IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 161: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 7 (ĐINH HỢI, 1047)
Từ tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 7 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Bính Tý, ban chiếu rằng vào ngày Đông chí sẽ tổ chức lễ tế ở Nam Giao.
[2] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu cho Ngự sử đài, từ nay về sau khi xét định công việc, nếu có ai nhờ vả hay lạm dụng, cho phép người khác tố cáo, thưởng 200 quan tiền, theo lời thỉnh cầu của Trung thừa Ngư Chu Tuân.
[3] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu cho hai chế và Thái thường Lễ viện bàn việc tăng thụy hiệu cho Chân Tông.
[4] Ngày Nhâm Ngọ, Hộ bộ Phó sứ, Từ bộ Lang trung Trương Nghiêu Tá được bổ làm Thiên Chương các Đãi chế, Hà Đông Đô Chuyển vận sứ. (Việc bổ nhiệm Nghiêu Tá lần này không có ai bàn tán, cần xem xét lại.)
[5] Ngày Quý Mùi, đưa tượng thờ của Thái Tổ, Thái Tông và Chân Tông vào thờ tại Hồng Khánh cung ở Nam Kinh.
[6] Ngày Giáp Thân, ban đức ân: giảm tội cho tù nhân trong khu vực Nam Kinh một bậc, tha những người bị tội đồ trở xuống; giảm một nửa thuế hạ; miễn thuế bị thiên tai và các khoản nợ quan không phải do tham ô; ban tiền đặc chi cho các tướng hiệu quân đội ở kinh thành.
[7] Ngày Nhâm Thìn, giáng chức Tri Quảng Châu, Hữu Gián nghị Đại phu Ngụy Quán xuống làm Tri Ngạc Châu. Phán quan Lâm Giang quân là Sử Hãng tính tình hiểm ác, từng bị Quán hặc tội mà bị cách chức. Nhân dịp Quảng Châu gửi dư vật cống là dừa nấu đường về kinh, Hãng liền giữ lại, dâng tấu nói đó là của quý. Chiếu sai nội thị đến kiểm tra, thấy không có gì, Hãng bị trị tội vu cáo và bị bãi chức, Quán cũng bị giáng chức.
[8] Ngự sử Hà Đàm tâu rằng: “Các châu quận trong thiên hạ hàng năm có lệ dùng những sản vật dư thừa từ việc cống phụng như hoa quả để biếu tặng các quan lại. Xưa tuy đã có điều ước cấm, nhưng vì các nơi đã quen làm theo lệ cũ nên chưa thể dứt hẳn. Gần đây, Ngụy Quán ở Quảng Châu vì việc này mà bị giáng chức, thần e rằng các nơi nghe tin, trong đó có những kẻ xảo quyệt sẽ bắt chước, dùng việc này để khởi kiện, làm hại các quan có chức vị. Thần xin hạ lệnh cho các cơ quan hữu trách, tuyên bố lại chế độ cũ, từ nay về sau các nơi không được lấy danh nghĩa cống dư để biếu tặng hoa quả cho các quan lại. Những nơi đã từng biếu tặng trước khi có lệnh này thì không cho phép người khác tố cáo. Như vậy, trên có thể giữ được thể diện triều đình, dưới có thể yên lòng bề tôi.” Vua nghe theo. (Chiếu theo lời Hà Đàm, ngày Tân Dậu, ghi chép lại.)
[9] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng trong lễ Nam Giao sắp tới sẽ dời bài vị của Chương Ý hoàng thái hậu vào hậu miếu, hoặc nhà Vua sẽ thân hành đến Phụng Từ miếu để làm lễ hưởng, hai chế và Thái thường lễ viện bàn bạc kỹ rồi tâu lên. Bấy giờ, Hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình tâu rằng: “Chương Ý hoàng thái hậu được thờ riêng ở biệt cung là hợp lễ, khác với Hiếu Huệ, Hiếu Chương, Thục Đức, Chương Hoài, nên khó cùng hợp tế. Xin vẫn cử hành lễ tiến hưởng trong lễ Nam Giao như ở hậu miếu.” Chiếu rằng: “Lễ hưởng ở Phụng Từ miếu, Trẫm sẽ thân hành lần này, sau sẽ sai tể tướng thay mặt.”
[10] Nam Giao lễ nghi sứ Dương Sát tâu rằng: “Theo chiếu năm Cảnh Hựu thứ hai, khi tế trời đất, từ nay lấy Thái Tổ làm chủ tế cố định, hai tông làm chủ tế luân phiên. Năm Khánh Lịch thứ tư trong lễ Nam Giao đã lấy Thái Tổ, Thái Tông làm chủ tế, nay nên lấy Thái Tổ, Chân Tông làm chủ tế.” Chiếu rằng: “Tuân theo.”
[11] Ngày Đinh Dậu, đưa tượng của Tuyên Tổ hoàng đế và Chiêu Hiến hoàng hậu vào điện Khánh Cơ ở Phụng Tiên Tư Phúc thiền viện, nhà Vua thân hành làm lễ chước hiến, vì điện đã tu sửa xong.
[12] Ngày Tân Sửu, bổ nhiệm Vương Cư Bạch, chức Tân Hoài Nam Giang Chiết Kinh Hồ Chế Trí Phát Vận Sứ, Hình bộ Lang trung, Trực Long Đồ các, làm Thiên Chương các Đãi chế, tri Quảng châu. Ban đầu, lệnh cho Tư Nông Thiếu khanh Tân Nhược Du thay thế Ngụy Quán, gia phong Nhược Du làm Hữu Gián nghị Đại phu. Ngự sử Hà Đàm và các quan khác tâu rằng, Nhược Du tuy được tiếng là thanh liêm cẩn trọng, nhưng tuổi đã bảy mươi, tài lực không còn sung mãn, không nên để ông làm tri Quảng châu. Vì thế đổi lệnh bổ nhiệm Cư Bạch, đồng thời không phong Nhược Du làm Hữu Gián nghị Đại phu. Chế Trí Phát Vận Phán quan, Chủ khách Viên ngoại lang Hứa Nguyên được thăng làm Chế Trí Phát Vận Phó sứ, và có chiếu chỉ tạm thời chưa bổ nhiệm Chính sứ.
[13] Tháng 8, ngày Quý Mão (mùng một), sai quan cầu tạnh.
[14] Ngày Giáp Thìn, Diêm Thiết Phó sứ, Chủ khách Lang trung Viên Hàng được bổ làm Tư Huân Lang trung, tri Tuyên châu, vì Ngự sử tâu rằng ông đã già yếu, không đảm đương được việc.
[15] Ngày Đinh Mùi, ban thưởng thóc lụa cho xử sĩ Khổng Mân ở huyện Long Hưng, châu Nhữ. Mân là cháu đời thứ 46 của Khổng Tử, ẩn cư ở thành Trĩ Dương, núi Long Sơn thuộc huyện.
[Mân] Tính tình cô độc, trong sạch, thích đọc sách. Ông có mấy trăm mẫu ruộng, thường nộp thuế trước nhất trong làng. Gặp năm đói kém, ông chia phần dư thừa giúp người thiếu thốn, không bao giờ tính toán hơn thiệt. Nghe việc tốt của người khác, ông vui như chính mình làm được. Cử chỉ hành động đều tuân theo lễ pháp. Trong vòng trăm dặm quanh nơi ông ở, mọi người đều yêu mến kính trọng, gặp ông trên đường liền nhường lối tránh sang. Khi chôn cất cha, ông ở lều bên mộ ba năm, nằm trong quan tài hư, mỗi ngày chỉ ăn một dật gạo, trên vách tường mọc mấy chục cây nấm linh chi màu tím. Châu dâng tâu việc làm nghĩa của ông, nên có lệnh ban thưởng này, lại miễn thuế má cho nhà ông.
Kẻ trộm từng vào nhà của Mân, lấy đi lúa trong kho, Mân tránh đi, để mặc chúng lấy. Có lần gặp người yếu đuối bị cướp lấy của, Mân đuổi theo bọn cướp nói chuyện, lấy nghĩa mà trách, rồi lấy tiền cho chúng, bảo chúng trả lại của đã lấy.
Ở trên núi chưa từng gặp rắn độc, hổ báo, có người bảo: “Ông đừng đi đêm, những thứ này cũng đáng sợ.” Mân nói: “Không có lòng thì không có gì đáng sợ.” Tuổi già chỉ đọc sách 《Dịch》, 《Lão》[1], sách khác không đọc nữa. Vẽ bức đồ Thái Huyền trên tường, bên ngoài xếp các phương, châu, bộ, gia, còn giữa để trống không viết gì, nói: “Cái gọi là tịch nhiên bất động trong 《Dịch》, cũng không khác gì đây.”
[16] Ngày Mậu Thân, quan Tri gián viện là Vương Chí tâu: “Từ nay các quan lên điện, nếu nghe được lời dạy của bề trên, việc liên quan đến giáo hóa và lễ nhạc, hình chính, làm khuôn phép cho đời, đều nên chép đầy đủ, giao cho quan Tu khởi cư chú.” Vua nghe theo.
[17] Ngày Giáp Dần, xuống chiếu: “Từ nay đi sứ Khiết Đan, không được dùng thân thích của quan lại hai phủ. Về văn thần, chọn người có học vấn, tài năng, danh vọng; võ thần, phải là người thông hiểu thời vụ, từng trải qua chức vụ. Người dẫn đường cho sứ Tây Hạ cũng phải chọn sứ thần.” Theo lời của Ngự sử Hà Đàm.
[18] Ngày Bính Thìn, xuống chiếu tăng thụy hiệu cho Chân Tông là Ứng Phù Kê Cổ Thành Công Nhượng Đức Văn Minh Vũ Định Chương Thánh Nguyên Hiếu, theo nghị của Hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình.
[19] Hình bộ viên ngoại lang, Tri gián viện Ngô Đỉnh Thần làm sứ sinh thần của quốc mẫu nước Khiết Đan, Sùng nghi phó sứ Sài Di Khánh làm phó sứ[2]. Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý, Đồng tu khởi cư chú, Phán độ chi câu viện Hàn Tống làm sứ sinh thần nước Khiết Đan, Cung bị khố phó sứ Liễu Thiệp làm phó sứ. Hộ bộ phán quan, Hình bộ lang trung Thôi Dịch làm sứ chánh đán của quốc mẫu nước Khiết Đan, Nội điện sùng ban, Cáp môn chi hậu Thị Kỳ Diễn làm phó sứ. Diêm thiết phán quan, Ty huân viên ngoại lang Lưu Lập Chi làm sứ chánh đán nước Khiết Đan, Nội điện sùng ban Lý Trung Hữu làm phó sứ. Sau đó, lệnh Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu Hạ Thuyên thay thế Sài Di Khánh.
Lập Chi là con của Thức. Trung Hữu là con của Doãn Tắc.
[20] Giáng chức Quảng Tây kiềm hạt Cơ Uân làm Ung châu bản thành mã bộ quân đô chỉ huy sứ, vĩnh viễn không được bổ nhiệm lại. Chuyển vận ty tâu rằng Uân ở Liên châu để cho bộ hạ giết trâu bò của dân, và khi Tống Thủ Tín vào núi đánh giặc Dao, Uân trì hoãn không đến.
[21] Ngày Mậu Ngọ, đổi học sĩ điện Văn Minh thành học sĩ điện Tử Thần. Điện Văn Minh trong cung đã không còn, học sĩ từ thời Trình Vũ, Lý Phưởng về sau cũng không được bổ nhiệm, mà hai chữ “Văn Minh” lại trùng với thụy hiệu của Chân Tông, nên đổi. (Việc này dùng theo ý kiến của Tham tri chính sự Tống Tường.)
[22] Ban đầu, đặt chức Thiên Chương các Trực học sĩ, vị trí ở dưới Long Đồ các Trực học sĩ.
(《Thực lục》 vào tháng này, ngày Ất Sửu chép việc chia khu vực Hà Bắc, Đại Danh phủ, Chân Định phủ, Định châu, Cao Dương quan thành bốn lộ, mỗi lộ đặt một viên Đô bộ thự, hai viên Kiềm hạt, bốn viên Đô giám. Nếu không có việc gì, chỉ dùng An phủ sứ Hà Bắc để tổng chế các lộ, hoặc khi có cảnh báo, thì đặt Đô bộ thự Hành dinh bốn lộ tại Đại Danh, chọn người từng giữ chức ở hai phủ để đảm nhiệm. Xét vào tháng 4 năm thứ 8, ngày Tân Mão, lần đầu đặt chức An phủ sứ bốn lộ Hà Bắc, lệnh cho người giữ chức Tri phủ Đại Danh, Chân Định, Doanh châu, Định châu kiêm nhiệm. Lúc này chưa thực hiện, có lẽ Hạ Tủng đã đề xuất ý kiến này. Đến tháng 3 năm thứ 10, Tủng vào triều làm Xu mật sứ, Giả Xương Triều thay Tủng làm Phán quan Đại Danh. Tháng 8 năm đó, mới ban hành ý kiến của Tủng, lệnh cho Xương Triều xem xét kỹ lưỡng. Xương Triều xin làm theo ý kiến của Tủng, chiếu liền thi hành, thực tế là vào tháng 4 năm thứ 8.
《Thực lục》 nhầm lẫn việc ban hành ý kiến của Tủng là đã thi hành ngay, nên vào tháng 8 năm thứ 7 đã chép việc này trước, cùng với tháng 4 năm thứ 8 ghi chép lẫn nhau. Nay theo 《Bản chí》 ghi chép cả tháng 4 năm thứ 8, bỏ phần ghi chép trong 《Thực lục》 tháng 8 năm thứ 7. 《Hội yếu》 cũng giống 《Thực lục》, có lẽ 《Thực lục》 nhân theo 《Hội yếu》 mà sai lầm.)
[23] Ngày Bính Dần, triệu tập các quan cận thần đến điện Sùng Chính xem bản vị tôn hiệu của Chân Tông do Vua viết, Vua tự quỳ đặt, lạy hai lần rồi khóc. Lại xem các đồ tế tự mới làm cho giao miếu, dùng thước Cảnh Biểu để đo những chỗ chưa hợp quy chế, đều lệnh sửa lại.
[24] Thái thường lễ viện xin hoàng đế dâng tế trời đất[3] và vị thờ phối hưởng dùng chén bầu, lần dâng thứ hai dùng chén gỗ; khi tế tự thân hành ở Thái miếu, dùng chén ngọc để rót rượu, lần dâng thứ hai dùng chén vàng; khi uống rượu phúc ở giao miếu, hoàng đế đều dùng chén ngọc. Chiếu chỉ rằng chỉ dùng chén vàng để uống rượu phúc, lần dâng thứ hai và cuối cùng dùng chén bạc. (Việc này ghi chép phụ.)
[25] Ngày Đinh Mão, vì việc thêm tôn hiệu cho Chân Tông, lệnh Hàn lâm học sĩ Tiền Minh Dật tấu cáo ở Vĩnh Định lăng.
[26] Chiếu lệnh cho Ty tuần kiểm biên giới châu Bảo thuộc về lộ Định Châu, Ty giới hành các châu Hùng, Bá thuộc về lộ Cao Dương Quan. Việc phòng thủ của hai ty này giao cho các chủ tướng của từng lộ xử lý, đồng thời phân bố binh mã để kiểm soát và ngăn chặn giặc cướp, không để chúng xâm phạm.
[27] Tháng 9, Dương Cảnh Tông, quan sát sứ châu Trừ, tri châu Từ, được bổ nhiệm làm Lưu hậu quân Kiến Ninh, tri châu Lộ, đặc cách hưởng bổng lộc của Tiết độ sứ.
[28] Ngày Quý Dậu, Giả Xương Triều, An phủ sứ Hà Bắc tâu rằng từ nay việc của Ty tuần biên châu Bảo phải bàn bạc cùng tri châu, không được tự ý quyết định, triều đình đồng ý.
[29] Ngày Giáp Tuất, giáng chức Dẫn tiến sứ, Phòng ngự sứ châu Mi, tri châu Vị là Trương Kháng xuống làm Đoàn luyện sứ châu Quả, tri châu Từ. Lúc đó, Tam ty cấp thưởng lễ giao, vật phẩm trong kho châu tốt nhưng định giá thấp, còn vật phẩm do Tam ty cấp thì kém chất lượng nhưng định giá cao. Trương Kháng ra lệnh điều chỉnh giá trị để thuận tiện cho quân sĩ. Chuyển vận sứ tâu rằng Trương Kháng tự ý giảm giá định của Tam ty, Xu mật sứ Hạ Tủng vốn có hiềm khích cũ, nhân đó cách chức Trương Kháng. Ngự sử Tống Hi tiếp tục tâu rằng Trương Kháng từng dùng bạc trong kho để buôn bán, nên lại giáng xuống làm Hữu lĩnh quân Vệ đại tướng quân, tri châu Thọ.
(Việc Trương Kháng bị giáng chức lần thứ hai là vào ngày Ất Mão tháng 10, nay ghi chung lại.)
[30] Tam ty gửi đặc chi xuống châu Khánh, vật phẩm kém chất lượng nhưng định giá cao, trong quân có nhiều lời xầm xì, diễn viên nhân đó diễn trò đùa về việc này. Tri châu Tôn Miễn nói: “Đây là đặc ân của triều đình, sao dám nói bậy làm động lòng quân sĩ.” Rồi ra lệnh đuổi ra ngoài, định chém để răn đe. Các tướng tá tranh cãi, cho rằng đây chỉ là trò đùa, không đáng tội nặng. Tôn Miễn từ từ gọi lại, đánh bằng gậy và đày đi Lĩnh Nam, nói rằng: “Nhờ ngươi diễn trò trước mặt ta, nếu ngươi bàn tán riêng làm động lòng quân sĩ, ngươi sẽ chết, còn người tố cáo sẽ được thăng chức.”
Hôm sau cấp đặc chi, quân sĩ im lặng không dám xôn xao. Việc này không rõ thời gian, nay ghi chung. Sau khi Trương Kháng bị tội, Tôn Miễn vào tháng 3 năm đó từ Đô tào Hà Đông chuyển sang làm suý châu Khánh, lúc này chắc chắn đang ở châu Khánh. Tháng 5 năm Khánh Lịch thứ 4, Tôn Miễn từ châu Khánh chuyển sang châu Vị, sau đó lại trở về chức cũ. Tháng 8 năm thứ 5, lại chuyển sang châu Thiểm.
(Trong minh văn mộ chí của Vương Khuê ghi việc cấp đặc chi xảy ra vào thời gian Tôn Miễn còn làm tri châu Khánh, cần xem xét kỹ hơn.)
[31] Ngày Đinh Sửu, quan Phán Hình bộ Kim bộ Viên ngoại lang, Sùng Văn quán Kiểm thảo Tôn Du, Thái thường Bác sĩ, Bí các Hiệu lý Triều Trọng Diễn, đều bị cách chức; Đô quan Viên ngoại lang Cao Phú bị phạt đặc biệt 30 cân đồng. Ban đầu, Phú làm Giám đương ở Châu Định, thường vào ngày 19 tháng 2, cùng các quan trong châu ra lệnh cho quân sĩ tổ chức trò chơi xây đài, sau đó bị kết tội hơn 10 năm, mới đến Hình bộ xin minh oan. Tôn Du và những người khác vì thế dâng tấu biện hộ. Vua cho rằng ngày đó là ngày đại kỵ của Chân Tông, nổi giận và đặc biệt trách phạt.
Trọng Diễn là con của Tông Xác. Phú là người Trung Sơn.
[32] Ngày Mậu Dần, bãi bỏ yến tiệc mùa thu, vì lễ giao gần kề.
[33] Ngày Kỷ Mão, Chủ khách lang trung Vương Nghi được bổ nhiệm làm Đề điểm Hình ngục lộ Hà Bắc. Ngự sử Hà Đàm tâu rằng: “Vương Nghi trước đây đã được bổ nhiệm làm Đề hình Hà Bắc, lúc đó Đô chuyển vận sứ Trương Ôn Chi xin giảm bớt lương thực của các quân dưới quyền Tuần kiểm Bảo Châu, triều đình ra lệnh cho Đề hình ty xem xét. Vương Nghi không trình bày rõ lợi hại, chỉ cố gắng đồng tình với Ôn Chi, dẫn đến việc khơi mào loạn Bảo Châu. Triều đình thi hành hình phạt, giáng chức Ôn Chi và những người khác xuống làm quan nhỏ ở các châu. Hiện nay Ôn Chi và những người khác vẫn chưa rời khỏi nơi bị biếm, chỉ có Nghi được phục chức, điều này e rằng không công bằng trong việc thưởng phạt. Hơn nữa, tội của Nghi khác với những vi phạm thông thường của quan lại, nếu lại được trọng dụng, sẽ không thể răn đe những kẻ gây rối loạn.
Thêm vào đó, Nghi gần đây còn mượn danh thần linh, xin mở ruộng vuông ở Hà Bắc, việc này gây hại lớn cho dân. Triều đình không biết sự lừa dối của ông ta, liền cho thi hành, chỉ gây thêm phiền nhiễu, cuối cùng việc không thành. Các quan lại ở quận huyện Hà Bắc vì thương dân nên đều không thi hành. Nay ông ta đã nhận chức ở lộ này, chắc chắn sẽ lợi dụng việc trước để gây hiềm khích, tìm cách hãm hại thuộc hạ, hoặc ỷ thế quyền hành, lại thi hành việc ruộng vuông để tiếp tục sai lầm trước, khiến vùng Hà Sóc từ đây sẽ bất ổn. Xin bệ hạ đặc biệt ban chỉ, thu hồi mệnh lệnh trước, cho ông ta làm Tri châu một nơi nhỏ. Mong rằng sẽ loại bỏ kẻ gian dối, không để gây họa cho một phương.”
Bảy ngày sau, đổi mệnh cho Từ bộ viên ngoại lang Điền Kinh làm Đề điểm Hình ngục lộ Hà Bắc[4], còn Nghi được điều sang chức khác.
[34] Ngày Canh Thìn, giáng chức Tân Đề điểm Hình ngục lộ Lợi Châu, Thái thường bác sĩ Trương Túc xuống làm Tri châu Nhạc Châu. Túc bị tội vì trước đây làm Chuyển vận sứ Quảng Đông, mua bán quá mức trong khu vực mình quản lý.
[35] Lạc uyển sứ, Gia Châu đoàn luyện sứ Triệu Tòng Ước dâng lên các tác phẩm ngự chế của Thái Tông và bia ký về tổ tiên ông là Triệu Phổ. Ngày Bính Tuất, phong thêm cho Tòng Ước chức Mi Châu phòng ngự sứ.
[36] Ngày Quý Tỵ, lấy Bắc trạch làm Quảng Thân trạch. Trước đó, Vua thấy con cháu Tần vương đông đúc mà chỗ ở chật hẹp[5], bèn sai sửa sang phủ cũ của Vương Khâm Nhược để mở rộng thêm. Từ Quốc công Thừa Giản tâu với Vua rằng: “Bệ hạ yêu thương tông thất, không phân biệt thân sơ, đã xây dựng Mục Thân trạch, cũng mong được một cái tên đẹp để đặt cho phủ của Tần vương.” Vua bèn ban tên như hiện nay.
[37] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu san định sắc lệnh của một châu một huyện.
[38] Ngày Mậu Tuất, sai quan tạ ơn trời tạnh.
[39] Ngày Canh Tý, dời chợ biên giới ở Bảo An quân đến Thuận Ninh trại. Bảo An vốn có chợ biên giới, từ khi Nguyên Hạo phản loạn rồi lại xin hòa, nhiều lần sai sứ đến xin mở thêm, triều đình bèn đặt chợ biên giới ở Bảo An và Trấn Nhung quân. Đến nay, lại nói rằng đưa ngựa và dê đến không có chỗ chăn thả, nên cho phép dời chợ Bảo An đến nơi khác, nhưng thương nhân ngoại quốc cuối cùng vẫn không đến.
[40] Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm Dần mùng một, Công bộ Lang trung, Tập Hiền điện Tu soạn Trương Quỹ được làm Thiên Chương các Đãi chế kiêm Thị độc. Quỹ dâng sách Thái Huyền tập giải của mình, được triệu đến điện Diên Hòa, sai bói cỏ thi, được quẻ Đoạn Thủ, lại nói rằng quẻ Đoạn Thủ ứng với quẻ Quái trong Kinh Dịch, tức là dương cương quyết đoán âm nhu, tượng trưng cho quân tử tiến lên, tiểu nhân lui xuống. Vua vui mừng, nên có lệnh này. Quỹ là anh của Diễm.
[41] Ngày Mậu Thân, Tây Phiên Ma Chiên Giác sai sứ đến cống vật phẩm địa phương.
[42] Thái tử Thái phó trí sĩ Lý Địch đã về quê ở Bộc Châu, con trai ông là Giản Chi làm Thị ngự sử Tri tạp sự, đưa Địch đến kinh sư. Vua nhiều lần sai sứ đến thăm hỏi, muốn triệu kiến, nhưng Địch lấy cớ bệnh yếu từ chối. Nhâm Tý, Địch mất, được tặng chức Tư không, Thị trung, thụy là Văn Định. Vua tự tay viết bia mộ của ông là “Di Trực chi bi”, lại đổi tên làng Đặng ở huyện Quyên Thành, nơi Địch an táng, thành làng Di Trực.
[43] Ngày Canh Tuất, Tam ty tâu: “Theo chiếu chỉ, từ nay về sau, mỗi khi có truyền tuyên và chỉ huy từ trong cung, phải đợi tâu mặt xong mới được thi hành. Vì có những việc khẩn cấp cần ứng phó ngay, sợ không kịp tâu mặt, cũng có những việc thể lệ rõ ràng. Nay xét thấy, trừ những việc thu nộp tiền của và sinh sự, phải đợi tâu mặt mới thi hành, còn những việc thể lệ rõ ràng và khẩn cấp, xin được như cũ, thực phong phúc tấu.” Được chấp thuận.
[44] Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu cho Phán Đại Danh phủ Giả Xương Triều, Phán Bân Châu Trình Lâm, Tri Tần Châu Lương Thích, Tri Vĩnh Hưng quân Diệp Thanh Thần, Tri Vị Châu Điền Huống, mỗi người tiến cử một quan kinh triều để đổi sang chức võ.
[45] Ngày Giáp Tý, đến Quảng Thân trạch, bái yết Thái Tổ, Thái Tông thần ngự điện, yến tiệc tông thất, ban cấp khí tệ có thứ bậc.
[46] Ngày Ất Sửu, Mạnh Châu, Hứa Châu xảy ra động đất.
[47] Ngày Bính Dần, xuống chiếu cho các phụ thần đến Ngự dược viện xem bảng đề bảy thất ở Thái miếu.
[48] Tháng 11, ngày Tân Mùi mùng một, Phán Đại Danh phủ Giả Xương Triều, Hà Bắc chuyển vận sứ Hoàng Phủ Bí, xin chiêu mộ người ở tám châu quân Thiền, Bối, Đức, Bác, Thương, Đại Danh, Thông Lợi, Vĩnh Tĩnh nộp vật liệu tu sửa sông ngòi, theo thứ bậc ban ân trạch. Được chấp thuận. Xuống chiếu cho Khai Phong phủ, Hà Bắc, Kinh Đông, Kinh Tây chuyển vận ty phổ biến cáo dụ.
[49] Ngày Bính Tý, xuống chiếu cho các lộ Kiềm hạt, Đô giám ở Hà Bắc, mỗi khi đến mùa thu đông, phân chia đến các châu quân để đề cử việc dạy và duyệt binh[6].
[50] Ngày Kỷ Mão, truy phục chức cũ cho Tiền Duy Diễn, nguyên là Sùng Tín tiết độ sứ, làm Thái Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự.
[51] Ngày Nhâm Ngọ, giặc Dao ở Hồ Nam đã dẹp yên.
[52] Ngày Giáp Thân, giáng chức Binh bộ viên ngoại lang Trương Chú làm Thông phán Thái Bình châu. Trước đây, Chú làm Kinh Đông chuyển vận sứ, có người tố cáo Khổng Trực Ôn mưu phản, Chú nghi ngờ là vu cáo, bỏ qua không xét. Sau khi Trực Ôn bị giết, Ngự sử Hà Đàm tâu rằng Chú không thể tha, nên có lệnh này.
(Việc của Lữ Cư Giản xảy ra vào tháng 11 năm thứ 5, có thể tra cứu.)
[53] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu rằng các châu quân không phải ở vùng biên giới, không được dùng tiền công sứ để buôn bán.
[54] Ngày Ất Mùi, truy tôn thụy hiệu cho Chân Tông.
[55] Ngày Bính Thân, triều đình làm lễ tế tại cung Cảnh Linh.
[56] Ngày Đinh Dậu, làm lễ tế tại Thái Miếu và Phụng Từ Miếu.
[57] Ngày Mậu Tuất, tế trời đất tại đàn Viên Khâu, đại xá thiên hạ.
[58] Cùng ngày, tên lính Tuyên Nghị ở Bối Châu là Vương Tắc chiếm thành làm phản.
Tắc vốn là người Trác Châu, vì năm đói kém nên lưu lạc đến Bối Châu, tự bán thân làm kẻ chăn dê, sau gia nhập quân Tuyên Nghị làm tiểu hiệu. Ở Bối Châu và Ký Châu có tục mê tín dị đoan, người dân thường học các kinh sách như 《Ngũ Long Trích Lệ》 cùng các sách đồ sấm, nói rằng Phật Thích Ca đã suy tàn, Phật Di Lặc sẽ trị vì thế gian.
Trước đây, khi Tắc rời Trác Châu, mẹ ông ta đã từ biệt và khắc chữ “Phúc” trên lưng làm dấu, bọn người mê tín bèn đồn đại rằng chữ “Phúc” nổi lên kỳ lạ, mọi người tranh nhau tin theo. Bọn lại dịch trong châu là Trương Loan và Bốc Cát chủ mưu, kết nối với các châu Đức, Tề, định ngày mùng một Tết năm sau sẽ chặt cầu phao ở Thiền Châu, gây loạn ở Hà Bắc.
Khi ấy, tên đồng đảng là Phan Phương Tịnh mang dao và thư đến yết kiến Lưu thủ Bắc Kinh là Giả Xương Triều, việc bại lộ nên bị bắt, bọn chúng không đợi đến kỳ hạn đã vội làm phản. Lúc đó, Tri châu Trương Đắc Nhất đang cùng các quan thuộc đến chùa Thiên Khánh, Tắc liền dẫn đồ đảng cướp vũ khí trong kho, Đắc Nhất chạy về cố thủ ở doanh Kiêu Tiệp.
Giặc đốt cửa, bắt Đắc Nhất và giam lại. Đô giám Binh mã là Điền Bân dẫn quân đánh nhau với giặc trong ngõ, không thắng nên phải rút lui. Cửa thành đóng chặt, Đề điểm Hình ngục là Điền Kinh và Nhậm Hoàng Thường cầm ấn bỏ nhà trèo tường ra ngoài, về giữ Nam Quan.
Giặc đến đòi Thông phán Đổng Nguyên Hanh giao chìa khóa kho quân dụng, Nguyên Hanh cự tuyệt nên bị giết. Giặc còn thả hết tù nhân, trong số đó có kẻ oán hận Ty Lý Tham quân là Vương Tưởng nên giết luôn Tưởng. Sau đó, Tiết độ Phán quan là Lý Hạo, Huyện lệnh Thanh Hà là Tề Khai, Chủ bạ là Vương Dịch đều bị hại.
Vương Tắc tiếm xưng hiệu Đông Bình quận vương, lấy Trương Loan làm Tể tướng, Bốc Cát làm Xu mật sứ, đặt quốc hiệu là An Dương[7], treo bảng ở cửa nơi ở ghi là Trung Kinh, đặt tên hiệu cho nhà ở, chuồng ngựa và kho tàng, đổi niên hiệu là Đắc Thánh[8], lấy tháng 12 làm tháng giêng. Dân chúng từ 12 tuổi trở lên đến 70 tuổi đều xăm lên mặt chữ “Nghĩa quân phá Triệu đắc thắng”. Cờ xí và hiệu lệnh đều lấy Phật làm biểu tượng. Trong thành, mỗi lầu được coi là một châu, ghi tên châu, bổ nhiệm đồ đảng làm Tri châu, mỗi mặt thành đặt một Tổng quản. Tuy nhiên, người trốn xuống thành ngày càng nhiều, nên ra lệnh cho quân canh giữ lập thành từng nhóm năm người, nếu một người trốn thì cả nhóm đều bị chém.
Ban đầu, biến loạn xảy ra đột ngột, mọi người không biết phải làm gì, Nguyên Hanh từ Thiên Khánh Quán thúc ngựa chạy về ngồi ở sảnh đường, hơn mười tên đảng tặc mặc giáp, cầm gươm xông vào, tả hữu đều bỏ chạy tan tác. Tặc đe dọa Nguyên Hanh: “Đại vương sai ta đến lấy chìa khóa kho.” Nguyên Hanh ngồi ở bàn lớn tiếng quát: “Đại vương là ai? Bọn yêu tặc dám cầm vũ khí sao! Ta chỉ có chết thôi, chìa khóa không thể lấy được.” Tên tướng giặc là Hác Dụng đến sau, đòi hỏi càng gấp, nói: “Kho tàng ngày nay là của Đại vương, sao không giao chìa khóa?” Nguyên Hanh giận dữ trợn mắt mắng tặc, Hác Dụng liền giết ông, bọn tặc tranh nhau cầm chìa khóa bỏ đi.
Khi thành bị phá, bắt được Hác Dụng, chém đầu để tế Nguyên Hanh. Nguyên Hanh là người Thúc Lộc.
Giả Xương Triều sai Đại Danh phủ Kiềm hạt, Nội điện Thừa chế Hác Chất đem quân đến Bối Châu.
[59] Tháng mười hai, ngày Tân Sửu mùng một, Giả Xương Triều dâng thư báo việc châu Bối làm phản. Trong cung ban tờ chiếu xuống Trung thư, Xu mật viện, lập tức chọn tướng lãnh đi dẹp loạn, lại lệnh các châu Thiền, châu Mạnh, châu Định và phủ Chân Định sắp đặt phòng bị, không để giặc chạy thoát. Sứ Khiết Đan đến chúc mừng ngày chính đán, nên đi đường khác đến kinh sư.
[60] Ngày Nhâm Dần, sai Cung uyển sứ, Tượng châu Đoàn luyện sứ, Nhập nội Áp ban Mạch Doãn Ngôn và Tây kinh Tác phường sứ, Tư châu Đoàn luyện sứ Vương Khải đến châu Bối bắt giết quân phản loạn, lại hạ chiếu cho Giả Xương Triều phát binh tinh nhuệ hộ vệ.
Cao Dương quan Đô bộ thự, Mã quân Đô ngu hậu, Tượng châu Phòng ngự sứ Vương Tín nghe tin châu Bối nổi loạn, lập tức dẫn quân bản lộ đến dưới thành. Ngày Giáp Thìn, lấy Vương Tín làm Đô bộ thự chiêu tróc dưới thành châu Bối.
[61] Ngày Bính Ngọ, Hà Bắc Chuyển vận sứ tâu rằng quân dân châu Bối đầu hàng hơn sáu trăm người. Hạ chiếu cho Vương Tín rằng những người trong quân doanh ở trong thành quan mà theo làm loạn, thì bắt giam gia quyến; còn những người không theo làm loạn, thì thường xuyên khuyên bảo, đừng để họ lo sợ.
Đêm đó, có ngôi sao lớn như cái vò, rơi xuống trong thành giặc.
[62] Ngày Đinh Mùi, hạ chiếu: “Quân mã các đạo đã tập hợp dưới thành châu Bối, lệnh cho Vương Tín, Mạch Doãn Ngôn, Vương Khải, Hác Chất lập tức tiến đánh. Các Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục quan không được tham gia việc đánh dẹp.”
[63] Ngày Mậu Thân, ban ơn cho trăm quan, Xu mật sứ Vương Di Vĩnh được phong tước Toại Quốc công, Hạ Tủng tước Anh Quốc công, Trấn An tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Chương Đắc Tượng tước Hoàn Quốc công, Bảo Tĩnh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Vương Đức Dụng tước Kỳ Quốc công.
Theo chế độ cũ, tướng tướng có thực ấp một vạn hộ thì được phong tước Quốc công. Vương Đán làm tướng, vượt quá một vạn hộ, nhưng khiêm tốn không nhận phong. Năm nay nhân dịp tế Nam Giao, trong ngoài chỉ có Hạ Tủng đủ một vạn hộ, Trung thư xin phong tước Anh Quốc. Nhân đó ban chiếu cho các tiết độ sứ kiêm Đồng bình chương sự chưa đủ một vạn hộ đều được phong tước, do đó Vương Di Vĩnh, Chương Đắc Tượng, Vương Đức Dụng đều được phong tước Quốc công, từ đó về sau những người có thực ấp hợp lại đủ một vạn hộ đều được phong tước Quốc công.
[64] Ngày Canh Tuất, Quyền tri Khai Phong phủ, Xu mật trực học sĩ, Tả gián nghị đại phu Minh Hạo được cử làm Hà Bắc thể lượng an phủ sứ.
[65] Ngày Nhâm Tý, ban chiếu: “Nghe nói dân quân từ Bối Châu đến đầu hàng, nhiều người bị giết để lập công. Nay lệnh cho Giả Xương Triều, Vương Tín nghiêm khắc răn dạy, ai vi phạm sẽ bị xử theo quân pháp.”
[66] Ngày Quý Sửu, ban chiếu: Ai ở Bối Châu có thể dùng dây thừng dẫn quân quan chiếm được thành sẽ được phong chức Chư vệ Thượng tướng quân, thưởng hai ngàn quan tiền.
[67] Tri Vận Châu Hàn Kỳ được điều đến Thành Đức quân.
[68] Ngày Giáp Dần, Tri Thương Châu, Tây thượng các môn sứ, Vinh Châu thứ sử Cao Kế Long được bổ làm Đông thượng các môn sứ, Tri Bối Châu.
[69] Ban chiếu: Từ nay, các chức Binh mã đô giám ở sáu huyện Trần Lưu, Ung Khâu, Tương Ấp, Uý Thị, Hàm Bình, Dương Vũ sẽ do Khai Phong phủ và Phủ giới đề điểm ty cử các Các môn chi hậu từng có kinh nghiệm ngoại nhiệm đảm nhiệm.
[70] Cử nội thị Hà Thành Dụng mang sắc bảng đi chiêu an quân tặc ở Bối Châu. Ngự sử trung thừa Cao Nhược Nột tâu: “Hà Sóc là nơi tập trung trọng binh, nay bỏ Bối Châu không đánh, sau này sẽ mở đường cho loạn lạc, bị nước địch cười chê.” Không nghe theo.
[71] Ngày Đinh Tỵ, ban thưởng tiền đặc biệt cho quân sĩ dưới thành Bối Châu.
[72] Ngày Ất Sửu, Quốc mẫu nước Khiết Đan cử An Phúc quân lưu hậu Gia Luật Thọ, Tây thượng các môn sứ Trịnh Toàn Tiết, nước Khiết Đan cử Tả thiên ngưu vệ Thượng tướng quân Gia Luật Phòng, Hữu gián nghị đại phu Tri chế cáo Hàn Huýnh đến chúc mừng ngày Chính đán.
[73] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu rằng từ nay trong các kỳ thi võ cử nhân không được hỏi về sách cấm như 《Âm Phù》[9].
[74] Tri gián viện Vương Chí tâu rằng, theo lệ thì gián quan không được giao du với các quan khác, nay xin trừ hai phủ không được đến yết kiến ra, còn các quan hai chế đều cho phép qua lại, Vua đồng ý.
(Không rõ ngày, nay phụ vào cuối tháng, theo 《Hội yếu》 là việc tháng 12.)
[75] Trong lễ Nam Giao năm Cảnh Hữu, Lễ nghi sứ tâu: “Theo chiếu năm Thiên Thánh thứ 5, Lễ nghi viện tâu rằng, nếu Tể thần, Tham tri chính sự đảm nhiệm việc tế tự ở tông miếu mà có tang chế, thì tâu xin đổi người khác, thường gây trở ngại. Lễ viện kiểm tra, theo luật thì nếu có tang chế từ Ti ma trở lên mà vẫn sai làm việc, thì bị đánh 50 roi, người đi theo bị đánh 30 roi. Đây là quy định từ đầu đời Đường. Năm Trinh Nguyên thứ 6, Lại bộ xin rằng, nếu có tang chế đã chôn cất và được miễn tang, hoặc hết thời gian nghỉ tang, thì cho phép mặc áo lành dự lễ tế ở tông miếu. Nếu trong cung có tang chưa chôn, dù đã được miễn tang, vẫn cấm như trước. Theo chiếu, các quan có tang riêng đã được miễn tang thì được dự lễ tế ở tông miếu. Sau đó, Vương Kinh viết trong 《Giao tự lục》 rằng đây là việc tạm thời, không phải điển cố cũ.
Lại không có chiếu chỉ nào thay đổi, nên các đời vẫn thi hành. Đến niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Tường định sở xin theo 《Giao tự lục》, người có tang chế từ Ti ma trở lên không được dự lễ tế ở tông miếu, chiếu lúc đó đồng ý. Từ đó, người có tang chế từ Ti ma trở lên, dù đã được miễn tang, cũng không được sai dự lễ tế ở tông miếu. Xét kỹ lời xin của Lại bộ đời Đường, chứng cứ rất rõ. Lời Vương Kinh nói không có điển cố gì, xin theo chiếu thư năm Trinh Nguyên để chuẩn bị quan tế.”
[76] Năm đó, Lễ quan Thiệu Tất tâu: “Xưa kia, bề tôi chưa từng nghe nói có người đang để tang cha mẹ mà lại tham gia vào các đại lễ quốc gia. Theo chế độ hiện nay, chỉ cấm không được vào tông miếu, còn như đàn Nam Giao, cung Cảnh Linh đều cho phép hành lễ. Đời Đường, Kim Ngô tướng quân Trầm Phòng có tang em, sau khi hết tang, mặc áo tang vào cửa Nội Các, Vua hỏi tể tướng Đổng Tấn, đối đáp rằng có quy định, quan trong triều có tang từ hàng Chu trở xuống thì cấm mặc áo tang vào chầu. Như vậy, thời đó, tang từ hàng Chu trở xuống, dù đã hết tang, vẫn còn mặc áo tang, đến nay mới cấm. Cho nên, Lại bộ trước đây xin cho những người mặc áo tang đã chôn cất xong và hết tang, là chỉ áp dụng với tang từ hàng Chu trở xuống. Trước sau nối tiếp nhau, hiểu lầm rằng tang ba năm được mặc áo lành để tham gia tế lễ, sai lầm rất lớn.
Lại căn cứ vào luật, những người có tang từ hàng Ti Ma trở lên thì không được tham gia tế lễ ở tông miếu, còn tế trời đất, xã tắc thì không cấm. Điều này là do người đời Đường định luật không hiểu rõ ý kinh điển. 《Vương chế》 nói: ‘Để tang ba năm không tế lễ, chỉ tế trời đất, xã tắc, vượt qua dây tang mà hành lễ.’ Chú thích: ‘Không dám vì việc riêng mà bỏ việc tôn quý.’ Đây là nói Vua không dám vì tang cha mẹ mà bỏ tế trời đất, xã tắc, chứ không phải nói bề tôi có tang cha mẹ mà được tham gia tế trời đất, xã tắc. Hơn nữa, luật không cấm, cũng chỉ áp dụng với tang từ hàng Ti Ma trở lên, từ hàng Chu trở xuống. Đàn Nam Giao, Thái Miếu là lễ lành, ý nghĩa phụng thừa, không thể có lễ khác. Nay người đang để tang cha mẹ không được vào Thái Miếu, còn đàn Nam Giao thì càng quan trọng hơn.
Triều đình mỗi khi có đại lễ, các quan tham gia tế lễ đều được ban thưởng, để người đang để tang được tham gia tế lễ, là không muốn ân huệ không đến được với mọi người, sao lại vì chút ân huệ nhỏ mà làm tổn hại đại lễ? Những năm gần đây, quan chức từ Lưỡng chế trở lên đều được phép để tang đủ ba năm, chỉ có võ quan vẫn theo chế độ cũ, đó cũng là lấy ý xưa mặc áo tang mà làm việc, không tránh việc binh đao. Nhưng đối với lễ Giao Xã là lễ lành thì không thể.”
Hạ lệnh cho Lễ viện bàn: “Lễ Giao Tự là việc trọng đại của quốc gia, các cơ quan liên quan cùng làm việc, chỉ cần tập hợp đủ người. Nếu quan lại đang để tang bị triệu tập mà không tham gia, thì có thể gây trở ngại. Chỉ cần không để người mặc áo tang đứng vào hàng tế lễ, thì cũng có thể tiến hành. Xin theo 《Thái Thường tân lễ》, tông thất và quan văn võ đang để tang bị triệu tập hoặc đã hết tang mà vào chầu, gặp đại triều hội thì được miễn. Nếu là lễ Giao Tự, chỉ không được vào tông miếu. Còn đàn Giao Tự và cung Cảnh Linh, thì được tạm mặc áo lành đứng vào hàng, hoặc cử người thay thế.” Chiếu chuẩn.
[77] Tam ty sứ Trương Phương Bình tâu: (Từ tháng 6 năm Khánh Lịch thứ 2 đến tháng 6 năm Khánh Lịch thứ 7, tổng cộng 5 năm, Phương Bình trong sớ nói chưa đủ 5 năm, thì sớ này chắc chắn phải dâng lên trước tháng 6, nay phụ chép vào cuối năm.)
“Khám xét việc dùng binh ở Thiểm Tây từ trước đến nay, trong ngoài đều tăng thêm cấm quân hơn 860 chỉ huy, ước tính hơn 40 vạn người, tính cả nhân viên và quân thường trực, theo mức trung bình, mỗi người khoảng tiền lương 500 quan, lương tháng 2 thạch 5 đấu, áo xuân đông 6 tấm lụa, 12 lạng bông, tiền may áo 3.000 quan. Tính mỗi năm chi tiền lương 2.400.000 quan, lương thực 12.000.000 thạch, theo lệ chiết khấu 6 phần, gạo tính 7.200.000 thạch, lụa 2.400.000 tấm, bông 4.800.000 lạng, tiền may áo 1.200.000 quan.
Mỗi lần ban thưởng Nam Giao là 6.000.000 quan. Trong đó, mã quân hơn 120 chỉ huy, nếu số ngựa đủ, tính hơn 60.000 con, mỗi năm chi cỏ 15.120.000 bó, thức ăn 1.512.000 thạch. Các chỉ huy thuộc ba lộ Bảo Tiệp, Chấn Vũ, Tuyên Nghị, Vũ Vệ, Thanh Biên, Phiên Lạc cùng quân bản đạo, liên doanh cấp dưỡng ước hơn 20 vạn người, so với quân đồn trú phòng thủ tương đương 40 vạn người. Tài chính bản đạo không đủ chi dùng, chiêu mộ thương nhân nộp lương thảo, độ chi cấp trả tiền bạc, tăng giá theo lệ gấp ba lần, trà, muối, phèn vì thế mà rẻ, lợi nhuận thất thoát, tệ hại đều về quan.
Lại từ năm Khánh Lịch thứ 3 về sau, tăng thêm cấp phát ngân lụa cho tây bắc, quan lại văn võ trong ngoài ngày càng nhiều, vì thế Tam Ty kinh phí không đủ. Tháng 6 năm Khánh Lịch thứ 2, được ân đặc biệt ban thưởng 1.000.000 lạng bạc, 2.000.000 tấm lụa từ nội tàng, lại miễn hết các khoản nợ tiền bạc nội khố trước đây. Tháng 8 năm Khánh Lịch thứ 2, lại được ân ban thưởng 3.000.000 tấm lụa từ nội tàng[10]. Căn cứ vào số bạc lụa 6.000.000 tấm, lạng[11], trị giá 12.000.000 quan.
Năm Khánh Lịch thứ 5, lại ban thưởng 110.000 đồng tiền đồng lớn đúc ở Giang Nam, tương đương 1.100.000 quan tiền nhỏ. Đến nay chưa đầy 5 năm, chi phí thêm vào đã hết, mỗi năm thường dùng gần 3.000.000 quan bạc lụa từ nội tàng để hỗ trợ kinh phí Tam Ty, lại phải điều động tiền bạc các lộ ứng phó mới đủ. Hiện nay kho tàng các châu phủ bên ngoài đã khai thác hết, không biết nội tàng tích trữ được bao nhiêu, có đủ chi dùng sau này không?
Lợi từ núi rừng trong thiên hạ, thuế trà, muối, rượu và các loại thuế khác, so với triều đại trước, đều tăng thêm rất nhiều, có thể nói là không còn lợi nhuận nào bị bỏ sót. Nếu căn cứ vào sự rộng lớn của quốc gia, số thu nhập hàng năm, từ xưa đến nay chưa từng có nhiều như vậy. Nhưng việc điều phối của các cơ quan, đều thấy thiếu hụt, chỉ vì chi phí quá nhiều, không tính toán thu chi hợp lý mà thôi.
Việc cấp bách hiện nay, không gì quan trọng hơn việc lương thực và hàng hóa. Nếu lương thực và hàng hóa không đủ, thì làm sao có thể xây dựng đất nước? Xưa kia, từ sau loạn Thiên Bảo đời Đường, dưới thời Túc Tông và Đại Tông, quân cấm vệ thiếu lương, dân chúng ở kinh kỳ phải tuốt lúa để cung cấp lương thực cho quân đội, leo lên cổng thành để mong chờ cống phẩm đến[12], triều đình lâm vào cảnh nguy ngập.
Tuy nhiên, khi hoạn nạn qua đi, quân đội có lúc được giải ngũ, quân giải ngũ thì sức dân được giảm bớt. Hiện nay, số quân cấm vệ đăng ký không dưới một triệu người, ngồi ăn không, không có ngày giải ngũ. Trong bảy tám năm[13], thiên hạ đã khốn đốn, nhưng trong ngoài vẫn thản nhiên, không biết tìm cách cứu vãn.
Xin nêu một việc để làm ví dụ, thì những việc khác có thể suy ra tương tự. Năm Cảnh Hữu[14], thiên hạ mua trước lụa là một trăm chín mươi vạn tấm, năm ngoái lên đến ba trăm vạn tấm, các lộ chuyển vận ty đều kêu ca, nhưng các cơ quan không biết làm thế nào. Những người bàn luận chỉ biết pháp luật về thuế trà, muối có nhiều tệ nạn, mà không biết nguyên nhân của những tệ nạn đó.
Thần xét kỹ nguyên nhân, thực ra pháp luật không có tệ, mà là do tình thế khiến như vậy. Nếu có chính sách đặt quân, thì chi phí biên giới có thể tiết kiệm, chi phí biên giới tiết kiệm, thì những kẻ tham lam không thể lợi dụng thời cơ để xâm phạm quyền lợi, sau đó các cơ quan mới có thể kiểm soát được mức độ nặng nhẹ.
Thần vốn bất tài, lại đảm nhận việc lớn, lo lắng đến mức lòng như lửa đốt. Xét các lợi hại, đến tận gốc rễ, thì việc điều động, co duỗi đều thuộc về hai phủ, không phải việc của các cơ quan. Kính xin trình bày đại lược, xin hạ lệnh cho Trung thư, Xu mật viện xem xét kỹ lưỡng, quyết định theo ý chỉ của Thánh thượng, thay đổi và thông suốt, để đảm bảo cuộc sống của dân chúng, đó là con đường thích hợp để trị quốc.”
Lại tâu:
“Thần trước đây từng ước tính sổ sách thu chi tài lợi trong thiên hạ, biết rằng nguyên nhân thiên hạ khốn khổ là do binh lính, bèn xem xét hồ sơ từ sau niên hiệu Bảo Nguyên, Khánh Lịch, việc tăng thêm cấm quân trong ngoài, số tiền bạc, lương thực cấp hàng năm, xin triều đình bàn bạc việc này, có biện pháp nới lỏng hay siết chặt.
Kính nghĩ: Thái Tổ hoàng đế lấy Kinh, Đàm, thu phục Thục, Quảng Nam, Giang Nam, phòng bị giặc Tấn, chống lại Tây Nhung, Bắc địch, tính số binh lính nuôi dưỡng không quá mười lăm vạn. Thái Tông hoàng đế bình định Thái Nguyên, phòng bị giặc Thiên, chống lại Bắc địch, tuyển chọn quân đội, tăng cường vũ bị, chí hướng thu phục Yên Kế, nhưng số binh lính nuôi dưỡng cũng không quá bốn mươi vạn.
Tiên hoàng niên hiệu Hàm Bình, phòng bị giặc Thiên, chống lại Bắc địch, chiêu mộ chiến sĩ đến hơn năm mươi vạn người. Đến khi Khiết Đan xin hòa, sau niên hiệu Tường Phù, dần dần giảm bớt, bãi bỏ đất chăn nuôi ngựa cấp cho dân cày, biên tướng chiếm giữ binh lính để tự củng cố đều bị bãi bỏ, đến niên hiệu Bảo Nguyên, gần bốn mươi năm, có thể nói là yên ổn[15].
Trước đây vì Hạ Nhung chống lại mệnh lệnh, bắt đầu ghi danh dân binh, sau đó ra lệnh xăm trán để bổ sung vào quân ngũ, bèn tăng thêm các quân Bảo Tiệp, Vũ Vệ, Tuyên Nghị ở Thiểm Tây, Hà Bắc, Kinh Đông Tây, rồi lại đặt quân Tuyên Nghị ở Giang, Hoài, Kinh Hồ, Phúc Kiến, tổng cộng tăng thêm cấm quân trong ngoài khoảng bốn mươi hai vạn người, cùng với quân cũ ba triều gần một triệu, hương quân nghĩa dũng, châu quận sương quân, các quân tiểu phân thặng viên không tính vào số đó. Quân lính trong doanh trại ngày càng tăng, dân cày ngày càng giảm.
Bảy năm gần đây, sức dân cực kỳ khốn khổ, dân cày dệt vải trong thiên hạ không đủ cung cấp cơm áo, tài nguyên của dân đã cạn kiệt, kho tàng của quốc gia trống rỗng. Những binh lính thừa này quen với sự khoan dung[16], dần trở nên kiêu căng, ngày càng trở thành mối họa. Thế mà trên dưới vẫn thản nhiên, không nghĩ cách cứu vãn, chỉ sợ chiêu mộ không được nhiều.
Vả lại, Thái Tổ huấn luyện mười vạn quân để định thiên hạ, nay lấy một trăm vạn quân làm ít, điều này không có gì khác, chỉ là mỗi người đều lo cho sự an toàn của bản thân, không nghĩ đến kế lâu dài. Kẻ chỉ lo cho bản thân là mưu kế của bề tôi, còn kế lâu dài là kế sách quốc gia của bệ hạ. Nay những nhà buôn bán nhỏ còn lo lắng chuẩn bị từng đấu gạo, há có kế sách không lâu dài mà có thể bảo vệ thiên hạ được sao? Mấy năm gần đây, ba lộ nhập trung lương thảo, độ chi cấp hoàn giá tiền thường lên đến một nghìn vạn quan, chi phí biên giới như vậy, làm sao chống đỡ nổi?
Thần so sánh đại kế hiện nay, thêm một trăm vạn cũng không có lợi, bớt một trăm vạn cũng không tổn hại. Nhưng gần đây bán chức quan, sáu nghìn quan thì được làm bạ uý, một vạn quan thì được làm điện trực, các chức quan giám quản trường vụ, căn cứ vào khóa trình để lập thưởng cách, thu lợi đến hai ba nghìn quan thì được thăng chức, biết được số lượng quan chức bán và thăng chức, có thể cung cấp chi phí lương thảo một năm cho ba lộ, đó gọi là gom nhặt từng chút nhỏ để cung cấp cho nơi tiêu hao lớn. Những kẻ nông cạn lại nói đến việc tìm kiếm lợi ích còn sót để bổ sung kinh phí, thật là vô ích. Bởi vì sự thịnh suy của tài chính, sự an nguy của thời cuộc, đều phụ thuộc vào quân đội mà thôi. Trước niên hiệu Cảnh Hữu, quân đội có năm mươi vạn, tài chính của tam ty không còn dư, đến nay tăng gấp đôi, thì làm sao có thể đủ?
Thần gần đây ước tính chi phí trong kinh năm nay, trước đã trình lên, chỉ là dựa vào chi phí thường lệ, điều chỉnh linh hoạt, may mà có sự chuẩn bị. Nếu từ đây về sau, lại thêm vào những khoản chi tiêu không cần thiết, cộng thêm nạn đói kém, dù có người tài trí, cũng e rằng khó mà xoay xở được. Huống chi thần ngu muội, dám mong gì thành công?
Chỉ mong phúc của xã tắc, linh thiêng của tổ tông, đức lớn nhân từ của bệ hạ, có thể cảm động trời đất, ban xuống điềm lành, báo đáp bằng năm được mùa, đó là điều mà muôn dân trông cậy. Nếu xét về nhân sự, thần thật lòng lo lắng, kính mong bệ hạ sai Trung thư, Xu mật viện xem lại tờ tấu trước của thần, xem xét kỹ lưỡng, quyết định theo thánh ý. Sớm lo liệu, còn có thể thấy hiệu quả sau nhiều năm, như cứu lửa cháy, chậm trễ thì càng không kịp.”
- Tuổi già chỉ đọc sách 《Dịch》, 《Lão》 'sách 《Dịch》, 《Lão》', bản Tống, bản Tống toát yếu chép là 'sách 《Dịch》, 《Lão》, 《Tịnh》, 《Triệu》.' ↵
- Sùng nghi phó sứ, 'Sùng nghi' nguyên bản là 'Sùng nghị', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- Nguyên văn là 'Thiên đế', theo 《Thái thường nhân cách lễ》 quyển 15, 《Tống sử》 quyển 98 《Lễ chí》 sửa lại. ↵
- Đổi mệnh Từ bộ viên ngoại lang Điền Kinh làm Đề điểm Hình ngục lộ Hà Bắc, 'Từ bộ' nguyên là 'Từ lang', theo bản khác sửa ↵
- chỗ ở chật hẹp 'chật hẹp' nguyên bản là 'hẹp chật', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và Tống sử toàn văn quyển 8 hạ sửa lại. ↵
- 'Trục' nguyên là 'Toại', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Quốc hiệu An Dương, bản Tống và bản Tống Toát Yếu đều chép là 'An Dương'. ↵
- Đổi niên hiệu là Đắc Thánh, bản Tống, bản Tống Toát Yếu, sách 'Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt' quyển 49 và 'Bối Tốt Vương Tắc Chi Bạn', 'Trị Tích Thống Loại' quyển 10 'Nhân Tông Bình Vương Tắc', 'Biên Niên Cương Mục' quyển 13 đều chép là 'Đức Thánh'. ↵
- Chiếu rằng từ nay trong các kỳ thi võ cử nhân không được hỏi về sách cấm như 《Âm Phù》. Chữ 'âm' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và bản các để bổ sung. ↵
- lại được ân ban thưởng 3.000.000 tấm lụa từ nội tàng 'lụa' nguyên là 'bạc', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Lạc Toàn Tập》 quyển 23, sửa lại ↵
- căn cứ vào số bạc lụa 6.000.000 tấm, lạng 'lạng' trên 8 chữ nguyên không có, theo 《Lạc Toàn Tập》 bổ sung ↵
- 'Cống' nguyên là 'cung', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách 《Lạc Toàn Tập》 sửa lại. ↵
- 'Năm' nguyên là 'ngày', theo các bản và sách 《Lạc Toàn Tập》 sửa lại. ↵
- 'Năm' nguyên thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Lạc Toàn Tập》 bổ sung. ↵
- 'Yên ổn' nguyên bản là 'lâu dài', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Lạc Toàn Tập》 quyển 23 《Tái Thượng Quốc Kế Sự》 sửa lại. ↵
- 'Mà' chữ 'nhi' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trị Tích Thống Loại》 quyển 29 《Tổ Tông Dụng Độ Tổn Ích》, cùng 《Lạc Toàn Tập》 bổ sung. ↵