữ 'càng kiệt quệ nông nghiệp' vốn bị thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính Công tập》, phần tấu nghị thượng, mục 'Đáp thủ chiếu năm việc' bổ sung. ↵
- Lại ban hành mệnh lệnh nghiêm khắc khuyến khích nông nghiệp. Chữ 'ban hành' vốn viết là 'giả', căn cứ vào sách trên sửa lại. ↵
- Trong vài năm. Chữ 'trong' vốn bị thiếu, căn cứ vào sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'Hà' trong 'như hà chế trí' vốn thiếu, căn cứ theo 《Phạm Văn Chính công tập》 bổ sung. ↵
- 'Huấn luyện nghĩa dũng', nguyên bản là 'Tập giáo', căn cứ vào bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 《Phạm Văn Chính Công Tập》 quyển hạ, bài tấu 'Phân định lợi hại ở Thiểm Tây và Hà Bắc' sửa lại. 'Nghĩa' nguyên bản là 'kỹ', căn cứ vào sách trên sửa. ↵
- Xin đừng kiêm thêm chức Chiêu thảo, Bộ thự. 'Bộ' nguyên văn là 'Đô', căn cứ theo 《Phạm Văn Chính Công Tập》 quyển hạ, tấu xin miễn chức Tham tri chính sự, làm tri châu biên giới, sửa lại. ↵
- Doãn Dữ Tắc, Dương Thủ Tố: nguyên bản viết 'Doãn Chu Dữ', xét 'Doãn Dữ Tắc' cũng là sứ giả Tây Hạ, viết 'Doãn Chu Dữ' là sai, nay căn cứ vào bản trong các bộ sách và quyển 149 sửa lại. ↵
- 'việc phương Tây' nguyên văn là 'Thiểm Tây', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa. ↵
- 'Tri' nguyên văn là 'Chi', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. ↵
- Đừng cho rằng Dương Thủ Tố đến đây giảng hòa, chữ 'hòa' nguyên bản là 'nghị', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác sửa lại. ↵
- Hơn một nghìn hộ dân quen thuộc ở Bình Xuyên, 'Bình Xuyên' nguyên bản là 'Bình Châu', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác sửa lại. ↵
- Triều đình từ nay về sau cứ đặc cách thi hành, chữ 'đặc' nguyên bản là 'trì', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và các bản khác sửa lại. ↵
- Còn Địch Thanh vốn có lỗi, chữ 'nhân' nguyên bản là 'ứng', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và bản các, đã sửa lại. ↵
- Bảy ngày sau ngày Quý Mão, chữ 'ngày' nguyên là 'tháng'. 《Tục thông giám》 quyển 46 chép: 'Tháng 6 ngày Canh Tuất, lấy Thiên Chương các học sĩ Vương Tố làm Tri châu Vị.' Xét ngày Canh Tuất là bảy ngày sau ngày Quý Mão, nay theo bản Tống và bản Tống toát yếu mà sửa. ↵
- 'chỉ dùng', bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống đều chép là 'chỉ lấy từ'. ↵
- 'bằng được', nguyên bản chép là 'bằng thế', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống, bản Các mà sửa. ↵
- 'làm', nguyên bản chép là 'vì', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống, bản Các mà sửa. ↵
- Lời nói dối này 'dối', 'nói' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ, 《Tống sử》 quyển 320 truyện Dư Tĩnh sửa lại. ↵
- Điềm không lành 'điềm' nguyên bản là 'lời', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống sửa lại. ↵
- Sách chiêm tinh cũng nói rằng thành sẽ sụp đổ, chữ 'chiêm' nguyên bản là 'cổ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Phạm Văn Chính Công tập》 tấu nghị quyển hạ, tấu khất tuyên dụ đại thần định Hà Đông hãn ngự sách sửa lại ↵
- Dò xét các đường vào thung lũng, chữ 'bộ' nguyên bản là 'đắc', theo sách trên sửa lại ↵
- Trong lãnh thổ Nguyên Hạo không có thành trì để đánh, chữ 'giới' nguyên bản là 'giai', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Phạm Văn Chính Công tập》 sửa lại ↵
- Điều động quân mã từ đâu, chữ 'mã' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- Nghĩa phải nói hết lời, chữ 'luận' nguyên bản có chữ 'ngữ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Phạm Văn Chính Công tập》 bỏ ↵
- 'tử' nguyên văn là 'dư', căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Biên niên cương mục》 quyển 12, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ sửa lại. ↵
- 'Hoan nhiên tương đắc', chữ 'đắc' nguyên là 'xưng', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Long Xuyên biệt chí》 quyển thượng, 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 quyển 20, phần hiệu ký của Tôn Khiêm Ích sửa lại. ↵
- 'Trương' nguyên là 'Trưởng', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Long Xuyên biệt chí》, 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 sửa lại. ↵
- lại từ năm ngoái đến nay 'nay' nguyên là 'kinh', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa. ↵
- chưa hẳn là không có ý đó 'không có ý' nguyên là 'quả đến', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. ↵
- cũng để họ dò xét được nông sâu 'họ' chữ này nguyên thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung. ↵
- Kỵ binh địch tiến sâu 'kỵ' nguyên văn là 'Kiêu', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 quyển 8 《Nhân Tông kinh chế Khiết Đan yếu lược》 sửa lại. ↵
- Nên mới để cho âm mưu của chúng 'nên' nguyên văn là 'chi', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các sửa lại. ↵
- Kỳ, Mạc, Thuận An, Tín An, Bảo Ninh, Vĩnh Ninh, Bắc Bình mỗi nơi năm nghìn, 'Tín An' và 'Vĩnh Ninh' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và sách 《Trị tích thống loại》 bổ sung. ↵
- xin ban chiếu cho các lộ chuyển vận, đề hình, an phủ, bộ thự, kiềm hạt phân chia cử người đảm nhiệm, bản Tống, bản Tóm tắt Tống có chữ 'lộ' dưới 'kiềm hạt', cùng với bản Trị tích thống loại có chữ 'bộ' dưới hai chữ này. ↵
- không được tùy tiện bổ nhiệm, chữ 'nhập' nguyên là 'nhân', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các sửa lại. ↵
- 'Cấp' nguyên là 'Chung', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- mà không ai dám đối đầu, chữ 'mà' dưới nguyên có hai chữ 'thiên hạ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các bản đã xóa ↵
- hoặc thăng chức, chữ 'thăng' nguyên là 'tuyển', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các sửa ↵
- 'Địch' nguyên là 'kính', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trị tích thống loại》 quyển 8 《Nhân Tông kinh chế Khiết Đan yếu lược》 sửa lại. ↵
- 'Dĩ' trong 《Trị tích thống loại》 là 'nhược', nghĩa tốt hơn. ↵
- 'Không thể chủ động tấn công' chữ 'dĩ' nguyên bản không có, theo sách trên bổ sung. ↵
- 'Tất từ phía tây Quảng Tín tiến vào' chữ 'nhi', sách trên viết là 'diện'. ↵
- 'Hô lớn đánh mà không giao chiến' bản Tống, bản Tống Toát Yếu có thêm hai chữ 'chi thanh' dưới 'kích chi'. ↵
- 'Binh xa' sách trên viết là 'quân mã'. ↵
- 'Phân bố đánh úp' chữ 'bố', sách trên viết là 'lộ', có lẽ đúng. ↵
- 'Một kế sách' chữ 'nhất' nguyên viết là 'hạ', theo sách trên sửa. ↵
- Nay Khiết Đan đã khuất phục hết các nước rợ 'Phục' nguyên là 'phục', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các sửa. ↵
- Biểu nói nay đã đoạn tuyệt với Khiết Đan 'Đoạn' nguyên là 'kí', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các sửa. ↵
- Mỗi biểu đều nói không muốn phụ thuộc Khiết Đan mà muốn phụ thuộc triều đình 'Biểu' nguyên là 'lai', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống sửa. ↵
- Không một ngày nào quên vậy 'Vậy' nguyên là 'chi', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các sửa. ↵
- 'phái' nguyên bản là 'có', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các sửa đổi. ↵
- 'Đế' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các bổ sung. ↵
- Nay lại khôi phục lại quan hệ cũ 'khôi phục' nguyên văn là 'nhận', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa. ↵
- Thì họ ắt sẽ quay lại phục vụ ta 'ắt' nguyên văn là 'cũng', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. ↵
- Không cần đợi Khiết Đan động binh mới cầu viện 'cầu' nguyên văn là 'đến', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. ↵
- sợ quân thiên triều vượt sông: 'Thiên binh' nguyên văn là 'Thiên hạ binh', theo bản Tống, Tống toát yếu và các bản khác, bỏ chữ 'hạ'. ↵
- Đánh Thiền, Ngụy hỷ, chữ 'hỷ' vốn thiếu, theo bản Tống và bản Tóm tắt Tống bổ sung ↵
- 'Cảnh báo' nguyên văn là 'cáo', theo bản Tống và Tống Toát Yếu sửa lại. ↵
- 'Quần' nguyên văn là 'đại', theo bản Tống và Tống Toát Yếu sửa lại. ↵
- 'Kết' nguyên văn là 'nạp', theo bản Tống, Tống Toát Yếu và các bản khác sửa lại. ↵
- Lo lắng xấu hổ càng thêm sâu sắc, chữ 'càng' nguyên bản là 'đặc biệt', căn cứ theo bản Tống và bản Tóm tắt Tống sửa lại. ↵
- Quốc dụng và sức dân đã không bằng rồi, chữ 'dân' nguyên bản là 'binh', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và bản các sửa lại. ↵
- Tín hảo khả kết, sách 《Lạc Toàn Tập》 quyển 22, bài 'Thỉnh diên triệu cận thần phỏng nghị biên sự' chép là 'tín hảo khả kế'. ↵
- Chữ 'bất' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Lạc Toàn Tập》 bổ sung. ↵
- Chữ 'bất' trên chữ 'khả thắng' nguyên bản có, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Lạc Toàn Tập》 bỏ. ↵