IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 155: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 5 (ẤT DẬU, 1045)
Từ tháng 3 đến tháng 5 năm Khánh Lịch thứ 5 đời Vua Nhân Tông.
[1] Tháng 3, ngày Mậu Ngọ, ở điện Nhĩ Anh giảng bài thơ “Phỉ Phong” trong Kinh Thi, có câu: “Ai có thể nấu cá, rửa sạch nồi niêu?” Vua hỏi: “Lão Tử nói ‘Trị nước lớn như nấu cá nhỏ’, ý nghĩa có giống với câu này không?” Đinh Độ đáp: “Nấu cá mà quấy nhiều thì cá nát, trị dân mà phiền nhiễu thì dân tan. Nếu không phải học vấn thâm sâu của bậc thánh, làm sao thấy được ý người xưa muốn cầu trị?”
[2] Vua ban chiếu thưởng cho tiến sĩ Lý Phỏng ở Khúc Giang 10 hộc thóc, 10 tấm lụa, và lệnh cho châu huyện thường xuyên thăm hỏi.
Trước đây, cha mẹ Lý Phỏng mất, ông dựng lều ở bên mộ. Có hổ dữ làm hại người khác nhưng không đến gần lều của ông. Lại có mấy trăm con quạ trắng[1] đậu trên mộ. Châu Thiều dâng biểu tâu việc này, nên Vua ban thưởng.
[3] Ngày Kỷ Mũi, Vua ban chiếu cho Đại Tông Chính Ty đốc thúc các tông tử chăm chỉ học hành. Các quan giáo thụ ở các viện Mục Thân Trạch, Bắc Trạch thường xuyên báo cáo việc học tập kinh điển, văn từ, thư pháp. 《Đông Đô Sự Lược》 chép chiếu chỉ cho Đại Tông Chính Tự rằng: “Trẫm nghĩ các bậc quân vương xưa, không ai là không đối đãi hậu với thân thích để phò tá vương thất, dựng nước nhà mà giáo hóa thiên hạ. Nhà Tống dựng nước hơn 80 năm, tông thất đông đúc, nên lệnh cho các quan giáo thụ ở các viện Mục Thân Trạch dạy kinh điển, văn từ và báo cáo.”
Đỗ Diễn, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật đã bị cách chức. Xu mật phó sứ, Hữu gián nghị đại phu Hàn Kỳ dâng sớ nói:
“Bệ hạ dùng Đỗ Diễn làm Tể tướng, mới được một trăm hai mươi ngày thì bãi chức, ắt là Bệ hạ thấy ông ta có lỗi lầm, chứ không phải thần dám bàn luận. Phạm Trọng Yêm vì người Hạ mới quy phụ, tự xin đi giữ biên giới, triều đình nhân đó mà bổ nhiệm, vốn cũng có danh nghĩa. Còn việc Phú Bật ra đi, thì tổn thất rất lớn, thần ban đầu không dám dễ dàng tâu trình, lo rằng các quan ngôn sự cùng các bậc thức giả cao minh trong triều, ắt sẽ có người vì Bệ hạ mà phân tích rõ ràng. Nhưng mấy ngày qua nghe ngóng, chẳng thấy ai mở miệng, há chẳng phải vì tiếc thân sợ họa, đó là lẽ thường tình của con người! Thần được quốc gia trọng ân, giữ chức vụ quan trọng trong triều, nếu việc có liên quan đến đại kế của quốc gia[2], làm mê hoặc tai mắt thiên hạ, thì sao có thể an phận hưởng lộc, im lặng mà không nói?
Thần trộm thấy Phú Bật có đại tiết khó lay chuyển, trời ban cho lòng trung nghĩa. Trước đây, Khiết Đan đem đại quân áp sát biên giới, gửi thư ngạo mạn đến triều đình, trong lúc vội vã, Bệ hạ đã cử Phú Bật đi sứ. Phú Bật từ bỏ tình yêu thương của mẹ già, đối mặt với hiểm họa khôn lường, dùng lý lẽ chính đáng để khuất phục kẻ địch mạnh, cuối cùng khôi phục được hòa nghị, quên mình lập công, đó là điều mà người xưa khó làm được.
Vì vậy, gần đây Lý Lương Thần từ phương Bắc trở về, đã khen ngợi rằng từ chủ tướng trở xuống ở phương Bắc đều kính trọng ông. Bệ hạ hai lần bổ nhiệm Phú Bật làm Xu mật phó sứ, nhưng ông đều không nhận công lao, từ chối không nhận. Đến khi bị ép phải nhận chức, thì ông không màng đến tiếng xấu hay tiếng tốt, luôn nghĩ cách chỉnh đốn kỷ cương, chí hướng của ông là muốn vì Bệ hạ lập nên sự nghiệp vạn đời.
Mùa thu năm ngoái, người phương Bắc tập hợp đại quân, tuyên bố sẽ đánh dẹp Nguyên Hạo. Triều đình chưa rõ hư thực, Phú Bật cho rằng biên phòng Hà Sóc chưa hoàn thiện, lại tự xin đi. Đến nay đã ở ngoài nửa năm, kế sách lâu dài chống giặc đã sẵn trong lòng. Việc xong trở về triều, vừa đến cửa thành, chưa kịp trình bày trước bệ hạ, đã bị khiển trách và bổ nhiệm vào quận nhàn. Trong ngoài đều không biết nguyên nhân phạm tội, thần cũng đau xót không hiểu Phú Bật có lỗi gì với triều đình mà bị giáng chức nhục nhã đến thế! Thần sợ rằng từ nay trung thần nghĩa sĩ trong thiên hạ sẽ lấy Phú Bật làm gương, ai còn dám ra sức vì quốc gia, tổn thất đâu phải nhỏ. Thần biết mệnh lệnh triều đình không thể đổi lại, nhưng còn một kế có thể cứu vãn sai lầm, mong bệ hạ xem xét kỹ.
Thần thấy gần đây Lý Dụng Hòa nhiều bệnh, bệ hạ muốn triệu Lý Chiêu Lượng về kinh quản việc Điện tiền ty, nhưng trong hàng võ thần tìm người thay Chiêu Lượng đều khó chọn được. Thần nghĩ bệ hạ không bằng nhân đó đổi Phú Bật làm Tri châu Định, kiêm chức Bộ thự, sai một trung sứ tuyên dụ, lệnh về kinh tâu việc công Hà Bắc xong thì nhậm chức. Đợi khi vào chầu, an ủi rồi sai đi. Phú Bật vốn trung nghĩa, lại cảm ân này, chỉ nghĩ đến việc báo đền, đâu dám để ý đến chức vụ trong ngoài mà bàn luận gì khác. Như vậy, triều đình sẽ giao việc phương Bắc cho Phú Bật, việc phương Tây cho Phạm Trọng Yêm, khiến họ ngày đêm lo liệu để phòng biến cố từ hai kẻ địch, triều đình thực sự có chỗ dựa.
Lại nữa, quân địch phương Bắc vốn biết uy vọng của Bật, cũng có thể ngăn chặn ý định khinh suất của chúng. Nếu không có việc gì thì bỏ rơi ở quận nhàn, có việc thì bắt phải giữ biên giới, không chỉ sắp xếp muộn màng, mà còn là sự thất thể của quốc gia[3]. Thần không tránh nghi ngờ về phe đảng, chỉ mong một lần tỏ ngộ với thánh thượng, bởi vì phe đảng của bề tôi vốn là để cầu tiến thân, nay thần được hưởng ân sủng, địa vị đã cao, không thể giữ mình im lặng, theo đám đông lên xuống, dần dần mưu cầu tiến thân, mà lại cứu giúp những kẻ phạm tội, tự chuốc lấy họa hoạn vì phe đảng, chẳng phải là ngu xuẩn sao?
Mong bệ hạ xét lòng thần, thì nghi ngờ về phe đảng tự nhiên sẽ giải tỏa. Thêm nữa, gần đây các quan lại phần nhiều chỉ chăm chú công kích người trung lương, thỏa mãn tư phẫn, đó không phải là phúc của quốc gia, chỉ mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng.”
Tấu chương dâng lên không được trả lời, mà Đổng Sĩ Liêm lại đến cửa khuyết kiện tụng việc thành Thủy Lạc, các phụ thần phần nhiều ủng hộ, Kỳ không yên lòng, khẩn thiết xin bổ nhiệm ra ngoài.
Ngày Tân Dậu, Kỳ bị cách chức Xu mật phó sứ, gia phong chức Tư chính điện học sĩ, nhậm chức Tri Dương châu.
[4] Ngày Nhâm Tuất, Lưu Hãng, Tri Đàm châu, kiêm chức Kinh Hồ Nam lộ An phủ sứ.
(Sách 《Hãng truyền》 chép rằng vào tháng 10 năm thứ 3 khi được bổ nhiệm làm Tri Đàm châu, đã kiêm chức An phủ sứ. Xét theo 《Thực lục》 thì việc này xảy ra vào lúc này, nay theo 《Thực lục》. Tuy nhiên, 《Hội yếu》 cũng chép rằng tháng 10 năm thứ 3 lần đầu đặt chức An phủ sứ Hồ Nam, phù hợp với 《Hãng truyền》, cần xem xét thêm.)
[5] Ngày Quý Hợi, ban chiếu cho Lễ bộ tổ chức khoa thi cống cử.
[6] Ngày Giáp Tý, Đỗ Kỷ, Quảng Tây chuyển vận sứ, tâu rằng giặc man ở Nghi châu đã bình định.
Kỷ lúc đầu đi đến Chân Châu[4], trước tiên sai người chạy trạm mang hịch dụ giặc man, cho chúng cơ hội tự cải tạo, nhưng khi đến Nghi Châu, không có người man nào đến. Kỷ bắt được hiệu úy Ngô Hương của châu và tù nhân Khu Thế Hoành, tháo xiềng xích cho họ, cho áo quần, sai vào động thuyết phục, nhưng chúng không nghe. Kỷ bèn dẫn quân đánh phá các trại Bạch Nhai, Hoàng Nê, Cửu Cư Sơn cùng năm động, đốt phá kho tàng, chém hơn trăm đầu, khôi phục Hoàn Châu.
Khu Hi Phạm và Mông Cản chạy tán loạn, Kỷ sai Ngô Hương chiêu dụ Mông Cản ra hàng. Kỷ nói với các tướng tá: “Giặc man dựa vào địa thế hiểm trở, uy không đủ chế ngự, thì ân cũng không thể cảm hóa, nên chúng thường xuyên làm phản. Nay chúng vì cùng đường mà đến hàng, sau này ắt sẽ lại nổi loạn, chi bằng giết hết để trừ hậu hoạn.” Bèn giết trâu ngựa, làm rượu Mạn Đà La, mở hội lớn ở Hoàn Châu, trong lúc yến tiệc, phục binh nổi dậy, bắt giết hơn bảy mươi người, vẽ hình ngũ tạng làm đồ. Thả những người ốm yếu, bị ép buộc và không phải vì thua trận mà hàng, hơn trăm người. Ba ngày sau, lại bắt được Khu Hi Phạm, làm mắm gửi cho các động. Ban đầu, Khu Hi Phạm vào trú trong động Lệ Ba, thỉnh thoảng ra đánh nhau với quân quan.
Khi Kỷ đến Hoàn Châu, sai nhiếp quan Khu Diệp, tiến sĩ Tăng Tử Hoa, áp ty quan Ngô Hương của Nghi Châu dụ hơn sáu trăm đảng của chúng[5], ban đầu kết minh với chúng, bỏ rượu Mạn Đà La vào, khi chúng say mềm, gọi dậy hỏi han, đến thì đẩy ngã xuống sân sau. Đến tối, mọi người mới tỉnh, hoảng hốt chạy trốn, nhưng cửa có quân canh không ra được, bèn bắt giết hết. Ba ngày sau, bắt được Mông Cản, Khu Hi Phạm, Khu Phi Tục hơn mười người, mổ bụng vẽ hình ngũ tạng, lại làm mắm gửi cho các động. Đây là những gì thực lục ghi chép. Nay theo bản truyện của Kỷ.
[7] Ngày Tân Mùi, ban chiếu rằng: “Trước đây từng ban chiếu cho các châu tăng thêm chức học quan, nhưng quan lại tham cái hư danh sùng Nho, chỉ lo tăng thêm nhà cửa, khiến các sĩ tử khắp nơi đua nhau đến, bỏ quê hương mà đi, dần không thể ngăn được. Từ nay, các châu huyện có trường học không được tùy tiện cho người không phải bản địa vào ở nghe giảng.”
[8] Ngày Giáp Tuất, ban chiếu cho các lộ Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty, từ nay khi xét xử quan lại, không được sai quan đi điều tra, để tránh sinh sự.
(Cần xét ai là người đã dâng kế sách lúc đó.)
[9] Ngày Ất Hợi, Chiêu tuyên sứ, Mi Châu phòng ngự sứ, Nhập nội đô tri Trương Vĩnh Hòa được làm Tuyên khánh sứ; Hoàng thành sứ, Tử Châu quan sát sứ, Nội thị đô tri Vương Thủ Trung được làm Chiêu tuyên sứ; Nội tàng khố sứ, Vinh Châu đoàn luyện sứ, Nhập nội phó đô tri Lưu Tòng Nguyện được làm Hoàng thành sứ. Từ khi Tây Hạ nghị hòa, đã năm lần cử sứ đến triều đình, mà Vĩnh Hòa và những người khác chủ trì việc biện luận có công, nên đặc cách thăng chức.
[10] Ngày Bính Tý, ban chiếu cho Lễ bộ Cống viện tăng thêm số lượng người được dự thi trong cả nước. Cống viện xin lấy số lượng tiến sĩ được dự thi trong các khoa thi năm Cảnh Hựu thứ 4 và Khánh Lịch nguyên niên, chọn năm nào nhiều hơn thì cho phép dự thi với tỷ lệ hai phần mười. Dù số người dự thi nhiều, số lượng tăng thêm cũng không quá một nửa so với số lượng cũ. Riêng Thiểm Tây lộ, chỉ có hai nơi là Vĩnh Hưng và Phượng Tường có nhiều người dự thi, số lượng được dự thi còn ít, nên dùng ân xá năm Khánh Lịch thứ 4 để tăng thêm tỷ lệ. Các châu quân khác chưa được tăng thêm, nay muốn mỗi châu tăng thêm một người. Ba quân Bảo An, Trấn Nhung[6], Đức Thuận vốn không có số lượng được dự thi, nay mỗi nơi cho phép một người dự thi. Các châu quân ven biển Hà Đông[7], vốn ít người dự thi, số lượng được dự thi đã nhiều, khó bàn thêm. Tổng cộng các châu quân, tăng thêm 359 người. Chiếu ban ra, lấy đó làm định ngạch.
[11] Ngày Kỷ Mão, ở Nhĩ Anh các giảng sách 《Thi Kinh》 thiên “Lục nguyệt”, Vua nói: “Lời tựa này từ bài ‘Lộc minh’ đến bài ‘Tinh tinh giả nga’, đều là đạo thường hành của đế vương, hay chỉ là việc đương thời?” Dương An Quốc đáp: “Xưa U Vương mất đạo, Tiểu Nhã bị bỏ hết, bốn phương xâm lấn, đạo Trung Quốc suy vi, tiên nho làm lời tựa này để làm gương cho muôn đời.” Vua bèn sai giảng lại.
[12] Xuống chiếu cho Lễ bộ và Cống viện rằng bài thi phú của tiến sĩ và bài đối kinh nghĩa của các khoa khác đều theo chế độ cũ mà khảo xét. Trước đó, Tri chế cáo Dương Sát tâu rằng những điều cải cách trước đây có nhiều điểm bất tiện, đại ý nói rằng thi phú dễ khảo xét vì có quy tắc về thanh bệnh, còn sách luận thì mênh mông khó biết, nên tổ tông không thể thay đổi. Hơn nữa, trước kia từng được người tài, nay bỏ lợi ích trước mà làm việc rối rắm này, không phải là kế sách hay, nên theo chế độ cũ. Vua giao xuống cho các quan bàn, các quan xin rằng việc khảo xét nay nên tạm theo chế độ cũ. Bèn ban chiếu này.
(《Thực lục》 chỉ chép rằng có người dâng thư nói việc ấy bất tiện, không nêu tên người. Đây theo 《Bản chí》. Xét 《Dương Sát bản truyền》 cũng chép đầy đủ, nhưng 《Thực lục》 đến tháng 4 năm thứ 8 mới chép đầy đủ việc Cống viện tâu xin, không nêu tên người. Xét 《Bản truyền》 thì Sát thực quyền phán Cống viện, người dâng thư chính là Sát. 《Bản chí》 chép rằng bốn năm sau, Cống viện lại tâu xin, thì lời này và hai chiếu năm thứ 8 đều do Sát đề xuất.)
[13] Lại xuống chiếu rằng những người được bổ nhiệm do ấm bổ từ nay chỉ do Lại bộ Lưu nội tuyển đợi đến ngày tham tuyển thì khảo xét tài nghệ mà bổ chức, còn điều chế tháng 11 năm Khánh Lịch thứ 3 thì không thi hành nữa.
(《Hội yếu》 chép lời này vào ngày 22 tháng 2[8].)
[14] Giám sát ngự sử Bao Chửng tâu: “Thần trộm thấy chiếu trước đã ban rằng: Những người được tuyển chọn do ơn tấu ấm từ 25 tuổi trở lên, gặp dịp đại lễ Nam Giao, trong vòng nửa năm cho phép đến nha môn nộp đơn, quan viên kinh thành mỗi năm vào mùa xuân đến Quốc Tử Giám nộp đơn. Và sai hai vị quan chế cáo đến các nơi khảo thí, những người học từ nghiệp thì thi luận hoặc thi phú, những người học kinh nghiệp thì mỗi người chuyên một kinh, thi mặc nghĩa, nếu đỗ thì cho bổ nhiệm làm quan và sai phái.
Từ khi chiếu ban ra, con em các sĩ đại phu trong thiên hạ không ai không hướng theo, chăm chỉ học hành. Chiếu thư nói rằng: ‘Không chỉ vì nước đào tạo nhân tài, mà còn vì bề tôi lập nghiệp’, thực là gốc rễ của việc giáo dục và bồi dưỡng nhân tài.
Gần đây nghe có quan viên dâng lời muốn bãi bỏ, đó là chưa suy nghĩ kỹ. Hơn nữa, điển chương ban ơn của quốc gia, tệ nạn càng nhiều, kéo dài lâu ngày, việc huấn luyện và chọn lọc chưa tinh, nay chiếu mệnh vừa ban ra, đã vội muốn sửa đổi, khiến những người chăm học ngày càng lười biếng, một khi bắt họ đối mặt với dân chúng và xử lý chính sự, họ sẽ mơ hồ không biết đạo trị nước từ đâu, giống như chưa biết cầm dao mà bắt họ cắt vậy. Nếu các điều khoản trước đây còn thiếu sót, mong chỉ lệnh cho các cơ quan xem xét lại, vẫn thi hành như cũ.”
[15] Xu mật phó sứ Bàng Tịch tâu, Nãng Tiêu đã nhận sách phong, mong sớm lệnh cho Diên Châu và Bảo An Quân xác định biên giới.
[16] Ngày Nhâm Ngọ, ghi nhận chắt của Chu Thế Tông là Sài Quỹ làm Tam ban phụng chức.
[17] Gián quan Tiền Minh Dật tâu, các chức Đề điểm Ngũ phòng Trung thư, Đường hậu quan[9], Phó thừa chỉ, Chủ sự, Lệnh sử trở xuống của các phòng Xu mật viện, xin từ nay không được giao thiệp với các quan viên, được chấp thuận.
[18] Tam ban viện tâu, từ nay các sứ thần hết tang, xin theo lệ của quan viên kinh thành, đặc miễn việc sai phái ngắn hạn, thăng nửa năm và cho sai phái thuận tiện, được chấp thuận.
[19] Ban tiền đặc chi cho các quân dọc biên giới Thiểm Tây.
[20] Ngày Quý Mùi, chiếu cho An phủ chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty Kinh Hồ Nam lộ, những việc liên quan đến man tộc mà báo cáo không kịp, cho phép tùy nghi xử lý.
[21] Ngày Giáp Thân, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm vì dân chúng, đã tha tội cho Nãng Tiêu[10], cho phép họ lại làm phiên thần, nhận lời thề ngừng binh đao, cùng nhau bắt đầu lại. Trẫm nghĩ từ khi quân đội xuất chinh, binh sĩ Thiểm Tây phơi mình nơi chiến trận rất khổ cực, dân chúng mệt mỏi vì chuyển lương. Vậy giảm tội cho tù nhân một bậc, những người bị phạt trượng và roi đều được tha; binh lính biên giới được ban tiền; dân chúng nợ thuế năm ngoái đều không bị đòi, miễn giảm một nửa thuế ruộng. Các châu Lân, Phủ từng bị người Khương cướp phá, cũng được miễn nợ thuế như vậy. Những người đỗ tiến sĩ một lần và các khoa thi hai lần, đều được miễn thi năm nay.”
[22] Tại Nhĩ Anh các, đọc sách 《Hán thư》 việc Hán Cao Tổ phong Hàn Tín làm Tề vương, Vua nói: “Hán Cao Tổ biết nghe lời can gián, khéo dùng người mà không nghi ngờ như vậy[11].” Đinh Độ đáp: “Hán Cao Tổ thông minh rộng lượng, nên bề tôi có thể hết lòng trung thành. Nếu không, sao có thể gây dựng được cơ nghiệp đế vương?”
[23] Ngày Ất Dậu, Vua hạ chiếu cho Viện Khu mật, phàm những việc bàn về lợi hại biên phòng, thay đổi binh khí, quân trận, hương quân, chăn nuôi ngựa, đều giao cho Sở Tường định biên sắc, xem xét những điều có thể thực hiện lâu dài rồi định thành luật lệ.
[24] Ngày Bính Tuất, bãi bỏ việc dâng lương thực để được phong quan. 《Hội yếu》 chép rằng theo lời thỉnh cầu của Điện trung thừa Trương Canh.
[25] Tháng này, Âu Dương Tu dâng sớ nói:
“Thần nghe rằng: Kẻ sĩ không quên thân mình, không phải là trung tín; lời nói không nghịch tai, không phải là can gián. Vì thế, thần không tránh họa bị bọn gian tà căm ghét, dám mạo muội chạm đến mặt mũi khó xúc phạm của bậc quân vương, chỉ mong nhờ ơn thánh từ xét soi. Thần thấy rằng Đỗ Diễn, Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật đều là những bề tôi mà bệ hạ từng ủy thác, một sớm bị cách chức liên tiếp, sĩ tử trong thiên hạ vốn biết họ là người hiền tài có thể dùng, nhưng không nghe nói họ có tội gì đáng bị cách chức.
Chức vụ của thần tuy ở ngoài, không rõ ràng sự việc, nhưng thần thấy từ xưa đến nay, bọn tiểu nhân gièm pha hãm hại bậc trung hiền, mưu kế không xa, muốn hãm hại người lương thiện, thì chỉ cần chỉ ra họ là bè đảng, muốn lung lay đại thần, thì tất phải vu cáo họ chuyên quyền. Nguyên nhân là gì? Bởi vì bỏ đi một người tốt mà những người tốt khác vẫn còn, thì chưa có lợi cho bọn tiểu nhân, muốn loại bỏ hết, thì người tốt ít lỗi lầm, khó tìm ra khuyết điểm, chỉ cần chỉ ra họ là bè đảng, thì có thể đuổi hết trong một lúc.
Đến như đại thần đã được biết đến và tin dùng, thì không thể dùng việc khác để lung lay, chỉ có chuyên quyền là điều mà bậc quân chủ ghét, nên phải dùng lời này mới có thể hạ bệ họ. Thần đoán rằng bốn người Đỗ Diễn đều không có lỗi lớn, nhưng bị cách chức cùng lúc, Phú Bật và Trọng Yêm được ủy thác sâu sắc, nhưng đột nhiên bị ly gián, ắt có lời bè đảng, chuyên quyền, làm mê hoặc thánh thượng. Thần xin trình bày rõ ràng.
Trước đây, Phạm Trọng Yêm vốn nổi tiếng trong và ngoài nước về lòng trung tín và lời nói thẳng thắn, các bậc hiền sĩ trong thiên hạ đều tranh nhau khen ngợi và ngưỡng mộ. Khi đó, bọn gian thần vu cáo ông kết bè kết đảng, việc này khó mà biện minh được. Gần đây, bệ hạ đã đề bạt mấy người này, đều giữ chức vụ trong hai phủ, xem xét việc họ làm, có thể thấy rõ. Đỗ Diễn là người thanh liêm, cẩn thận và tuân thủ quy củ; Phạm Trọng Yêm thì khoan dung, tự tin và không nghi ngờ; Hàn Kỳ thì thuần chính và chất phác; Phú Bật thì thông minh, nhạy bén và quyết đoán. Tính cách của bốn người này đều khác nhau, tuy đều hướng đến việc tận trung[12], nhưng quan điểm của họ lại khác nhau, nên khi bàn việc nước, thường không đồng ý với nhau.
Ví như Đỗ Diễn muốn trừng phạt nặng Đằng Tông Lượng, nhưng Phạm Trọng Yêm lại ra sức tranh luận để khoan hồng cho ông ta. Phạm Trọng Yêm cho rằng Khiết Đan chắc chắn sẽ đánh Hà Đông, xin gấp rút tu sửa phòng bị biên giới, nhưng Phú Bật lại dựa vào chín sự việc, khẳng định rằng Khiết Đan sẽ không đến. Lại như Doãn Chu, cũng được coi là đồng đảng của Phạm Trọng Yêm, nhưng khi tranh luận về việc Thủy Lạc thành, Hàn Kỳ ủng hộ Doãn Chu mà phản đối Lưu Hỗ, còn Phạm Trọng Yêm lại ủng hộ Lưu Hỗ mà phản đối Doãn Chu.
Những việc này càng rõ ràng, bệ hạ vốn đã biết. Bốn người này có thể gọi là bậc hiền nhân chí công vô tư. Khi nhàn rỗi, họ không ngừng khen ngợi nhau, nhưng khi bàn việc nước, họ tranh luận công khai trước triều đình mà không vì tư lợi. Qua đó có thể thấy, thần thấy Đỗ Diễn và những người kia thực sự đạt được điều mà sử Hán gọi là ‘Bề tôi trung thành có tiết tháo không hòa hợp’, còn bọn tiểu nhân vu cáo họ kết bè đảng, thật là vu khống vậy.
Thần nghe rằng quyền lực của quốc gia, thực sự không phải là thứ mà bề tôi có thể chuyên quyền. Thần trộm nghĩ rằng từ khi Trọng Yêm và những người khác vào hai phủ đến nay, không thấy dấu hiệu chuyên quyền, mà chỉ thấy họ khéo léo tránh quyền lực. Quyền lực có được danh vị thì mới có thể thi hành[13], nên những bề tôi thi hành quyền lực, ắt tham danh vị.
Từ khi bệ hạ triệu Kỳ và Trọng Yêm từ Thiểm Tây, Kỳ và những người khác nhường đến năm sáu lần, bệ hạ cũng triệu họ năm sáu lần. Đến như Phú Bật, ba lần được phong học sĩ, hai lần được phong Xu mật phó sứ, mỗi lần được phong, chưa từng không khẩn khoản nhường nhịn, mà bệ hạ càng dùng họ kiên quyết, điều này thiên hạ đều biết. Thần chỉ thấy họ tránh nhường quá nhiều, chứ không thấy họ chuyên quyền tham vị. Đến khi bệ hạ kiên quyết không cho từ chối, họ mới dám nhận mệnh, nhưng vẫn chưa dám làm gì khác. Bệ hạ muốn họ làm việc, bèn mở Thiên Chương triệu đến và ban cho ngồi[14], trao giấy bút, bảo họ liệt kê. Nhưng mọi người đều tránh nhường không dám viết, Bật và những người khác cũng không dám tự ý đề xuất.
Vì thế lại làm phiền Thánh từ ban chiếu chỉ, chỉ định tên tuổi, chuyên trách việc liệt kê đại sự, và thi hành lâu dài[15], mong đều có hiệu quả[16]. Bật tính tuy sắc bén, nhưng cũng không dám tự ý đề xuất, chỉ nêu chuyện cũ của tổ tông, xin bệ hạ chọn mà làm.
Từ xưa đến nay, quân thần tương đắc, một lời hợp đạo, gặp việc thì làm, không hề tránh né. Bật và những người khác được bệ hạ thánh ý ủy nhiệm, đốc thúc dặn dò, mà vẫn chậm chạp tự nghi ngờ, làm việc không quyết đoán, thế mà tiểu nhân khéo vu cáo, nói rằng họ chuyên quyền, há chẳng phải là vu oan sao?
Đến như việc hai lộ tuyên phủ, triều đình nhiều lần cử đại thần đi, huống chi uy thế của Trung Quốc những năm gần đây không còn chấn động, nên Nguyên Hạo nổi loạn một phương mà sự mệt nhọc khốn khổ lan khắp thiên hạ, giặc phương Bắc nhân cơ hội, phá bỏ minh ước mà hành động, thư từ của chúng ngạo mạn, thậm chí có lời trách cứ tổ tiên.
Bệ hạ tuy rất phẫn nộ và nhục nhã, nhưng vì biên phòng chưa chuẩn bị, chưa thể tranh chấp, nên đành khuất chí mua hòa, đó là nỗi nhục lớn nhất. Bật và những người khác thấy Trung Quốc nhiều năm bị xâm lăng, cảm kích ân điển bệ hạ không ngừng thăng tiến, nên đều tự xin đi, ra sức nghĩ cách rửa nhục, dọc núi ven biển, không ngại khó nhọc, muốn làm cho võ bị được tu sửa lại, uy thế nước nhà được chấn hưng. Thần thấy Bật và những người khác dụng tâm, vốn muốn tôn uy quyền của bệ hạ để chống lại bốn phương, chưa thấy họ lấn quyền mà phạm lỗi.
Kính nghĩ bệ hạ thông minh sáng suốt, có tài biết người như bậc thánh, năng lực của bề tôi, thấu hiểu không sót, nên trong hàng ngàn quan lại, đích thân chọn được mấy người này, một sớm một chiều bãi chức, khiến bọn gian thần trong triều vui mừng, bốn phương ngoài biên cũng vui mừng, đó là điều thần tiếc cho bệ hạ.
Bệ hạ có đức thánh nhân từ, bảo toàn trung thần thiện sĩ, khi họ lui về, ân lễ đều đầy đủ, nay Trọng Yêm nhận chức bốn lộ, cũng không phải là nhẹ, mong bệ hạ cự tuyệt lời gièm pha của đám đông, tin tưởng không nghi ngờ, để họ làm hết sức mình, vẫn còn có ích. Hiện nay hai kẻ thù phương Tây và Bắc, giao tranh chưa dứt, chính là lúc trời cho bệ hạ kinh doanh, mà Bật và Kỳ sao có thể để họ ở chỗ nhàn rỗi? Kính mong bệ hạ sớm phân biệt lời gièm pha xảo trá, đặc biệt trọng dụng, thì thật là may mắn vô cùng.
Thần từ năm ngoái được triệu vào Viện Gián, trong mười tháng, bảy lần nhận ân điển của bệ hạ, mà được vào hàng lưỡng chế[17], thường nghĩ ân sủng quá lớn, chưa biết báo đáp thế nào, bọn gian thần tranh nhau tiến cử lời gièm pha xảo trá, mà bậc chính sĩ lần lượt rời triều đình, đây chính là lúc thần quên mình báo quốc, sao có thể im lặng để tránh tội!”
Tờ tấu dâng lên không được trả lời, những người chỉ trích Âu Dương Tu là bè đảng càng thêm ác cảm. Tờ tấu của Âu Dương Tu được đính kèm, thời gian cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
(Những kẻ thuộc phe đảng càng thêm ác cảm với Âu Dương Tu, điều này căn cứ theo 《Mặc sử》.)
[26] Mùa hạ, tháng 4, ngày Đinh Hợi mùng một, Ty thiên báo rằng sẽ có nhật thực, nhưng trời âm u không thấy, các Tể thần cùng các quan theo hầu dâng lời chúc mừng.
[27] Hôm đó, Vua ngự tại điện Sùng Chính, xét lại các tù nhân bị giam giữ, sai Giám sát ngự sử Lưu Nguyên Du cùng những người khác đến Tam Kinh để xử lý các vụ án.
Ngự sử Lý Kinh tâu rằng: “Bệ hạ nhận lấy lời cảnh báo của trời, lo sợ tu sửa, tránh chính điện, giảm bớt bữa ăn thường ngày, nên tinh thần cảm động, ngày xảy ra nhật thực mà mây đen che khuất. Dù Tống Cảnh Công khiến sao Huỳnh Hoặc lùi bước, Thương Đại Mậu khiến cây dâu và lúa cùng khô héo, cũng không khác gì. Tuy nhiên, thần có chút nghi ngờ, từ năm Bảo Nguyên sơ niên, Định Tương xảy ra động đất, phá hủy thành quách, đổ sập nhà cửa, chết đè hàng vạn người, đến nay đã mười năm, động đất vẫn không ngừng, há chẳng phải là do hai kẻ địch phương Tây Bắc có ý dòm ngó Trung Quốc sao!
Tháng hai sấm sét nổi lên, trong Kinh Dịch là quẻ Dự, nói rằng vạn vật xuất hiện từ đất đều vui vẻ. Tháng tám sấm sét lặng đi, trong Kinh Dịch là quẻ Quy Muội, nói rằng sấm sét trở lại đất, tránh hại của âm khí. Nay tháng tư sấm sét chưa nổi lên, há chẳng phải là do hiệu lệnh không đáng tin sao! Mong bệ hạ răn dạy quan biên giới phòng bị rợ Di Địch, khuyên các phụ thần thận trọng khi ban bố mệnh lệnh, để ngăn chặn họa trước khi nó hình thành.
Lại nữa, Thượng Mỹ Nhân bị bỏ ở ngoại quán nhiều năm, gần đây nghe nói lại được triệu vào, thần lo rằng bà ta dùng mị đạo để mê hoặc, nên nhanh chóng dứt bỏ. Miêu Kế Tông là con em của cung phi, nhờ ân tư mà được làm Phủ giới đề điểm, nên cắt bỏ tình yêu riêng tư, coi trọng phân biệt danh khí, để không làm ảnh hưởng đến chính sự thánh minh.”
Vua khen ngợi và tiếp nhận lời tâu. Tháng nhuận ngày Mậu Tuất, Trương Nghiêu Tá từ Phủ giới đề điểm được bổ làm Hộ bộ phán quan, Hướng Truyền Sư thay thế[18].
(Không rõ Miêu Kế Tông được bổ nhiệm vào lúc nào, cần tra cứu thêm. Tháng hai ngày Bính Thân, Thứ sử Tư Châu Miêu Kế Tuyên được làm Kiềm hạt Tịnh Đại, kiêm Tri Hãn Châu, không rõ Kế Tông và Kế Tuyên có phải là anh em không.)
[28] Ngày Mậu Tý, Tả Long Vũ quân Đại tướng quân, Ôn Châu Đoàn luyện sứ Tòng Đảng vì tội bắn chết quan thân sự, bị tước bỏ quan tước, vẫn bị giam giữ ở biệt trạch.
Tòng Đảng là con của Duy Chính.
Tri gián viện Dư Tĩnh tâu: “Sách xưng tán đức lớn của Vua Nghiêu thì nói hòa hợp chín họ, sử khen việc tốt đẹp của nhà Hán thì nói nối dõi tuyệt tự, đó là để làm dày gốc nhân nghĩa, làm tươi tốt điềm lành của tông tộc. Bệ hạ nối nghiệp sáng của Vua Nghiêu, noi gương tốt đẹp của nhà Hán, hòa thuận tông tộc, ý yêu thương rộng rãi, nhưng quan lại không thể phụng mệnh, thật đáng tiếc.
Thần nghe nói Tòng Đảng vì tức giận mà đánh thương viên quan giám môn, quan lại tâu là điên cuồng, bắt giam trong nhà trống. Thần nghĩ ý triều đình vốn lấy con của Duy Trung làm con thừa tự cho Duy Chính vì Duy Chính không có con, phàm nói làm con thừa tự là để chủ trì việc trong nhà, phụng thờ tổ tiên. Nay vì lỗi nhỏ do nóng giận mà bị giam cầm, khiến việc trong nhà không người chủ trì, việc thờ cúng thiếu người, thật không phải ý hòa thuận tông tộc của bệ hạ.
Bên ngoài bàn tán rằng Tòng Đảng ham học, khí khái, không thể nhẫn nhục, vì nóng giận mà phạm lỗi, e không phải bệnh điên, dù thực có bệnh điên cũng nên cho thầy thuốc chữa trị để tỏ ơn lớn. Nếu chỉ vì khinh suất thì nên nhân từ tha thứ, cho về nhà, để trên thể hiện lòng nhân hòa hợp chín họ, nối dõi tuyệt tự của triều đình, dưới thỏa việc chủ trì trong nhà, phụng thờ tổ tiên của hoàng tộc, lại thể hiện đức thân ái, xét phạt cẩn thận của bệ hạ.” Không được trả lời.
Tòng Đảng sau đó tự vẫn, Vua rất thương tiếc, truy phục chức cũ, lại tặng Tế châu Phòng ngự sứ, Tế Nam hầu.
(Tháng giêng năm sau, ngày Đinh Mùi, mới sai phục chức cũ, lại gia tặng, không rõ lúc nào tự vẫn. Nay phụ chép.)
[29] Ngày Kỷ Sửu, điều Tri Vị châu, Hình bộ Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế Vương Tố làm Tri Hoa châu.
[30] Trước đây, Phạm Trọng Yêm làm Tuyên phủ Hà Đông, đã hặc tấu chuyển vận sứ Lưu Kinh ở địa phương mua vật tư riêng gây nhiễu dân. Triều đình ra chiếu bãi chức Lưu Kinh và từ nay không giao cho ông ta nhiệm vụ quân thâu nữa, đồng thời xuống chiếu cho Minh Hạo ở Tịnh Châu điều tra. Khi đó, lại phát hiện Lưu Kinh từng nhờ mua gỗ khi còn làm gián quan, và ông ta đã giao cho lệnh huyện Văn Thủy là Đổng Vọng mua, làm thiệt hại tiền thuê xe và tiền thuế giả mạo lên đến bốn mươi ngàn. Triều đình ra chiếu cho Ngự sử đài xét việc này, Lưu Kinh bị cách chức và điều đi nơi khác. Lưu Kinh dâng thư lên triều đình, nên lại bị hặc tấu, việc này được ghi trong gia phả nhà Vương Bình.
(Tháng 5 nhuận, ngày Đinh Dậu, sách 《Thực lục》 chép rằng Lưu Kinh bị cách chức chuyển vận sứ vì tội mua bán vật tư, chỉ làm tri châu, nhưng không ghi thời điểm Lưu Kinh bị cách chức. Theo 《Hội yếu》, ngày 25 tháng 10 năm thứ 4, triều đình ra chiếu từ nay không giao nhiệm vụ quân thâu cho Lưu Kinh nữa, tức là việc này.)
[31] Ngày Tân Mão, phong con gái thứ tám của hoàng đế là Bảo Từ Sùng Hữu đại sư Ấu Ngộ làm Đặng Quốc công chúa, giữ nguyên sư hiệu. Sau đó lại tiến phong làm Tề Quốc, bỏ sư hiệu. Tháng đó, công chúa qua đời, được truy phong làm Hàn Quốc.
[32] Quốc chủ nước Hạ là Nãng Tiêu lần đầu cử Tố Tê Nhưỡng Bố Di Tắc và Trương Văn Hiển đến chúc mừng lễ Càn Nguyên, từ đó trở thành lệ thường hàng năm.
[33] Ngày Nhâm Thìn, ở Nhĩ Anh các giảng bài 《Tiểu Mân》 trong 《Kinh Thi》, có câu: “Như dòng nước chảy, không để bị cuốn trôi mà thất bại.” Hoàng đế hỏi Triệu Sư Dân: “Dùng nước để dụ về chính sự, có ý chỉ gì chăng?” Triệu Sư Dân đáp: “Tính nước thuận, nên thông, thông thì trong. Nghịch thì tắc, tắc thì hỏng. Dụ về việc dùng người hiền thì chính sự nhà Vua thông suốt mà đời thanh bình, dùng kẻ tà thì ân trạch nhà Vua bị tắc nghẽn mà đời đục. U Vương thất đạo, bỏ chính dùng tà, chính không thắng tà, dù có người tốt cũng không thể trị được, rồi cũng sẽ bị lôi kéo mà sa vào hủ bại.”
[34] Bổ nhiệm Tuần kiểm tộc Tô Gia ở Hoàn Châu, Tam ban phụng chức Thực Cát làm Tả ban điện trực. Thực Cát bắt được Ngạc Đặc Kết, ngụy chức đoàn luyện sứ của Tây giới, lại từng có công chống giặc ở thành Tế Yêu, nên được đặc cách thăng chức.
[35] Ngày Quý Tỵ, Vua xuống chiếu cho Quảng Tây chuyển vận sứ rằng: Các trại Đái Khê, Thiên Hà thuộc quân Hoài Viễn, trại Phổ Nghĩa thuộc giám Phú Nhân, châu Trấn Ninh, trại Tư Lập thuộc châu Hoàn, trại Đức Cẩn thuộc châu Trí đều là nơi lam chướng, nếu có sứ thần nào tại nhiệm mà qua đời thì ghi tên một người con hoặc cháu của họ để bổ dụng.
[36] Ngày Bính Thân, vì Tây đầu cung phụng quan Lý Anh, cháu của Chương Ý hoàng thái hậu qua đời, Vua đặc cách ngừng thiết triều. Truy tặng Lý Anh chức Như kinh sứ, Thứ sử châu Vinh.
[37] Ngày Đinh Dậu, Quốc mẫu nước Khiết Đan sai Hữu giám môn vệ Đại tướng quân Gia Luật Hữu, Sùng lộc khanh Lưu Tích Thiện; Khiết Đan chủ sai Lâm hải tiết độ sứ Gia Luật Vận, Thiếu phủ giám Dương Triết sang chúc mừng tiết Càn Nguyên.
[38] Ngày Bính Ngọ, những người ở biên giới phía tây quy phụ, phong cho Hưng Bác, nguyên là Thái úy nguỵ, làm Thái tử Tả thanh đạo suất phủ suất, còn 18 người khác đều bổ làm Tam ban phụng chức.
[39] Ngày Đinh Mùi, giảng đến thiên “Hạng Bá” trong sách 《Thi》, có chú thích về việc người đàn ông nước Lỗ sống độc thân. Vua nói: “Trong lúc hiềm nghi, người xưa rất thận trọng. Ở đây không ghi rõ họ tên người nước Lỗ, phải chăng thánh nhân cố ý đặt ra để giáo hoá?”
[40] Ngày Mậu Thân, Chương Đắc Tượng, Công bộ thượng thư, Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ, bị cách chức, giáng làm Trấn An tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán châu Trần.
Đắc Tượng ở chức Trung thư 8 năm, sợ danh tiếng và quyền thế, nên họ hàng thân thích đều bị ngăn cản không được thăng tiến. Lúc đó ở Thiểm Tây đang có chiến sự, Vua hăng hái lo việc thiên hạ, dùng Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, cùng với Đắc Tượng bàn việc cấp bách trong nước, nhưng Đắc Tượng không có kế sách gì. Hàn Kỳ đều bị cách chức, còn Đắc Tượng vẫn giữ nguyên vị trí. Giám sát ngự sử lý hành Tôn Kháng nhiều lần dâng sớ nói về việc này, và Đắc Tượng cũng nhiều lần dâng sớ xin từ chức[19], Vua bất đắc dĩ phải chấp thuận.
(Tôn Kháng từ tháng 12 năm ngoái, ngày Quý Sửu, được thăng từ Thái thường bác sĩ lên Giám sát ngự sử lý hành. Việc ông nói về Đắc Tượng, chắc là sau khi Hàn Kỳ bị cách chức. Truyện nói Đắc Tượng không có kế sách gì, Kháng nhiều lần dâng sớ, nhưng Đắc Tượng vẫn giữ nguyên vị trí. Sợ có sai lầm. Nay hơi đảo ngược lời văn.)
Công bộ Thị lang, Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ Giả Xương Triều được gia phong chức Chiêu Văn quán Đại học sĩ, giám tu quốc sử.
Công bộ Thị lang, Tham tri chính sự Trần Chấp Trung giữ nguyên chức Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ.
[41] Ngày Canh Tuất, Xu mật phó sứ, Hữu Gián nghị đại phu Ngô Dục được bổ nhiệm làm Tham tri chính sự.
Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, Đoan Minh điện học sĩ, kiêm Hàn lâm Thị độc học sĩ, Trung thư Xá nhân Đinh Độ được bổ nhiệm làm Công bộ Thị lang, Xu mật phó sứ. Khi ở Xu mật, Đinh Độ dâng tấu: “Chu Thế Tông chiêu mộ người khỏe mạnh, có kẻ ban ngày còn là giặc cướp, tối đã được bổ vào đội túc vệ. Thái Tổ tuyển chọn dũng sĩ, bổ sung vào kỵ binh[20]. Xin chọn lính cấm quân từ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây để bổ sung vào chỗ thiếu của quân túc vệ.” Lại nói rằng Khiết Đan từng vi phạm minh ước, việc phòng bị không thể lơ là. Nhân đó dâng lên 《Khánh Lịch Binh Lục》 5 quyển, 《Thiệm Biên Lục》 1 quyển.
(Việc này căn cứ theo bản truyện của Đinh Độ, ghi chép thêm.)
[42] Ngày Tân Hợi, xuống chiếu cho Tuần kiểm, Đô giám ở Bảo Châu, Quảng Tín, An Túc quân vẫn như cũ, mỗi tháng luân phiên một người đi tuần tra biên giới.
[43] Ngày Quý Sửu, điều Tri Trần Châu, Tư chính điện học sĩ, Lại bộ Thị lang Nhậm Trung Sư làm Tri Tào Châu. Trung Sư tự nói: “Thần đã già, quê vốn ở Tào Châu, mong được giữ chức ở Tào Châu để chuẩn bị kế hoạch về hưu.” Vua thương tình mà đồng ý.
Anh của Trung Sư là Nhậm Trung Chánh từng giữ chức ở Tịnh, Ích, Tào ba châu, lại từng làm Xu mật phó sứ, mà Trung Sư đều kế nhiệm các chức đó, người đời cho là vinh hiển.
[44] Tháng 5, ngày Bính Thìn mùng một, Từ bộ Viên ngoại lang Trương Tử Thích được bổ nhiệm làm Hình bộ Viên ngoại lang, ban cho áo tam phẩm; Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Trương Sĩ Nguyên được bổ nhiệm làm Nội điện Sùng ban, Tả Thị cấm; Cáp môn Chi hậu Vương Chính Luân được bổ nhiệm làm Đông đầu Cung phụng quan, vì đã hoàn thành việc phong sách cho nước Hạ trở về.
[45] Ngày Đinh Tỵ, Quang lộc khanh Ngô Đãi Vấn được bổ nhiệm làm Bí thư giám, vì con trai ông là Ngô Dục làm Tham tri chính sự, theo lệ được ban ân, nhưng Đãi Vấn từ chối không nhận.
[46] Ngày Kỷ Mùi, Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, phán Tập hiền viện Vương Nghiêu Thần, Hàn lâm học sĩ, Sử quán tu soạn Trương Phương Bình, Thị độc học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, phán Sử quán tu soạn Dư Tĩnh, cùng tham gia san định sách 《Đường thư》.
(《Xuân minh lục》 có thể tra cứu, tháng 7 năm Gia Hựu thứ 5 dâng sách 《Đường thư》 đã tu soạn, muốn ghi chép đầy đủ đầu đuôi, nên việc này xảy ra vào lúc đó.)
[47] Ngày Tân Dậu, ban thưởng tiền đặc biệt cho binh lính tham gia đào vét hào thành ở kinh đô. Việc đào vét hào thành, nên tìm hiểu nguồn gốc sự việc.
[48] Ngày Nhâm Tuất, Tư chính điện học sĩ, Công bộ Thượng thư, Tri Đại Danh phủ Trình Lâm được thăng làm Tư chính điện Đại học sĩ. Trình Lâm kiêm chức Hà Bắc an phủ sứ vào tháng 7 ngày Mậu Tý, bản truyện gộp việc thăng Đại học sĩ cùng nói, là sai. (Nay theo 《Thực lục》, vẫn ghi vào ngày này.)
[49] Người Tây Hạ trả lại Thạch Nguyên Tôn, các quan Gián và Ngự sử tâu rằng Nguyên Tôn thua trận mà không chết, làm nhục quốc thể, xin chém ở biên giới để cảnh cáo người Tây Hạ. Tể tướng Trần Chấp Trung cho rằng nên làm theo lời tâu, riêng Giả Xương Triều nói: “Vào thời Xuân Thu, nước Tấn bắt được tướng nước Sở là Cốc Thần, nước Sở bắt được tướng nước Tấn là Tri Oanh, cũng đều trả về nước mà không giết.” Nhân dịp vào chầu, ông lấy từ tay áo ra truyện Vu Cấm trong 《Ngụy chí》 tâu rằng: “Các tướng thời trước thua trận trở về, phần nhiều không bị trị tội.” Hoàng đế bèn tha tội cho Nguyên Tôn. Ngày Quý Hợi, tước bỏ quan tước, đày đi Toàn Châu quản thúc. Những người con em từng được hưởng ân điển tử trận đều bị thu hồi.
[50] Tri Châu Tào Nhậm Trung Sư xin tu sửa thành con ở Quảng Châu, đồng thời xin đặt hai chỉ huy Tuần hải quân, được chấp thuận. Năm Cảnh Hữu, Trung Sư từng làm Tri Quảng Châu, thấy châu chỉ có thành con mà đã lâu không tu sửa, sợ lúc nguy cấp không có gì để chống giặc. Lúc đó, Thái thường Thiếu khanh Ngụy Quán đang làm Tri Quảng Châu, bèn xây thành, chu vi năm dặm.
[51] Ngày Giáp Tý, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Tôn Biện xét duyệt thành tích của các đề điểm hình ngục ở các lộ.
[52] Ban thưởng tiền đặc biệt cho cấm quân, sương binh và thổ đinh ở Kinh Hồ Nam lộ bắt giết giặc man.
[53] Ngày Mậu Thìn, ban chiếu cho Đăng Văn Cổ Viện từ nay không được nhận văn trạng của người man. Do Bành Sĩ Hi ở Hạ Khê Châu sai người mang trạng văn xin tiến cống, Vua lệnh niêm phong gửi đến Xu Mật Viện, nhân đó có chiếu này.
[54] Những người dâng thư lên nhiều lần nói rằng các phán quan chuyển vận ở các lộ đua nhau làm việc hà khắc, quyền lực ngang với chuyển vận sứ, khiến châu huyện chán ghét khổ sở. Thị Ngự sử Vương Bình xin từ nay phán quan chuyển vận không được tự ý đi thanh tra, mà phải báo cáo về cơ quan mình. Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu cho các phán quan chuyển vận đương nhiệm hết nhiệm kỳ đều bãi chức.
Vương Bình là người Hầu Quan.
[55] Tri chế cáo Dư Tĩnh trước sau ba lần đi sứ Khiết Đan, càng thông thạo tiếng nước ngoài, từng đối đáp với Khiết Đan chủ bằng thơ tiếng phiên. Thị Ngự sử Vương Bình, Giám sát Ngự sử Lưu Nguyên Du đều dâng tấu hặc tội Dư Tĩnh làm mất thể thống sứ thần, xin trị tội. Nguyên Du lại nói Dư Tĩnh là Tri chế cáo, không nên kiêm chức Gián quan. Ngày Canh Ngọ, điều Dư Tĩnh ra làm Tri châu Cát Châu.
[56] Bổ nhiệm con trai của Lý Văn Ỷ, nguyên Quản câu Tĩnh Biên Trại, Cung Tiễn Thủ Tuần Kiểm, Tây Đầu Cung Phụng quan, là Lý Sĩ Liêm làm Tam Ban Phụng chức. Vì Văn Ỷ từng thông đường đến Thủy Lạc Thành, gặp giặc tử trận.
[57] Ngày Tân Mùi, ban thưởng bạc lụa cho các sứ thần và binh lính tu sửa thành Lũng Thành Xuyên ở Tần Châu.
[58] Ngày Bính Tý, bổ nhiệm Tiến sĩ Vương Đoan ở Tề Châu làm Huyện úy ở huyện nhiều giặc cướp thuộc Kinh Đông. Ban đầu, Vương Đoan ứng mộ đi bắt giặc, tự tay bắt được năm tên cướp mạnh, nên được bổ nhiệm.
[59] Ngày Đinh Sửu, điều Lưu Hoán, Tri châu Bảo Châu, Thứ sử Cát Châu, làm Tri châu Đăng Châu[21]. Trước đây, Đăng Châu dùng thuyền Đao Ngư để phòng hải tặc, sau này lệnh cấm lỏng lẻo, giặc cướp nhiều. Hoán đến, sửa chữa thuyền bè, lại đặt nhiều kế sách, giặc không dám vào cướp. Vua ban chiếu khen ngợi.
[60] Ngày Mậu Dần, ban chiếu cho dân cư vùng biên giới Hà Bắc chiếm lợi từ đầm hồ, quan ty không được xâm phạm cắt cỏ lau, lại lệnh Điền Kinh, Đề điểm Hình ngục của lộ này chuyên trách việc này.
[61] Ngày Kỷ Mão, sai Nội thị Áp ban Nhậm Thủ Tín đến lộ Hà Bắc dạy tập trận pháp.
[62] Ngày Canh Thìn, xuống chiếu cho Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông chọn trong bộ hạ các Lộ phân đô giám, Tuần kiểm sứ, Đại thành trại binh quan quân viên Chỉ huy sứ những người có đảm lược, dũng cảm, biết mưu lược, từng lập chiến công, đem tên tâu lên.
[63] Ngày Nhâm Tý, Vương Tung, chức Phụng chức thuộc Tam ban, được thăng làm Hữu thị cấm, Cáp môn chi hậu. Khi người Tây Hạ đã hòa, Bàng Tịch tâu: “Lúc Nguyên Hạo chưa thông hiếu, Chủng Thế Hoành vạch kế, sai Vương Tung mạo hiểm ly gián Vua tôi họ, khiến họ nghi ngờ lẫn nhau, nhờ đó mà thông hiếu với Trung Quốc. Xin thăng chức cho Vương Tung.”
Ban đầu, Vương Tung từ chức Tá chức thăng lên Phụng chức, nhân dịp này tự tâu lên, nên được đặc cách thăng chức.
(Việc này căn cứ theo 《Chủng Thế Hoành truyện》, lại nói rằng Thế Hoành nghe tin anh em Dã Lợi đã bị giết, bèn viết văn tế vượt biên giới. Xét Thế Hoành mất ngày 7 tháng giêng năm Khánh Lịch thứ 5, lúc đó anh em Dã Lợi chưa bị giết, đây có thể là mưu kế của nhà binh, Thế Hoành làm việc này có thể là giả dối, cũng không rõ. Nhưng đây không phải sự thật. Nay không chép.
Lại xét 《Hạ quốc truyện》 chép: Dân châu Vị là Phạm Nhân Mĩ và Thập tướng Diêu Gia Bảo là Trương Toại đến gặp Vương Duyên nói rằng Ngộ Khất, Cương Lãng Lăng, Thành Bô có ý muốn quy phụ, Duyên sai Nhân Mĩ và Toại cầm thư vào đất Tây Hạ, việc bại lộ, Nguyên Hạo giết cả ba nhà, giết Nhân Mĩ, đày Toại đến Than Lương thành. Truyện này không đáng tin, nhưng cũng đủ thấy việc anh em Dã Lợi bị giết không phải do Vương Tung. Tung chỉ có thể ly gián Nguyên Hạo, khiến họ không dùng anh em Dã Lợi mà thôi. Việc Thế Hoành vượt biên tế lễ, quả thực không phải sự thật.
Sự thật nên theo 《Ký văn》 chép, Bàng Tịch tâu về Nhân Mĩ, vẫn thấy trong tháng 4 năm Hoàng Hựu thứ 2. Lại căn cứ 《Thế Hoành truyện》, Tịch tâu xin thăng chức cho Tung, cũng chỉ nói ly gián Vua tôi Nguyên Hạo, khiến họ nghi ngờ lẫn nhau, không nói anh em Dã Lợi bị giết. Nhưng Trọng Yêm viết mộ chí cho Thế Hoành lại nói rằng từng sai gián điệp vào đất địch, nửa năm sau, địch giết hai ba người cầm quyền, gián điệp về báo mưu kế thành công, nhưng Thế Hoành đã mất. Vua đang muốn chiêu an, nên công lao của ông không được biết đến. Mộ chí cũng cho rằng anh em Dã Lợi quả thực bị giết, phù hợp với 《Thế Hoành truyện》, nên xem xét thêm.
Hoặc Trọng Yêm chỉ dựa vào lời con Thế Hoành là Cổ, cũng không phải sự thật. Ngày Bính Thân tháng 11 năm Hoàng Hựu thứ nhất, truy tặng Chủng Thế Hoành chức Đoàn luyện sứ, nên xem xét đoạn này. Ngày Quý Mùi tháng 11 năm Hi Ninh thứ 4, Vương Nguyên Quy xin truy tặng chức cho cha là Vương Tung, có thể tham khảo.)
[64] Ngày Quý Mùi, ban chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển: “Từ nay, những người mới nhập quan được tuyển chọn, nếu giỏi văn từ thì thi một bài thơ hoặc phú luận theo đề của tỉnh, nếu giỏi kinh điển thì thi mười câu hỏi về nghĩa lý. Nếu bài thi có sai sót, hoặc thi mười câu hỏi mà chín câu không đúng, thì phải đợi đến kỳ tuyển chọn sau mới được thi lại. Nếu thi lại vẫn không đỗ, sẽ được bổ nhiệm làm quan ở những nơi xa xôi. Những người từ bốn mươi tuổi trở lên, nếu đọc thông luật pháp theo quy định cũ, sẽ được bổ nhiệm làm quan. Đồng thời, cử một viên quan trong hai chế cùng tham gia coi thi.”
[65] Ngày Giáp Thân, Mã quân Phó đô chỉ huy sứ, Định Quốc quân Lưu hậu Tào Tông qua đời. Xa giá đến viếng, làm bài văn tế. Hoàng hậu cũng hai lần ra viếng tang, đến nhà lo việc tang lễ. Truy tặng chức An Hóa Tiết độ sứ, kiêm Thị trung, thụy hiệu Trung Khác. Tông là người cẩn thận, biết cách tâu bày, quản lý quân đội nghiêm chỉnh. Khi ông mất, nhà không có của cải gì, chỉ còn lại sách binh pháp và tấu chương về biên giới.
(Có thể không cần ghi chép, hãy xem lại các tiền lệ trước).
- 'quạ' nguyên bản chép là 'chim', căn cứ vào bản trong các và 《Biên niên cương mục》 quyển 13, 《Tống sử》 quyển 456 truyện Lý Phỏng sửa lại. ↵
- nếu việc có liên quan đến đại kế của quốc gia 'kế' nguyên là 'kỉ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản, Hoạt tự bản và 《An Dương tập Trung Hiến Hàn Ngụy Vương gia truyền》 quyển 4 mà sửa. ↵
- Cũng là sự thất thể của quốc gia, chữ 'Quốc' nguyên bản là 'Tự', căn cứ theo sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 mà sửa. Sách 《An Dương tập gia truyền》 quyển 4 viết là 'Cũng làm tổn hại đại thể của quốc gia'. ↵
- (Mộc Tỵ) lúc đầu đi đến Chân Châu, 'Chân' nguyên bản là 'Trinh', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 300 truyện Đỗ (Mộc Tỵ) và 《Tục thông giám》 quyển 47 sửa lại. ↵
- Áp ty quan Ngô Hương của Nghi Châu dụ hơn sáu trăm đảng của chúng, 'Nghi' nguyên bản là 'Quan', căn cứ theo các bản khác, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 495 truyện man di sửa lại. ↵
- Trấn Nhung quân nguyên bản viết là 'Tĩnh Nhung quân', xét Thiểm Tây lộ không có Tĩnh Nhung quân, nay căn cứ vào 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Trên chữ 'Hà Đông duyên biên châu quân', trong 《Tống hội yếu》 có thêm hai chữ 'Hà Bắc', có lẽ đúng. ↵
- 《Hội yếu》 chép lời này vào ngày 22 tháng 2, 'tháng 2', các bản Tống, Tống toát yếu, các bản khác đều chép là 'tháng 3'. ↵
- Đường hậu quan nguyên là 'hậu đường quan', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 3-24 sửa lại ↵
- Chữ 'dĩ' nguyên bản là 'tam', theo bản Tống và bản Tống toát yếu sửa lại. ↵
- Chữ 'nghi' nguyên bản là 'Nghi', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 29 phần giảng diên, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ sửa lại. ↵
- 'Đều' nguyên văn là 'Các', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bổn mạt》 cùng 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 sửa lại. ↵
- Quyền lực có được danh vị thì mới có thể thi hành, chữ 'quyền' dưới nguyên có chữ 'giả', theo hai bản và hai sách trên đã xóa. ↵
- Bèn mở Thiên Chương triệu đến và ban cho ngồi, chữ 'Thiên Chương' dưới nguyên có chữ 'các', theo hai bản và sách trên đã xóa. ↵
- Và thi hành lâu dài, chữ 'dĩ' nguyên là chữ 'dĩ', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và Âu Dương Văn Trung công văn tập sửa. ↵
- Mong đều có hiệu quả, chữ 'giai' nguyên là chữ 'kỳ', theo các bản và Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 38 Hàn Âu Thạch dùng để cứu Phạm Phú đã trách bãi, Âu Dương Văn Trung công văn tập sửa. ↵
- mà được vào hàng lưỡng chế 'được' nguyên là 'đặt', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Trường biên kỷ sự bản mạt, Âu Dương Văn Trung công văn tập sửa. ↵
- Hướng Truyền Sư thay thế, chữ 'truyền' nguyên bản là 'phó', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống sử》 quyển 282 truyện Hướng Mẫn Trung sửa lại. ↵
- 'Mười lần dâng sớ xin từ chức', chữ 'mười' nguyên bản viết là 'hai', căn cứ vào 《Biên niên lục》 quyển 5 và 《Tống sử》 quyển 12 truyện Chương Đắc Tượng sửa lại. ↵
- chữ 'kỵ' nguyên bản là 'mã', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tống sử》 quyển 292, truyện Đinh Độ sửa lại ↵
- Tri châu Bảo Châu, Thứ sử Cát Châu Lưu Hoán làm Tri châu Đăng Châu. Chữ 'Châu' dưới chữ 'Bảo' vốn không có, căn cứ theo 《Đông Đô Sự Lược》 quyển 61, 《Tống Sử》 quyển 324 truyện Lưu Hoán bổ sung. ↵