IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 164: NĂM KHÁNH LỊCH THỨ 8 (MẬU TÝ, 1048)
Từ tháng 4 đến tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 8 đời Nhân Tông.
[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Kỷ Tỵ mùng một, phong con của Nãng Tiêu là Lượng Tộ làm chúa nước Hạ. Nhậm Chuyên, Viên ngoại lang Bộ Từ, làm sứ ban sách lễ, Tống Thủ Ước, Phó sứ Cung bị khố huyện Toan Tảo, làm phó sứ. Lượng Tộ mới sinh được ba tháng, các tướng chưa hòa hợp, có người bàn nên nhân dịp này phong chức Tiết độ sứ cho các tướng, để họ thống lĩnh bộ hạ của mình, nhằm chia nhỏ thế lực, hy vọng dứt được mối lo về sau.
Phán quan Diên Châu là Trình Lâm (theo 《Tục Tư trị thông giám》 của Tiết Ứng Kỳ và Vương Tông Mộc thì Trình Lâm là An phủ sứ Thiểm Tây, khác với ghi chép ở đây) tâu rằng: “Nhân lúc người ta có tang mà làm việc, không phải là cách để tỏ rõ với nước ngoài, chi bằng nhân đó mà vỗ về họ.”
Có người xin nhân cơ hội này xuất binh, Tri Khánh Châu là Tôn Miễn cũng nói việc đánh kẻ có tang không phải là thể thống của Trung Quốc. Vua nghe theo, bèn sai quan hữu ty thi hành lễ ban sách. Tuy nhiên, có người tiếc là đã bỏ lỡ cơ hội.
(Việc phong chức Tiết độ sứ cho các tướng để chia nhỏ thế lực của họ, nay trong tấu nghị của Hà Đàm có nhắc đến, nhưng không rõ lúc đó còn có ai khác nữa, cần phải tra cứu thêm. Bản truyện về Trình Lâm lại chép: Triều đình vừa thi hành lễ ban sách, quân Hạ đang vây Khánh Dương, Trình Lâm dừng sứ giả ở Phu Châu, nói: “Người Hạ tham lễ vật này, có thể nhờ đó giải nguy cho Khánh Dương.” Bèn liệt kê số lễ vật ban tặng rồi báo cho họ biết, quả nhiên họ vui mừng, ngay hôm đó đón sứ giả, và vòng vây Khánh Dương cũng được giải.
Xét rằng lúc này Lượng Tộ còn lo tự bảo toàn, đâu dám vây Khánh Dương, bản truyện chắc chắn có sai lầm. Xem phụ truyện và bài minh trên mộ, bia thần đạo của Âu Dương Tu cũng không chép việc này, không rõ bản truyện dựa vào đâu. Nay không chép theo.)
[2] Công bộ Thị lang Tham tri chính sự Đinh Độ nhiều lần xin từ chức, Ngự sử Hà Đàm lại tâu: “Thần trộm nghĩ triều đình đặt ra danh vị hai phủ, coi trọng việc chọn lựa đại thần, đều có phó nhị để cùng tham gia giúp đỡ. Hoặc dùng người có công lao, thì đương nhiên nên thăng chức, hoặc thử dùng mà không hiệu quả, sao có thể để làm người dự bị?
Thần thấy Đinh Độ từ chức vụ cận thần, được trao quyền hiển dụng, đứng trong hàng tam sự, đã nhiều năm nay. Nhưng địa vị và danh vọng càng cao, tài năng và danh tiếng càng suy, chỉ lo giữ mình để tránh lỗi lầm, chưa từng có kế hoạch lâu dài để kinh bang tế thế. Huống chi đang bàn việc quân cơ, mọi việc đều dựa vào mưu lược của triều đình, nếu mưu kế sai lầm nhiều, thì việc nước sao được yên ổn. Đinh Độ lại vốn mang tiếng là người khinh suất[1], hoàn toàn không có tầm nhìn xa trông rộng, trên không có lợi cho quốc thể, dưới không thể khiến lòng người phục, như thế là bề tôi hữu danh vô thực, khó lòng đảm đương trọng trách.
Hơn nữa, việc dùng người có đúng hay không, liên quan đến sự nặng nhẹ của quốc gia, đại thần chấp chính, việc càng quan trọng, không thể vì ân huệ mà cho, không thể vì may mắn mà thăng, phải có tài năng thì mới trao chức vụ này, nếu tài không xứng thì thà để khuyết còn hơn. Thần xin quyết đoán không nghi ngờ, cho từ chức một cách đúng lễ.”
[3] Ngày Tân Mùi, cách chức Đinh Độ làm Tử Thần điện học sĩ, kiêm Hàn Lâm Thị độc học sĩ[2], theo lời thỉnh cầu của Đinh Độ. Đinh Độ bị cách chức vào ngày Quý Mùi, nay theo 《Bách quan biểu》.
[4] Đoan Minh điện học sĩ, Cấp sự trung, quyền Tam ty sứ Minh Hạo làm Tham tri chính sự. Văn Ngạn Bác từ Bối Châu vào làm Tể tướng, nhiều lần khen công lao của Minh Hạo, nên khi Đinh Độ bị cách chức thì Minh Hạo thay thế.
[5] Ngày Nhâm Thân, Vương Củng Thần, Lễ bộ Thị lang, tri châu Thiền, bị cách chức Hàn lâm Thị độc học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ; Liễu Thực, Cấp sự trung, bị cách chức Hàn lâm Thị độc học sĩ, đi làm tri châu Thái; Trình Kham, Hình bộ Lang trung, tri châu Ích, bị cách chức Xu mật Trực học sĩ, đi làm tri phủ Phượng Tường; Ngư Chu Tuân, Hữu Gián nghị Đại phu, bị cách chức Quyền Ngự sử Trung thừa, đi làm tri quân Vĩnh Hưng. Tất cả đều vì từng tiến cử Trương Đắc Nhất.
[6] Ngày Quý Dậu, Ngô Dục, Cấp sự trung, tri châu Thái, được bổ nhiệm làm Tư chính điện Học sĩ, tri phủ Hà Nam.
Trước đó, Ngự sử Hà Đàm tâu: “Triều đình mới đặt chức Tử thần điện Học sĩ thay cho Văn minh điện Học sĩ, đứng trên Tư chính điện Đại học sĩ, hàng ngũ rất cao, chưa từng dễ dàng phong cho ai. Đinh Độ vừa thôi chính, liền được đặc cách bổ nhiệm, lại kiêm chức Thị độc. Thánh ý cho rằng các đại thần trong nhị phủ, khi tiến thoái, cần phải thi hành ân lễ.
Thần thấy Ngô Dục năm ngoái thôi chức Xu mật Phó sứ, ra làm tri châu Hứa, không nghe có lỗi gì lớn, chỉ đổi làm Cấp sự trung. Huống chi tài năng của Ngô Dục, trong thời buổi này ít ai sánh kịp, cho ông vào hàng học sĩ là hợp lý. Đến nay vẫn chưa được gia thêm một chức danh nào, e rằng đối với lễ đãi bậc cựu thần, chưa được công bằng. Mong rằng ghi nhớ đức cũ, theo lệ của Đinh Độ, gia thêm một chức danh, để tỏ rõ ân sủng đều khắp, khuyến khích người tài giỏi.” Được chấp thuận.
[7] Ngày Giáp Tuất, Vua ngự điện Sùng Chính duyệt các quân chuyển viên, kéo dài ba ngày.
[8] Hàn lâm Thị độc học sĩ, Hộ bộ Lang trung, Tri Vĩnh Hưng quân Diệp Thanh Thần được bổ làm Hàn lâm học sĩ, Quyền Tam ty sứ.
Cuối niên hiệu Hàm Bình, hợp ba bộ làm một chức sứ, quan nhẹ thì làm Quyền sử công sự. Đầu niên hiệu Khang Định, Thanh Thần đã làm Quyền sử công sự, nay lại lĩnh Tam ty, đáng làm sứ, nhưng lại làm Quyền sứ, là do Trung thư nhầm lẫn. Từ đó chia Quyền sứ và Quyền sử công sự làm hai bậc. (Điều này căn cứ theo 《Hội yếu》.)
Lại nữa, chức Tam ty sứ trước đây xếp trên Hàn lâm học sĩ, Quyền sứ thì ngang với chính chức, kết hàm của Tam ty sứ đều đặt trên chức quan. Đến lúc này, Tể tướng Trần Chấp Trung muốn hạ Diệp Thanh Thần, khi ban sắc đã đổi Quyền Tam ty sứ xuống dưới chức quan khi kết hàm, từ đó xếp dưới Hàn lâm học sĩ. Sau đó có người bàn luận, kết hàm tuy vẫn theo lệ cũ, nhưng khi mới bổ Quyền Tam ty sứ, Cáp môn xin chỉ, đôi khi vẫn xếp trên Hàn lâm học sĩ, nhưng không thành định chế. (Điều này căn cứ theo 《Thẩm Quát bút đàm》.)
[9] Từ bộ Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế Trương Nghiêu Tá được bổ làm Binh bộ Lang trung, Quyền Tri Khai Phong phủ. Thị ngự sử Tri tạp sự Trương Biện tâu rằng Nghiêu Tá nhờ ân trạch mà được thăng tiến quá nhanh, không phải là cách công bằng với thiên hạ, nhưng không được trả lời.
[10] Hà Bắc chuyển vận sứ, Binh bộ viên ngoại lang, Trực tập hiền viện Đỗ Kỉ được bổ làm Thiên Chương các đãi chế, Hoàn Khánh đô bộ thự, Kinh lược an phủ sứ, kiêm Tri Khánh châu. Trước đây, Kỉ dẹp yên man tộc Quảng Tây, vì tội giết kẻ đầu hàng nên không được ban thưởng. Đến đây, Kỉ dâng tâu: “Kẻ giết người đầu hàng là thần, phạm tội không dám từ chối. Các tướng lại chỉ theo mệnh lệnh của thần, công lao của họ chưa được ghi nhận, thần không dám nhận mệnh trước.” Nhân đó, ông xin ban thưởng cho tất cả.
Từ khi Nãng Tiêu xưng thần nhưng nhiều lần vi phạm ước định, cướp bóc biên giới, quan lại biên giới tránh gây chuyện, bỏ qua không tranh chấp. Khi Kỉ mới đến, thủ lĩnh người Di là Mạnh Hương dẫn hơn nghìn người xin quy phụ. Việc tâu lên, Vua ban chiếu cho Kỉ làm theo ước định. Kỉ tâu rằng theo ước định thì phải trả lại Mạnh Hương, nhưng Mạnh Hương đã phạm tội với người Hạ, tình thế không thể trả lại, nếu đuổi đi ắt sẽ gây họa cho biên giới.
Việc bàn chưa xong, người Hạ đem quân vào biên giới đòi Mạnh Hương, Mạnh Hương bỏ trốn ẩn náu. Người Hạ bèn giết hại dân biên giới, cướp bò ngựa, và đòi Mạnh Hương càng gấp. Có chiếu trách Kỉ, Kỉ tâu rằng họ vi phạm ước định, đem quân đến, không thể trả lại Mạnh Hương. Ông bèn gửi hịch cho người Hạ, nếu không bồi thường những gì đã cướp, thì không thể trả lại Mạnh Hương. Người Hạ không chịu bồi thường, Kỉ cũng cuối cùng không trả lại Mạnh Hương.
(Việc Mạnh Hương không xảy ra khi Kỉ mới đến, nay ghi chép thêm. Không rõ Kỉ thực sự đến Khánh châu vào thời gian nào. “Truyện Trình Lâm” nói người Hạ vây Khánh Dương, có lẽ chỉ việc này, nhưng chắc chắn không cùng lúc với lễ sách phong, và chỉ là cướp bóc nhỏ ở biên giới, Khánh Dương vốn chưa từng bị vây, nếu Khánh Dương bị vây, thì quan phụ sẽ kinh hãi. Truyện Lâm chắc chắn sai, nay không chép theo.)
[11] Ngày Bính Tý, lại giáng Tri Trì châu, Tả gián nghị đại phu Trương Tồn làm Tri Sâm châu, vì tội từng tiến cử Trương Đắc Nhất.
[12] Chiếu rằng các điều khoản cũ trong khoa cử đều do triều trước định ra, nên giữ nguyên không thay đổi. Khi ấy, Lễ bộ Cống viện tâu: “Năm thứ tư, Tống Kỳ cùng các quan định ra chế độ mới về khoa cử, gặp năm sau có chiếu chỉ xuống, tạm nghe theo để đợi khoa cử sau thi hành. Nay kỳ thi thu đã gần kề[3], theo chế độ mới, các châu quân giải cử, chỉ cần quan chức địa phương bảo đảm minh bạch về hành trạng, còn việc niêm phong, sao chép đều bãi bỏ.
Thần thấy các châu bên ngoài giải cử nhân, trước khi niêm phong, sao chép, phần nhiều dựa vào hư danh, nếu quan khảo thí không có thỉnh thác[4], cũng chỉ lấy những người từng được tiến cử trước đây, còn người mới thì trăm người không lấy một. Sau khi niêm phong, quan khảo không thấy tên, phải căn cứ thực tế để khảo sát văn nghệ, mới hợp với công bằng.
Lại nữa, chế độ mới quy định tiến sĩ trước tiên thi ba đề sách, tiếp đến thi luận, rồi thi thơ phú. Trước hết khảo sách luận để định bỏ hay giữ, sau đó mới kết hợp với thơ phú để định cao thấp. Nhưng cử nhân mỗi lần đến Thượng thư tỉnh, không dưới năm bảy nghìn người, đến khi thi đình phúc khảo, chỉ còn vài trăm người. Bởi thơ phú dựa vào thanh bệnh, tạp phạm, dễ để định bỏ hay giữ, nếu chỉ chuyên lấy sách luận, ắt khó để thăng hay giáng. Thơ phú tuy là tiểu xảo, nhưng phải chỉ đúng đề mục. Nếu kiến thức rộng rãi, thì văn lý tự nhiên tinh tế. Sách luận tuy có đề mục, nhưng phần đối đáp, phần nhiều dựa vào thuyết khác. Nếu đối đáp không đủ năm phần thì đều bỏ, như vậy sẽ không đủ số lượng giải cử đã định. Nếu thu cả tinh thô, thì việc tiến cử sẽ quá rộng. Vì thế từ thời tổ tông đến nay, chưa thể đột ngột thay đổi chế độ.
Lại nghe nói cử nhân nêu ra nghi vấn trong kinh sử để làm đề mục sách luận, tổng cộng mấy nghìn điều, gọi là 《Kinh sử chất nghi》; còn về thời vụ, cũng sao chép những điểm chính, sự giả dối càng nhiều, khó để khảo sát. Lại nữa, chế độ cũ dựa vào thanh bệnh, ngẫu thiết trong từ phú, lập thành quy cách khảo thí, nay đặc biệt cho phép bắt chước thể phú đời Đường và không hạn chế số liên, số chữ.
Vả lại, văn chương xưa nay, trước hết phải có thể yếu, xưa chưa hẳn đều đúng, nay chưa hẳn đều sai. Thường xem thơ phú trong kỳ thi đời Đường[5], cùng với văn chương của danh nhân được chọn trong triều ta, thực cũng nửa tinh nửa thô. Tục nho cho xưa là đúng, nay là sai, không phải là thông luận.
Từ năm thứ hai đến nay, học sinh Quốc tử giám, thơ phú lấy sự phóng túng không khuôn phép làm cao, sách luận lấy sự công kích tùy ý làm hay, trong ngoài truyền nhau, càng xa càng lộng, không chỉ dần dần làm lầm hậu học, thực sợ rằng về sau kỳ thi tỉnh[6], số người đỗ sẽ được mấy ai! Kính nghĩ từ thời tổ tông đến nay, được người tài không ít, khảo sát văn nghệ, vốn có quy trình, không cần thay đổi, để tránh sự phù phiếm, xin giữ nguyên như chế độ cũ.” Vì thế ban chiếu này.
(Ngày Kỷ Mão tháng 3 năm thứ 5, đã có chiếu cho Cống viện thi thơ phú, kinh nghĩa đều theo chế độ cũ. 《Bản chí》 cho rằng do Dương Sát đề nghị, nhưng 《Thực lục》 chỉ nói có người dâng sớ nói chế độ mới bất tiện, không nêu tên người chủ trương. Ngày Bính Tý tháng 4 năm thứ 8, lại ban chiếu, nêu rõ lời thỉnh cầu của Cống viện. Lời thỉnh cầu của Cống viện, chính là điều 《Bản chí》 ghi về đề nghị ban đầu của Dương Sát.
Xét theo bản truyện của Sát, Sát quyền phán Cống viện, lần đầu đề xuất ý kiến này vào tháng 3 năm thứ 5, đã được thi hành, đến tháng 4 năm thứ 8, Cống viện lại có thỉnh cầu, ý kiến đó thực là do Sát đề xuất năm thứ 5, chỉ không rõ lúc này Sát còn phán Cống viện hay đã thôi. Nay ghi cả hai. Vẫn theo 《Thực lục》 không nêu tên Sát. 《Bản chí》 lại sau chiếu này ghi Trương Phương Bình làm chủ khảo, xin ban chiếu răn về thể văn phú mới. Xét Phương Bình làm chủ khảo vào tháng 2 năm thứ 6, 《Bản chí》 nhầm vậy.
Ban đầu, triều đình ra chiếu chỉ cho các châu ngoài cử người đến kinh đô, sai quan khảo thí lại, nhưng sau đó bãi bỏ, vì lo rằng việc này có thể khiến những người tài nghèo bị đẩy lùi. (Việc này được ghi trong sách 《Thành Đô biên lục điều quán sách》, theo chỉ thị ngày 18 tháng 5.)
[13] Ngày Đinh Sửu, ra chiếu chỉ cấm các chức Thừa, Chủ bạ, Úy ở các huyện thuộc phủ Khai Phong và các huyện xích được điều động đến nơi khác.
[14] Ngày Kỷ Mão, quốc mẫu nước Khiết Đan cử Tả Giám môn vệ Thượng tướng quân Tiêu Duy Tín, Ninh Châu Quan sát sứ Triệu Vi Hàng, còn Khiết Đan cử An Viễn Tiết độ sứ Gia Luật Chương, Khởi cư xá nhân Tri chế cáo Sử quán Tu soạn Ngô Trạm đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.
[15] Ngày Tân Mão, đặt chức An phủ sứ bốn lộ Hà Bắc, giao cho các quan đang giữ chức Tri phủ Đại Danh, Chân Định, Tri châu Doanh, Định kiêm nhiệm. Tư chính điện Học sĩ, Cấp sự trung Hàn Kỳ giữ chức Tri châu Định, Lễ bộ Thị lang Vương Củng Thần giữ chức Tri châu Doanh, Hữu Gián nghị đại phu Ngư Chu Tuân giữ chức Tri quân Thành Đức. Trước đó, Giả Xương Triều giữ chức Phán phủ Đại Danh, đã kiêm chức An phủ sứ Hà Bắc. Giả Xương Triều giữ chức Phán phủ Đại Danh vào tháng 3 năm thứ 7.
Ban đầu, triều đình lo việc quân bị ở Hà Bắc, có người bàn nên tăng thêm quân đồn trú. Trình Lâm từ phủ Đại Danh được điều đến Vĩnh Hưng quân (việc điều động này diễn ra vào tháng 2 năm thứ 6), dâng tấu rằng: “Đất Hà Sóc rộng hàng ngàn dặm, có 36 thành liền nhau, dân cư đông đúc, địa hình bằng phẳng. Từ thời Cảnh Đức trở về trước, quân địch nhiều lần xâm lược, quân triều đình tuy đông nhưng hiếm khi thành công. Bởi vì quân ba lộ Định Châu, Chân Định phủ, Cao Dương quan không liên kết được với nhau, khi điều động thì lộn xộn, bất tiện. Hơn nữa, việc xây dựng kinh đô ở toàn bộ đất Ngụy để khống chế phương Bắc, nhưng quân lại thuộc các lộ Định Châu, Chân Định phủ, thế là đảo ngược. Xin chia quân Hà Sóc thành bốn lộ: lấy 10 châu quân ở Trấn, Định làm một lộ, hợp thành 10 vạn quân; 11 châu quân ở Cao Dương quan làm một lộ, hợp thành 8 vạn quân; 7 châu quân ở Thương, Bá làm một lộ, hợp thành 4 vạn quân; 9 châu quân ở Bắc Kinh làm một lộ, hợp thành 8 vạn quân. Các chức Trú bạc Kiềm hạt, Đô giám, mỗi người phụ trách huấn luyện, để binh sĩ quen thuộc với hiệu lệnh của chủ tướng, khi có việc gấp thì lập tức phân chia bộ phận.”
Hạ Kỳ Chương phán Đại Danh phủ Hạ Tủng bàn nghị. Tủng tấu: “Trấn, Định hai lộ[7], là nơi xung yếu đối mặt với giặc, nếu có biến, mỗi nơi cần dựa vào quân trọng binh để khống chế yếu địa, thay nhau ứng cứu. Nếu hợp làm một, thì quyền binh quá lớn, giảm bớt thì không đủ để phòng địch. Lại nữa, Thương Châu từ lâu thuộc Cao Dương Quan, đường đi khá gần, gần biển đất mặn, địa hình trũng thấp, phía đông bắc ba trăm dặm, đồng không mông quạnh, không phải là đường đi của địch. Nếu có biến, có thể đắp đập sông Chương, sông Ngự để dẫn nước về đông, đầm hồ ngăn cách, ngựa địch khó lòng xông pha, không cần thiết phải lập thêm một lộ riêng. Chỉ có Bắc Kinh là căn bản của Hà Sóc, nên đóng quân trọng binh, khống chế sông lớn, bên trong che chở kinh thành, bên ngoài hỗ trợ các lộ, xin lấy Đại Danh phủ, Thiền, Hoài, Vệ, Tân, Lệ, Đức, Bác Châu, Thông Lợi quân lập thành Bắc Kinh lộ. Bốn lộ mỗi nơi đặt một Đô bộ thự, hai Kiềm hạt, bốn Đô giám. Bình thường chỉ do Hà Bắc An phủ sứ tổng quản các lộ, có biến thì Bắc Kinh đặt bốn lộ Hành dinh Đô bộ thự, chọn người từng giữ chức trọng thần ở hai phủ để đảm nhiệm.”
Nghị bàn chưa quyết, Hạ Tủng vào làm Xu mật sứ, Giả Xương Triều phán Đại Danh, lại được lệnh bàn định. Xương Triều xin theo ý kiến của Tủng, chỉ có Tuần kiểm dọc biên giới Bảo Châu cùng quân mã hai ty Hùng, Bá, Thương Châu giới hà, từ triều đình đến nay, ở các biên giới vốn nổi tiếng mạnh mẽ, nay chưa có nơi quản lý, xin lấy Ty Tuần kiểm dọc biên thuộc về Định Châu lộ, Ty Giới hà thuộc về Cao Dương Quan lộ.
Bấy giờ, triều đình hạ chiếu chia quân Hà Bắc làm bốn lộ: Bắc Kinh, Thiền Châu, Hoài Châu, Vệ Châu, Đức Châu, Bác Châu, Tân Châu, Lệ Châu, Thông Lợi quân, Bảo Thuận quân hợp thành Đại Danh phủ lộ; Doanh Châu, Mạc Châu, Hùng Châu, Bá Châu, Ân Châu, Ký Châu, Thương Châu, Vĩnh Tĩnh quân, Can Ninh quân, Bảo Định quân, Tín An quân hợp thành Cao Dương quan lộ; Trấn Châu, Hình Châu, Minh Châu, Tương Châu, Triệu Châu, Từ Châu hợp thành Chân Định phủ lộ; Định Châu, Bảo Châu, Thâm Châu, Kỳ Châu, Bắc Bình quân, Quảng Tín quân, An Túc quân, Thuận An quân, Vĩnh Ninh quân hợp thành Định Châu lộ. Tất cả các tướng lĩnh đóng quân đều theo như nghị định, chỉ có bốn lộ đều đặt chức An phủ sứ.
(《Binh chí》 chép: Tất cả các tướng lĩnh đóng quân đều theo như nghị định. Xét rằng, Tủng và Xương Triều ban đầu nghị định bốn lộ đều đặt chức Đô bộ thự, còn An phủ sứ Hà Bắc vẫn do người coi Đại Danh kiêm nhiệm. Nay bốn lộ đều đặt An phủ sứ, không phải là nghị định ban đầu của Tủng và Xương Triều. Có lẽ cũng đã có sự thay đổi, nên đặc biệt ghi lại.)
Hàn Kỳ tâu rằng binh lực quá phân tán, xin hợp Định Châu và Chân Định phủ thành một lộ, Cao Dương quan và Đại Danh phủ thành một lộ. Triều đình cho rằng việc thay đổi vừa mới thực hiện[8], nên không trả lời. Chiếu cho bốn lộ quân theo như Thiểm Tây, cử bộ tướng đi lại kiểm tra. Lại chiếu rằng từ nay quân lính đi thú trở về, sẽ được tuyển chọn sung vào các quân Phụng Nhật, Long Vệ, Thiên Vũ, Thần Vệ.
(Điều này đều căn cứ theo 《Bản chí》, nói rằng lúc đó Khiết Đan đến bàn về đất Quan Nam, triều đình lo việc võ bị Hà Bắc. Xét việc bàn về đất Quan Nam là vào năm Khánh Lịch thứ hai, không liên quan đến việc Trình Lâm dời đến Thiểm Tây, còn việc Trình Lâm dời đến Thiểm Tây là vào năm Khánh Lịch thứ sáu. Nay bỏ đi tám chữ “thời Khiết Đan đến bàn về đất Quan Nam”. 《Thực lục》 vào ngày Ất Sửu tháng tám năm thứ bảy trước đó chép việc chia Hà Bắc làm bốn lộ[9], có lẽ là sai. Nay đã bỏ đi.)
[16] Ngày Giáp Ngọ, lệnh cho Quyền Ngự sử trung thừa Dương Sát cùng định đoạt việc lợi hại của đồng tiền sắt ở Thiểm Tây, Hà Đông. Chi tiết xem cuối tháng sáu.
[17] Giao Châu vào cống, phong Tiến phụng sứ Binh bộ viên ngoại lang Tô Nhân Tộ làm Công bộ lang trung, Phó sứ Đông đầu cung phụng quan Đào Duy Hoạn làm Nội điện Sùng ban. Nhân Tộ lúc mới đến chưa được gặp.
[18] Ngày Đinh Dậu, giáng Vệ châu Đoàn luyện sứ, Tri Thiền châu Vương Đức Cơ làm Tứ phương quán sứ, Vinh châu Thứ sử, Tây thượng các môn sứ, Tri Bảo châu Vương Trung Dung làm Dẫn tiến phó sứ, Điện trung Thị ngự sử Lưu Nguyên Du phạt 30 cân đồng, đều vì tội từng tiến cử Trương Đắc Nhất.
[19] Trước đây, đổi chức Văn minh điện học sĩ thành Tử thần điện học sĩ, Đinh Độ từ chức, đầu tiên được phong chức này. Ngự sử Hà Đàm tâu rằng Tử thần không thể dùng làm tên chức quan. Tháng 5, ngày Ất Tỵ, chiếu đổi tên điện Diên Ân cũ thành điện Quan Văn, và đổi chức Tử thần điện học sĩ thành Quan Văn điện học sĩ, thứ bậc như chế độ cũ.
[20] Ngày Ất Mão, Binh bộ viên ngoại lang, Tri Gián viện Tống Hi ra làm Giang Nam Đông lộ Chuyển vận sứ. Ngày Kỷ Mùi, đổi làm Kinh Hồ Bắc lộ. Hi tuy bị bãi chức Gián quan, vẫn được làm Giám ty, người bàn tán chê trách.
[21] Ngự sử Hà Đàm tâu rằng:
“Thần nghe rằng, người trị thiên hạ muốn giữ nước được yên ổn lâu dài, không có đạo nào khác, điều cốt yếu là xét rõ danh thực, phân biệt tà chính mà dùng người. Tà và chính không thể cùng tồn tại, trị và loạn không cách xa nhau. Dùng người quân tử để loại bỏ kẻ gian tà thì là biểu hiện của sự trị, dùng kẻ tiểu nhân mà bãi chức người chính trực thì là bước đầu của sự loạn. Vì thế, từ xưa các bậc thánh triết trong lúc trị loạn an nguy, chưa từng không ân cần khuyên răn, lấy việc tiến cử người quân tử và ngăn chặn kẻ tiểu nhân làm điều răn. Không phải vì họ có sự thiên vị trong sự yêu ghét, mà bởi vì nếu tà chính lẫn lộn mà tiến cử, thì sự hưng suy của nước chưa thể biết trước, sự an nguy của dân chưa thể bảo đảm, nên không thể không phân biệt rõ ràng.
Tuy nhiên, việc biết người là khó, các bậc thánh xưa cũng lấy làm lo. Dù gặp được Vua sáng suốt, cũng không tránh khỏi có kẻ gian thần. Với sự thánh thiện của Vua Nghiêu, mà vẫn có kẻ bề tôi phá hoại đức tin và bỏ rơi lòng trung; với sự sáng suốt của Vua Thuấn, mà vẫn có kẻ bề tôi dèm pha và làm điều ác. Tuy vậy, dù ban đầu sai lầm trong việc dùng người, nhưng cuối cùng đã tỉnh ngộ mà cách chức, đó là lý do hai vị Vua này được xưng là thánh minh. Lấy xưa so với nay, bọn tà chính không đời nào không có, dù có kẻ gian tà, nhưng nếu không để chúng làm hại đạo lý, thì đó là do nhà Vua biết dùng người đúng chỗ mà thôi.
Thần trộm thấy Xu mật sứ, Bình chương sự Hạ Tủng, tính tà, dục vọng xa xỉ, học rộng mà không chính đạo, hành vi giả dối mà cứng rắn, có chất nhu nhược của kẻ tiểu nhân, không có khí khái ngay thẳng của bậc đại thần, thờ Vua không giữ tiết tháo, đối xử với kẻ dưới không dùng lòng thành. Tự cho sự lừa dối của mình có thể che mắt thiên hạ, dùng sự nịnh hót để tự cho là có thể sửa chữa sai lầm. Vi phạm kỷ luật mà không biết xấu hổ, xâm phạm danh giáo mà không chút nghi ngờ[10]. Tích trữ của cải để thỏa mãn lòng tham[11], không thể lấy đạo liêm sỉ mà răn đe; kết bè kết đảng với kẻ quyền thế để mưu cầu tiến thủ, không thể dùng đạo trung chính mà khuyên răn.
Lấy bổng lộc hậu hĩnh mà đãi Hạ Tủng, có thể nói là quá đủ; lấy địa vị cao sang mà phong cho Hạ Tủng, có thể nói là quá mức. Thế mà hắn vẫn tham lam không biết chán, tiến thủ không ngừng, luôn nuôi lòng tham vọng, chuyên làm những việc gian tà, con người vô lương đến mức như vậy. Gần đây binh lính phản loạn, đột nhập vào cung cấm, biến cố lớn lao, khiến lòng người rùng mình. Tất cả những người giữ chức vụ, đều đã sơ suất trong việc phòng ngừa, trách nhiệm bê trễ, đáng bị xử tử.
Thế mà Hạ Tủng chỉ vì quen biết với nội thần Dương Hoài Mẫn quản lý Hoàng thành ty, nên cố tình che giấu, muốn kết thân, Vua lo lắng trên cao mà không biết thương xót, dân oán trách dưới thấp mà không biết lỗi lầm, chỉ muốn riêng tư ban ơn, chưa từng công khai bàn tội, khiến trách nhiệm của quan lại không đồng đều, tội ác của bọn phản loạn không được truy cứu tận gốc.
Như vậy, mưu cầu lợi ích cho mình thì lo tính sâu xa, trừ bỏ mối họa cho Vua thì kế hoạch nông cạn. Giữ trọng trách là cánh tay phải và trái tim của Vua, mà hành xử như vậy, không trung thành còn gì lớn hơn nữa. Nay trăm quan đều cho rằng Hoài Mẫn sơ suất trong việc phòng ngừa phản loạn, chỉ là trách nhiệm chức vụ, tội nhỏ; Hạ Tủng nhiều mưu toan, không phấn chấn thần tiết, tội lớn. Nay Hoài Mẫn đã bị cách chức, mà Hạ Tủng vẫn được ở lại, lòng người trong ngoài đều phẫn nộ. Huống chi Hạ Tủng hai lần được ân điển của Vua thăng chức, đều do dư luận trong sạch mà thay đổi[12], mọi người đều cho là gian tà, lòng thánh chúa hẳn đã rõ, bỏ đi không dùng, đó mới là chí công. Thế mà lại cho là có tài, cứ dùng mà không thay đổi. Như vậy, bao dung che đậy lỗi lầm thì quá đáng; trừ bỏ gian tà, diệt trừ kẻ ác, thần thấy chưa yên lòng.
Hơn nữa, pháp luật thời trước vốn là để ràng buộc kẻ có tài, gian tà mà có tài, ắt sẽ loạn thiên hạ, nếu không phòng ngừa từ đầu, thì lấy gì cứu vãn về sau? Huống chi bệ hạ có tư chất như Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, mà lại chứng kiến hành vi của Hạ Tủng như Đào Ngột, Cùng Kỳ, xử tội hắn, quyết đoán không nghi ngờ. Thần mong bệ hạ vì mưu đồ xã tắc, dưới thỏa lòng mong mỏi của thần dân, cùng mọi người vĩnh viễn ruồng bỏ, tỏ rõ không thiên vị, há chẳng phải là việc lớn, há chẳng phải là điều vui sao!
Thần là kẻ cô độc, nhiều lần dám chống lại các nghị sự lớn, xúc phạm quyền quý mà vì mưu đồ riêng thì vụng về, bài trừ gian tà mà vì lợi ích triều đình thì trung thành. Thần đoán rằng Hạ Tủng biết thần tâu lên, ắt sẽ chỉ trích thần là giả dối, xem thần là bè đảng. Nhưng Hạ Tủng rõ ràng có lỗi lầm, sao có thể gọi là giả dối; thần vốn không a dua, sao lại gọi là bè đảng. Nếu Hạ Tủng còn che đậy lỗi lầm, thần xin được đối chất tội trạng của y, ngưỡng mong bệ hạ sáng suốt, xét đến tấm lòng của thần.”
(Lúc đó, người nói Hạ Tủng gian tà chắc chắn không chỉ một mình Hà Đàm, nhưng trong truyện của Hà Đàm chỉ ghi rằng Hà Đàm nói Hạ Tủng không thể làm Xu mật sứ. Lại nữa, trong tấu nghị của Hà Đàm có chương này rất đầy đủ, nên ghi chép lại[13].)
[22] Ngày Tân Dậu, Xu mật sứ, Hà Dương Tam Thành tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Hạ Tủng bị bãi chức Xu mật sứ, điều làm phán quan ở Hà Nam phủ.
Những người tấu chương đã nhiều lần luận tội Hạ Tủng gian tà, gặp lúc ở kinh sư cùng ngày không có mây mà động đất năm lần, Vua đang ngồi ở điện nhỏ, vội triệu Hàn lâm học sĩ. Chốc lát, Trương Phương Bình đến, Vua bảo rằng: “Hạ Tủng gian tà, khiến trời biến động như thế, hãy mau soạn chiếu chỉ cách chức y.” Phương Bình xin soạn lời bác bỏ, ý Vua liền nguôi, nói: “Hãy lấy cớ điều hòa lao nhọc mà cách chức y.”
Hà Đàm lại tâu: “Thần nghe Hạ Tủng xin được giữ chức danh học sĩ một điện, lại muốn được ở trong hàng thị tòng. Vì triều đình thăng giáng đại thần, ân lễ rất hậu, Hạ Tủng được bổ nhiệm này đã là cực kỳ vinh hiển, sao có thể không biết liêm sỉ, dám xin xỏ? Huống chi Hạ Tủng gian tà hiểm ác, lâu nay thiên hạ đều biết, bệ hạ đặc biệt ra lệnh cách chức y khỏi chức vụ trọng yếu, trong ngoài các quan không ai không vui mừng, vậy không nên để y tự tiện, lưu lại triều đình. Khổng Tử nói xa kẻ nịnh, vì kẻ nịnh ở bên cạnh Vua ắt sẽ gây hại cho việc chính sự.
Xin bệ hạ không thay đổi mệnh lệnh trước, vẫn ra lệnh thúc giục y lên đường nhậm chức.” Vua nghe theo. Hạ Tủng xin giữ chức danh học sĩ một điện để ở lại kinh sư, quốc sử không thấy ghi. Nay căn cứ vào tấu nghị của Hà Đàm và bài minh trên mộ của Hà Đàm mà chép thêm vào.
[23] Cấp sự trung, Tham tri chính sự Tống Hạng được gia chức Kiểm hiệu Thái phó, hành chức Công bộ Thị lang, sung chức Xu mật sứ.
[24] Ngày Nhâm Tuất, Xu mật phó sứ, Tả gián nghị đại phu Bàng Tịch được bổ làm Tham tri chính sự.
[25] Xuống chiếu rằng các đạo không phải vì xét án mà sai tri huyện, huyện lệnh ra ngoài, sẽ bị xử tội vi phạm chế độ, những quan bị sai phái căn cứ vào thời gian ở ngoài không được tính vào kỳ khảo xét. Lúc đó, quyền Tam ty sứ Diệp Thanh Thần từ Vĩnh Hưng được triệu về, tâu rằng các tri huyện thuộc quyền, có người nhận công văn đi châu khác rồi lâu không về, e rằng quan tạm quyền không thể tận tâm làm việc, nên ban điều ước này. (Ngày Tân Dậu tháng 6 năm thứ 7, có thể khảo xét.)
[26] Ngày Ất Sửu, cách chức Điện trung thị ngự sử Trương Kinh, cho làm Tri Kỳ Châu, vì tấu chương dâng lên sai lầm.
[27] Ngày Bính Dần, xuống chiếu rằng các quân hiệu đóng ở ngoài thành mới, mỗi khi vào triều, phải để lại một nửa để quản lý quân sĩ.
[28] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu rằng từ nay các quan trong ngoài phải đủ ba năm mới được thay thế, những người tại chức ba năm hoặc ba mươi tháng thì theo chế độ cũ, những nơi thừa quan đều bãi bỏ, bổng lộc không được vượt quá chức vụ hiện tại. Lúc đó, những người thăng tiến thường không đủ thời hạn đã được thăng chuyển, lại có nhiều quan viên ngoại trí ở kinh đô, thậm chí có phó sứ các ty xin lương chính sứ, phòng ngự sứ xin lương quan sát sứ, nên ban chiếu này.
[29] Ngày Mậu Thìn đầu tháng 6, xuống chiếu cho các cận thần tiến cử quan văn võ có tài làm tướng, lập tức báo tên lên.
[30] Ngày Nhâm Thân, Tư chính điện học sĩ, Hộ bộ Thị lang, Tri Tào Châu Nhậm Trung Sư được cho làm Thái tử Thiếu phó trí sĩ.
[31] Ngày Quý Dậu, sông Hoàng Hà vỡ đê ở Thương Hồ Tảo, Châu Thiền.
[32] Ngày Giáp Tuất, sai quan cầu tạnh.
[33] Ngày Bính Tý, sai Quyền phát khiển Hộ bộ phán quan sự Yến Độ đi xem xét chỗ sông vỡ ở Châu Thiền.
[34] Ngày Canh Thìn, ban chiếu cho các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục từ nay phải xem xét rõ ràng sự việc của các quan lại thuộc quyền, rồi tâu lên.
Trước đó, tuyển nhân Lưu Thế Long nhân khi được dẫn vào đối đáp, tự nói trước đây bị giám ty vì tình riêng tâu xin cho bị cách chức. Sau đó, ngự sử tâu rằng, những quan lại tham lam tàn bạo ở ngoài, giám ty không muốn tố cáo hết tội trạng, chỉ tâu xin cho bị cách chức, khiến khi trở về bộ Lại có thể kêu ca. Vì thế ban chiếu ước thúc việc này.
[35] Ngày Nhâm Ngọ, Thái tử Thái sư trí sĩ Từ quốc công Trương Kỳ mất, được tặng chức Thái sư, kiêm Thị trung, thụy là Vinh Hi.
Kỳ là người trầm tĩnh, có mưu trí, hưởng phú quý an nhàn hơn bốn mươi năm. Ở nhà, ông làm lan can quanh co, chất đủ các loại hàng hóa, cùng các nô tì buôn bán, người nào có bệnh thì tự mình chẩn đoán, bán thuốc cho họ, muốn tiền mà không cần ra ngoài. Những trấn nào ông từng trấn nhậm, dân chúng đều khổ vì sự quấy nhiễu của ông. Ông có hai mươi bốn người con, quản lý rất nghiêm khắc, gặp sớm thì lập tức bắt ra ở ngoài. Con trai Đắc Nhất vì ngồi cùng giặc bị giết, Khả Nhất sau cùng các nô tì giết vợ, cũng bị xử tử.
[36] Ngày Kỷ Sửu, Hộ bộ phó sứ, Hình bộ lang trung Hướng Truyền Thức được bổ làm Thái thường thiếu khanh[14], trực Chiêu văn quán, tri Bạc châu. Truyền Thức là con thứ hai của Mẫn Trung, quyền Tam ty sứ Diệp Thanh Thần tâu rằng ông tầm thường, không đảm đương được việc.
[37] Chuyển vận sứ Hà Bắc, Hình bộ viên ngoại lang, trực Tập hiền viện Bao Chửng được bổ làm Hộ bộ phó sứ. Chửng trước đây từ Thiểm Tây chuyển đến Hà Bắc, chỉ năm ngày sau, được triệu vào Tam ty, tâu xin bãi bỏ việc thu gỗ đóng thuyền ở Tà Cốc thuộc Tần Lũng, và bãi bỏ việc thu tre đóng cọc sông ở bảy châu, đều lên đến số chục vạn. Ngày 2 tháng 5 năm thứ 8, từ Thiểm Tây đổi sang Hà Bắc, ngày 22 tháng 6, được bổ làm Hộ bộ phó sứ.
[38] Ngày Canh Dần, Từ bộ viên ngoại lang, trực Tập hiền hiệu lý Trương Diễm được bổ làm Hà Bắc thể lượng an phủ sứ.
[39] Ngày Nhâm Thìn, Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Mùa xuân hạ mưa nhiều, Trẫm ngày ngày ăn chay, đêm ngày cầu nguyện Thượng đế. Nếu mưa dầm không dứt, Trẫm sẽ bỏ ăn uống nước lã, mong tai họa chuyển sang thân Trẫm. Nhưng không muốn để người ngoài biết, sợ mang tiếng cầu danh.” Tể tướng Văn Ngạn Bác tâu rằng: “Nay khí trời trong sáng, thực là nhờ đức lớn của bệ hạ cảm thông vậy.”
[40] Ngày Quý Tỵ, sai quan tạ ơn trời tạnh.
[41] Cấp sự trung, Tham tri chính sự Minh Hạo bị nhọt độc ở lưng, Vua bảo các quan phụ chính rằng: “Hạo trung thành sáng suốt có công lao, lúc ông ấy chưa mê man, Trẫm muốn gặp một lần.” Hôm ấy, Vua đến thăm, ái ngại nói: “Đang cậy nhờ khanh lo việc nước, sao lại mắc bệnh nhanh thế.” Hạo hơi thở yếu ớt, nhưng vẫn cố gắng cúi đầu tạ ơn.
Ngày Giáp Ngọ, mất. Tặng Lễ bộ thượng thư, thụy là Văn Liệt. Hạo ngay thẳng ít nói, đi đến đâu cũng giữ phép tắc, gặp việc không qua loa, được mọi người kính trọng.
[42] Ngày Ất Mùi, xuống chiếu rằng các quan ở Quán các từ nay phải trải qua một nhiệm kỳ làm quan gần dân, mới được vào làm việc ở tỉnh, phủ và nhận chức chuyển vận, đề điểm hình ngục. (Xét sách 《Tống sử》 chữ “nhập tỉnh phủ” có thêm chữ “cập”, nay thêm vào.)
[43] Ngày Bính Thân, Tư không trí sĩ Chương Đắc Tượng mất. Theo lệ cũ, quan trí sĩ không được Vua đến viếng, nhưng Vua đặc biệt đến viếng. Tặng Thái uý, kiêm Thị trung, thụy là Văn Hiến.
[44] Ban đầu, khi quân đội Thiểm Tây khởi binh, việc chuyển dùng tiền không đủ, Tri châu Thương Châu là Bì Trọng Dung vào tháng 12 năm Khang Định nguyên niên (1040) đã dâng tấu đề nghị khai thác đồng xanh ở núi Hồng Nhai, huyện Lạc Nam và lò Thanh Thủy, châu Quắc, lập hai giám Phụ Dân và Chu Dương để đúc tiền. Sau đó, Thiểm Tây đô chuyển vận sứ là Trương Khuê (tháng 5 năm Khánh Lịch nguyên niên (1041), Khuê được bổ làm Thiểm Tây đô tào) và Tri quân Vĩnh Hưng là Phạm Ung (tháng 5 năm Khánh Lịch nguyên niên, Ung kiêm nhiệm việc chuyển vận) xin đúc tiền lớn, lưu hành song song với tiền nhỏ, một đồng tiền lớn tương đương mười đồng tiền nhỏ. Khuê còn xin dùng sắt tích trữ ở châu Tấn để đúc tiền nhỏ (tháng 9 năm nguyên niên). Khi Khuê được điều đến Hà Đông (tháng 10 năm thứ 2), lại đúc tiền sắt lớn ở hai châu Tấn và Trạch, cũng lấy một đồng đổi mười đồng, để hỗ trợ quân phí vùng Quan Trung.
Không lâu sau, Tam ty tấu xin bãi bỏ việc đúc tiền sắt ở Hà Đông, còn Thiểm Tây lại khai thác đồng vàng ở núi Trúc Tiêm Lĩnh, châu Nghi, lập giám Bác Tế để đúc tiền lớn (theo《Thực lục》, việc này xảy ra năm thứ 4). Triều đình bèn ra lệnh cho Giang Nam đúc tiền đồng lớn, còn các châu Giang, Trì, Quắc, Nhiêu đúc tiền sắt nhỏ, đều chở về Quan Trung. Ba châu Giang, Trì, Nhiêu (xem tháng 11 năm nguyên niên), châu Quắc (chưa rõ, có lẽ là do Phạm Ung đề xuất).
Tiền các châu lưu hành lẫn lộn, đại thể ba đồng tiền đồng nhỏ có thể đúc thành một đồng tiền đồng lớn đổi mười, vì thế dân gian đúc tiền giả rất nhiều, tiền tệ hỗn loạn, giá cả tăng vọt, triều đình và dân chúng đều lo lắng. Do đó, Khuê lại tấu xin ba châu Tấn, Trạch, Thạch và quân Uy Thắng (theo《Thực lục》, việc này xảy ra năm thứ 5) mỗi ngày đúc tiền sắt nhỏ, chỉ lưu hành ở Hà Đông. Nhưng tiền sắt Hà Đông lưu hành, kẻ đúc tiền sắt giả thu lợi sáu phần mười, tiền nhẹ hàng hóa nặng, tai họa như ở Thiểm Tây, người bàn luận đều cho là bất tiện.
Tri châu Tịnh Châu là Trịnh Tiển (tháng 2 năm thứ 6, Tiển nhậm chức Tri châu Tịnh Châu) xin tiền sắt Hà Đông tạm lấy hai đồng đổi một đồng tiền đồng, lưu hành một năm, sau đó lấy ba đổi một, hoặc năm đổi một. Bãi bỏ việc đúc tiền hàng ngày ở lò quan, chỉ lưu hành tiền cũ. Tri châu Trạch Châu là Lý Chiêu Cấu (tháng 4 năm thứ 6, Chiêu Cấu nhậm chức Tri châu Trạch Châu) cũng tâu: “Dân Hà Đông đốt than đá, nhà nào cũng có dụng cụ lò rèn, kẻ đúc tiền giả không thể tra xét được. Mà quân địch phương Bắc cũng có thể đúc tiền sắt để đổi lấy tiền đồng vùng biên giới mang đi, tác hại càng lớn.”
Triều đình từng sai Ngư Chu Tuân (năm thứ 4, tháng 3), Âu Dương Tu (năm thứ 4, tháng 4) đi xem xét lợi hại về tiền tệ ở hai lộ, lại nhiều lần sai quan bàn bạc (tháng giêng, ngày Kỷ Dậu; tháng tư, ngày Giáp Ngọ). Do đó, Hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình, Tống Kỳ, Ngự sử trung thừa Dương Sát cùng Tam ty sứ Diệp Thanh Thần dâng tấu về việc tiền tệ ở Thiểm Tây rằng (tháng sáu, ngày Ất Mùi): “Việc dùng tiền lớn ở Quan Trung, vốn do quan huyện thu lợi quá nhiều, khiến kẻ gian đúc tiền giả, giá trị tiền ngày càng giảm. Những năm gần đây, đều là ước lượng giá trị hàng hóa một cách hư cao, ban đầu tăng giá ở dưới, cuối cùng lại bắt người trên bồi thường. Quan huyện tuy có cái tên hư là chiết khấu, nhưng thực tế lại chịu thiệt hại. Muốn cứu vãn tệ nạn mà không tự giảm trước, thì pháp luật khó mà thi hành. Xin lấy tiền đồng lớn ở các châu Giang Nam, Nghi Thương đổi một đồng bằng ba đồng tiền nhỏ.” (Theo 《Tống sử·Thực hóa chí》, chữ “tam” viết thành “nhị”).
Lại nói: “Kẻ gian không đúc tiền sắt nhỏ, vì đúc tiền đồng lớn được lợi nhiều, mà quan lại không cấm. Nếu đúc tiền đồng lớn không có lợi, chúng sẽ lại đúc tiền sắt nhỏ để làm loạn pháp luật. Xin lấy ba đồng tiền sắt nhỏ đổi một đồng tiền đồng.” Sau đó lại xin (tháng bảy, ngày Tân Sửu) tiền sắt nhỏ ở Hà Đông cũng như Thiểm Tây, đổi ba đồng lấy một đồng, và bãi bỏ lò đúc của quan phủ. Triều đình đều nghe theo lời tấu này. Từ đó, kẻ gian ít có lợi, nhưng vẫn chưa dứt được tiền lạm.
Sau đó, có chiếu bãi bỏ việc đúc tiền đồng xanh vàng ở châu Thương (năm Hoàng Hựu thứ 2, tháng hai), lại lệnh tiền đồng lớn và tiền sắt nhỏ ở Thiểm Tây đều đổi một đồng bằng hai đồng (năm Gia Hựu thứ 4, tháng hai), việc đúc tiền giả mới chấm dứt. Tuy nhiên, lệnh thay đổi nhiều lần, quân dân hao tổn về tài chính, phần lớn đều oán thán, mãi sau mới ổn định.
(《Thực lục》 chép việc bàn về tiền tệ ở Thiểm Tây vào tháng sáu, ngày Ất Mùi, và việc bàn về tiền tệ ở Hà Đông vào tháng bảy, ngày Tân Sửu[15]. Nay theo bản chí, chép cả vào cuối tháng này.)
[45] Mùa thu, tháng 7, ngày Mậu Tuất, Tư chính điện Đại học sĩ, Hộ bộ Thị lang, Tri Tịnh châu Trịnh Tiển được gia chức Lại bộ Thị lang, lưu lại nhiệm vụ cũ, sau đó đổi làm Tuyên huy Bắc viện sứ, Kiểm hiệu Thái bảo, Phán Tịnh châu.
[46] Ban đầu, Khiết Đan và Nguyên Hạo đang giao chiến, biên tấu dâng lên liên tục, duy chỉ có Trịnh Tiển không từng tâu lên. Triều đình xuống chiếu sai sứ hỏi nguyên do, Tiển đáp rằng nước ngoài đánh nhau, Trung Quốc không đáng lo.
Ở vùng Lân, Phủ có một tòa thành bỏ hoang gọi là Thảo Thành, Tiển chiêu mộ người địa phương làm Cung tiễn thủ, cấp ruộng theo đầu người. Từ khi Hà Đông lưu hành tiền sắt, vùng núi có nhiều than và sắt, việc đúc tiền lợi lớn, hình phạt nặng cũng không ngăn được. Tiển bèn xin đổi tỷ lệ 3 tiền sắt đổi 1 tiền đồng. Lệnh vừa ban ra, quân dân xúi giục nhau, hàng chục người kéo đến chỗ Tẩu mã Thừa thụ tố cáo[16]. Thừa thụ là hoạn quan, không thể ngăn được. Lại có đám người ồn ào ở cổng châu, người giữ cổng ngăn không cho vào. Binh mã Đô giám Tôn Duy Trung lo sợ biến loạn, sai người mặc giáp cầm vũ khí, Phán quan Trương Bá Ngọc nói: “Đây là pháp luật gây loạn, không phải dân chúng loạn. Nếu cho quân giết một người, thì việc không thể dẹp yên được.” Tiển nghe tin, liền triệu tất cả đến sân phủ, bắt mấy chục người cầm đầu, xăm mặt đày đi châu khác.
(《Trương Mậu Thực truyện》 chép: Mậu Thực làm Bộ thự Tịnh Đại, Hà Đông đổi phép tiền sắt, lòng người hoang mang, quân lính kéo nhau đến phủ Nguyên soái muốn tố cáo, nhưng cổng đóng không cho vào. Hôm đó suýt xảy ra loạn. Mậu Thực cưỡi ngựa dẫn vài tên lính đến khuyên giải, họ đều giải tán về doanh. Xét 《Trịnh Tiển truyện》 thì Tiển triệu tất cả đến sân phủ, khác với 《Mậu Thực truyện》, nay chỉ theo 《Tiển truyện》.)
[47] Triều đình xuống chiếu rằng Hà Bắc bị lũ lụt, cho phép các châu huyện chiêu mộ dân đói làm quân.
[48] Ngày Kỷ Hợi, Hữu lĩnh quân Vệ Đại tướng quân, Quả châu Đoàn luyện sứ, Tri Thọ châu Trương Kháng được làm Tướng tác Giám, Tri Hòa châu. Thiểm Tây Chuyển vận sứ tâu rằng Kháng đổi bạc trong kho không phải để tư lợi, nên được thăng chức.
[49] Ngày Quý Mão, Độ chi phán quan, Hình bộ viên ngoại lang Chu Hãng được bổ làm Trực sử quán, Tri Đàm châu, kiêm Kinh Hồ Nam lộ An phủ sứ, lại có chiếu cho Chu Hãng đứng trên chức Đề điểm hình ngục, nếu là chuyển vận sứ thì lấy quan chức mà xếp. Trước đây, quân Bắc đóng ở vùng núi sông Hồ Nam, có người phải đợi hai năm mới được thay, nhiều người chết vì bệnh dịch, Chu Hãng tâu xin đều lấy một năm làm hạn, chiếu chuẩn y.
(Việc xếp vị là ngày Quý Tỵ tháng 8, nay viết chung. Việc đóng quân lấy một năm làm hạn, theo bản truyện phụ chép.)
[50] Ngày Giáp Thìn, chiếu cho Tứ lộ An phủ ty ở Hà Bắc, phàm việc di chuyển dùng lương thực, tiền bạc, đều phải báo cáo lên Chuyển vận ty.
[51] Ngày Tân Hợi, phân phái nội thị đến các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Đông Tây, Hoài Nam để chiêu mộ dân hiến củi, ban cho chức quan.
[52] Ngày Quý Sửu, ban tiền cho binh lính làm việc ở sông Hoàng Hà.
[53] Ngày Giáp Dần, lệnh cho Hà Bắc đô chuyển vận sứ, Hộ bộ lang trung, Thiên Chương các đãi chế Thi Xương Ngôn làm Đô đại quản câu việc tu sửa sông ở Thiền châu, Tứ phương quán sứ, Vinh châu thứ sử, Tri Thiền châu Vương Đức Cơ cùng làm Đô đại quản câu; Thông phán Thiền châu, Đồn điền viên ngoại lang Trương Ngạc, Quốc tử bác sĩ Trương Sĩ Trình cùng quản câu việc tu sửa cửa sông.
[54] Vệ châu tâu rằng mưa lớn, nước tràn vào thành, các quân ra khỏi thành tránh nước, nay đã mấy ngày không có thức ăn, đã mượn trước lương tháng 7 nhưng quân lương chưa kịp tiếp tế, xin đặc cách miễn trừ, chiếu theo lời tâu.
[55] Ngày Bính Thìn, lệnh cho Mã quân phó đô chỉ huy sứ, Vũ An lưu hậu Quách Thừa Hữu làm Thiền châu tu hà bộ thự. Ngày Mậu Ngọ, gia phong Kiến Vũ tiết độ sứ. Ngày Canh Thân, lấy Quách Thừa Hữu làm Quyền tri Thiền châu, sau lại gia phong Điện tiền phó đô chỉ huy sứ. (Việc thăng chức Điện tiền phó là ngày Quý Mùi tháng này, nay viết chung.)
[56] Ngày Tân Dậu, lệnh cho Quyền phát khiển Hộ bộ phán quan, Đồn điền viên ngoại lang Yến Độ làm Đồng tri Thiền châu, kiêm quản câu việc tu sửa sông.
[57] Ngày Giáp Tý, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Tống Kỳ, Nhập nội đô tri Trương Vĩnh Hòa đến Thương Hồ tảo xem xét việc sông vỡ và kiểm tra lại công liệu.
- Đinh Độ lại vốn mang tiếng là người khinh suất 'khinh suất' nguyên bản là 'khinh mị', theo bản Tống, bản Tống tóm lược và sách 《Biên niên lục》 quyển 5 sửa lại. ↵
- Kiêm Hàn Lâm Thị độc học sĩ, dưới chữ 'Hàn Lâm' nguyên có chữ 'Viện', theo hai bản trên và 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ bỏ đi. ↵
- 'Thu phú' nguyên là 'Thu thí', căn cứ theo hai bản trên và 《Tống hội yếu》 tuyển cử 3-31 sửa lại. ↵
- 'Cẩu' nguyên là 'Tức', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- 'Thí' nguyên là 'Thức', căn cứ theo các bản trên và sách trên sửa lại. ↵
- 'Thực' nguyên là 'Hựu', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Trấn Định hai lộ, 'Trấn' nguyên là 'Chân', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 196, 《Binh chí》 sửa. ↵
- 'Trí' nguyên là 'Chế', theo các bản và 《Tống sử》 sửa lại ↵
- 'Thực' nguyên là 'Bảo', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại ↵
- 'Không chút nghi ngờ' nguyên văn là 'bất', căn cứ theo hai bản trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 37 chuyện Hạ Tủng, 《Tống sử toàn văn》 quyển 8 hạ sửa lại. ↵
- 'Thỏa mãn lòng tham' nguyên văn là 'dục', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại. ↵
- 'Thay đổi' nguyên văn là 'thu', căn cứ theo các bản trên sửa lại. ↵
- 'Cố cụ tải chi' chữ 'Cố' trên nguyên có chữ 'Kim', theo các bản khác mà bỏ. ↵
- Hình bộ lang trung Hướng Truyền Thức làm Thái thường thiếu khanh, 'Truyền Thức' nguyên bản là 'Phó Thức'. Theo 《Tống sử》 quyển 282 truyện Hướng Mẫn Trung, con trai là Truyền Chính, Truyền Thức, Truyền Lượng, Truyền Sư, Truyền Phạm, 'Phó' là sai, nay sửa lại. Các chỗ sau cũng sửa theo. ↵
- Nguyên bản chép 'Tân Sửu' thành 'Tân Dậu', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và chú thích nhỏ trong sách này, cùng 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 45 về tiền tệ mà sửa ↵
- 'Hàng chục người' trong 《Tống sử》 quyển 292, truyện Trịnh Tiển chép là 'hàng nghìn người', có lẽ đúng ↵