IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 166: NĂM HOÀNG HỰU THỨ NHẤT (KỶ SỬU, 1049)
Từ tháng giêng năm Hoàng Hựu thứ nhất đời Nhân Tông đến hết tháng 6 năm đó.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Giáp Ngọ mùng 1, nhật thực.
[2] Ngày Mậu Tuất, Tả ty gián Tiền Ngạn Viễn tâu: “Võ thần từ chức Điện trực trở lên đều phải vào chầu trong triều, nhưng mỗi ngày đến điện chỉ có vài người. Xin cử một viên Thông sự xá nhân đứng ở cửa điện để kiểm tra, ai vắng mặt ba lần sẽ bị tố cáo và tâu lên.” Vua nghe theo.
[3] Ngày Kỷ Hợi, sai Độ chi phó sứ, Viên ngoại lang Hình bộ Ngô Đỉnh Thần, Lạc uyển sứ, Mi châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Lam Nguyên Dụ đến Thiền Châu để tính toán chi phí sửa chữa sông.
[4] Ngày Canh Tý, điều Hà Bắc đô chuyển vận sứ Thi Xương Ngôn làm Tri Duyện Châu. Xương Ngôn bàn việc đắp đập chỗ sông Thương Hồ bị vỡ để đưa nước về dòng cũ, nhưng bất đồng với Giả Xương Triều nên bị điều đi. Lấy Ngô Đỉnh Thần làm Thiên chương các đãi chế, Hà Bắc đô chuyển vận sứ. Xương Ngôn sau đó lại được đổi làm Giang, Hoài, Kinh, Chiết phát vận sứ.
[5] Ngày Tân Sửu, sai Hàn lâm học sĩ Triệu (?) làm Quyền tri cống cử.
[6] Ngày Giáp Thìn, phục chức Lễ bộ thị lang, Tri Doanh Châu Vương Củng Thần làm Hàn lâm thị độc học sĩ, kiêm Long đồ các học sĩ; Tri Thái Châu Liễu Thực làm Hàn lâm thị độc học sĩ; Hình bộ lang trung, Tri Hà Trung Phủ Trình Kham làm Xu mật trực học sĩ; Tứ phương quán sứ, Vinh Châu thứ sử Vương Đức Cơ và Vệ Châu đoàn luyện sứ, Dẫn tiến phó sứ, Tri Bảo Châu Vương Trung Dung làm Tây thượng các môn sứ. Ngự sử trung thừa Trương Quan và Tri tạp sự Hà Đàm đều tâu rằng Củng Thần và Kham có tài lược, xứng đáng là bậc danh thần, lại xét tội của Trương Đắc Nhất nhẹ, nên cùng với Liễu Thực đều được thoát khỏi sổ tội. Con gái của Kham gả cho con trai Tể tướng Văn Ngạn Bác, Hà Đàm lại xin không đưa việc này xuống Trung thư bàn bạc, vì sợ Ngạn Bác tránh hiềm nghi.
[7] Ngày Mậu Thân, vì nạn lụt ở Hà Bắc, bãi bỏ việc thắp đèn dịp Thượng nguyên và xa giá vào chầu, ngừng các cuộc vui chơi.
[8] Ngày Canh Tuất, Thái phó về hưu tước Đặng quốc công là Trương Sĩ Tốn mất, xa giá đến viếng. Hôm sau, Vua nói với các tể thần: “Hôm qua có người nói ngày Canh Tuất là ngày bản mệnh của Trẫm, không nên đến viếng tang. Nhưng Trẫm vì tình nghĩa cũ với bậc thầy, nên không tránh.” Văn Ngạn Bác nói: “Đường Thái Tông ngày Thìn khóc Trương Công Cẩn, bệ hạ vượt xa hơn nhiều.” Truy tặng Sĩ Tốn chức Thái sư, Trung thư lệnh, thụy là Văn Ý, Vua tự tay viết bia mộ là “Cựu đức chi bi”. Sĩ Tốn sinh được bảy ngày thì mất mẹ, được người cô nuôi dưỡng, khi lớn lên, hết lòng phụng dưỡng cô, khi cô mất, ông để tang, đi chân đất đưa linh cữu về chôn, đặc biệt truy phong làm Nam Dương huyện Thái quân.
[9] Ngày Tân Hợi, Long đồ các trực học sĩ, Binh bộ lang trung, quyền Tri Khai Phong phủ là Trương Nghiêu Tá được bổ làm Đoan minh điện học sĩ, Cấp sự trung, đề cử tại kinh chư ty khố vụ.
[10] Ngày Ất Mão, Lưỡng Chiết chuyển vận ty xin từ nay Hàng Châu chuyên quản việc của Binh mã kiềm hạt ty một lộ, nếu quân nhân trong lộ phạm pháp, cho phép Kiềm hạt ty tùy mức độ nặng nhẹ mà xử lý, Vua đồng ý. Tống Tuyển làm Hiến ty Lưỡng Chiết, tấu xin đặt Kiềm hạt ty ở Hàng Châu ngang với Ích Châu, được tùy nghi xử lý. Truyện chép trong 《Thần lục》 quyển 79, chắc chắn liên quan đến việc Chuyển vận ty xin, nhưng ở đây không nhắc đến Hiến ty[1]. Cần xem xét thêm.
[11] Ngày Đinh Tỵ, xuống chiếu phàm người nào truyền tin giặc cướp biên giới thì chém.
[12] Ngày Mậu Ngọ, Định Châu lộ an phủ sứ Hàn Kỳ tâu: “Người biên giới là Nghiêm Chính, từng được sai đi do thám Khiết Đan, nay gia đình hắn bỗng bị Khiết Đan bắt đi, chắc sẽ bị giết hết. Xin bổ Nghiêm Chính làm Tam ban sai sứ điện thị.” Vua đồng ý.
[13] Ngự sử trung thừa Trương Quan tâu: “Các nơi dâng văn thư xin việc, Trung thư, Xu mật viện phê trạng xuống cho hai chế lệnh cùng Ngự sử đài cùng nhau xét định. Học sĩ viện báo cáo ngày tháng nghị sự, theo lệ các quan Ngự sử đài đều đến Học sĩ viện cùng ký tên tâu lên. Thần nghĩ rằng các quan Ngự sử đài chuyên trách việc đàn hặc, trong triều đình thứ bậc ngồi đứng khác nhau, xưa nay đều tách biệt công việc, chuyên trách nhiệm vụ, xin từ nay miễn cho cùng hai chế nghị sự.” Vua nghe theo.
[14] Ngày Kỷ Mùi, xuống chiếu rằng dân lưu tán ở Hà Bắc nghèo không có hạt giống và lương thực, ban cho hai mươi vạn quan tiền để mua hạt giống chia phát, các quan lệnh tá nào có thể chiêu tập khuyến khích, xét thực tâu lên.
[15] Ngày Tân Dậu, xuống chiếu rằng: “Từ xưa trị nước, ắt phải răn sự hà khắc. Gần đây phong tục tranh nhau làm việc nguy hiểm, ngục tụng ngày càng nhiều, trên dưới xa cách gấp gáp, tổn hại hòa khí, Trẫm rất đau lòng. Từ nay những người tâu việc, nếu không phải là được mất của triều đình, lợi hại của dân gian, thì không được dựa vào lời đồn mà đàn hặc, ai vi phạm sẽ bị trị tội.” Điện trung thị ngự sử Trương Thao[2] tâu rằng không nên cấm gián quan, ngự sử dựa vào lời đồn mà tâu việc, không được trả lời. Thao là người Dư Hàng. Vương An Thạch viết minh văn cho mộ Thao, tháng bảy ngày Ất Mùi, Thao lấy chức Thị ngự sử ra làm Tri châu An.
[16] Ngày Quý Hợi, đúc tiền “Hoàng Hựu Nguyên Bảo”.
[17] Tháng hai, ngày Đinh Mão, sao chổi xuất hiện ở phương hư, buổi sáng thấy ở phương đông, chỉ về hướng tây nam, đi qua sao Tử Vi đến sao Lâu, tổng cộng 114 ngày thì biến mất. Điều này căn cứ theo bản chí, còn thực lục, hội yếu và bản kỷ đều không ghi chép. Cần xem xét thêm. Chiếu rằng từ ngày mùng 5 tháng này không ngự triều ở chính điện, các bữa ăn thường ngày do Thượng thực cung cấp cũng nên giảm bớt, các quan trong ngoài hãy thẳng thắn nói về những việc cấp thiết hiện nay. Ngày mùng 4 tháng 2 năm Hoàng Hựu thứ nhất, sao chổi xuất hiện, chỉ có thiên văn chí ghi chép, còn bản kỷ và thực lục, hội yếu đều không chép. Nhưng hội yếu lại chép chiếu này vào ngày 24 tháng 12 năm Hoàng Hựu thứ hai, trong chiếu có câu: “Hơn một năm nay, trời giáng điềm lành, thực ra là do thời sự trái ngược, chính sách bế tắc, khiến lòng trời đau xót, nên mới xuất hiện sao biến.” Xét rằng mùa đông năm thứ hai không có sao biến, dù tháng 12 có giảm bớt ăn uống vì hạn hán, nhưng ngày 19 có tuyết rơi liền trở lại bình thường. Xét kỹ thì chiếu này là chiếu ngày mùng 4 tháng 2 năm thứ nhất, hội yếu nhầm năm thứ nhất thành năm thứ hai, tháng 2 thành tháng 12, mùng 4 thành 24.
[18] Tiền Hình bộ viên ngoại lang Trương Hữu Trực được làm Sử quán tu soạn, do cha ông là Trương Sĩ Tốn dâng di biểu xin. Ngự sử Hà Đàm tâu rằng, Sử quán tu soạn theo lệ cũ phải thí tri chế cáo, Hữu Trực vốn không có học thuật, không nên được bổ nhiệm. Bèn đổi làm Tập Anh điện tu soạn. Việc đổi làm Tập soạn là vào ngày Mậu Tý tháng 4 năm thứ ba, nay ghi chung lại.
[19] Ngày Mậu Thìn, vì dịch bệnh ở Hà Bắc, sai sứ ban phát thuốc.
[20] Quyền Tam ty sứ Diệp Thanh Thần tâu: “Tam ty quản lý tiền bạc, lương thực trong thiên hạ, lo việc lớn quân quốc, cần phải nhờ vào 17 lộ Chuyển vận ty cùng nhau đối phó, lại phải có bề tôi có tài năng mới có thể hoàn thành công việc. Những năm gần đây, các lộ như Kinh Hồ nộp lương thực lên triều đình, số lượng thiếu hụt không ít, đều là do Chuyển vận ty không có gì để sợ hãi[3], dẫn đến sự lơ là này. Nếu không chấn chỉnh, lâu dần trên dưới đều mất chức trách, hiệu lệnh không thi hành được, tổn thất tài vật, ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu. Thần thấy rằng, việc đề điểm hình ngục, triều đình coi trọng việc xử án, đặc biệt lập ra một ty khảo khóa, chuyên khảo sát việc thăng giáng, bổ nhiệm của các quan đề hình.
Thần xin từ nay về sau, khi Chuyển vận sứ và phó sứ thay thế, cũng sai các quan hai chế khảo xét, chia làm sáu bậc: thượng thượng, thượng hạ, trung thượng, trung hạ, hạ thượng, hạ hạ. Nếu khảo xét vào bậc thượng thượng, thì thăng chức, thăng bổ; bậc thượng hạ, thì hoặc đổi phẩm phục, hoặc thăng bổ; bậc trung thượng, thì vẫn giữ nguyên chức vụ; bậc trung hạ, thì bổ làm Tri châu; bậc hạ thượng, thì bổ làm Tri châu ở nơi xa xôi nhỏ bé; bậc hạ hạ, thì kéo dài thời gian khảo xét hoặc giáng chức. Mỗi khi nhậm chức xong, đều phải nộp sổ khảo xét, trình lên tỉnh để gửi đến Khảo khóa viện. Nay xin liệt kê các tiêu chí khảo xét như sau: Một, số hộ khẩu tăng giảm; Hai, đất đai hoang hóa hay khai khẩn; Ba, so sánh số thuế muối, trà, rượu tăng giảm so với mức định hàng năm[4]; Bốn, số lượng lương thực và vật phẩm mua theo giá định nộp lên triều đình không thiếu so với mức định hàng năm; Năm, việc báo cáo văn thư và sổ sách lên triều đình đầy đủ. Nếu hộ khẩu tăng, đất đai khai khẩn, thuế muối trà không thiếu, văn án không chậm trễ, thì xếp bậc thượng thượng; nếu đạt được 5 tiêu chí trở lên, thì xếp bậc trung thượng; nếu đạt được 3 tiêu chí trở lên nhưng văn án báo cáo chậm trễ, thì xếp bậc trung hạ; nếu thiếu 4 tiêu chí, thì xếp bậc hạ thượng; nếu thiếu hết và báo cáo văn án không kịp thời, thì xếp bậc hạ hạ.”
Chiếu theo lời tâu, và lệnh cho Khảo khóa viện và Đề điểm hình ngục viện cùng thi hành. Không thấy ghi chép về bậc thượng hạ, nghi ngờ có chỗ thiếu sót. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 ngày 5 tháng 2 năm Hoàng Hựu thứ nhất. Chỉ khảo xét việc đề hình, không đề cập đến chuyển vận, chưa rõ lý do.
[21] Ngày Kỷ Tỵ, Lưu Quỳ, Long đồ các trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, được bổ nhiệm làm Cấp sự trung, Xu mật trực học sĩ, Tri châu Vận kiêm Kinh Đông Tây lộ An phủ sứ[5]. Lúc đó, dân chúng lưu lạc ở Kinh Đông, trộm cướp nổi lên nhiều, Vua định tăng quân để phòng bị, hỏi ai có thể giữ chức ở Vận châu, tể tướng tiến cử Lưu Quỳ, bèn được thăng dùng. Quỳ đến Vận châu, mở kho phát chẩn cứu đói, nhờ vậy sống sót rất nhiều, trộm cướp dần yên, Vua ban sách khen ngợi.
[22] Ngày Tân Mùi, Phú Bật, Tri châu Thanh, Tư chính điện học sĩ, Cấp sự trung, được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang.
[23] Lúc đầu, vùng Hà Bắc bị lũ lụt lớn, dân chúng chạy nạn vào Kinh Đông không thể đếm xuể. Bật chọn năm châu trong bộ phận mình quản lý có mùa màng bội thu, khuyên dân chúng hiến thóc, thu được mười lăm vạn hộc, thêm vào kho lương của quan, tùy nơi mà dự trữ. Chọn hơn mười vạn khu nhà công tư, phân tán dân chúng đến đó, để tiện việc lấy củi và nước. Quan lại từ những người trước đây đang chờ bổ nhiệm hoặc tạm trú, đều được cấp lương, sai họ đến nơi dân chúng tụ tập, chọn những người già yếu bệnh tật mà cấp lương. Những nơi có lợi từ núi rừng sông hồ, có thể khai thác để sinh sống, cho phép dân chạy nạn lấy, chủ nhân không được ngăn cấm. Quan lại đều ghi chép công lao của họ, hẹn sẽ tâu lên triều đình, để sau này được thứ tự nhận thưởng, cứ năm ngày lại sai người đem rượu thịt gạo cơm đến khao thưởng, ai nấy đều hết sức giúp đỡ. Những người chạy nạn chết, được chôn cất trong một ngôi mộ lớn, gọi là mộ tập thể, tự viết văn tế. Khi dân chạy nạn sắp trở về làm ăn, lại tùy theo xa gần mà cấp lương. Tổng cộng cứu sống hơn năm mươi vạn người, chiêu mộ làm lính hơn một vạn người. Vua nghe tin, sai sứ đến khen thưởng, thăng chức cho ông. Bật nói: “Cứu giúp dân chúng lúc hoạn nạn là chức phận của kẻ làm quan.” Từ chối không nhận.
Trước đây, những người cứu giúp dân chúng lúc hoạn nạn đều tập trung dân trong thành, nấu cháo cho ăn. Dân đói tập trung sinh bệnh dịch, và giẫm đạp lên nhau mà chết. Có người đợi mấy ngày không ăn, được cháo thì ngã lăn ra chết, gọi là cứu người mà thực ra là giết người. Phép cứu giúp của Bật, đơn giản mà chu đáo, thiên hạ đều lấy làm khuôn mẫu. Mộ chí, thần đạo bi, phụ truyện trong 《Chu Mặc Sử》 đều chép: Bật trước vì cứu giúp dân chúng lúc hoạn nạn mà được thăng chức Lễ thị, từ chối không nhận. Lại vì bắt giặc Tề mà được thăng chức Lễ thị lần nữa, cũng từ chối. Xét sự việc, thì thấy đảo lộn. Lần thăng chức Lễ thị trước là vào tháng ba năm ngoái, vì bắt giặc Tề; lần thăng chức Lễ thị sau, là vì cứu giúp dân chúng lúc hoạn nạn. Vì lũ lụt lớn ở Hà Bắc, thực ra là do sông Hoàng Hà vỡ đê Thương Hồ vào tháng sáu năm ngoái, dân chúng chạy nạn vào mùa hè thu. Nếu là mùa xuân, thì Hà Bắc chưa từng có lũ lớn. Nay đều sửa lại cho đúng.
[24] Chiếu phát 10 chỉ huy cấm quân ở kinh sư đến đóng quân tại Kinh Đông, Kinh Tây lộ để phòng bị trộm cướp. Các chức Kiềm hạt Kinh Đông, Kinh Tây lộ đều kiêm thêm chức An phủ đô giám của bản lộ. An phủ sứ Kinh Đông là Phú Bật tâu rằng, việc bản lộ đột nhiên tăng thêm quân đồn trú cấm quân, e rằng sẽ làm dao động lòng dân, xin chỉ tăng thêm một hai chỉ huy. Chiếu rằng quân đã lên đường, đợi đến khi năm được mùa, sẽ cho trở về kinh sư.
Hộ bộ phó sứ Bao Chửng tâu: “Thần nghe rằng kinh đô là gốc rễ của thiên hạ. Trong vùng kinh kỳ, các doanh trại tập trung binh lính, đó là quân đội mạnh để bảo vệ gốc rễ. Nhưng quốc gia những năm gần đây, biên giới có động tĩnh, liền điều động quân đội một cách đại trà, e rằng không phải là kế sách lâu dài để củng cố xã tắc và bảo vệ biên cương. Thần cho rằng quân đội kinh kỳ dù có biến cố lớn cũng không nên điều động quá nhiều. Kinh đô là gốc rễ của thiên hạ. Quân đội kinh kỳ chính là lực lượng mạnh để bảo vệ gốc rễ. Gốc rễ vững chắc và mạnh mẽ, có thể giúp ích cả trong lẫn ngoài, thiên hạ còn lo gì nữa? Nếu điều động quân đội liên tục, sẽ hao tổn tài lực và làm suy yếu gốc rễ, không chỉ phá hủy chế độ của tổ tiên, mà còn không nghĩ đến sự kiện thời Đường như Thiên Bảo, Kiến Trung sao?
Hiện nay, vùng Hà Bắc, Hà Đông dọc biên giới, quân ít tài thiếu, việc chiêu mộ binh lính rất khó khăn, chỉ có dân binh là có thể sử dụng, những năm trước đã từng biên chế họ. Việc biên chế chưa thực sự hiệu quả, lại còn giải tán họ. Dân chúng vùng Hà Sóc vốn có khí chất mạnh mẽ, dũng cảm, quen thuộc với lợi hại nơi biên giới, hiểu rõ tình hình kẻ địch, so với các nơi khác, họ vượt trội xa. Hơn nữa, trước đây khi điểm duyệt, bỏ qua khách mà lấy chủ, lại bắt họ phải đăng ký theo hộ khẩu, như vậy biên chế được bao nhiêu? Thần thấy chế độ dân binh của Lý Bão Chân thời Đường khá tương đồng. Khi đó, quân Chiêu Nghĩa một mình hùng mạnh ở Sơn Đông. Để phù hợp với tình hình hiện nay, có thể áp dụng chế độ của Bão Chân, ước lược mà thi hành, một là không tốn kém lương thực, hai là lòng dân vui vẻ làm theo. Phương pháp tổ chức và huấn luyện đã có trong chế độ cũ của tổ tiên. Dân binh đã mạnh, quân đội cấm binh giữ vững kinh đô, thì trong ngoài đều yên ổn.
Hiện nay, kẻ địch phương Bắc đang tuyên bố đánh phía Tây, xây dựng thành lũy, tập hợp quân mã, nhân cơ hội này để củng cố biên phòng, nên bí mật sửa chữa hoàn thiện[6]. Nhưng các quan lại chỉ dựa vào hiệp ước, hoàn toàn không phòng bị. Nếu vạn nhất họ đòi hỏi không ngừng, không được như ý, nhân cơ hội mà phát động, lấy gì để chống đỡ? Huống chi, việc bổ nhiệm tướng lĩnh biên giới chưa thực sự đúng người. Tướng lĩnh là người nắm giữ sinh mệnh của quân đội, liên quan đến an nguy của quốc gia, không thể không cẩn thận lựa chọn. Phương pháp lựa chọn không nên giới hạn bởi địa vị cao thấp, mà cần xem xét năng lực của họ. Nếu tìm được người tài thực sự, thì nên đề bạt và sử dụng, giao phó trọng trách, ắt sẽ thành công. Nếu không chuẩn bị từ trước, khi cấp bách mới tìm kiếm, chắc chắn sẽ không kịp.”
[25] Ngày Giáp Tuất, Ty Chuyển vận Hà Bắc tâu rằng sông Hoàng và sông Ngự đều vỡ đê, nước chảy vào quân Càn Ninh, xin dời quân này đến huyện thuộc châu Doanh. Chiếu chỉ chỉ dời quân mã đồn trú đến châu Doanh. Sách 《Chí》 chép rằng sông hợp với kênh Vĩnh Tế chảy vào quân Càn Ninh.
[26] Tuyên Huy Bắc Viện Sứ, Tiết Độ Sứ Vũ Xương, Phán Quan châu Diên là Trình Lâm xin được thay thế. Ngày Kỷ Mão, gia chức Đồng Bình Chương Sự, lại làm Phán Quan châu Diên. Trình Lâm từng bắt được tù trưởng người Nhung nhưng không giết, răn bảo rồi thả về. Các bộ tộc Nhung cũng bảo nhau không bắt dân Hán. Sau một thời gian, người Hạ giả vờ đưa 500 hộ dân dắt trâu bò đến biên giới xin hàng, nói rằng quân Khiết Đan đã đến Nha Đầu, trong nước đang loạn, muốn tự quy thuận. Trình Lâm nói: “Khiết Đan đến dưới trướng của họ, ắt sẽ chiếm cả nước, sao lại có người đến hàng! Ta nghe nói người Hạ đang bắt kẻ phản nghịch, có lẽ đây là họ. Nếu không, thì là dụ ta.” Bèn từ chối không nhận. Không lâu sau, giặc quả nhiên đem ba vạn kỵ binh đến gần biên giới, lấy cớ bắt kẻ hàng. Trình Lâm đã dò biết trước, đóng chặt cổng thành, hạ cờ, răn các tướng không được động. Giặc tưởng rằng quân châu có phòng bị, bèn rút lui.
[27] Quách Khuyến và các quan tâu rằng: “Cùng với Chuyển Vận Sứ Kinh Tây là Từ Khởi, Chuyển Vận Sứ Hà Bắc là Thôi Dịch, từ cửa Hoành Lũng về phía đông đến trấn Đồng Thành của châu Vận, đo đạc địa hình cao thấp để sông trở lại dòng cũ, lợi ích rất rõ ràng. Tổng cộng đào 263 dặm 180 bước, dùng 44.904.960 công.” Tuy đã tâu lên, nhưng chưa thực hiện được. Từ Khởi là người huyện Quyên Thành.
[28] Ngày Canh Thìn, triệu tập các quan cận thần đến Gián Quan, Ngự Sử, tông thất từ chức Thứ Sử trở lên đến cửa Nghênh Dương bái yết dung nhan hai vị thánh.
[29] Ty An Phủ Duyên Biên Hà Bắc tâu rằng, biên giới phía bắc xâm chiếm thành Ngân Phòng, nhiều lần gửi văn thư nhưng không được hồi đáp, xin nhân sứ giả phương bắc đến, nhắc lại ý nghĩa của lời thề ước, bảo họ phá bỏ, triều đình đồng ý. Ngày Kỷ Tỵ tháng 10 năm Khánh Lịch thứ 5, chiếu cho Lưu Thục dụ sứ giả phương bắc bảo họ theo lời thề ước phá bỏ thành Ngân Phòng. Lại tháng 8 năm thứ 5, Bao Chửng đi sứ Khiết Đan, khi trở về, lại tâu việc thành Ngân Phòng. Không biết Khiết Đan cuối cùng có chịu phá bỏ thành này không. Cần xem xét thêm.
[30] Ty kiềm hạt Tử Quỳ lộ tâu rằng giám Dục Tỉnh có hơn một vạn người man vào cướp phá[7]. Ban đầu, hộ giám nợ tiền người Di ở Yến Châu và đánh bị thương Đẩu Lạc Muội, khiến họ tức giận muốn báo thù. Tri châu Lô Châu là Trương Chiêu Tín khuyên giải, họ đã nghe theo, nhưng giám Dục Tỉnh lại bắt người Di ở thôn Bà Nhiên là Tế Lệnh, giết mười người ở châu Trường Ninh là Lạc Chiếm, nên gây ra loạn lạc. Chiếu cho Tri châu Ích Châu là Điền Huống điều quân các quận lân cận, sai Ty kiềm hạt Tử Quỳ lộ là Tống Định đích thân đi đánh dẹp.
[31] Ngày Tân Tỵ, chiếu rằng các quan đương chức nếu dám nhập lương thảo ở biên quận, sẽ bị tội trừ danh, còn dùng tiền công sứ để nhập lương, sẽ bị luận tội vi chế, nếu có người tố cáo, dưới 300 quan sẽ được thưởng toàn bộ, quan giám biết mà dung túng sẽ cùng chịu tội.
[32] Khiết Đan và người Hạ đánh nhau, tập trung quân gần biên giới, sai sứ đến báo, biên giới có chút cảnh giác. Hoàng đế ngự ở điện Tiện, hỏi các quan cận thần về kế sách phòng thủ, Quyền Tam ty sứ là Diệp Thanh Thần tâu rằng: “Khiết Đan tập trung quân gần biên giới, biên quận có chút cảnh giác ([8], theo truyện Bao Chửng. Thanh Thần tâu, không rõ tháng nào. Trong lời tâu có nói đến tháng Trọng Xuân, nên phụ vào cuối tháng này.)
Bệ hạ trị vì thiên hạ đã 28 năm, chưa từng có một ngày nào tự cho mình được nhàn rỗi, thế mà bọn Khương phản loạn xảo trá, năm nào cũng gây họa. Xét trên thì bệ hạ không có gì thất đức, triều đình không có chính sự thiếu sót, thế mà chúng dám làm như vậy, há chẳng phải là do tướng soái đại thần không được người tài, không thể giúp bệ hạ phô trương uy đức và yên định biên cương hay sao? Xưa Vương Thương ở triều, Thiền Vu không dám ngẩng mặt nhìn; Chí Đô đến đất Đại, Hung Nô không dám xâm phạm biên giới. Nay trong triều thì phụ tá tướng soái thiếu mưu lược, kỷ cương không chấn chỉnh, hiệu lệnh không thống nhất, thưởng phạt không công bằng, xử lý công việc thì do dự, chỉ biết xu nịnh, nếu chẳng may có việc lớn xảy ra, thì còn ai cùng bàn mưu kế? Đó là lý do khiến kẻ địch coi thường nhà Hán. Bên ngoài thì binh lính không được luyện tập thường xuyên, tướng lĩnh không được tích lũy kinh nghiệm, binh sĩ kiêu ngạo hung hãn mà không thể sử dụng, tướng lĩnh nhút nhát nhu nhược chỉ biết nhân nhượng. Đó là lý do khiến ngoại quốc có thể xâm phạm. Năm Khánh Lịch đầu tiên, Lưu Lục Phù đến, triều đình không có phương lược gì, không thể đấu trí trên bàn tiệc để phá tan mưu đồ của giặc. Lưu Lục Phù ban đầu cũng nghi ngờ nước lớn có người tài, nên giấu kế gian mà chưa phát động. Sau khi thấy rõ tình hình trong ngoài, liền ngang nhiên làm càn, chỉ cần phái một sứ giả đến, đã ngồi không thu được hai mươi vạn vật, khiến chúng ta phải mãi mãi hao tổn sức lực để cung phụng. Đó là điều khiến kẻ sĩ có nhận thức phải thở dài vì nước nhà.
Nay chiếu thư hỏi về việc sứ giả phương Bắc đến cửa khuyết, lấy danh nghĩa đánh phía Tây, nếu chúng có yêu cầu gì, thì trả lời thế nào? Thần nghe nói trong thệ ước có ghi rõ, hai bên không được yêu cầu gì của nhau. Huống chi Nguyên Hạo phản loạn ở biên giới, nhiều năm qua đã phải đánh dẹp, Khiết Đan ngồi nhìn quân ta xuất chinh, đâu có giúp đỡ chút nào. Nay nước chúng xuất quân, lại đòi ta giúp đỡ, phá hoại minh ước, vi phạm thệ ước, chẳng phải là quá đáng sao? Nếu sai người biện luận giỏi, phân rõ phải trái, quyết một trận để phá tan mưu đồ của chúng, Khiết Đan từ khi thông hiếu đến nay, đã dần quen với lễ nghĩa, ta chính nghĩa chúng tà ác, há chẳng sợ mà khuất phục sao? Nếu chúng không biết lỗi, dám ngang nhiên xâm lấn, trong khi vùng Hà Sóc vừa bị thiên tai tàn phá, đồng ruộng không còn nhà cửa, ta củng cố thành lũy cố thủ, dù chúng tiến sâu vào, liệu có thể ở lâu được không? Đã không có lương thực cung ứng, ắt phải nhanh chóng rút lui. Sau đó ta chọn lựa dũng sĩ, chặn đánh quân địch rút lui, bày trận phục kích, đánh úp đầu đuôi, nếu không bắt sống được, cũng sẽ khiến chúng đại bại.
Chiếu hỏi về tài năng phụ tá, tài năng trị quốc, cùng với tướng lĩnh cấp dưới, hiện nay ai có thể đảm nhận được. Thần cho rằng không lo không có người, mà lo có người mà không biết dùng. Nay trong số các bề tôi phụ tá, người mang lòng trung nghĩa sâu sắc nhất, không ai bằng Phú Bật; người vững vàng giữ gìn xã tắc, không ai bằng Phạm Trọng Yêm; người am hiểu cổ kim cố sự, không ai bằng Hạ Tủng; người có tài nghị luận sắc bén, không ai bằng Trịnh Tiển; tài năng trị quốc, nghiêm túc có kỷ luật, không ai bằng Hàn Kỳ; người dám quyết đoán trong việc lớn, không ai bằng Điền Huống; người cương quyết không sợ hãi, không ai bằng Lưu Hoán; người có tầm nhìn xa rộng và mưu lược, không ai bằng Tôn Miễn. Còn về tướng lĩnh cấp dưới, quý ở chỗ có thể ngồi bàn mưu tính kế, không cần phải trực tiếp xông pha tên đạn. Vương Đức Dụng vốn có uy danh, Phạm Trọng Yêm am hiểu sâu sắc về quân chính, Bàng Tịch có nhiều kinh nghiệm biên cương, đều là những người được chọn. Địch Thanh, Phạm Toàn khéo léo trong việc điều khiển quân chúng, Tương Giai trầm tĩnh có mưu lược, Trương Kháng phóng khoáng dũng cảm, Lưu Di Tôn tài năng võ nghệ quyết đoán, Vương Đức Cơ thuần khiết dũng mãnh, đều có thể bổ sung vào hàng tướng lĩnh cấp dưới. Còn về việc uy hiếp và an định, thì Hạ Tủng và Trịnh Tiển là những người xuất sắc nhất.”
Chiếu rằng: Phương Bắc bị thiên tai, quân lương thiếu hụt. Đó là do Tam Ty không có kế hoạch chuẩn bị, Chuyển vận sứ không làm tròn chức trách, đã không phải một ngày. Việc đã qua thì không truy cứu, nhưng việc sắp tới lại không lo liệu, thần không thấy như vậy là được. Ví như Thi Xương Nguyên tiếp nhận chính sự đã lâu hỏng hóc, vừa muốn dốc sức lo liệu công việc[9], chỉ vì một lần trái ý Giả Xương Triều, liền bị điều chuyển, quân lương sao không thiếu hụt? Từ tháng 8 mùa thu năm ngoái đã tính toán mua lương thực, nhưng Xương Triều cố chấp ý kiến riêng, đến nay giữa mùa xuân vẫn chưa quyết định, tài phú sao có thể dồi dào? Tiên triều lập ra kho nội phủ, vốn để phòng bị việc bất thường, nay người quản lý keo kiệt, tự phân biệt đối xử, khi cấp bách lại không dùng đến, thần không hiểu làm như vậy là thế nào. Còn như việc lương thực quan trọng, vận chuyển khó khăn, không gì bằng lập lại các bậc tước vị, giảm bớt số lượng, để những người giàu có lầm lỗi, có thể đóng góp lương thực để tránh bị đánh đòn, chắc chắn sẽ nhanh chóng giải quyết được. Nếu biết tiết kiệm để giảm chi phí, dần dần đạt được sự thư thái, lời nói đức độ như vậy, là phúc của thiên hạ. Gần đây nhiều kẻ chức nhỏ vượt cấp xin lương cao, hoặc thân làm Nội cung phụng, lại được cấp bổng lộc của chức Thứ sử xa, hoặc làm Quan sát sứ, chiếm giữ tước phong của chức Lưu hậu. Cửa may mắn ngày càng mở rộng, vật ban thưởng không có giới hạn. Nếu bảo các cơ quan giữ vững, tuân theo quy định cũ, may ra sức dân cũng được nhẹ nhàng.
Chiếu hỏi về việc ngựa chiến thiếu thốn, có kế sách gì để đủ dùng? Thần trước đây ở Tam ty, từng trình bày về tệ nạn của việc chăn nuôi ngựa, chiếm dụng hơn chín vạn khoảnh ruộng tốt, cần phải tiêu tốn trăm vạn quan tiền, nhưng số ngựa trong cung chỉ mới có ba bốn vạn, khi cần điều động gấp thì không thể dùng được. Nay muốn không tốn kém mà có ngựa ngay, không gì bằng việc bắt dân nuôi ngựa ở năm lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Kinh Đông, Kinh Tây. Hộ trên nuôi một con ngựa, hộ trung hai hộ nuôi một con, người nuôi ngựa được miễn một đinh dịch[10]. Làm như vậy thì có thể dễ dàng có được hai mươi vạn ngựa chiến, không phải là việc khó.”
[33] Tháng 3, ngày Giáp Ngọ, Đông Nhiễm viện sứ, Kinh Hồ Nam lộ Kiềm hạt Dương Điền được bổ làm Đồn điền viên ngoại lang, Trực sử quán, Tri Tùy châu. Điền tự trình rằng từng ở Lĩnh Nam bắt giết giặc man, nên mắc bệnh do khí độc, xin được trở lại làm quan văn, cai quản một quận nhỏ gần phía bắc, nên có mệnh lệnh này.
[34] Ngày Đinh Dậu, chiếu cho Tri châu và Thông phán của Hứa châu từ nay kiêm quản việc chăn nuôi ngựa.
[35] Tri Hãn châu Quách Tư dâng lên loại nỏ “Độc viên xung trận vô địch lưu tinh”. Tư có tài khéo léo, thường tự chế tạo binh khí, đều đơn giản mà hữu dụng. Điều này căn cứ theo bản truyện của Tư mà sửa chữa.
[36] Ngày Kỷ Hợi, Hình châu Quan sát sứ Lý Đoan Nguyện bị tước một chức quan, vì tội tư thông với tỳ nữ của cha mình, và từng giết lừa để đãi khách, bị người tố cáo.
[37] Ngày Canh Tý, Vua ngự ở điện Diên Hòa, triệu tập các quan phụ chính đến xem mẫu gỗ của chiếc hồn nghi mới chế tạo. Xét theo 《Tống sử Thiên văn chí》 ghi là “mẫu gỗ”, bản này ghi là “bản mẫu”, sai, nay sửa lại. Lúc đó, Vua sai các nhật quan là Thư Dịch Giản, Vu Uyên, Chu Tông tham khảo chế độ cũ của Lương Lệnh Toản và Lý Thuần Phong để đúc lại hồn nghi.
[38] Giám sát ngự sử Trần Húc tâu: “Gần đây những người được cử làm tiếp bạn và sứ phó vào nước khác, phần nhiều là con em nhỏ tuổi chưa từng trải việc của các nhà quyền quý, hoặc nhờ ân lệ mà xin được. Xin rằng những người được cử làm sứ phó vào nước khác, nên chọn trong hàng vũ thần những người đã từng trải qua nhiệm vụ ở biên giới, hoặc đã kinh qua nhiều việc khó khăn và có tài năng để đảm nhận.” Chiếu rằng từ nay về sau phải cẩn thận chọn người. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 ngày 8 tháng 3, ngày 8 là ngày Tân Sửu, ghi chép về việc Bao Chửng xuất sứ.
Trước đó, Hộ bộ phó sứ Bao Chửng trả lời chiếu hỏi về sách lược phòng thủ biên giới rằng:
“Ba con đường vốn là nơi kiểm soát trọng yếu: phía trung là Lương Môn, Toại Thành, phía nam vào Chân Định; phía tây là Nhạn Môn, Câu Chú, phía nam vào Tịnh Châu, Đại Châu; phía đông là Tùng Đình, Thạch Quan, phía nam vào Thương Châu. Tuy nhiên, từ Tùng Đình trở về nam vài trăm dặm, đầm lầy hiểm trở, từ biên giới phía bắc đi ra thì đường nước đủ để ngăn chặn lối vào. Chỉ có Nhạn Môn, Câu Chú dựa vào Trường Thành mà đi về phía nam, địa lý đông tây hơi rộng, là con đường xưa nay Tống và Liêu thường qua lại, nếu có xâm phạm, đây là nơi đáng lo nhất. Hiện nay, dọc biên giới Hà Bắc, quân lính kiêu căng, tướng lĩnh lười biếng, lương thực thiếu thốn, vũ khí hư hỏng. Người chỉ huy quân đội không phải là những thanh niên hào hoa, thì là những lão tướng đã bãi chức, che giấu sự thật, lừa dối, chỉ lo việc trước mắt, giữ lời nói khoa trương, huấn luyện chỉ có danh mà không có thực, nghe thấy khiến người ta lạnh lòng. Nên giao cho các đại thần trong ngoài, chọn lựa kỹ những người có tài thực sự để đề bạt và giao trọng trách, những kẻ nhu nhược thì bãi chức. Nếu không làm nhanh chóng, một khi có việc gấp mới lo tính toán thì sẽ không kịp.
Hơn nữa, Hà Bắc là vùng đất căn bản của quốc gia, liên quan đến sự tồn vong. Những năm gần đây, sông Hoàng Hà vỡ đê, lũ lụt nghiêm trọng, hơn nửa dân chúng đói khổ, công tư đều khốn đốn. Dù nhiều lần ban chiếu thánh, thương xót cứu tế, sứ giả đi lại không ngừng, nhưng ruộng đồng bỏ hoang, dân lưu vong chưa trở về, kho lẫm trống rỗng, không đủ chi dùng vài tháng. Đây là lỗi của những người chủ trì kế hoạch trước đây. Thần trước đây từng phụng mệnh đi sứ, hộ tống và trở về nước, đã ba lần dâng tấu, xin cấp tiền bạc đến Hà Bắc, khi giá lúa rẻ thì mưu tính chuẩn bị, để phòng khi mất mùa. Cuối cùng vì địa vị thấp, lời nói không được coi trọng, nên không được thi hành. Hiện nay, giá lương thực đắt đỏ, các cơ quan dù cố gắng lo liệu, nhưng tài chính không đủ, làm sao giải quyết được. Nếu cứ chần chừ, không xử lý kịp thời, e rằng không phải là phúc cho xã tắc. Mong bệ hạ đặc biệt quyết đoán, quyết tâm thực hiện ngay, tránh để lại hậu họa.
Thần từng đọc 《Hán thư》, thấy Tuyên Đế vì Tây Khương chưa dẹp yên, Kinh Triệu doãn Trương Xưởng dâng lời khuyên, xin cho những người có tội không phải trộm cướp, nhận của hối lộ giết người và phạm pháp không được tha, đều có thể tùy mức độ nộp thóc để chuộc tội. Xin bệ hạ hạ lệnh cho Hữu ty bàn bạc về những tội có thể chuộc, quy định điều khoản, ấn định mức nộp thóc nhiều ít, để các châu quân Hà Bắc có thể chuộc tội. Đây cũng là một biện pháp tạm thời để cứu giúp. Hơn nữa, quan viên ba lộ rất đông, thần thấy vào triều Chân Tông hoàng đế, vì Hà Bắc mất mùa đói kém, đã giảm bớt 75 viên quan triều đình, sứ thần, mạc chức, các chức vụ bố trí, áp trận sứ thần quân chức ở các lộ, từ quan sát sứ trở xuống, đều bãi bỏ về kinh. Đây là điển lệnh của triều trước, mong bệ hạ noi theo mà thi hành.
Thần lại nghe nói quân đồn trú ở Hà Bắc không dưới 30 vạn. Nhưng việc phòng thủ biên giới, nghiêm ngặt việc quân, không thể thiếu được. Người già yếu nhiều, khi cấp bách lại không dùng được. Trong lúc lương thực khó khăn này, chi phí cung ứng ngày càng lớn, nếu chẳng may lương thực dự trữ không đủ, tất sẽ sinh biến. Mong bệ hạ hạ lệnh cho Ty chuyển vận, Ty an phủ ở bản lộ, lựa bỏ người già yếu, để giảm bớt sức dân. Hơn nữa, người già yếu bỏ đi thì tinh nhuệ sẽ mạnh, sức dân giảm bớt thì nuôi dưỡng sẽ đủ. Các đội quân gần kinh thành, nên lệnh cho dần dần rút về các châu quân có lương thực dự trữ để ăn. Nếu không, sức dân sẽ cùng kiệt, họa hại không nhỏ. Thần nghe nói những năm gần đây ở Vận châu, Đồng châu đặt hai giám ngựa, mỗi nơi chiếm mấy nghìn khoảnh đất dân. Rồi từ các giám ở Hà Bắc chia ngựa đến các nơi đó chăn nuôi, chưa đầy một năm, chết đến bảy tám phần mười, đến nay vẫn là tai họa của hai châu. Có người bàn rằng không bằng theo lệ cũ trả về các giám ở Hà Bắc, đem đất đó trả lại cho dân, thì ngựa không bị tổn hại, dân được lợi. Vì việc ngựa thuộc về Quần mục ty, các quan lại ở các châu không được quản hạt, lợi hại không thể biết được. Nay nếu giao cho chuyển vận sứ kiêm quản, thì tuần tra xem xét, có thể bỏ được tệ xấu tích tụ. Để thời gian lâu, tất sẽ tăng thêm. Lại lo gì không đủ chiến mã?
Thần trước đây từng dâng sớ trình bày, đều là những việc thường vụ của quốc gia, mà những người tâu việc cũng thường đề cập đến. Thần cho rằng việc cấp bách hiện nay là chọn những đại thần trong triều đình dám đảm đương trách nhiệm thiên hạ, độc lập không sợ hãi, lấy an nguy làm trách nhiệm của mình, giao phó cho họ kinh lược bốn phương, may ra có thể ngăn chặn được những mối lo trước đây, và làm giảm bớt nỗi lo của bệ hạ.”
Một ngày khác, lại tâu:
“Đóng quân phòng thủ biên giới là chế độ thường xuyên từ xưa, nhưng lo ngại rằng thuế má của dân có hạn, lương thực cho quân đội không đủ, cần phải tính toán rộng rãi để cung ứng chi phí. Nếu gặp năm mất mùa hoặc giặc cướp tăng quân, thì việc thu thuế bừa bãi sẽ không tránh khỏi. Dân đã khốn khổ, thì làm sao chống lại được kẻ địch? Đây cũng là điều tất nhiên. Hà Bắc từ khi mất sáu châu hiểm yếu ở phía sau núi, không còn gì để cố thủ, nên việc tích trữ quân lương thường lo không đủ. Như những năm gần đây, kẻ địch đột nhiên gây biến, dù có xin hòa, nhưng cuối cùng cũng không phải là kế lâu dài. Thêm vào đó, những vùng đất màu mỡ dọc biên giới lại bị biến thành đầm hồ, thuế má không thu được gì, đều phải trông cậy vào triều đình. Dù có dốc hết tài sản thiên hạ để cung cấp cho một vùng, nhưng khi không có việc gì, hàng ngày vẫn thường thiếu thốn, không có dự trữ cho nhiều năm. Nếu có chút quân đồn trú, thì làm sao đủ cung ứng? Há lại ngồi nhìn cái hại đó mà không tìm cách cứu vãn sao?
Thần mong bệ hạ đặc biệt quyết đoán, tuyên dụ các đại thần chấp chính, đối với quân mã các châu quân dọc biên giới và gần kinh đô, ngoài số cần giữ lại phòng thủ, còn lại các quân đồn trú và trú bạc, đều lệnh cho về doanh, quân lương tự túc, chia nhau đóng ở các châu Hà Nam, Duyễn, Vận, Tề, Bộc, Tào, Tế, v.v… Huống chi những nơi này đất đai màu mỡ, dễ dàng cung cấp lương thực, cứ ba năm thay đổi một lần, gặp lúc có biến, có thể lập tức xuất quân, không quá mười ngày là đến nơi, há lại có việc chậm trễ không kịp sao? Hơn nữa, quân phòng thủ biên giới thời xưa, ba mùa làm ruộng, một mùa luyện tập, công tư đều đủ. Chưa từng có việc quân số quá nhiều, hao phí lương thực, làm cạn kiệt quốc khố và làm dân mệt mỏi như ngày nay! Tuy nhiên, cầm vũ khí chống giặc mạnh, tất nhiên không thể thiếu, nhưng nếu biết cách nuôi dưỡng và huấn luyện, thì trên dưới không lo thiếu thốn, khi cần dùng đến, thì dưới có sức dư thừa.
Những người bàn luận nếu cho rằng quân đồn trú không thể giảm bớt hoàn toàn, thì có thể dùng hơn mười tám vạn người dũng cảm, khỏe mạnh từ những năm trước để bổ sung vào số quân đó. Dân vùng Hà Sóc vốn có tính cách mạnh mẽ, gan dạ, từ nhỏ đã quen với lợi hại nơi biên giới, thông hiểu tình hình thật giả của nước địch, so với quân phương Nam, họ cực kỳ tinh nhuệ. Một là không tốn kém lương thảo, hai là lòng dân vui vẻ làm theo, phương pháp huấn luyện thì đã có chế độ cũ lưu lại. Nếu cho rằng lương thực quân đội tạm đủ, hòa hảo đang vững chắc, chỉ lo vượt qua trước mắt, coi đó là kế hoạch thành công, ngại thay đổi sắp xếp, thần e rằng ngày tháng hao mòn dần, trong ngoài càng thêm kiệt quệ, một khi dùng binh, thì sẽ tăng thêm thuế khóa nặng nề, dân chúng tất oán giận nổi loạn, ngay bên cạnh đều trở thành kẻ thù, há còn rảnh để chống giặc sao? Đây chính là mối họa căn bản của quốc gia, nếu không cùng lòng hợp sức, quyết tâm nhanh chóng lo liệu, đến lúc sự việc xảy ra sẽ không kịp nữa.”
Lại nói: “Trong những năm Khánh Lịch, triều đình từ các châu quân ở Hà Bắc đã điểm danh được khoảng hơn mười tám vạn người tráng đinh trong số hương binh, chia làm hai phiên để tập luyện. Mỗi phiên kéo dài ba tháng, bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 9 đến cuối tháng 2 thì kết thúc. Sau đó, theo chỉ dụ của Xu mật viện, chỉ giao cho các huyện lệnh và tá quan địa phương chia làm hai phiên tập luyện, từ tháng 10 đến cuối tháng giêng, không cấp thêm lương thực. Nghe nói sau này việc tập luyện bị bỏ bê[11], e rằng đây không phải là kế sách lâu dài để phòng ngừa và giải quyết mối lo. Dù có người bàn rằng nên tiết kiệm lương thực để giảm chi phí, nhưng hơn nữa, với hơn mười tám vạn hương binh, nếu chia làm hai phiên, mỗi người mỗi tháng được cấp chín đấu lương thực và hai cân muối, tổng cộng khoảng hơn ba mươi hai vạn thạch lương và hơn bảy nghìn cân muối, chỉ bằng thuế của một châu ở Hà Bắc. Với địa bàn Hà Bắc rộng hơn nghìn dặm, gồm hơn ba mươi châu quân, nếu lấy thuế của một châu để cấp cho hơn mười tám vạn hương binh, so với chi phí của quân đồn trú, trú bạc và lương thực trong mười hai tháng thì rất ít, nhưng lợi ích lại rất lớn. Hơn nữa, người dân địa phương vốn mạnh mẽ và dũng cảm, nếu được huấn luyện đầy đủ, có thể thay thế quân biên phòng, còn quân cấm lữ có thể phân bố đồn trú trong nội địa, đây là điều lợi hại rõ ràng. Mong được chỉ đạo đặc biệt, xem xét tờ tấu trước đây của thần, lập tức quyết định và thi hành.”
Ngày Tân Sửu, sai Chửng đi Hà Bắc lo việc chuẩn bị lương thảo.
[39] Ngày Quý Mão, điều Phán Đại Danh phủ, Sơn Nam Đông Đạo Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Giả Xương Triều làm Phán Trịnh châu, Hàn lâm học sĩ, Hộ bộ Lang trung, Quyền Tam ty sứ Diệp Thanh Thần làm Hàn lâm học sĩ, Tri Hà Dương.
Lúc đầu, Ty chuyển vận Hà Bắc bị mất kế hoạch dự trữ quân lương[12], Thanh Thần tự mình dùng hơn 70 vạn hộc gạo từ kho Biện để cấp cho, lại xin phát tiền từ kho Đại Danh để hỗ trợ việc mua lương thực biên giới, nhưng Xương Triều ngăn chiếu không theo, Thanh Thần cố tranh luận, lại dâng sớ tố cáo Xương Triều chuyên quyền không thần phục, tể tướng muốn dung hòa cả hai[13], nên có mệnh lệnh này.
Khiết Đan tập hợp những binh lính đào ngũ dũng cảm, gọi là “Đầu lai Nam quân”. Theo luật biên giới, binh lính đào ngũ tự quay về sẽ bị xử tử. Xương Triều tấu xin bãi bỏ luật này, người quay về được tha tội, dần dần được thăng chức. Từ đó, người quay về rất đông, nhờ vậy mà dò biết được việc của Khiết Đan. Khiết Đan bèn từ chối nhận binh lính đào ngũ, bãi bỏ không dùng Nam quân nữa. Người biên giới dùng đất đai làm vật thế chấp cho Khiết Đan, địch dần dần xâm lấn biên giới. Xương Triều đặt ra luật, nếu chủ đất không chuộc lại đúng hạn, người khác có thể chuộc và sở hữu đất đó, hơn một năm sau, đất đai đều được thu hồi.
Thanh Thần tính tình thẳng thắn, gặp việc dám làm, tâu đối không hề khuất phục. Vợ của Quách Thừa Hữu là con gái của Hoa Vương Nguyên Xưng, được phong làm Quận chủ và cấp bổng lộc. Khi Thừa Hữu làm Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, vợ ông không được phong thêm, xin tăng thêm bổng lộc hàng tháng, Thanh Thần cương quyết tâu không cho. Vua nói: “Thừa Hữu quản quân, vợ lại là con gái của chư vương, nên ưu đãi.” Thanh Thần đáp: “Điều đó sẽ tạo tiền lệ xấu.” Rồi cuộn tờ tâu lại bỏ vào trong áo, không thi hành.
Thanh Thần đến Hà Dương, chẳng bao lâu thì mất.
[40] Phán Diên Châu, Vũ Xương tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Trình Lâm làm Hà Bắc an phủ sứ, phán Đại Danh phủ kiêm Bắc Kinh lưu thủ ty; Phán Hà Dương, Tuyên huy Bắc viện sứ, Vũ Ninh tiết độ sứ Lý Chiêu Lượng làm Thiểm Tây an phủ sứ, phán Diên Châu.
[41] Đoan minh điện học sĩ, Cấp sự trung Trương Nghiêu Tá quyền Tam ty sứ.
[42] An phủ sứ Định châu lộ Hàn Kỳ tâu: “Gần đây triều đình muốn cấm chặt phá rừng núi gần biên giới để ngăn chặn đường xâm nhập của giặc. Lúc đó, cả những vùng đất canh tác ở vùng núi thấp gần trong cũng bị cấm, khiến dân biên giới đột nhiên mất kế sinh nhai. Nay giá củi và than đắt đỏ, lại khiến kẻ địch nhân cơ hội thu lợi lớn. Thần từng sai quan đi xem xét những nơi có thể cấm, cách xa kẻ địch còn năm sáu mươi dặm, cũng có thể mở rộng phòng ngự. Đã quy định riêng những khu vực có thể cấm, dán bảng cáo dân, những nơi không thuộc lệnh cấm thì cho phép chặt phá.” Trước đó, Dương Hoài Mẫn quản câu đồn điền đầm hồ Hà Bắc, tâu xin cấm đốn củi ở vùng núi phía tây bắc Định châu. Sau đó, đốc thúc các châu huyện từ phía bắc sông Ngự tăng cường tuần tra nghiêm ngặt, người vi phạm đều bị xử phạt, dân biên giới có người phải dời đi nơi khác. Đến khi Hàn Kỳ bãi bỏ lệnh cấm, mọi người đều thấy thuận tiện. Sông Ngự, một bản chép là sông Quát, gia truyền cũng chép là sông Quát, cần xem xét thêm. Sách 《Hội yếu》 phần biên phòng chép ngày 11 tháng 3, Tri Định châu Hàn Kỳ tâu xin cấm chặt phá ở phía bắc địa giới châu mình, được chấp thuận. Nội dung này khác với sách 《Thực lục》, cần xem xét thêm.
[43] Ngày Ất Tỵ, Vua ngự điện Sùng Chính, thi các tiến sĩ do Lễ bộ tiến cử.
[44] Ngày Bính Ngọ, thi các khoa khác.
[45] Ngày Canh Tuất, Lễ bộ Thị lang Lý Thục được phục chức Đoan Minh điện học sĩ, kiêm Hàn Lâm Thị độc học sĩ.
[46] Ngày Quý Sửu, ban cho Tiến sĩ Phùng Kinh cùng 174 người khác đỗ đệ nhất giáp, 106 người đỗ đệ nhị giáp[14], 209 người đỗ đệ tam giáp tại điện Sùng Chính. Phùng Kinh là người Giang Hạ.
[47] Ngày Giáp Dần, ban cho các khoa thi khác đỗ đệ nhất giáp và đệ nhị giáp tổng cộng 550 người tại điện Quan Văn.
[48] Ngày Đinh Tỵ, Hoàng đế ngự tại điện Sùng Chính xét lại các tù nhân, giảm tội từ tử hình trở xuống một bậc, tội đánh trượng trở xuống thì tha bổng.
[49] Ra chiếu dời binh lính địa phương và binh lính đồn trú ở những nơi thiếu lương thực tại Hà Bắc về các châu quân phía nam gần đó[15], đợi khi chuẩn bị đủ lương thực biên giới thì lại lệnh cho họ trở về đồn trú, theo lời tâu của Bao Chửng. Lời tâu của Bao Chửng đã được chép vào ngày Tân Sửu trước đó. Xem truyện Bao Chửng trong sử thì nói rằng Bao Chửng trước đó đã đề nghị dời binh, nhưng không được trả lời, sau khi làm Đô tào vận sứ Hà Bắc, lại xin việc này, nhưng cuối cùng việc không thành. Bao Chửng làm Đô tào vận sứ vào tháng 3 năm Hoàng Hựu thứ tư. Truyện và thực lục chép khác nhau, cần xem xét lại. Tháng 6 năm đó, ngày Kỷ Tỵ, lại dời binh ba châu Mạc, Thâm, Bác về phủ Chân Định và châu Kỳ Thiền, thực lục cũng chép là theo lời Bao Chửng. Không rõ tại sao truyện Bao Chửng lại nói “việc cuối cùng không thành”[16], có lẽ truyện cho rằng số binh dời đi không nhiều, không phải là đề nghị ban đầu của Bao Chửng chăng? Cần xem xét lại.
[50] Hai trại chăn nuôi ngựa Quảng Bình chiếm đất dân của ba châu Hình, Minh, Triệu tổng cộng mười lăm nghìn khoảnh, trước đây đã bãi bỏ một trại, nhưng vùng đất màu mỡ ven sông Chương, dân vẫn không được canh tác, Bao Chửng xin đem hết cấp cho dân, Vua đồng ý. Việc này căn cứ theo truyện của Bao Chửng ghi chép thêm, không rõ ngày tháng. Xét tháng 3 năm Khánh Lịch thứ 7 đã bãi bỏ trại Quảng Bình ở châu Minh, Bao Chửng lại có lời tâu này, có lẽ vì trại Quảng Bình vốn đặt hai trại.
[51] Ngày Kỷ Mùi, Khiết Đan phái Xu mật phó sứ (theo sử Liêu là Bắc viện Xu mật phó sứ), Tiết độ sứ quân Liêu Hưng là Tiêu Duy Tín lại đến báo việc chinh phạt phía tây.
[52] Ngày Canh Thân, Hàn lâm học sĩ, quyền Tri Khai Phong phủ là Tiền Minh Dật làm sứ sang Khiết Đan đáp lễ, Tây thượng các môn sứ, Thứ sử châu Vinh là Hướng Truyền Phạm làm phó sứ. Truyền Phạm là con của Hướng Mẫn Trung.
[53] Mùa hạ, tháng 4, ngày Giáp Tí, Vua ngự điện Sùng Chính xem các loại vũ khí do Tri châu Lễ[17], Cung bị khố phó sứ là Tống Thủ Tín dâng lên, gồm: nỏ Lưu tinh vô địch xung trận, khiên da trúc Cự mã, thương ba lưỡi sơn đen thuận nước, giáp sắt hình chữ Sơn, đao nỏ Cự mã dã chiến, xe Trại cước, xe Kiếm luân vô địch xung trận, tên lông chim lớn lắp nỏ, tổng cộng tám loại. Vua phong cho Lý Tích, Đô tri binh mã sứ của châu này được sai đi, làm Điện thị Tam ban sai sứ.
[54] Ngày Canh Ngọ, lệnh cho Hộ bộ phó sứ Bao Chửng cùng với An phủ ty, Chuyển vận ty bốn lộ Hà Bắc bàn việc giảm bớt quan lại dư thừa, và loại bỏ binh sĩ không đủ sức làm việc, rồi tâu lên.
[55] Ngày Nhâm Thân, đổi châu Ba trong khu vực động Khê thuộc châu Ung thành châu An Bình.
[56] Ngày Quý Dậu, Quốc mẫu nước Khiết Đan phái Lâm nha, Tiết độ sứ Bảo Tĩnh là Tiêu Hữu, Khởi cư xá nhân, Tri chế cáo là Diêu Cảnh Hi; Khiết Đan phái Tiết độ sứ quân Chiêu Đức là Gia Luật Quỳ, Vệ úy thiếu khanh là Lý Nhân Hữu sang chúc mừng tiết Càn Nguyên.
[57] Giả Xương Triều, Tân Tri châu Trịnh đi qua kinh đô vào chầu. Ngày Ất Dậu, được phong làm Tường Nguyên quan sứ, lưu lại kinh sư.
[58] Ngày Đinh Hợi, Hữu ty gián Tiền Ngạn Viễn dâng sớ khuyến nông, nói: “Nông nghiệp là việc cấp bách của quốc gia, là cội nguồn để thuận theo trời, nuôi dưỡng tài nguyên, phòng chống lũ lụt, hạn hán, và chuẩn bị cho biên giới. Đời Đường Khai Nguyên, số hộ là hơn 8.900.000, ruộng đất khai khẩn được định là hơn 14.300.000 khoảnh[18]. Nay quốc gia có hơn 7.300.000 hộ, ruộng đất khai khẩn được định là hơn 2.150.000 khoảnh, trong đó ruộng đất bỏ hoang không dưới 300.000 khoảnh, điều này cho thấy ruộng đất không được khai phá, mà dân du thủ lại nhiều. Việc khuyến khích và kiểm tra nông nghiệp há lại không nên đẩy mạnh sao! Triều đình ta, các chức Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục, Tri châu, Thông phán đều mang chức vụ khuyến nông, được ban sắc kết hàm, chính là để đốc thúc việc nông, nhưng chỉ có văn bản suông, không có thực chất khuyến đạo[19]. Thần cho rằng nên thiết lập Ty Khuyến nông, lấy Tri châu làm trưởng quan, Thông phán làm tá quan, cử các quan Mạc chức, Châu huyện thanh liêm cương trực làm Phán quan, trước hết ghi chép số ruộng đất khai khẩn, số hộ khẩu, đập, ao, núi, đầm, kênh rạch, dâu, gai vào sổ sách, sau đó giao cho quan Khuyến nông thiết lập biện pháp khuyến khích, trừ hại hưng lợi, đợi cuối năm lúc nông nhàn, Ty Chuyển vận sẽ khảo sát và thưởng phạt.” Vua khen ngợi và tiếp nhận. Tiền Ngạn Viễn dâng sớ khuyến nông, 《Thực lục》 không ghi chép. Căn cứ 《Hội yếu》 là ngày 26 tháng 4, nay chép riêng để phụ lục. 《Chính yếu》 chép, Nhân Tông xem sớ nói: “Nghiêu, Thuấn, Tam đại đều lấy nông nghiệp làm gốc trị thiên hạ, nên ra lệnh theo đó mà thực hiện thưởng phạt, mong rằng trong thiên hạ nhà nhà no đủ.” Nhưng cuối cùng không thấy thực hiện, nay chỉ chép “Vua khen ngợi và tiếp nhận”.
[59] Ban đầu, bọn giặc yêu ở Ân Châu mưu phản, Huyện úy Thanh Hà là Mã Đăng bắt trước đồng đảng của chúng là Trần Hữu cùng hơn hai mươi người khác giải về châu, nhưng Trương Đắc Nhất không thể xử lý triệt để, dẫn đến việc chúng nổi dậy. Do đó, An phủ sứ Hà Bắc tâu lên, ngày Canh Dần, thăng Mã Đăng làm Tây đầu cung phụng quan.
[60] Tháng 5, ngày Nhâm Thìn (mùng một), Chiêu tuyên sứ, Mi Châu phòng ngự sứ, Kiềm hạt lộ Cao Dương Quan là Dương Hoài Mẫn kiêm quản câu An phủ ty dọc biên giới Hà Bắc. Trong 《Bách quan biểu》 năm Khánh Lịch thứ 6 (Ất Hợi) đã ghi Hoài Mẫn kiêm quản An phủ ty dọc biên giới Hà Bắc, nhưng 《Thực lục》 không có. Đến ngày Nhâm Thìn tháng 3 năm Hoàng Hựu nguyên niên, 《Thực lục》 mới ghi chép việc này, và 《Bách quan biểu》 cũng ghi đầy đủ. Nay ghi cả hai, e rằng có nguyên do. Cần xem xét thêm.
[61] Ngày Quý Tỵ, ban cho Thái thường bác sĩ Trương Thạc áo mũ ngũ phẩm. Trước đó, An phủ sứ lộ Cao Dương Quan là Vương Củng Thần nhận được di lệnh của Khiết Đan Tông Chân dâng lên triều đình, triều đình nghi ngờ, nhưng Trương Thạc nói rằng đây là lệnh ban khi Long Tự qua đời, chỉ là người biên giới vì muốn được thưởng mà bịa đặt. Kiểm tra quả nhiên đúng, nên có lệnh ban này.
[62] Ngày Đinh Dậu, Từ bộ viên ngoại lang Nhậm Chuyên được bổ làm Chuyển vận sứ Hà Đông. Hoàng đế vì trước đây từng ban vàng lụa trong nội khố cho Hà Bắc, nên cũng lệnh cấp năm mươi vạn để cứu thiếu hụt cho Hà Đông, nhưng Nhậm Chuyên từ chối, nói: “Triều đình vừa cử sứ thần giao trách nhiệm quản lý tài chính, mà vội xin vàng lụa mang đi, không đúng.” Hoàng đế khen ngợi. Theo 《Phụ truyền》: Khi trở về từ Tây Hạ, hoàng đế bàn về tinh yếu việc quân, bổ làm Trực sử quán, rồi Chuyển vận sứ Hà Đông. Xét 《Thực lục》, tháng 5 bổ chức Chuyển vận sứ, tháng 6 thêm chức Trực sử quán. Nay ghi chung cả hai. 《Thực lục》 ghi Hà Đông thành Hà Bắc, là sai.
[63] Lại bộ thị lang, kiêm Ngự sử trung thừa Trương Quan tự nói cha là Trương Cư Nghiệp tuổi cao, bệnh nhiều, xin về quận gần. Ngày Canh Tý, thụ chức Quan văn điện học sĩ, tri Hứa Châu. Hàn lâm thị độc học sĩ, Binh bộ lang trung Quách Khuyến làm Hữu gián nghị đại phu, quyền Ngự sử trung thừa.
[64] Hữu ban điện trực, quyền Từ Châu quản giới tuần kiểm Trương Cư Thực được thăng làm Cáp môn chi hậu, vì từng thân chinh bắt được hai mươi hai tên giặc, nên đặc cách thăng chức.
[65] Ngày Bính Ngọ, Vua ngự đến điện Bảo Kỳ ở vườn sau xem gặt lúa, quay lại nói với các quan phụ tá rằng: “Trẫm mới xây dựng điện này, không muốn trồng hoa mà hàng năm trồng lúa, để biết việc làm ruộng không dễ dàng.”
[66] Ngày Đinh Mùi, sai quan cầu mưa.
[67] Đổi Tân phán Đại Danh phủ, Hà Bắc an phủ sứ Trình Lâm làm Đại Danh phủ lộ an phủ sứ, phán Diên châu; Thiểm Tây lộ an phủ sứ Lý Chiêu Lượng làm Phu Diên lộ kinh lược an phủ sứ.
[68] Ngày Mậu Thân, ghi công Đồng tuần kiểm Quả châu, Hữu ban điện trực Trương Hoài Phổ, cho con ông là Trung Thuận làm Tam ban tá chức, vì Hoài Phổ tử trận khi đánh nhau với người Man.
[69] Ngày Quý Sửu, chiếu cho Kiến Ninh lưu hậu Dương Cảnh Tông được hưởng lương tiết độ sứ, nhưng không được lấy làm lệ.
[70] Tể tướng Bàng Tịch tâu rằng Điện trung thừa, Quán các hiệu khám Phạm Trấn có tài lạ, không vội vàng cầu tiến. Ngày Đinh Tỵ, đặc cách thăng làm Trực bí các.
[71] Ngày Canh Thân, đặt lại chức Tẩu mã thừa thụ công sự nội thần một người ở Lân Phủ lộ.
[72] Tháng 6, ngày Giáp Tý, miễn thuế hai năm cho dân Hà Bắc trở về làm ăn.
[73] Ngày Ất Sửu, lấy Thái tử hữu thanh đạo suất phủ suất Thúc Thiều làm Hữu lĩnh quân vệ tướng quân, lại ban cho đỗ tiến sĩ, sau đó thăng làm Văn châu thứ sử. Thúc Thiều từng dâng sách do mình soạn, được triệu vào viện Học sĩ thi đỗ ưu đẳng, nên được đặc cách thăng chức. Khi vào tạ ơn, Vua cho ngồi uống trà, bảo rằng: “Trong hàng tông thất ít người ham học, chỉ có khanh nhờ văn chương mà đỗ tiến sĩ, trước đây chưa từng có. Trẫm muốn thiên hạ biết trong hàng tông thất có người hiền, khanh nên chớ quên việc học.” Thúc Thiều cúi đầu tạ ơn. Khi lui ra, Vua lại ban cho chín bộ kinh. Sau đó, Vua ban sách vở cho các chức thứ sử trở lên, Thúc Thiều không đáng được, nhưng vẫn được ban. Thúc Thiều là chắt của Đức Cung. Sách 《Hội yếu》 coi Thúc Thiều là người đầu tiên trong hàng tông thất được triệu vào thi. Thúc Thiều đến tháng 9 năm Gia Hựu thứ 6 lại được thăng chức.
[74] Chiếu cho ty Kiềm hạt Tử Quỳ rằng trước đây người Man ở Dục Tỉnh giám làm phản, từng chiêu mộ các dũng sĩ bắn cung tên thuốc và con em Bạch Trụy đi theo quân, nay tha hết các khoản tiền lương đã vay.
[75] Ngày Kỷ Tỵ, dời 10 chỉ huy mã quân của Châu Mạc đến phủ Chân Định, 2 chỉ huy mã quân của Châu Thâm đến Châu Kỳ, 2 chỉ huy bộ quân của Châu Bác đến Châu Thiện, theo lời tâu của Bao Chửng. Căn cứ vào tấu nghị của Bao Chửng, đã di chuyển quân đồn trú của ba châu Ký, Bác, Thâm. Sách 《Thực Lục》 ghi châu Ký là châu Mạc, 《Hội Yếu》 cũng ghi như vậy. Tấu nghị thì dời 10 chỉ huy quân đồn trú của châu Ký đến phủ Chân Định, phủ Đại Danh, châu Hoài, châu Vệ, nhưng 《Thực Lục》 chỉ ghi là phủ Chân Định. Lại nữa, 《Thực Lục》 và 《Hội Yếu》 đều nói rằng vì ba châu này bị lũ lụt, thiếu lương thực, nhưng căn cứ vào tấu nghị của Bao Chửng, thì không phải vì lũ lụt. Nay tạm theo 《Thực Lục》 và 《Hội Yếu》 ghi châu Ký là châu Mạc, nhưng bỏ đi chữ “kinh thủy khuyết thực”, cần xem xét thêm.
[76] Ngày Giáp Tuất, Sơn Nam Đông Đạo Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Tường Nguyên Quan sứ Giả Xương Triều được phong làm Quan Văn Điện Đại học sĩ, phán đô tỉnh, tham dự triều hội, đứng hàng cùng Trung thư, Môn hạ, xem xét nghi lễ vật phẩm. Việc đặt chức Đại học sĩ ở Quan Văn Điện bắt đầu từ đây. Lại ra chiếu rằng từ nay về sau, người chưa từng làm Tể tướng thì không được bổ nhiệm chức này.
[77] Ngày Mậu Dần, ra chiếu rằng Trung thư, Xu mật nếu không họp bàn việc công thì không được tiếp khách riêng. Ngự sử tâu rằng Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ Quách Thừa Hữu nhiều lần đến yết kiến Tể tướng Trần Chấp Trung tại sảnh đường, ngồi lâu không về.
[78] Ngày Nhâm Ngọ, ra chiếu rằng các quan võ từ nay về sau, quân sĩ dưới quyền nếu không có chiến công thì không được xin chuyển sang quân thượng hạng.
[79] Hữu Gián nghị đại phu, quyền Ngự sử Trung thừa Quách Khuyến được thăng làm Cấp sự trung. Quách Khuyến từ chối chức vụ mới, xin truy tặng cho ông nội là Lại Dương huyện lệnh Quách Ninh, chiếu truy tặng Quách Ninh làm Từ bộ Viên ngoại lang, bà nội là Trương thị làm Thanh Hà huyện Thái quân.
[80] Tả Đồn Vệ Đại tướng quân, Giải Châu phòng ngự sứ Triệu Chấn được bãi chức trí sĩ, làm Đặng Châu kiềm hạt. Ban đầu, con của Chấn là Hữu Ban điện trực Triệu Phác thi võ nghệ ở điện Sùng Chính, cùng Chấn vào triều. Phác đã được làm Cáp môn chi hậu, Chấn nhân đó tự tâu rằng mình từng có công ở biên cương, sức lực chưa suy, nên được khởi dụng lại. Chấn từng về trí sĩ vào tháng 4 năm Khánh Lịch thứ 4, tháng 12 năm thứ 5 được bãi trí sĩ, tháng 6 năm Hoàng Hựu thứ 1 lại được bãi trí sĩ, tổng cộng hai lần bãi trí sĩ, nhưng bản truyện chỉ chép một lần, không rõ vì sao. Hoặc việc không đáng ghi, nên cả hai lần đều bị bỏ đi.
[81] Đổi mệnh cho đồng san tu sách 《Đường thư》, Hàn lâm thị độc học sĩ Tống Kỳ làm san tu quan.
[82] Ngày Ất Dậu, Khởi cư xá nhân đồng tri gián viện Lý Đoái, Lễ bộ viên ngoại lang thị ngự sử tri tạp sự Hà Đàm, Giám sát ngự sử Trần Húc tâu: “Những năm gần đây, có quan lại dâng tấu những thư từ qua lại với thân quen, triều đình ắt xét việc mà xử lý, khiến thời thánh trở thành tục tố cáo. Từ nay, nếu không liên quan đến việc nghịch, không được dâng thư từ lên, còn những việc quan lại thỉnh cầu phi pháp, cứ xử theo luật.” Triều đình nghe theo.
[83] Ngày Bính Tuất, Quang lộc thiếu khanh, phân ty Nam Kinh Dư Tĩnh được làm Tả Thần Vũ Đại tướng quân, Nhã Châu thứ sử, Thọ Châu kiềm hạt. Sau đó, ông xin được giữ chức cũ để phụng dưỡng, được chấp thuận. Các quan bàn việc cắt bổng lộc, nhưng chiếu chỉ không cho.
[84] Ngày Đinh Hợi, Giám sát ngự sử Trần Húc tâu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng chức vụ ở Tam quán là chức cao quý dành cho bậc văn nho. Gần đây không còn theo điển cố, việc dùng người càng trở nên khinh suất, nên đã trở thành nơi để quý tộc tiến thân. Vào niên hiệu Khánh Lịch, từng có chiếu chỉ rằng từ nay về sau, các quan đương nhiệm hoặc đã từng nhiệm chức ở hai tỉnh và đại tỉnh trở lên, không được xin cho con em hoặc thân thích vào giữ chức ở quán các. Tuy nhiên, do bị ảnh hưởng bởi ân huệ bất chính, chiếu chỉ này đã không được thi hành. Chức vụ tốt đẹp và thanh cao là công cụ để quốc gia rèn luyện và mài giũa nhân tài. Nay giao phó cho nhà quyền quý tư lợi, thì những người tài năng nghèo khó trong thiên hạ biết dựa vào đâu để tiến thân, và triều đình lấy gì để giáo dục hiền tài? Mong rằng triều đình sẽ ban hành lại chiếu chỉ trước, nghiêm khắc thi hành lệnh cấm, loại bỏ những kẻ tiến cử bừa bãi, làm trong sạch việc tuyển chọn, để những người giữ chức đều là những người có văn hóa và đạo đức. Sau đó, áp dụng lại điển cố, đặc biệt trong những dịp nhàn hạ, mời họ vào triều để tham vấn, thì đối với việc trị quốc, sẽ không phải là vô ích.” Chiếu rằng từ nay về sau, các quan lớn xin cho con cháu được dự thi, nếu thi đỗ, chỉ được thăng chức hoặc ban tước, không được bổ nhiệm vào quán các. Sự việc này được ghi trong 《Hội yếu》 ngày 26 tháng 6 năm Hoàng Hựu nguyên niên, nhưng 《Thực lục》 không chép. Ngày 11 tháng 12 năm Gia Hựu thứ 2, Trần Húc lại dâng kiến nghị. Câu “bị ảnh hưởng bởi ân huệ bất chính” của Trần Húc cần được xem xét thêm.
[85] Ngày Mậu Tý, Thái tử Thiếu phó trí sĩ Lý Nhược Cốc qua đời. Chiếu rằng vì con ông là Lý Thục đang giữ chức cận thần, nên ban tặng ưu đãi chức Thái tử Thái phó, nhưng từ nay về sau không được lấy làm lệ.
[86] Ngày Kỷ Sửu, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Lại bộ Lang trung Lương Thích được bổ làm Đồng Quần mục sứ. Quần mục sứ trước đây chỉ có một người, Hàn lâm học sĩ Bành Thừa đã giữ chức này, Lương Thích được bổ nhiệm thêm ngoài biên chế.
- 'Thử' nguyên là 'tỷ', theo các bản và bản hoạt tự sửa ↵
- Điện trung thị ngự sử Trương Thao, 'Thao' nguyên là 'Trạch', căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Lâm Xuyên tiên sinh văn tập》 quyển 98 《Triều phụng lang Thượng thư ty phong viên ngoại lang Trương quân mộ chí minh》 sửa lại. Minh văn nói Thao tự Thánh Hưu, 'Thao' nghĩa là phúc, 'Hưu' nghĩa là khánh, còn 'Trạch' là tay áo, xét theo tên chữ, chứng cứ rất rõ. Văn dưới cũng sửa theo. ↵
- Đều là do Chuyển vận ty không có gì để sợ hãi, chữ 'bẩm' nguyên bản là 'lẫm', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản, bản in hoạt tự và 《Tống hội yếu》 chức quan 59-7 sửa lại. ↵
- Số thuế giảm so với mức định hàng năm, chữ 'tổ' nguyên bản là 'tô', căn cứ theo Tống bản và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Kinh Đông Tây lộ An phủ sứ: Xét thời điểm này Kinh Đông lộ chưa chia thành Đông Tây hai lộ, chữ 'Tây' có lẽ là thừa. ↵
- Nay kẻ địch phương Bắc tuyên bố đánh phía Tây, xây dựng thành lũy, tập hợp quân mã, nhân cơ hội này để củng cố biên phòng, nên bí mật sửa chữa hoàn thiện. Xem 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 quyển 8, bài 'Nghị Binh' viết: 'Nay giặc phương Bắc quỷ quyệt vạn trạng, tuyên bố đánh phía Tây, xây dựng thành lũy, tập hợp quân mã, nhân cơ hội này, dọc biên giới cũng nên bí mật lệnh sửa chữa hoàn thiện.' Đúng vậy. ↵
- Giám Dục Tỉnh có hơn một vạn người man vào cướp phá, chữ 'vạn' nguyên bản viết là 'trăm', theo 《Tống sử》 quyển 496, phần Man Di 4 và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5 đều viết là 'vạn', hơn nữa hai sách này đều có câu 'hợp quân quan và bạch truỵ tử đệ gần hai vạn người cùng chiến đấu (《Tống hội yếu》 viết là viện trợ)', nếu người man chỉ có hơn trăm người, sao cần huy động hai vạn quân, viết là 'vạn' là đúng, nay theo đó sửa lại. ↵
- Biên quận có chút cảnh giác, chữ 'sảo' nguyên bản viết là 'bộ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Tống sử》 quyển 316, truyện Bao Chửng sửa lại. ↵
- 'Sự' chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản, cùng với 《Trị tích thống loại》, 《Tống sử》 và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 bổ sung. ↵
- người nuôi ngựa được miễn một đinh dịch, chữ 'Mã' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tóm tắt của Tống và sách 《Biên niên cương mục》 quyển 14, 《Trị tích thống loại》, 《Tống sử toàn văn》, 《Tống sử bổ》. ↵
- Nghe nói sau này việc tập luyện bị bỏ bê, chữ 'nghe' nguyên bản là 'duyệt', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 quyển 8, mục 'Thỉnh Na Di Hà Bắc Binh Mã Sự' sửa lại. ↵
- Ty chuyển vận Hà Bắc bị mất kế hoạch dự trữ quân lương, chữ 'quân' nguyên bản là 'vận', căn cứ theo 《Biên niên cương mục》 quyển 14 sửa lại. 《Tống sử》 quyển 295, truyện Diệp Thanh Thần chép: 'Vì Hà Bắc thiếu lương thực quân đội', cũng có thể chứng minh. ↵
- Tể tướng muốn dung hòa cả hai, chữ 'trung' nguyên bản là 'bình', căn cứ theo bản các, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 295, truyện Diệp Thanh Thần sửa lại. ↵
- Chữ 'lục' trong '106 người' nguyên bản có chữ 'thập', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 phần trên mà xóa đi. Xem 《Tống hội yếu》 phần tuyển cử 7-17: 'Ngày 13 tháng 3 năm Hoàng Hựu thứ nhất, Hoàng đế ngự tại điện Sùng Chính thi các Tiến sĩ do Lễ bộ tiến cử... lấy đỗ Phùng Kinh cùng 489 người, đều ban cho đỗ đệ nhất giáp, đệ nhị giáp và đệ tam giáp.' Số liệu trong sử văn này là 174 người, 106 người và 209 người cộng lại, vừa đúng 489 người, nếu ghi 160 người là không đúng. ↵
- Chữ 'cận' trong 'các châu quân phía nam gần đó' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần binh 5-4 mà bổ sung. ↵
- Chữ 'ngôn' trong 'tại sao nói việc cuối cùng không thành' nguyên bản không có, căn cứ theo văn mà bổ sung. ↵
- Chữ 'Lễ' nguyên bản viết là 'Thiền', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, quyển 197 chí binh 11 trong 《Tống sử》, và các điều 25, 34 trong mục binh 26 của 《Tống hội yếu》 mà sửa lại. ↵
- ruộng đất khai khẩn được định là hơn 14.300.000 khoảnh, chữ 'khẩn' nguyên bản viết là 'khẩn', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa, văn dưới cũng sửa tương tự ↵
- không có thực chất khuyến đạo, chữ 'đạo' nguyên bản viết là 'nông', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Tống hội yếu》 Thực hóa nhất chi nhị lục sửa ↵