"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 157: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 5 (ẤT DẬU, 1045)

Từ tháng 8 năm Khánh Lịch thứ 5 đời Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 8, ngày Bính Thìn, ban chiếu thăng phối hai hoàng hậu, theo lệ cũ của Nguyên Đức hoàng hậu, sửa lại đề trên thần chủ.

[2] Long Đồ các Trực học sĩ, Khởi cư Xá nhân, Tri Tần châu Điền Huống gặp tang cha. Ngày Tân Dậu, ban chiếu khởi phục, nhưng Huống cố từ chối. Triều đình lại sai nội thị mang thủ chiếu đến khuyên nhủ, Huống bất đắc dĩ xin về Dương Trạch chôn cất, nhân việc biên cương xin vào yết kiến, khóc xin được để tang trọn vẹn. Vua động lòng cho phép. Từ đó, các quan trấn thủ mới được để tang trọn vẹn, bắt đầu từ Huống.

(Việc này xảy ra vào tháng 12 năm nay, nay ghi chung vào đây.)

[3] Sau khi Chân Tông làm lễ phong thiền, không còn tổ chức săn bắn, bãi bỏ chức vụ của Ngũ phường, thả hết chim săn và chó săn về rừng núi. Bấy giờ, Binh bộ Viên ngoại lang, Trực Tập hiền viện Lý Giản Chi dâng tâu: “Chế độ săn bắn của tổ tông là để thuận theo thời tiết và rèn luyện việc quân. Từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, chưa từng xem xét tu chỉnh lễ này. Xin ban chiếu cho các cơ quan soạn thảo nghi thức và chọn ngày[1], sai Điện tiền và Mã bộ quân ty luân phiên điều quân mã đi săn ở vùng ngoại ô.” Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu cho Xu mật viện nghiên cứu kỹ chế độ săn bắn của triều trước rồi tâu lên.

[4] Ngày Quý Hợi, thăng chức cho Phiên quan Cung bị khố Phó sứ Mộ Ân làm Lạc uyển Phó sứ, Nội điện Thừa chế Triệu Minh làm Đông nhiễm viện sứ, Tam ban Phụng chức Lý Nguyên Thành làm Hữu thị cấm. Trước đó, Xu mật viện Phó sứ Đinh Độ xin hạ chiếu khen thưởng những Phiên quan ở Thiểm Tây có tài năng và dũng cảm để khuyến khích người trong bộ tộc họ. Kinh lược ty Hoàn Khánh tâu rằng Mộ Ân và những người khác nhiều lần lập chiến công, lại được bộ tộc kính phục, nên đặc cách thăng chức.

[5] Ngày Giáp Tý, Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo Dương Sát làm sứ sinh thần quốc mẫu nước Khiết Đan, Đông thượng các môn sứ, Tân Châu thứ sử Vương Khắc Trung làm phó. Hộ bộ phán quan, Từ bộ lang trung Trương Nghiêu Thần làm sứ sinh thần chúa nước Khiết Đan, Tây thượng các môn phó sứ Trương Hi Nhất làm phó. Độ chi phán quan, Từ bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lí Lý Chiêu Cấu làm sứ chánh đán quốc mẫu nước Khiết Đan, Cung bị khố phó sứ, Các môn thông sự xá nhân Lý Chương làm phó. Giám sát ngự sử Bao Chửng làm sứ chánh đán nước Khiết Đan, Các môn thông sự xá nhân Quách Tông làm phó.

Khắc Trung là cháu của Thừa Diễn; Hi Nhất là con của Kỳ; Chương là con của Dụng Hòa. (Tông, chưa rõ.)

Người Khiết Đan tiếp đãi nói với Bao Chửng rằng: “Hùng Châu mới mở cửa tiện, có phải là muốn dụ dỗ kẻ phản loạn để do thám việc biên giới không?” Bao Chửng đáp: “Muốn do thám việc phương Bắc, đã có cửa chính, cần gì cửa tiện. Triều đình ta há từng hỏi việc mở cửa ở Trác Châu sao?” Địch nghe xong không nói gì thêm.

Khi sứ giả Bao Chửng trở về, tâu rõ: “Thần trước đây vâng mệnh xuất cảnh, đã hiểu rõ tình hình thực hư của địch. Từ khi lập Vân Châu làm Tây Kinh đến nay, họ không ngừng xây thêm doanh trại, chiêu mộ quân mã, tích trữ binh giáp, lương thực rất nhiều, nhưng lấy danh nghĩa đánh phía Tây, ý đồ thật khó lường. Vì Vân Châu cách Tịnh Châu, Đại Châu rất gần, từ Đại Châu đến Ứng Châu, thành lũy nhìn thấy nhau, chỉ cách vài chục dặm, địa hình bằng phẳng, đây là con đường chung của Nam và Bắc từ xưa đến nay. Từ khi mất năm trấn phía sau núi, con đường này càng khó kiểm soát, nếu địch xâm lấn, thì Hà Đông sẽ rất đáng lo, không thể tin vào lời hư mà lơ là phòng bị thực.

Lại nghe rằng phía bắc Đại Châu, nhiều năm qua người Phiên đã lấn sâu vào biên giới phía Nam, chiếm đất đai, cư trú và canh tác rất nhiều, đó là do biên thần nhút nhát, không kịp thời ngăn cấm[2]. Nay nếu không ra lệnh cố thủ biên giới, e rằng ngày càng lan rộng, rình rập kẽ hở biên giới, dần thành mối họa lớn, việc Ngân Phường thành cũng do đó mà ra, thật không thể coi thường. Huống chi hiện nay việc chọn tướng biên cương càng phải cẩn trọng, xưa Thái Tổ kinh doanh bốn phương, chọn người dũng cảm, tài năng, trung thực để kiểm soát biên giới Tây Bắc, đều giữ chức hơn mười năm không thay đổi, cuối cùng đạt được hiệu quả. Nay thì không như vậy, vừa nhậm chức chưa bao lâu đã tính chuyện thăng chuyển, thì làm sao có thời gian huấn luyện, phòng bị?

Thần xin từ nay về sau, những nơi trọng yếu dọc biên giới, nên giao cho các đại thần chấp chính chọn người am hiểu biên sự làm tướng giữ. Đại Châu càng không thể giao nhẹ, nếu chọn được người tài, giao trách nhiệm thực hiệu, dù có lỗi nhỏ, cũng không nên thay đổi bất thường, để quân dân yên ổn với chính lệnh, lúc nguy cấp không đến nỗi hỏng việc.”

(Việc Ngân Phường thành, cần xem xét thêm. Âu Dương Tu bàn về việc xâm lấn biên giới, đã chép vào cuối tháng năm. Tháng mười năm đó, ngày Kỷ Tỵ, chiếu cho Lưu Thực dụ sứ Bắc, bắt theo lời thề phá bỏ Ngân Phường thành, lúc này sứ giả Bao Chửng chưa về, việc dâng tấu này, có lẽ vào mùa xuân năm sau, nay nhân việc Bao Chửng đi sứ, tạm chép trước.)

[6] Ngày Canh Ngọ, Hạ Tủng, chức Tư chính điện Đại học sĩ, Lại bộ Thượng thư, tri Bạc Châu, được bổ nhiệm làm Tuyên huy Nam viện sứ, Hà Dương Tam thành Tiết độ sứ, Hà Đông Đô đốc thự, Kinh lược An phủ sứ, phán Tịnh Châu.

[7] Cùng ngày, Kinh Nam phủ và Nhạc Châu xảy ra động đất.

[8] Ngày Tân Mùi, vì việc thăng phụ thần chủ của hai Thái hậu, sai quan cáo tế trời đất, tông miếu, xã tắc cùng Vĩnh Định lăng và lăng của hai Thái hậu.

[9] Ngày Quý Dậu, ban chiếu rằng: “Nước Hạ vừa dâng biểu thề, chỉ có Diên Châu và Bảo An quân định lại biên giới, còn lại đều giữ nguyên như cũ. Hãy lệnh cho Thiểm Tây và Hà Đông nghiêm khắc răn dạy quan lại biên giới, cố gắng giữ vững lãnh thổ, không được tùy tiện gây sự.”

[10] Ngày Giáp Tuất, giáng chức Âu Dương Tu, Hà Bắc Đô chuyển vận Án sát sứ, Long đồ các Trực học sĩ, Hữu Chánh ngôn, làm Tri chế cáo, tri Trừ Châu; Tô An Thế, Thái thường Bác sĩ, quyền Phát khiển Hộ bộ Phán quan, làm Điện trung Thừa, giám Thái Châu diêm thuế; Vương Chiêu Minh, Nhập nội Cung phụng quan, giám Thọ Xuân huyện tửu thuế.

Âu Dương Tu đã dâng sớ bàn việc Hàn Kỳ và những người khác không nên bị cách chức, khiến những kẻ bàn luận về phe phái càng thêm đố kỵ.

Ban đầu, Tu có người em gái gả cho Trương Quy Chính, khi Quy Chính chết không có con; có một người con gái, thực ra là con của vợ trước, mới bốn tuổi, vì không có nơi nương tựa, mẹ cô bé đưa về nuôi ở nhà ngoại, đến tuổi cài trâm, Tu gả cô bé cho con trai của người anh họ là Thịnh. Khi ấy, Trương thị ở nhà Thịnh thông dâm với gia nô, việc này được đưa xuống Khai Phong phủ xét xử. Quyền Tri phủ sự Dương Nhật Nghiêm trước đây giữ chức Thủ ở Ích châu, Tu từng bàn luận về việc ông ta tham lam tùy tiện, nên Nhật Nghiêm sai ngục lại thêm thắt lời khai để liên lụy đến Tu. Gián quan Tiền Minh Dật bèn hặc tội Tu tư thông với Trương thị, và lừa gạt tài sản của cô ta. Chiếu cho An Thế và Chiêu Minh cùng xét hỏi, cuối cùng không có chứng cứ, chỉ kết tội Tu dùng của cải trong hòm trang sức của Trương thị mua ruộng, lập văn khế họ Âu Dương, An Thế và những người khác bị kết tội vì tự ý gửi công văn đến Tam ty để lấy lời khai của lại viên mà không báo trước, nên đều bị khiển trách.

An Thế là người Khai Phong[3].

Khi vụ án xảy ra, những kẻ oán ghét Tu đều muốn hãm hại Tu, nhưng chỉ có An Thế minh oan cho Tu, dù trái ý các quan chấp chính, cùng với Chiêu Minh đều bị tội, nhưng người quân tử đều khen ngợi ông.

(Tu tấu luận về Nhật Nghiêm, căn cứ theo chương sớ của Hà Đàm. Tiền Minh Dật hặc tội Tu, căn cứ theo biện luận thứ sáu của Tu với Tưởng Chi Kỳ, trong phần tạp lục thứ ba có tám tờ sớ của Tu.)

[11] Ngày Ất Hợi, Đô tuần kiểm sứ các châu Đường, Đặng, Lễ tân phó sứ Tống Cát được cử làm Kinh Hồ Nam lộ Tróc sát man tặc[4].

[12] Ngày Bính Tý, chiếu cho Quảng Nam Tây lộ Chuyển vận ty và Kiềm hạt ty xem xét các châu Ung, Khâm, Liêm gần biển, các châu Nghi, Dung, Liễu gần khe động, nếu Tri châu, Binh mã giám áp, Trại chủ, Tuần kiểm sứ thần nào yếu kém không làm được việc thì cử người khác thay và tâu lên.

[13] Ngày Canh Thìn, dời Kiềm hạt Phu Diên, Nội thị áp ban Sử Chí Thông làm Kiềm hạt Kinh Nguyên, vì Tri Diên châu Lương Thích tâu rằng Chí Thông có hiềm khích cũ với Bộ thự bản lộ là Chu Mỹ.

[14] Hào Diên Kinh lược ty tâu rằng nước Hạ chưa chịu minh định biên giới, chiếu cho Bảo An quân chuyển văn thư đến Dự Châu, lệnh tuân thủ theo chỉ huy của lời thề ước.

[15] Xử trảm quân sĩ Vân Dực quân Vĩnh Ninh là Vương Tông, Tề Lan cùng mười một người khác. Ban đầu, Tông và Lan mưu cướp vũ khí trong kho để làm loạn, người theo là Lưu Kim vì tội khác tự khai ra, Tông bị giết, Kim cũng đáng tội chết, nhưng được đặc xá.

Vĩnh Ninh quân tức là Vĩnh Định quân, năm Thiên Thánh thứ bảy đổi tên.

[16] Ngày Nhâm Ngọ, Giám sát ngự sử Lý Kinh tâu: “Thần nghe nói năm ngoái sau khi quân Bảo Châu làm loạn, quân biên giới trở nên kiêu ngạo, chỉ cần không vừa ý là xúi giục động chúng. Gần đây quân sĩ Vĩnh Ninh lại âm mưu nổi dậy, dân biên giới xa gần đều bất an. Thần từng xem thời Đường từ năm Chí Đức về sau, quân Hà Sóc kiêu ngạo, Trấn, Ngụy càng nghiêm trọng, thay chủ mưu tướng, chỉ như đánh cờ, lại thêm gian thần lộng quyền, uy lệnh triều đình không thi hành được, đó là do không sớm chế ngự. Nay các quan chủ quân biên giới, không chọn lựa người tài, đến khi quân sĩ phạm tội, không hỏi nguyên nhân gây loạn, một khi bị tội, khiến quân kiêu ngạo thêm khí thế, động tới là đòi khoan dung, quan giữ thành xem xét việc trước để tránh họa, chỉ lo làm theo lối cũ, loạn từ đó mà lớn, nay không sớm chế ngự, sẽ lại có cái hại như thời Chí Đức. Nên hạ lệnh cho hai phủ xét các quan biên giới hèn yếu không làm được việc và con em nhà giàu, tất cả đều bãi chức. Nếu là người đã quen luyện quân, thì cho giữ chức lâu dài. Có quân sĩ phạm tội, nếu không phải do quan lớn gây sự, thì chỉ trị tội người gây họa. Để quân kiêu ngạo sợ uy mà đổi lòng, quan giữ thành hết lòng lo việc, đó không chỉ là gốc của kỷ luật, mà còn là cách ngăn ngừa việc trước.”

[17] Tháng chín, ngày Quý Mùi mùng một, Hàn lâm học sĩ Vương Nghiêu Thần tâu: “Thần vâng chiếu xét định việc tuyển chọn quan lại trong quán các. Xin từ nay nếu quán các thiếu người, cho phép các quan đại lưỡng tỉnh trở lên được tiến cử hai người có văn học và thực tài, ở ngoài tiến cử một người, lại do Trung thư lựa chọn triệu về thi, những người đỗ tiến sĩ từ hạng ba trở lên, vẫn theo lệ cũ.” Chiếu rằng nếu có quan lại tâu cử, đều tùy thời lấy chỉ.

[18] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu cho Viện Thẩm quan, từ nay các quan kinh triều từng làm Giám ty thể lượng mà nửa năm không có thành tích rõ rệt, thì trình bản tấu nguyên văn lên Trung thư. Đoạn này cần xem xét, nếu không thì bỏ đi.

[19] Ngày Canh Dần, xuống chiếu rằng các quan văn võ đã về hưu mà người được họ tiến cử phạm tội phải liên đới chịu tội thì được miễn, theo lời thỉnh cầu của Hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình. Phương Bình nói: “Bị liên đới vì tiến cử sai mà được cho phép xin miễn tội, là vì trách nhiệm phải xem xét người được tiến cử có phạm pháp hay không. Quan đã về hưu thì không còn việc, không nên bắt chịu trách nhiệm như người đang tại chức.” Từ đó thành lệnh.

[20] Ngày Tân Mão, nhân dịp Trùng Dương, mở tiệc rượu ở Thái Thanh lâu cho các cận thần và tông thất, rồi cùng bắn cung trong vườn.

[21] Ngày Quý Tỵ, phục chức Hiệu thư lang Tống Mẫn Cầu làm Quán các Hiệu khám, vì Vương Nghiêu Thần và các quan dâng sách 《Tục Đường lục》 100 quyển do ông biên soạn, ghi chép sự việc từ đời Đường Vũ Tông đến Đường Ai Đế.

[22] Xuống chiếu cho các cận thần khảo cứu chính sử và thực lục triều trước để soạn 《Cảnh Đức Ngự Nhung Đồ》.

[23] Ghi công con của Lý Dụng, nguyên là Tuần kiểm vùng giới hành thuộc Hùng châu, Bá châu, chức Nội điện thừa chế, tên là Tông Định, cho làm Hạ ban điện thị, và lấy đó làm lệ.

[24] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu cho Hạ Tủng, quan phán Tịnh châu, được tùy nghi xử lý các việc quân sự không kịp báo lên trên.

[25] An phủ sứ Hồ Nam Lưu Hãng tâu: “Cùng với Đề điểm hình ngục Dương Điền và các quan, chia làm tám đạo quân tiến đánh man Diêu, phá tan các sào huyệt ở Khiêu Du Bình, Năng Gia[5], các tướng Quảng Dũng phó đô đầu Hạ Cát cùng 48 người, cùng các tướng thập tướng đến trưởng hành tổng cộng 808 người, đều có công bắt giết và chém đầu giặc, xin cho thăng một bậc và thưởng thêm.” Được chấp thuận. Các tiến sĩ ứng mộ là Khu Hữu Lân cùng 14 người, đều được bổ nhiệm làm quan.

(Việc bổ nhiệm Khu Hữu Lân và các người khác đã chép vào ngày Bính Tuất tháng 11, nay chép lại.)

[26] Ngày Mậu Tuất, xuống chiếu cho các châu quân vùng biên giới Hà Đông, Thiểm Tây, nếu có người bán vật liệu chế tạo vũ khí cho nước ngoài, thì xử theo luật giao dịch riêng tư, và đày đến các châu quân gần trong.

[27] Ngày Canh Tý, đặt cơ quan Ngự sử đài của Lưu thủ ty tại Nam Kinh.

[28] Ngày Nhâm Dần, chiếu chỉ cho Kinh lược Chuyển vận ty Hà Đông rằng, những người quy thuận từ phương xa cày cấy đất công thì miễn trừ sai dịch, còn những người tự mình khai khẩn thì theo lệnh mà thi hành.

[29] Ngày Quý Mão, chiếu chỉ cho các lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây rằng, từ nay những người mới được bổ nhiệm làm quan ở quận xa thì lương bổng sẽ được cấp theo lệ của các quan vùng biên giới kiêm nhiệm quận xa.

[30] Ngày Giáp Thìn, điều Dương Hoành, Viên ngoại lang Binh bộ, Chuyển vận Án sát sứ Giang Nam Đông lộ, đến làm Tri châu Hoành Châu.

Hoành thường nói rằng, những kẻ phạm pháp không thể tha thứ, nếu để chúng tham tàn ở một quận huyện, hại đến hàng vạn nhà lương dân, thì không bằng loại bỏ chúng, dù chỉ bất lợi cho một nhà mà thôi. Người nghe đều sợ hãi bỏ đi, hoặc đến kỳ hạn mà không dám nhậm chức, nhưng cuối cùng Hoành bị giáng chức vì bị cho là quá khắc nghiệt. Hoành là cháu của Dương Ức, được Ức nhận làm con thừa tự, khi làm Chuyển vận Án sát sứ Giang Đông, ông được Phú Bật tiến cử. Hoành đã được nhắc đến trước đây.

[31] Ngày Đinh Mùi, Lý Thực, Điện trung thừa, tâu rằng, từ nay các chương sớ của quan lại dâng lên, nếu có lời lẽ vu khoa, xin đừng ban hành xuống các nơi, được chấp thuận. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》, cần xem xét thêm.

[32] Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp Dần, sai Khang Đức Dụng, Nhập nội Cung phụng quan, làm Tẩu mã Thừa thụ của Kinh lược ty Hà Đông.

Hà Đông trước đây không có nội thần làm Thừa thụ, Hạ Tủng, Phán châu Tịnh Châu, đặc biệt xin điều này. Tủng lại tâu rằng, muốn sai người mang vật phẩm địa phương để chiêu dụ các bộ lạc Tạng Tài. Chiếu chỉ rằng, trước đây không thuộc về Tây Bắc, và không trái với lời thề thì mới được. Tủng ở Tịnh Châu, thường dùng gia nhân riêng để cướp đoạt tài sản, rồi đánh chết họ. Thị ngự sử Ngô Đỉnh Thần tâu rằng Tủng là đại thần của thiên tử, mà tham bạo bất pháp như vậy, xin giao cho hữu ty xét xử tội của ông ta, nhưng không được trả lời. Đỉnh Thần là người Diên Châu. Việc Ngô Đỉnh Thần hặc tội Hạ Tủng được ghi kèm theo.

[33] Ngày Ất Mão, người Khiết Đan sai Lâm Nha Bảo Tĩnh quân Tiết độ sứ Gia Luật Hàn, Xu mật trực học sĩ, Trung thư xá nhân, Sử quán tu soạn Vương Cương đến dâng 300 con ngựa và 20.000 con dê thu được từ cuộc chinh phạt phương Tây, lại dâng thêm một cỗ xe Cửu Long.

(Sách phụ truyền và chính truyện của Khiết Đan đều không ghi chép việc Gia Luật Hàn và những người khác đến sứ, chỉ có thực lục, bản kỷ và hội yếu ghi lại, nhưng cũng không biết ai là người báo đáp, cần phải xem xét thêm.)

[34] Ngày Mậu Ngọ, ra chiếu rằng nghe nói tàn dư giặc Dao ở Hồ Nam muốn đầu hàng, hãy lệnh cho bản lộ ngừng xuất binh đánh dẹp, và ra lệnh cho những kẻ trốn tránh trở về nơi cũ, đồng thời lệnh cho các châu huyện chăm sóc an ủi họ. Lúc này, Đường Hòa Thượng[6]vẫn chưa bị bắt.

[35] Ngày Tân Dậu, đưa thần chủ của Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu và Chương Ý Hoàng hậu vào thờ ở Thái Miếu, đại xá thiên hạ. Một ngày trước đó, tại điện Văn Đức làm lễ an vị bảo sách, hoàng đế đội mũ Thông Thiên, mặc áo tía, cầm khuê, Thái thường tấu nhạc, bá quan túc trực ở triều đường. Hôm đó, các quan tiến hành tế lễ ở các miếu, đến giờ Dần, hoàng đế lại đến chính nha, tể thần và các quan hành sự dẫn bảo sách đến sân điện Đại Khánh, phát sách ra cửa Tuyên Đức, Nhiếp Thái úy Giả Xương Triều và Trần Chấp Trung cùng nhận bảo sách lên xe, bày nghi trượng, đánh trống thổi kèn, đến miếu Phụng Từ dâng bảo sách, cáo tế, hai thần chủ đều được tô chữ “Thái”, đại xá thiên hạ.

[36] Các chuyển vận sứ ở các lộ trước đây mang danh hiệu án sát, gần đây nghe nói làm quá phiền hà, quan lại không yên chức, thậm chí có người ra lệnh cho các châu huyện bảo nhau tố cáo lẫn nhau, làm tổn hại phong hóa, không có lợi cho việc chính, nên đều bãi bỏ.

Lúc này, các chấp chính ngăn cản việc sửa đổi những điều mà Phạm Trọng Yêm và Phú Bật đã làm, nhân dịp đại xá, nên có lệnh này.

(Tháng 8 năm ngoái, ngày Ất Mão, theo lời tâu của Lưu Thực và Bao Chửng, chỉ ban sắc lệnh ràng buộc, Bao Chửng lại muốn nhân dịp đại xá, tạm thời bãi bỏ việc tăng thuế trà và muối, nhưng cuối cùng không thực hiện, nay nhân dịp thăng phụ, nên bãi bỏ danh hiệu án sát, không biết ai là người xin, cần phải xem xét thêm.)

[37] Lúc đầu, có người bàn nên ban ân huệ rộng rãi cho các quan, và ban thưởng hậu hĩnh cho quân sĩ. Tham tri chính sự Ngô Dục nói: “Không có việc gì mà khơi dậy sự may mắn bất chính, ai là người đã đề xuất ý kiến này với bệ hạ, xin trị tội họ.”

Sau đó, hoàng đế nói với các đại thần: “Người ngoài oán trách chính quyền, nên đề phòng sự ồn ào.” Ngô Dục nói: “Đây chắc chắn là những người can gián muốn lay chuyển ý kiến của bệ hạ, xin đừng lo lắng. Thần đã dâng mình cho đất nước, sợ gì việc này.” Hoàng đế từng sai trung sứ đi điều tra bọn giặc cướp ở Sơn Đông, khi trở về tâu rằng bọn giặc không đáng lo, nhưng nói rằng Đỗ Diễn ở Duyện Châu và Phú Bật ở Vận Châu được người Sơn Đông đặc biệt kính trọng và yêu mến, đây mới là điều đáng lo. Hoàng đế muốn dời hai người này đến Hoài Nam, Ngô Dục nói: “Bọn giặc thực sự không đáng lo, nhưng kẻ tiểu nhân lợi dụng thời cơ để hãm hại đại thần, đó không phải là phúc của quốc gia.” Ý kiến này bị bác bỏ.

[38] Ngày Giáp Tý, Dương Cảnh Tông, Phòng ngự sứ Thành Châu, được phong làm Quan sát sứ Từ Châu, vẫn được hưởng bổng lộc của chức Lưu hậu. Hai hoàng hậu đã được thăng phối, hoàng đế nhớ đến Chương Huệ, nên đột ngột ban thưởng cho Cảnh Tông.

[39] Lấy thành mới xây ở Mã Cảo Xuyên, Diên Châu làm An Định Bảo. An Định Bảo được nhắc đến trong truyện Chu Mỹ, đã ghi vào ngày Mậu Tý tháng 4 năm thứ hai.

[40] Ngày Mậu Thìn, An Trung Tín và Lý Văn Cát, người Khiết Đan quy thuận, đều được phong làm Tam ban Phụng chức, Giám đương Hoài Nam, và ban thưởng cho Trung Tín 300 lạng bạc, Văn Cát 100 lạng. Trước đây, Văn Cát từng làm gián điệp cho Khiết Đan ở Hùng Châu, đến nay quy thuận, nên được đặc biệt ghi nhận.

[41] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu cho Lưu Thực, sứ giả đưa tiễn sứ Khiết Đan, biết rằng gần đây Khiết Đan đã xây trại ở Ngân Phường Thành, xâm phạm biên giới nhà Hán 10 dặm, lấy lời thề ước để khuyên sứ giả, bảo họ phá bỏ trại đó. (Tham khảo thêm ngày Quý Sửu tháng 6 và Kỷ Tỵ tháng 10.)

[42] Ngày Canh Ngọ, Vua ngự ở cửa Đông trong cung, ban rượu cho các quan theo hầu ba tuần, tấu nhạc Quân Dung. Đến cửa vườn Quỳnh Lâm, ban cơm cho các quan theo hầu. Rồi đi săn ở Dương Thôn, mở tiệc ở điện Ác, tấu nhạc Giáo Phường, sai sứ đem hươu và thỏ săn được dâng lên Thái Miếu. Sau đó triệu tập các bậc phụ lão đến hỏi thăm, ban cho thức ăn, trà và lụa, cùng ban cho quân sĩ Ngũ Phường bạc và lụa theo thứ bậc.

Tể thần Giả Xương Triều tâu rằng: “Bệ hạ tạm đến vùng ngoại ô, thuận thời đi săn, bắt thú tươi để dâng lên tế miếu, đó là để tỏ lòng hiếu đức. Đến vùng cao nguyên để xem xét quân lực, đó là để rèn luyện việc võ. Hỏi thăm người già và ban yến tiệc, đó là để dưỡng lão. Lao động cùng nông dân và ban ơn huệ, đó là để khuyến khích nông nghiệp. Xe Vua ra đi một lần mà bốn điều tốt đẹp đều đủ, xin hạ lệnh ghi vào sử quán.” Vua nghe theo.

(Vương An Thạch trong bài văn bia mộ Tôn Kháng chép rằng: Vua đi săn lớn ở phía nam thành, quân hộ vệ chưa kịp chỉnh tề mà về đến nơi vào ban đêm. Hôm sau, định đi săn tiếp, có con chim trĩ rơi xuống giữa điện, Tôn Kháng dâng sớ tâu, đêm đó liền có chiếu ngừng săn. Xét ra, năm thứ năm tháng mười, Vua Nhân Tông đi săn ở Dương Thôn, năm thứ sáu tháng mười một đi săn ở Đông Hàn Thôn phía nam thành, năm thứ bảy tháng ba liền có chiếu ngừng săn. Mà Tôn Kháng năm thứ sáu tháng ba đã thôi chức Ngự sử, lời can gián ấy hẳn là vào mùa đông năm thứ năm, nhưng mùa đông năm thứ năm không về vào ban đêm, lại không ở phía nam thành, việc về vào ban đêm ở phía nam thành là vào mùa đông năm thứ sáu, có thể khảo cứu trong tấu nghị của Hà Đàm, e rằng Vương An Thạch nhầm, nay không chép theo.)

[43] Ngày Tân Mùi, bắt đầu ban lịch cho nước Hạ.

[44] Ngày Mậu Dần, Thái thường bác sĩ, Giám sát ngự sử lý hành Tôn Kháng làm Kinh Hồ Nam lộ Thể lượng an phủ.

[45] Ngày Kỷ Mão, giáng chức Hữu Giám môn vệ Đại tướng quân Doãn Địch làm Mật Châu Quan sát sứ, vì được ân xá mà phục chức.

[46] Ngày Canh Thìn, bãi chức tể thần kiêm Xu mật sứ. Bấy giờ Giả Xương Triều và Trần Chấp Trung tâu: “Chức vụ quân dân từ xưa vốn giống nhau. Thời nhà Đường, riêng bổ nhiệm các quan Xu mật chuyên lo việc binh[7]. Đến thời Ngũ đại mới bắt đầu cho các tể tướng kiêm chức Xu mật sứ. Đến đầu triều ta vẫn theo chế độ cũ. Sau niên hiệu Càn Đức, chức vụ này mới tách ra, gọi là hai cơ quan cùng nắm quyền lớn, thực sự là để tuyển chọn người tài, dùng để bàn việc quân sự. Trước đây vì vùng Quan Thiểm chưa yên, việc binh cần thống nhất, nên lại kiêm nhiệm chức này, là hợp với tình thế tạm thời. Nay Tây Hạ đã quy phục, việc phòng thủ biên giới đã có trật tự, nên trả lại ấn sứ, để phù hợp với quy chế của triều đình. Chúng thần xin bãi chức kiêm Xu mật sứ.” Vua hạ chiếu đồng ý, lại hạ chiếu cho Xu mật viện, phàm những việc cơ yếu quân quốc, vẫn theo lệ cũ cùng bàn bạc thi hành.

[47] Tháng 11, ngày Quý Mùi, ở Nhĩ Anh các đọc 《Tam triều kinh vũ thánh lược》. Vua hỏi: “Thời Chân Tông, Lý Chí nói Trịnh Văn Bảo đề nghị cấm muối xanh ở biên giới phía tây là một sách lược sai lầm, thế nào?” Thị độc Cao Nhược Nột tâu rằng việc cấm muối xanh khiến người Tây đến nay vẫn mất nguồn lợi lớn, đó là sách lược đúng, lời của Lý Chí có lẽ là thiên kiến. Vua cho là phải.

[48] Xu mật viện xin từ nay việc thăng giáng các quan quản quân, trưởng lại ở biên giới xa, kiềm hạt binh mã lộ phân trở lên, đều cùng bàn với tể thần. Vua đồng ý.

[49] Ngày Đinh Hợi, ngày đông chí, yến tiệc với tông thất ở điện Sùng Chính.

[50] Ngày Tân Mão, hạ chiếu cho đề điểm hình ngục ty Kinh Đông lộ, điều tra việc Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện Thạch Giới còn sống hay đã chết rồi tâu lên.

Trước đây, Thạch Giới nhận mệnh làm thông phán Bộc Châu, về nhà chờ bổ nhiệm. Tháng 7 năm nay, ông bệnh mất. Hạ Tủng rất căm ghét Thạch Giới, lại muốn hại Phú Bật, nhân có việc người cuồng ở Từ Châu là Khổng Trực Ôn mưu phản, khám nhà tìm được thư của Thạch Giới, Hạ Tủng bèn nói Thạch Giới thực ra chưa chết, Phú Bật ngầm sai người sang Khiết Đan mưu khởi binh, Phú Bật làm nội ứng. Các quan chấp chính nghe lời ấy, nên có mệnh lệnh này, lại còn giam giữ vợ con Thạch Giới ở châu khác.

Lúc đầu, người ở Từ Châu tố cáo Trực Ôn và đồng bọn dùng phép yêu thuật dụ dỗ quân sĩ làm phản, nhưng Chuyển vận sứ không chịu nhận, liền đến gặp Đề điểm hình ngục, Đồn điền lang trung Lữ Cư Giản. Cư Giản ra lệnh không được nói đến việc có người không chịu nhận, rồi cùng Chuyển vận sứ hợp mưu bắt Trực Ôn và đồng bọn. Sau khi Trực Ôn và đồng bọn bị xử tử, ở Bộc Châu lại có kẻ mưu phản, dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Cư Giản vội đến nơi, bắt được kẻ cầm đầu, xử tử. Sau đó, ông tổ chức duyệt binh lớn, khao thưởng quân sĩ, khiến kẻ gian không thể nổi loạn.

Cư Giản là con của Lữ Mông Chính.

(Theo phụ truyện và chính truyện của Thạch Giới đều ghi rằng Giới giả chết, chạy về phía bắc đến Khiết Đan, không có việc đến Đăng Châu, Lai Châu kết bọn với những kẻ hung ác ở mỏ vàng[8]. Phụ truyện trong 《Chu Mặc Sử》 của Phú Bật lại ghi rằng Giới đến Đăng Châu, Lai Châu kết bọn với bọn ác thiếu niên ở mỏ vàng, phụ truyện này dựa theo tờ trát từ chối ân mệnh và biện bạch việc bị gièm pha của Bật.

Xét chiếu chỉ sai Kinh Đông điều tra việc Thạch Giới còn sống hay đã chết vào ngày Tân Mão tháng 11 năm nay, lúc đó Bật vẫn còn ở Vận Châu, đến tháng 5 năm thứ 7 mới dời đến Thanh Châu. Việc điều tra Thạch Giới còn sống hay đã chết, trong 《Thực Lục》 chỉ ghi có chiếu chỉ này vào ngày Tân Mão tháng 11 năm thứ 5, sau tháng 5 năm thứ 7, không thấy có chiếu chỉ nào khác. Tờ trát của Bật lại nói rằng khi ở Thanh Châu đã điều tra lại. Có lẽ 《Thực Lục》 ghi không rõ, nay ghi riêng ở cuối tháng 6 năm thứ 7.)

Lúc đó cũng có chiếu chỉ xuống Duyện Châu[9], xét xem việc Thạch Giới chết là thật hay giả. Tri châu Đỗ Diễn họp các quan thuộc lại bàn việc này, mọi người đều không dám đối đáp. Chỉ có Cung Đỉnh Thần, chức Thái Ninh tiết độ chưởng thư ký, nói: “Thạch Giới cả đời ngay thẳng, chân thật, lẽ nào lại có chuyện như thế[10]? Tôi xin lấy cả họ tộc bảo đảm rằng ông ấy chắc chắn đã chết.” Đỗ Diễn giật mình, rút từ trong ngực ra tờ tấu đốt đi, rồi nói: “Lão phu đã bảo đảm cho Thạch Giới rồi, ngươi còn trẻ, thấy việc nghĩa thì làm, tương lai sao có thể lường được!”

Cung Đỉnh Thần là người Cao Uyển.

Quốc tử giám trực giảng Tôn Phục bị giáng làm Giám Kiền Châu thuế. Vì khi Khổng Trực Ôn bị bại, lục soát nhà ông ta, tìm thấy thơ Tôn Phục gửi.

(Việc Khổng Trực Ôn mưu phản, 《Thực lục》 không chép. Xét việc thể lượng Thạch Giới còn sống hay đã chết, căn cứ theo truyện Thạch Giới, là vì trong nhà Khổng Trực Ôn có thư của Thạch Giới. Như vậy thì việc Khổng Trực Ôn mưu phản chắc chắn xảy ra trong năm này, nay phụ chép vào việc Tôn Phục bị giáng chức. 《Âu Dương Tu mộ chí》 chép Tôn Phục bị giáng vào năm thứ 7, e là nhầm.)

[51] Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu cho Hình bộ: Những người bị giáng chức, nếu đã được ân xá mà được bổ nhiệm làm các chức Hành quân tư mã, Phó sứ, Thượng tá, Tư sĩ, Văn học, Tham quân ở các nơi, nếu không muốn nhận chức thì cho phép.

[52] Ngày Giáp Ngọ, ở Nhĩ Anh các giảng thiên 《Giác cung》 trong 《Kinh Thi》, Vua nói: “U Vương không thân với cửu tộc, nên mới đến nỗi mất nước.” Dương An Quốc đối đáp: “Ngày Đông chí, bệ hạ thân mời yến tiệc tông thất, ân cần vỗ về mọi người, há chẳng phải là mở rộng tình thân ái ruột thịt sao?” Vua lại nói: “《Thư Kinh》 chép ‘Cửu tộc đã hòa thuận, bình định rõ trăm họ’, đó là thịnh đức của Đế Nghiêu, Trẫm rất ngưỡng mộ.”

[53] Xuống chiếu cho thiên hạ mỗi năm phải dâng lên một bản 《Giáp trượng tu tri》, lại lệnh cho Tam ty soạn trước thể thức rồi ban hành.

[54] Xu mật trực học sĩ, Lễ bộ lang trung, Tri Diên Châu Lương Thích được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Thích xin về quê lo việc tang, khi qua kinh sư, được vào yết kiến, tự trình bày việc trước đây bị bè đảng chèn ép, nên có mệnh lệnh này. Thị ngự sử Mai Trực và các quan khác liên tục dâng tấu đàn hặc, nên Thích được đổi làm Thị độc học sĩ, Tri Thiền Châu. Việc Thích nhậm chức Tri Thiền Châu vào ngày Canh Tý, nay ghi chép lại.

[55] Ngày Ất Mùi, tại Nhĩ Anh các giảng bài “Đô nhân sĩ” trong sách 《Thi Kinh》, Vua nói: “Người xưa mũ áo đều phù hợp với đức hạnh, nay mũ áo có khi quá xa hoa, nhưng đức hạnh chưa chắc bằng người xưa.” Lại đọc đến phần “Kinh Vũ Thánh Lược” thời Chân Tông, Lý Kế Hòa tâu rằng, đầu triều, Lý Hán Siêu ở Quan Nam dùng tiền riêng buôn bán để hỗ trợ việc công, có người dâng tấu hặc tội, Thái Tổ lại ra lệnh bãi bỏ hết các thuế mà Hán Siêu đã qua. Vua nói: “Dùng người như thế, ai chẳng hết lòng?”

[56] Xuống chiếu rằng việc biên cương đã yên, trộm cướp giảm bớt, nên Tri Vận Châu Phú Bật, Tri Thanh Châu Trương Tồn đều bãi chức An phủ sứ, Tri Bân Châu Phạm Trọng Yêm bãi chức An phủ sứ bốn lộ Thiểm Tây. Thực ra là do kẻ gièm pha nói rằng Thạch Giới mưu phản, Bật định cất quân một lộ ứng theo. Trọng Yêm trước đã xin từ chức vì bệnh, ngày hôm đó được đổi làm Tri Đặng Châu.

(Việc bãi chức An phủ sứ vào ngày 14 tháng 11 năm đó, theo tờ trát của Phú Bật trong 《Hội Yếu》 nói: “Ngay hôm đó bãi chức An phủ sứ của Bật.” Xét ngày mùng một0 có chiếu điều tra việc Thạch Giới còn sống hay chết, bốn ngày sau mới bãi chức An phủ sứ của Bật, Bật nói “ngay hôm đó”, có lẽ do viết nhanh hơn sự thật, không tránh khỏi sai sót.)

[57] Xuống chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông, Thiểm Tây, từ nay các bộ lạc phiên thuộc nội địa không được xâm phạm biên giới phía tây, kẻ phạm tội sẽ bị xử theo quân pháp, chỉ khi người và ngựa phía tây xâm phạm trước mới được phép xuất binh chống cự.

[58] Ngày Bính Thân, giáng chức Chuyển vận sứ lộ Tử Châu, Viên ngoại lang ty Phong là Thôi Phụ làm Tri châu Bân Châu, Chuyển vận phán quan, Thái thường bác sĩ là Trương Cố Tiểu làm Tri châu Xử Châu[11].

Ban đầu, Thôi Phụ và những người khác tâu rằng muốn khai thác than đá ở núi Ngư Tử Thiết thuộc quân Quảng An, đặt giám đúc tiền ở Hợp Châu, và đúc tiền lớn nhẹ hơn bằng cách nấu chảy tiền cũ nhỏ. Chưa nhận được chỉ dụ, họ đã gửi công văn đến Hợp Châu để đo đạc đất đai và chuẩn bị đặt giám. Hợp Châu tâu việc này lên, nên họ bị giáng chức đặc biệt.

[59] Ngày Đinh Dậu, người Di ở Tây Nam là Long Đặc cùng 719 người đến dâng sản vật địa phương.

[60] Lúc đầu, Hàn lâm học sĩ Diệp Thanh Thần đang chịu tang cha, có người từng đề nghị khởi phục ông làm tướng biên cương, nhưng sau đó không thực hiện. Đến khi mãn tang, Tể tướng Trần Chấp Trung vốn có hiềm khích với Thanh Thần, không muốn ông ở lại triều đình, bèn dùng lời đề nghị trước đó[12]. Ngày Canh Tý, đổi cho Thanh Thần làm Hàn lâm thị độc học sĩ, tri châu Bân. Tư Mã Quang trong 《Ký văn》 chép rằng: Khi Trần Chấp Trung làm tướng, Diệp Thanh Thần là Hàn lâm học sĩ soạn chế từ, ít có lời khen ngợi. Mùa hè năm Khánh Lịch thứ 6, Thanh Thần từ Dương Châu chuyển làm tri châu Bân, đi qua kinh sư, đem bản thảo chế từ trình lên Hoàng đế và nói: “Thần soạn lời Vua, không dám khen hư, khi Chấp Trung làm tướng, tài đức thực không có gì đáng khen, nên Chấp Trung oán thần, giữa mùa hè đày thần từ Dương Châu đến Bân Châu, đường thủy bộ mấy ngàn dặm, thần thực không có tội, mong bệ hạ thương xót.” Nhân đó đổi làm tri châu Thiền. Chưa đầy một tháng, lại đổi làm tri châu Thanh.

Mùa hè năm sau, Trình Lâm từ Vĩnh Hưng quân chuyển đến Thanh Châu, Chấp Trung lại tâu xin đưa Thanh Thần đến Vĩnh Hưng quân. Lúc đó Thanh Thần là Hộ bộ lang trung, Hoàng đế muốn thăng làm Gián nghị đại phu, nhưng Chấp Trung nói: “Theo lệ cũ, quan hai chế từ Trung hành lang trung thăng lên Tả hữu ty lang trung, nay thăng Gián nghị đại phu là quá ưu đãi, xin cho kiêm thêm Long đồ các học sĩ.” Hoàng đế đồng ý. Theo lệ, người mới nhận chức tri Vĩnh Hưng quân được ban thưởng, nhưng Chấp Trung lại nói: “Thanh Thần vừa được ban thưởng rồi.” Nên không ban nữa. Thanh Thần càng oán hận, khi qua kinh sư, lại dâng lời tố cáo Chấp Trung, Hoàng đế ra lệnh ban thưởng, nhưng ông không nhận. Sau đó ông đến Trường An, Hoàng đế đối xử với Chấp Trung vẫn như cũ.

(Có người nói: Trước đây Chấp Trung từ chức Gián quan bị giáng chức, đi thuyền về phía đông, Thanh Thần từ Lưỡng Chiết bãi quan về, hai người gặp nhau trên đường, tranh chỗ đậu thuyền, cãi nhau kịch liệt, từ đó sinh hiềm khích, đã lâu rồi. Xét Chấp Trung nhậm chức Tể tướng vào tháng 4 năm Khánh Lịch thứ 5, còn Thanh Thần chịu tang cha từ tháng 7 năm thứ 3, chế từ của Chấp Trung làm sao do Thanh Thần soạn được, 《Ký văn》 chép sai. Chế từ khi Chấp Trung nhậm chức rất hay, chắc chắn không phải do Thanh Thần soạn. Lại xét Chấp Trung làm Đồng tri Xu mật vào tháng 3 năm Bảo Nguyên nguyên niên, lúc đó Thanh Thần chưa làm Tri chế cáo, đến tháng 3 năm Khang Định nguyên niên Chấp Trung bị bãi chức, lúc đó Thanh Thần làm Tri chế cáo đã nửa năm, có lẽ Thanh Thần soạn chế từ khi Chấp Trung bãi chức Xu mật, ít khen ngợi, 《Ký văn》 chép nhầm.

Lại nữa, tháng 5 năm Khánh Lịch nguyên niên, Thanh Thần từ Tri chế cáo ra làm tri châu Giang Ninh, việc này là do Lữ Di Giản ghét ông. Tháng 3 năm thứ 3 triệu vào Hàn lâm, tháng 7 chịu tang cha[13], tháng 11 năm thứ 5 mãn tang, được bổ làm tri châu Bân, 《Ký văn》 chép là giữa mùa hè cũng sai. Vả lại, lúc mới mãn tang, ông chưa từng làm tri châu Dương, tháng 3 năm thứ 6 trên đường đến Bân Châu, qua kinh sư, đổi làm tri châu Thiền, nếu Thanh Thần tự tố rằng giữa mùa hè từ Tô Châu đày đến Bân Châu thì đúng, vì Thanh Thần là người Tô Châu. Nay không theo.)

[61] Ngày Tân Sửu, sai Hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình, Thị độc học sĩ Tống Kỳ tu sửa lại sách 《Cảnh Hữu Quảng Lạc Ký》.

[62] Ngày Nhâm Dần, Điện trung thị ngự sử Lưu Thục được bổ làm Lễ bộ viên ngoại lang kiêm Thị ngự sử tri tạp sự. Người bàn luận cho rằng Thục dò ý tể tướng, gán tội nặng cho Doãn Chu nên được thăng chức tốt.

[63] Ngày Giáp Thìn, Hữu lĩnh quân vệ đại tướng quân đã về hưu Cao Chí Ninh, Tả đồn vệ đại tướng quân đã về hưu Triệu Chấn dâng sơ đồ trận pháp, được ban mỗi người 50 tấm lụa. Chấn được bãi chức về hưu, làm Đô giám ở Hứa Châu, Chí Ninh được đặc cách đổi làm Điện trung giám rồi về hưu, theo lời xin của ông.

(Việc Chấn đổi chức, căn cứ theo 《Hàn Kỳ Mộ Chí》, Chấn bãi chức về hưu vào tháng 12, nay ghi chung. Đến tháng 6 năm Hoàng Hựu nguyên niên lại bãi chức về hưu, cần xét xem ai tiến cử Chấn.)

[64] Ngày Ất Tỵ, xuống chiếu cho Ty An phủ Hà Bắc: Nghe nói từ khi binh lính Bảo Châu làm phản, nhiều nơi dung túng, sợ tình hình quân đội càng kiêu ngạo, nên bí mật dụ bảo các quan coi quân thường xuyên vỗ về, nếu có ai dám phạm quân luật, cũng cho phép xử lý ngoài pháp luật.

[65] Ngày Bính Ngọ, ban áo bông cho binh lính làm việc ở Thập Phường Giám trong kinh thành.

[66] Ngày Đinh Mùi, Tiến sĩ Tống Khang Tế được bổ làm Tam ban tá chức. Khang Tế tự tay bắt 13 tên giặc ở Tề Châu, nên được đặc cách ghi nhận.

[67] Ngày Kỷ Dậu, xuống chiếu cho các quan Tri châu, quân chư ty sứ phó trở lên ở Hà Bắc tiến cử mỗi người một vị quan từ Điện trực đến Cung phụng có võ dũng, mưu lược, có thể chỉ huy quân trận. Những người từng giữ chức ở hai phủ tiến cử hai người, phải báo cáo trong vòng một tháng.

[68] Ngày Canh Tuất, ban chiếu rằng từ nay các chỉ huy Bảo Nghị ở sáu huyện thuộc Châu Tần nếu dám tư ý sử dụng quân lính, sẽ bị xử theo luật tính công. Trước đó, Đô bộ thự Kinh Nguyên là Trình Kham tâu: “Các lộ ở Thiểm Tây vốn có quân Bảo Nghị, hỏi người biên giới thì không biết được thời điểm thiết lập. Các chỉ huy không tính số người, ban đầu không xăm tay, cha chết thì con nối, tên trong sổ không thể xóa. Xét ý định ban đầu của việc thiết lập, có lẽ là muốn khi cần kíp thì tập hợp để phòng thủ biên giới. Những năm gần đây chỉ dùng làm phu dịch cho châu huyện[14], không còn yêu cầu luyện tập võ nghệ. Gần đây điểm danh xăm tay để thành quân Bảo Tiệp, nhưng gia đình vẫn không thoát được tên trong sổ Bảo Nghị.

Nay đều là hộ nghèo yếu, không chịu nổi việc phục dịch, liền bán ruộng đất cho người khác. Người mua phải góp phần giúp đỡ việc phục dịch, đến nỗi năm bảy nhà cùng gánh việc phục dịch của một người. Thần trước đây tạm quyền tri châu Tần, thấy quân Bảo Nghị ở đây thường xuyên chặt gỗ, đốn củi, sửa thành, đắp đê, không lúc nào ngơi nghỉ, thậm chí phải thuê mướn, mỗi ngày không dưới hai ba trăm tiền, lại thêm việc đô tướng thu thuế, thật đáng thương. Huống hồ các lộ đã có hương quân, vùng biên giới lại có dân bắn cung, xin bãi bỏ tất cả các chỉ huy Bảo Nghị, giao cho Đô chuyển vận ty Thiểm Tây bàn bạc về lợi hại lâu dài.”

Thông phán Vĩnh Hưng quân là Thái thường bác sĩ Thiệu Lương Tá tâu: “Theo chế độ cũ, quân Bảo Nghị ở Thiểm Tây khi biên giới có động thì tạm tập hợp để giữ thành, việc xong thì cho về làm ruộng. Nay ba lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên không phải làm việc khác, chỉ có Châu Tần là giặc ngựa chưa từng ra khỏi biên giới, bốn chỉ huy Bảo Nghị chỉ có khoảng ba nghìn người, thường phục dịch ở châu này, dân nghèo khổ lâu ngày bỏ bê nông nghiệp, xin triều đình nghiêm khắc ràng buộc.” Vì thế ban chiếu này.

[69] Ngày Nhâm Tý, tháng 12, ban chiếu rằng từ nay nếu nước Hạ có việc bàn bạc về biên giới, trước hết phải trình bày kế hoạch lợi hại lên triều đình, còn việc thường thì cho phép một mặt gửi văn thư đến Châu Hựu.

[70] Ngày Quý Sửu, Quách Thừa Hữu, Tuyên Châu quan sát sứ, nhậm chức Tri Lộ Châu, được bổ nhiệm làm Điện tiền đô ngu hầu, kiêm chức Tịnh Đại phó bộ thự và Tri Đại Châu. Trước đây, Đỗ Diễn từng tấu xin bãi chức quân sự của Thừa Hữu, đến nay lại được phục chức.

Sau đó, Giám sát ngự sử Bao Chửng từ Khiết Đan trở về, tâu rằng: “Thần gần đây nhiều lần tấu rằng các tướng lĩnh biên giới phía bắc Hà Bắc chưa được chọn lựa kỹ càng, xin đặc biệt chọn người tài giỏi, nhất là chức Tri Đại Châu không thể giao phó một cách tùy tiện[15]. Bởi Đại Châu gần với Vân Châu, Ứng Châu, đường đi bằng phẳng, từ xưa đến nay vốn là nơi khó phòng thủ[16].

Thời Thái Tông, dùng tướng tài Dương Kế Nghiệp trấn giữ, sau khi Kế Nghiệp mất, lại dùng Cấp sự trung Trương Tề Hiền thay thế, việc trọng dụng nhân tài là như vậy. Từ đó về sau, biên giới yên ổn, nhưng vẫn dùng võ tướng có tài lược. Nay triều đình giao phó cho Quách Thừa Hữu, e rằng sẽ hỏng việc. Xét Thừa Hữu nhiều lần nhậm chức nhưng không có thành tích gì, triều đình và dân chúng đều biết, dư luận xôn xao cho rằng không nên.

Hơn nữa, phương Bắc đã xin thần phục nhiều năm, nhưng ân huệ quá nhiều sẽ sinh kiêu căng, yên ổn lâu sẽ quên phòng bị, đó là lẽ thường. Huống chi hai nước phía Tây Bắc, xưa nay vẫn ghét việc chúng liên kết với nhau[17], huống hồ mầm họa đã lộ rõ, đây là điều triều đình nên nhìn xa trông rộng, lo lắng cho quốc gia.

Hiện nay, thiên hạ không lo thiếu người, mà lo không biết dùng người. Đạo dùng người không cần phân biệt văn võ, hạn chế cao thấp, chỉ cần xem người đó như thế nào. Nên xét xem họ có tài ứng địch chế thắng, có biết cách an biên ngự chúng, xem khí chất hùng hồn, cử chỉ đoan trọng, rồi cất nhắc sử dụng, đó là yếu lĩnh của việc dùng người. Huống chi Hà Bắc, Hà Đông cùng lúc xảy ra động đất, dị biến như vậy, không thể không lo sợ. Thần trước đây từng dâng trát tâu rất rõ, xin sớm triệu hồi Thừa Hữu, dùng người tài khác. Những tướng biên giới yếu hèn không đủ năng lực, cũng xin thay đổi ngay. Nếu không chuẩn bị trước, khi việc gấp xảy ra thì không kịp nữa. Mong bệ hạ đặc biệt lưu tâm, đó là phúc lớn của thiên hạ!”

[71] Lân Châu báo rằng người và ngựa từ biên giới phía tây đã đến phía tây sông Khuất Dã, liền lệnh cho Chỉ sử, Điện thị Ngụy Trí dẫn quân đến ngăn chặn. Trí gặp phục binh, bị quân phía tây bắt giữ. Tri châu dẫn quân đuổi giặc đến trại Ngân Xuyên, giặc bỏ chạy. Chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông nhiều lần răn dạy các lộ phải tuân theo lời thề trong chiếu chỉ. Nay quân phía tây vốn không có ý gây chiến, nhưng lại dùng binh đuổi theo, gây sự ở biên giới. Các quan lại biên giới đều bị xét tội và báo lên triều đình.

[72] Vì trời lạnh có tuyết, ban cho các ban, các quân củi và than để sưởi.

[73] Ngày Ất Mão, ban cho Chu Thiền ở Lễ Châu danh hiệu Đồng Tiến sĩ xuất thân. Thiền ở Lễ Dương, chịu tang cha mẹ, đắp đất thành mộ. Năm Thiên Thánh, từng có chiếu chỉ an ủi. Đến nay, châu lại tiến cử Thiền vì hiếu hạnh, hợp với lệnh ân xá của miếu đường, đặc biệt khen thưởng và ghi chép.

[74] Ngày Bính Thìn, chiếu cho Chuyển vận ty Quảng Nam Đông lộ chiêu mộ người vào Giao Chỉ để dò xét tình hình binh lính. Nếu thu được thông tin chính xác[18], sẽ được ban thưởng hậu hĩnh. Lúc đó, Lý Đức Chính sắp đem quân đánh Chiêm Thành, triều đình chưa biết việc này.

[75] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho các lộ Kinh lược ty biên giới không được chiêu dụ các bộ lạc phía tây.

[76] Ngày Kỷ Mùi, chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông xử lý việc biên giới vùng Phong Châu[19], không để quân phía tây xâm phạm.

[77] Trước đó, man di Quế Dương là Đường Hòa Thượng lại xâm phạm, giao chiến với Lễ Tân phó sứ Hồ Nguyên, Hữu Thị cấm Quách Chính, Triệu Đỉnh, Tam Ban Sai sứ Điện thị Vương Hiếu Tiên ở ải khẩu Hoa Âm Động, huyện Lam Sơn. Nguyên và các tướng đều tử trận.

(《Thập triều cương yếu》 chép: Người Từ Châu là Khổng Trực Ôn mưu phản, bị xử tử.)

[78] Ngày Canh Thân, lấy Hữu Gián nghị đại phu Lưu Quỳ làm Long Đồ các Trực học sĩ, Kinh Hồ Nam lộ An phủ sứ, tri Đàm Châu.

[79] Ngày Nhâm Tuất, giáng chức Tri châu Đàm, Long Đồ các Trực học sĩ, Hữu Gián nghị đại phu Lưu Hãng làm Tri châu Ngạc, Đề điểm hình ngục, Thái thường bác sĩ Dương Điền làm Tri châu Thái Bình.

(Việc Dương Điền bị giáng làm Tri châu Thái Bình căn cứ theo bản truyện, nhưng trong thực lục không ghi chép. Theo Hội yếu, việc giáng chức Dương Điền vào ngày 21 tháng 11, còn việc giáng chức Lưu Hãng vào ngày 11 tháng 12, nay ghi chép lại cùng nhau.)

[80] Ngày Quý Hợi, Tri châu Ích là Văn Ngạn Bác tâu rằng quân bản lộ đã lâu không tập luyện chiến đấu, xin lập pháp huấn luyện. Chiếu chỉ trước hết dạy bắn cung nỏ, đợi khi dân chúng quen thuộc, sau đó sẽ dùng đao thương để duyệt thử.

[81] Ngày Giáp Tý, ban cho Tư phong viên ngoại lang, phân ty Tây Kinh là Triệu Hi Ngôn áo mặc tam phẩm, cùng 10 vạn tiền. Xu mật sứ Vương Di Vĩnh, Phó sứ Bàng Tịch và Đinh Độ tâu rằng Hi Ngôn thường giảng học trong cung, năm nay đã 80 tuổi mà nhà nghèo, nên ban thưởng.

[82] Ngày Ất Sửu, chiếu cho Kinh lược ty Phu Diên, thủ lĩnh Tây giới là Dương Thủ Tố muốn qua biên giới tự trình bày sự việc, lệnh cho quân Bảo An dẫn đến Diên Châu. Nếu chỉ là đòi lại nhân hộ người Hán, thì lấy biểu thệ của nước Hạ trước đây để dụ bảo.

[83] Ngày Mậu Thìn, Kinh lược ty Hà Đông tâu rằng trước đây vâng chiếu, nếu bộ lạc phiên nổi loạn thì cho phép xuất binh chống cự, nhưng nếu quân Tây giới đến biên giới thì không được xuất binh. Chiếu rằng nếu quân Tây giới xâm phạm, trước hết bắn tên vào quan quân, thì lập tức dẫn quân đánh dẹp.

[84] Ngày Nhâm Thân, ban thưởng bạc lụa có mức khác nhau cho quan lại và binh sĩ tu sửa ba đồn An Định thuộc đông lộ Diên Châu.

[85] Ngày Quý Dậu, Tân Tri châu Đàm là Lưu Quỳ tâu rằng các vị sư nhà Đường trước đây bị Hồ Nguyên đánh bại, nay càng tụ tập đông người, dân chúng sinh nghi, sợ sẽ trở thành mối lo biên giới, xin ban 10 đạo sắc mệnh trống để chiêu an, bổ nhiệm làm thủ lĩnh các động khê, được chấp thuận. (Lưu Quỳ được bổ nhiệm làm Tri châu Đàm vào tháng này ngày Canh Thân, không nên ngay lập tức có lời tâu này, cần xem xét thêm.)

[86] Ngày Giáp Tuất, Phạm Trọng Yêm tâu rằng: “Trước đây, Tôn Dụng, nguyên là Đô tuần kiểm Kinh Nguyên, Lễ tân phó sứ, đã mượn tiền công sứ; Trương Trung, Trại chủ Ngoã Đình, Tả ban điện trực, Cáp môn chi hậu, đã thu quá mức thuế ruộng chức. Cả hai đều bị xử phạt và cách chức. Tuy nhiên, hai người này có tài võ dũng, xin được khôi phục một phần quan chức để họ có cơ hội lập công chuộc tội.” Chiếu chỉ phong Tôn Dụng làm Cung bị khố phó sứ, Trương Trung làm Hữu ban điện trực, Cáp môn chi hậu, và đều được bổ nhiệm đến biên giới xa xôi.

[87] Kinh lược ty Phu Diên tâu rằng: “Trước đây, quân Tây Hạ đã bắt giữ 49 người thuộc tộc Hoàng, bao gồm Quân chủ Hoàng Di Đô. Nay họ đã trở về tộc của mình và định cư.” Chiếu chỉ yêu cầu Kinh lược ty đưa họ trở lại biên giới[20], đồng thời điều tra và xử phạt những người đã tiếp nhận họ. Sau đó, Kinh lược ty tâu: “Hoàng Di Đô và những người khác sợ bị trừng phạt, đã cùng với người trong tộc tập hợp binh mã, nguyện cùng chết trên đất Hán. Hơn nữa, họ đã trở về trước khi triều đình ban hành quy định, vì vậy không nên đuổi họ đi, làm thỏa mãn ý đồ của quân Tây Hạ.” Triều đình đồng ý.

(Việc Kinh lược ty Phu Diên tâu xin giữ lại Hoàng Di Đô xảy ra vào ngày Kỷ Mùi tháng 2 năm thứ 6, nay ghi chung vào đây. Lương Thích nhậm chức Tri Diên Châu vào tháng 2 năm thứ 5, Trầm Mạc nhậm chức Tri Diên Châu thay Lương Thích vào ngày 3 tháng 11 năm thứ 5, từ chức Đô tào Thiểm Tây.

Việc giữ lại Hoàng Di Đô chắc chắn là do Trầm Mạc quyết định. Trong mộ chí của Lương Thích có ghi: “Thích chiêu dụ được hơn 3.000 hộ thuộc tộc Kim Minh trở về, những người bị Nguyên Hạo bắt trước đây đã có lời thề và chiếu chỉ không trả lại nữa, nhưng vẫn nhiều lần đòi hỏi, cuối cùng không trả.” Bản truyện của Lương Thích cũng ghi tương tự, có lẽ là việc Hoàng Di Đô, nhưng Trầm Mạc không thể đến tháng 2 năm sau vẫn chưa đến Diên Châu, có thể mộ chí của Lương Thích nhầm lẫn, nay không theo.)

[88] Ngày Ất Hợi, chiếu chỉ cho Viện Xu mật: “Từ nay, Hàn lâm ty và Hoàng thành ty không được phép dâng sớ xin xỏ.”

[89] Ngày Bính Tý, đổi thụy hiệu của Tiết độ sứ Sùng Tín là Tiền Duy Diễn thành Văn Hi. Duy Diễn từng xin đưa hai hoàng hậu Chương Hiến và Chương Ý vào thờ trong miếu Chân Tông, vì thế bị giáng chức, ban đầu thụy hiệu là Tư. Sau khi lễ thờ hai hoàng hậu hoàn tất, con trai ông là Tiền Ái đã kiện lên triều đình, nên được đổi lại thụy hiệu.

[90] Ngày Đinh Sửu, quốc mẫu nước Khiết Đan phái Tả lĩnh quân Vệ đại tướng quân Gia Luật Quan, Bí thư thiếu giám Triệu Linh Quy, Khiết Đan phái Tả thiên ngưu Vệ thượng tướng quân Gia Luật Đồng, Sùng lộc thiếu khanh Mã Công Thọ đến chúc mừng ngày Chính đán.

[91] Ngày Mậu Dần, Khai Phong phủ phán quan, Từ bộ viên ngoại lang Ích Đô là Chu Hãng được bổ nhiệm làm Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận sứ, thay thế Chu Lăng lo việc bình định man.

(Tháng 8 năm thứ 5, ngày Bính Dần, Chu Lăng đã được bổ nhiệm làm Độ phán ngoài phong, e rằng Chu Hãng thay thế không phải là Chu Lăng.)

[92] Năm đó, thiên hạ báo lên Hộ bộ số chủ hộ là 6.862.889, nhân khẩu là 15.263.899; khách hộ là 3.820.058, nhân khẩu là 6.390.264.


  1. 'chọn ngày' nguyên bản là 'soạn ngày', theo 《Tống hội yếu》 Lễ 9-3 sửa lại.
  2. Không kịp thời ngăn cấm, chữ 'thời' nguyên là 'hào', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Bao Hiếu Túc công tấu nghị》 quyển 9 sửa lại
  3. Người Khai Phong 'dã' chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác bổ sung.
  4. Lễ tân phó sứ Tống Cát làm Kinh Hồ Nam lộ Tróc sát man tặc, chữ 'vi' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 48 'Quế Dương man Diêu chi phản' bổ sung.
  5. 'Khiêu Du Bình', 'Năng Gia', 《Tống sử》 quyển 285 truyện Lưu Hãng, quyển 493 truyện Man Di đều chép là 'Đào Du Bình', 'Năng Gia Nguyên'.
  6. Chữ 'Thượng' trong 'Đường Hòa Thượng' vốn không có, căn cứ vào quyển 46 sách này, ngày Giáp Tuất tháng 3 năm Khánh Lịch thứ 4 và quyển 48 của 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 về việc Quế Dương Man Dao làm phản bổ sung. Phần sau cũng tương tự.
  7. 'Biệt' nguyên bản viết là 'Tắc', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 32 'Trung thư Xu mật phân hợp', 《Biên niên lục》 quyển 5 sửa lại.
  8. 'không' nguyên bản là 'trước', căn cứ theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại
  9. chữ 'hữu' trong 'thời diệc hữu chiếu hạ duyễn châu' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 37 chép việc Thâm hàm Thạch Giới, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ bổ sung.
  10. chữ 'ninh' trong 'ninh hữu thị gia' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo hai bản trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử》 quyển 347 truyện Cung Đỉnh Thần bổ sung.
  11. Chuyển vận phán quan Thái thường bác sĩ Trương Cố Tiểu làm Tri châu Xử Châu. Trương Cố vì tự ý bàn việc tiền tệ nên bị giáng chức, xem 《Tống sử》 quyển 180, 《Thực hóa chí》 hạ nhị, chữ 'Tiểu' dưới chữ 'Cố' có lẽ là thừa.
  12. 'Thân' nguyên bản là 'Trung', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tục thông giám》 quyển 48 sửa lại
  13. 'Nguyệt' nguyên bản là 'Niên', theo văn trên sửa lại
  14. 'Dùng' nguyên là 'Duyễn', theo bản trong các sách sửa lại, 《Tống sử》 quyển 190, chí 4 viết 'Gần đây chỉ cấp dịch cho châu huyện', cũng có thể chứng minh.
  15. Nguyên văn 'vưu' viết là 'do', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Bao Hiếu Túc công tấu nghị》 quyển 9, sửa lại
  16. Nguyên văn 'kim' viết là 'nhân', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách trên, sửa lại
  17. Nguyên văn 'hiệp' viết là 'hiệp', căn cứ theo các bản trên và sách trên, sửa lại
  18. 'Như' nguyên là 'ư', theo 《Tống hội yếu》 phiên di 4/32 sửa
  19. 'Phong' nguyên là 'Lễ', xét Hà Đông không có 'Lễ Châu', theo bản các sửa
  20. Chiếu chỉ yêu cầu Kinh lược ty đưa họ trở lại biên giới: chữ 'khiển' nguyên bản là 'truy', theo bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.