IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 168: NĂM HOÀNG HỰU THỨ 2 (CANH DẦN, 1050)
Từ tháng giêng năm Hoàng Hựu thứ 2 đời Nhân Tông đến hết tháng 7 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Hợi, xuống chiếu cho Ty Đề điểm hình ngục Hà Bắc từ nay mỗi năm điều binh lính và dân phu trị thủy sông, phải thân hành đến đốc thúc và giám sát.
[2] Ngày Tân Sửu, xuống chiếu cho Viện Xu mật từ nay khi bổ nhiệm người phụ trách Ty Hoàng thành phải tuyển chọn cẩn thận, không được nhận đơn xin cá nhân. (Theo 《Hội yếu》, tháng giêng năm Khánh Lịch thứ 8 đã có chiếu này).
[3] Ngày Quý Mão, vì năm đó mất mùa, bãi bỏ việc thắp đèn trong lễ Thượng nguyên.
[4] Ngày Bính Ngọ, nước Chiêm Thành sai sứ đến cống: 201 ngà voi, 79 sừng tê giác, dâng hai bản biểu, một bản viết bằng chữ Chiêm Thành, một bản viết bằng chữ Hán.
[5] Ngày Đinh Mùi, xuống chiếu cho châu Thi: Từ nay, nếu tướng sĩ quy thuận qua đời, cho phép con cháu thay thế trấn giữ biên giới, trước hết cấp muối ăn, còn quần áo thì phải đợi ba năm sau mới cấp.
[6] Ngày Kỷ Dậu, phục chức cho Đậu Vận, nguyên là Điện trung thừa. Trước đây, Đậu Vận đang chịu tang mẹ, nghe tin giặc chiếm giữ châu Ân, liền tòng quân dưới quyền Ty An phủ. Sau đó bị quan trên hặc tấu và bị cách chức. Đến nay, tự trình bày rằng từng có công dẹp giặc, nên được đặc cách phục chức.
[7] Ngày Nhâm Tý, sai Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Vương Nghiêu Thần, Nhập nội đô tri Vương Thủ Trung, Hữu ty gián Trần Húc cùng Tam ty kiểm tra số thu chi tài chính hàng năm của thiên hạ rồi tâu lên[1]. Đến tháng giêng năm thứ 4 mới tâu lên.
(Từ năm Khang Định nguyên niên (1040), Thiểm Tây chiêu mộ người đưa lương thảo đến biên giới, bắt đầu tăng số lượng cấp muối Đông Nam, còn Hà Bắc dần dùng phép thuế ba, cũng lấy muối Đông Nam thay tiền của kinh sư, đủ số thì dừng. Việc này đã thấy ở cuối năm đó. Đến năm Khánh Lịch thứ hai (1042), Tam Ty lại xin theo phép năm Khang Định nguyên niên, chiêu mộ người đưa lương thảo. Việc này căn cứ theo 《Thực hóa chí》 quyển 3. Bèn hạ chiếu cho người đưa lương thảo đến Thiểm Tây, Hà Đông, cầm khoán đến kinh sư, được trả bằng tiền và vàng lụa mỗi thứ một nửa; ai không muốn nhận vàng lụa thì cho hương liệu, trà, muối, tùy ý muốn. Nhưng lợi từ muối Đông Nam rất lớn, thương nhân không nhận vàng lụa nữa, đều muốn lấy muối.
Đến năm thứ tám (1048), Hà Bắc thi hành phép thuế bốn, muối là một trong đó, mà lương thảo ở biên giới đều bị định giá hư, tăng vọt đến mấy lần. Khoán đến kinh sư, lại bị thương nhân ép giá, muối 800 cân trước bán được 10 vạn tiền[2], đến lúc này chỉ còn 6 vạn. Thương nhân lấy khoán với giá rẻ để lấy muối[3], không đưa tiền vào kinh sư nữa, kho tàng càng thiếu. Bèn hạ chiếu cho Tam Ty xem xét định lại, Vương Nghiêu Thần, Vương Thủ Trung, Trần Húc xin khôi phục phép đưa tiền vào kinh sư, so với số tiền đưa vào cũ tăng thêm một ít thì cho muối. Còn những người trước đã nhận khoán lấy muối ở biên giới, Hà Đông, Thiểm Tây đưa lương thảo trị giá 10 vạn tiền, chỉ cho muối trị giá 7 vạn, Hà Bắc lại giảm thành 6 vạn 5 nghìn. Và lệnh đưa 10 vạn tiền vào kinh sư, mới cho cấp thêm, gọi là đối thiếp. Từ đó, việc đưa tiền vào kinh sư dần khôi phục như cũ.
Những việc trên đều căn cứ theo 《Thực hóa chí》 quyển 4. 《Chí》 chép năm Hoàng Hựu thứ hai (1050), hạ chiếu cho Tam Ty xem xét định lại, bấy giờ Vương Nghiêu Thần, Vương Thủ Trung, Trần Húc đề xuất nghị đối thiếp. Nhưng thực lục không chép. Nay phụ chép sau khi ba người này xem xét số xuất nhập, đến tháng giêng năm thứ ba (1051), mới lại thi hành tiền mặt.)
[8] Ngày Quý Sửu, Vua Long Quang Thù của Tây Nam Phiên sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương. Phong Long Quang Biện, An Viễn tướng quân, Phiên Lạc sứ làm Ninh Viễn quân Đại tướng quân (theo 《Tống sử·Man Di truyền》 ghi là Ninh Viễn quân Đại tướng quân, bản gốc thiếu chữ “quân”, nay thêm vào). Long Quang Ngưng, Ninh Viễn tướng quân, Tri Tĩnh Man quân, Tiết độ sứ, được phong làm Thừa Tuyên Vũ Ninh Đại tướng quân (theo 《Tống sử·Man Di truyền》 ghi là Thừa Tuyên Vũ Ninh Đại tướng quân, bản gốc viết “Ninh Vũ” là sai, nay sửa lại). Long Dị Khải cũng được phong làm An Viễn Đại tướng quân; Long Dị Lỗ, Thừa Tuyên Phụng Hóa Đại tướng quân được phong làm Vũ Ninh Đại tướng quân.
(Việc Long Quang Biện và những người khác nhận chức quan này là vào ngày Mậu Ngọ tháng hai, nay ghi chép chung.)
[9] Ngày Bính Thìn, Ngự sử Trung thừa Quách Khuyến, Nhập nội Đô tri Trương Duy Cát, Lam Nguyên Dụng cùng kiểm tra công trình đào lại sông Hoàng Hà và báo cáo.
[10] Tháng hai, ngày Ất Sửu, sai nội thị mang thuốc trị thương đến cho Vương Cát, Tuần kiểm sứ vùng biên giới phía bắc Hà Đông, Bắc Tác phường sứ. Lúc này, theo lời tâu của An phủ sứ Vương Củng Thần, Vương Cát trước đây đã giao chiến với quân Tây và bị trúng tên, nay bệnh tình phát nặng, nên ban thuốc.
[11] Chiếu chỉ cho quân Sương ở Kinh Đông, thêm hai chữ “Giáo Duyệt” vào tên quân, và việc điều động, phục vụ giống như quân Cấm. Trước đó, An phủ sứ Phú Bật đã tuyển chọn quân Sương trong vùng, tổ chức thành chỉ huy, muốn thêm chữ “Giáo Duyệt” vào tên quân, nhưng Vua không cho, chỉ cho thêm vào tên quân.
[12] Ngày Bính Dần, truy phong vợ cũ của tể tướng Vương Tăng là Thái thị, Nam Dương huyện Thái quân làm Cử Quốc phu nhân, và vợ kế là Lý thị, Tán Hoàng huyện Thái quân làm Nghi Quốc phu nhân. Em trai của Vương Tăng là Vương Tử Dung, Thiên Chương các Đãi chế, Hữu Gián nghị Đại phu, từ chối một chức quan, xin truy phong cho hai người.
(Việc này cần xem xét, Vương Tăng làm tể tướng nhiều năm, sao vợ không được phong mà Vương Tử Dung lại xin truy phong?)
[13] Ngày Mậu Thìn, chiếu chỉ cho Tam ty, quân Cấm ở ngoài kinh thành, nếu được thưởng sau lễ Giao, thì phải trả theo giá thực. Theo chế độ cũ, quân ngoài kinh được thưởng sau lễ Giao, giá trị 800 thì trả 1000.
[14] Ngày Tân Mùi, phục chức Tam ban Phụng chức cho Vương Duy Đức làm Tả ban Điện trực, Cáp môn Chi hậu, Đô Tuần kiểm sứ các châu Ung, Quý.
Trước đó, Duy Đức làm Đô giám ở Hoàn Châu, đánh nhau với giặc phương Tây bị thua, bị giam lỏng ở Tân Châu. Sau được khởi dụng làm Giám thuế ở Lư Châu, trên đường bắt được 18 tên giặc, được đặc cách thăng chức.
[15] Ngày Nhâm Thân, xuống chiếu rằng từ nay các chức Tri huyện Quy Tín, Dung Thành ở Hùng Châu không bổ nhiệm quan Kinh triều nữa, mà lệnh cho Chuyển vận sứ của lộ đó cử võ quan có tài dũng và hiểu rõ tình hình dân chúng hai nơi làm chức này.
[16] Ngày Quý Dậu, bãi bỏ việc đúc tiền đồng xanh vàng ở Thương Châu.
[17] Trước đó, Tống Dương kiến nghị, vì năm nay đúng dịp tế Giao mà ngày Đông chí rơi vào cuối tháng, nên theo lệ cũ thời Kiến Long, cần tránh điều gì đó, bèn xin vào mùa thu tổ chức đại tế ở Minh Đường. Ngày Ất Hợi, Vua nói với các phụ thần: “Lễ Minh Đường, từ đời Hán đến nay các Nho gia bàn luận khác nhau, nên theo thế nào?” Văn Ngạn Bác đối đáp[4]: “Lễ này bỏ đã lâu, xin lui về bàn bạc tìm cách thích đáng, rồi triều đình sẽ thi hành.”
(Kiến nghị của Tống Dương về Minh Đường, căn cứ vào 《Xuân Minh Lục》.)
[18] Ngày Giáp Thân, xuất 50 vạn xúc lụa từ kho Nội tàng cấp cho các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông để dùng vào việc thưởng quân.
[19] Ngày Bính Tuất, Ty Kiềm hạt lộ Quảng Nam Tây xin đặt một trại ở động La Hồi, Ung Châu để chặn giặc man ở Quảng Nguyên Châu, được chấp thuận.
[20] Tháng 3, ngày Mậu Tý mùng một, xuống chiếu bãi bỏ lễ tế Nam Giao vào Đông chí năm nay, mà chọn ngày tháng 9 để làm lễ ở Minh Đường. Vua nói với các phụ thần: “Minh Đường là cung bố chính, nơi triều kiến chư hầu, là chỗ nghỉ ngơi của thiên tử, tức là Đại Khánh Điện vậy. Huống chi đầu niên hiệu Minh Đạo, đã từng hợp tế trời đất ở đây. Nay làm lễ tế, không nên theo lệ cũ, còn tạm tế ở đàn Giao.”
[21] Ngày Kỷ Sửu, xuống chiếu lấy Đại Khánh Điện làm Minh Đường.
[22] Xuống chiếu cho Ty An phủ Chuyển vận lộ Hà Bắc khảo sát tình hình trị lý của các châu, quân trong lộ rồi tâu lên, theo lời tâu xin của Hữu ty Gián Trần Húc.
[23] Lệnh cho Kinh lược sứ lộ Hà Đông Vương Củng Thần kiêm nhiệm việc kế hoạch lương thảo của lộ.
[24] Ngày Giáp Ngọ, sai quan cầu mưa.
[25] Quân Bảo An tâu rằng nước Hạ vì đánh bại Khiết Đan nên đến báo tiệp, nhưng quân này căn cứ vào chiếu thư thề ước không có lệ phái người qua lại, nên đã từ chối và cho về.
[26] Ngày Mậu Tuất, Vua xuống chiếu cấm quần thần dâng tôn hiệu. Vua nói với các đại thần phụ chính: “Gần đây mỗi khi gặp đại lễ, liền dâng thêm huy hiệu, như thế há phải là ý của Trẫm muốn phụng thờ thần linh và tỏ lòng hiếu thảo sao?” Văn Ngạn Bác và các đại thần tâu: “Bệ hạ lấy lòng kính trọng cha để phối hợp với Thượng đế, thì bề tôi cũng có lòng yêu mến và tôn kính Vua cha.” Họ dập đầu tâu xin đến ba bốn lần, nhưng Vua không nghe. Ngạn Bác lại xin, Vua kiên quyết từ chối, bèn tuân theo chiếu chỉ.
[27] Ngày Kỷ Hợi, Vua xuống chiếu rằng việc tế ở Minh đường nên dùng đủ lễ vật để tuân theo điển lễ, từ xe cộ, y phục, đồ dùng của Vua, đều bắt các quan có trách nhiệm cắt giảm.
[28] Phái các quan triều đình đến các danh sơn, đại xuyên, từ miếu trong thiên hạ để cầu mưa.
[29] Ngày Canh Tý, Khiết Đan phái Điện tiền phó điểm kiểm, Trung Chính tiết độ sứ Gia Luật Ích, Chương Đức tiết độ sứ Triệu Giản Chi đến báo việc đánh Hạ quốc đã xong. Ích tự nói rằng Khiết Đan chia ba đường tiến đánh, Khiết Đan chủ đi đường giữa, đại thắng; quân đường bắc đến Tây Lương phủ, bắt được một trăm vạn con dê, hai mươi vạn con lạc đà, năm trăm con trâu, bắt được rất nhiều người già trẻ; chỉ có đường nam thua nhỏ, sợ người Hạ nói dối về thắng lợi quân sự để khoe khoang với Nam triều. Nhưng theo tờ tấu từ biên giới, đều cho rằng Liêu chủ vượt sông không gặp giặc, không có nước cỏ, ngựa chết nhiều, Gia Luật Quán Ninh đại bại ở Sư Tử khẩu, chỉ có Lưu Ngũ Thường bắt được hơn hai mươi hộ Khương thuộc Thiểm Tây bị chiếm, nhân đó đến dâng. Lời nói của họ về việc bắt được nhiều, đều là nói dối[5].
(《Thực lục》 chép đầy đủ thư của Liêu chủ, nay không chép.)
[30] Ngày Giáp Thìn, Vua xuống chiếu rằng con cháu hoàng tộc từ bốn tuổi trở lên, quan phủ cấp lương thực. Trước đó, chiếu định từ năm tuổi mới cấp, Tri đại tông chính sự Doãn Nhượng xin tạm theo lệ cũ là ba tuổi, nên quyết định như vậy.
[31] Ngày Mậu Thân, phái quan tạ mưa.
[32] Ngày Kỷ Dậu, Hàn lâm học sĩ, Hình bộ lang trung, Tri chế cáo Triệu {Kí Mộc} được cử làm sứ đi tạ ơn nước Khiết Đan, Tây thượng các môn sứ, Quý Châu đoàn luyện sứ Tiền Hối làm phó sứ. Khiết Đan chủ mời Triệu {Kí Mộc} làm thơ về lời thề son sắt như núi sông. Khi thơ xong, Khiết Đan chủ tự tay rót rượu bằng chén ngọc mời Triệu {Kí Mộc} uống, rồi lấy chiếc quạt gấp bằng lụa trao cho cận thần Lưu Lục Phù chép lại bài thơ, tự cất vào tay áo.
[33] Xuống chiếu cho phép người dân ở Lưỡng Chiết nhận nuôi những trẻ em lưu lạc không thể tự sống được, nhưng sau này không được đòi lại[6].
[34] Ngày Tân Hợi, Hình bộ viên ngoại lang, Trực Long đồ các kiêm Thiên chương các thị giảng Vương Chu được cử làm Đồng phán Thái thường tự kiêm Lễ nghi sự. Lúc đó, Tống Kỳ, Dương An Quốc, Trương Quỹ đều làm Phán tự sự. Tống Kỳ tâu rằng chế độ Minh đường đã lâu không được bàn đến, Vương Chu am hiểu lễ học, xin được cùng soạn định nghi thức. Chiếu thăng Vương Chu làm Thái thường.
[35] Ngày Quý Sửu, xuống chiếu định vào ngày Tân Hợi tháng cuối mùa thu sẽ tổ chức đại lễ tế Minh đường.
[36] Trước đó, các quan Lễ bộ bàn rằng Vua tế Giao dùng ngày Tân, vì lấy ý nghĩa trai giới tự mình làm mới. Lại theo 《Thông lễ》, tế Minh đường cũng dùng ngày Tân. Bèn giao cho Ty thiên chọn ngày, được ngày Tân Hợi là tốt, tức ngày 27 tháng 9[7].
Lệnh cho Tể tướng Văn Ngạn Bác làm Đại lễ sứ, Tống Tường làm Lễ nghi sứ, Xu mật sứ Vương Di Vĩnh làm Nghi trượng sứ, Bàng Tịch làm Lỗ bạ sứ, Tham tri chính sự Cao Nhược Nột làm Kiều đạo đốn đệ sứ.
[37] Ngày Ất Mão, lệnh cho Xu mật phó sứ Lương Thích làm nhiếp Thái úy, đến Nam Giao cáo tế trời đất. Việc Xu mật thần đi cáo tế không phải là lệ cũ, vì coi trọng sự việc này. Lúc đó, triều đình có sáu người, năm người đã nhận chức sứ, nên cử Lương Thích đi tâu cáo, đồng thời cáo tạ, lại tăng thêm ban thưởng như năm sứ kia.
[38] Ngày Bính Thìn, Tống Kỳ dâng lên hai thiên 《Minh Đường Thông Nghị》, trong lời tựa có đoạn viết: “Trên xét đến ba đời, bên tìm khắp Hán, Đường, lễ nào quá thì bỏ bớt, thuyết nào sai thì sửa lại, để hợp với điển chương của bậc vương giả thời Khai Bảo, mong góp chút công phu giúp việc đọc sách ban đêm.” Sách này từ trong cung ban ra, sau đó lại có chiếu đưa vào.
[39] Tháng đó, ở Nhĩ Anh các giảng quẻ Sư trong Kinh Dịch, có chữ đồng âm với tên húy của Vua, Vua hỏi Vương Chu: “Chữ này nghĩa là gì?” Chu đáp: “Nghĩa là chính.” Vua nói: “Không cần kiêng húy, e ngại làm sai lẽ.” Chu thưa: “Thần không dám. Bề tôi đối với tên húy của Vua cha, khi đọc văn tạm thấy, không khỏi sợ hãi, nên phải kiêng húy.” Vua bảo: “Cứ nói thẳng.”
[40] Mùa hạ, tháng 4, ngày Đinh Tị mùng một, Lễ viện tâu: “Theo 《Chu Lễ》 chép ‘Nhà Hạ Hậu có thế thất’, Trịnh Khang Thành nói: ‘Trên đường có năm phòng, tượng trưng ngũ hành. Phòng gỗ ở đông bắc, phòng lửa ở đông nam, phòng kim ở tây nam, phòng nước ở tây bắc, phòng đất ở trung ương.’ Thôi Linh Ân cũng nói như vậy. Nay xin theo thuyết của Thôi, Trịnh, đặt năm phòng ở Đại Khánh điện. Lại theo lễ cũ, vị trí Ngũ Đế ở Minh Đường đều là phòng có màn, nay màn bên và màn trên nên dùng lụa xanh lót đỏ, bốn cửa tám cửa sổ, cửa viền đỏ, cửa sổ viền trắng, nay nên trang trí bằng lụa đỏ, trắng.” Vua nghe theo.
[41] Ngày Canh Thân, xuống chiếu cho Hà Bắc chuyển vận ty[8], bốn trường buôn bán dọc biên giới, ai bắt được kẻ do thám của phương bắc thì sẽ được trọng thưởng.
[42] Ngày Nhâm Tuất, người Hà Bắc là Trương Dụng được làm Phụng chức, Trương Hiển, Vương Thăng đều làm Tam ban sai sứ Điện thị.
Trước đó, Hà Bắc duyên biên an phủ ty tâu rằng Dụng và những người khác đều bắt được Phùng Quân, người thường qua lại biên quận do thám việc để báo cho Khiết Đan. Quân đã bị xử tử, nên thưởng cho Dụng và những người khác.
[43] Ngày Giáp Tý, người Sa Châu là Phù Cốt Đốc Mạt, Tự Bà Ôn đến cống ngọc.
[44] Ngày Ất Sửu, trong cung ban ra chiếu chỉ:
“Lễ Minh Đường, các đời trước đều dùng thuyết của hai nhà Trịnh Khang Thành và Vương Túc, kiêm tế Hạo Thiên Thượng Đế, đã là lễ biến. Từ đời tổ tông đến nay, ba năm một lần thân hành tế giao, tức là tế khắp trời đất, mà trăm thần không gì là không theo tế. Cho nên lễ Vu tế của Thái Tổ, lễ Cầu Cốc của Thái Tông, Chân Tông vốn không có vị trí của Địa Kỳ, lúc đó đều hợp tế trời đất, tổ tông cùng phối hưởng mà trăm thần theo tế. Nay tế Minh Đường, đúng vào kỳ thân hành tế giao, mà lễ quan định ra, chỉ tế Hạo Thiên Ngũ Đế, không đến Địa Kỳ, phối tọa không đến tổ tông, chưa hợp với chế độ ba triều. Huống chi những năm gần đây lụt hạn, động đất, mùa màng không được, dời tế giao làm đại hưởng, cũng là vì dân cầu phúc, nên hợp tế Hoàng Địa Kỳ, phụng Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông cùng phối hưởng, mà Ngũ Đế, Thần Châu cũng thân hành dâng lễ, nhật nguyệt[9], sông biển các thần đều như Viên Khâu theo tế.”
Nhân đó nói với Văn Ngạn Bác rằng: “Lễ không phải từ trời rơi xuống đất, mà là do tình người. Lễ quan quen theo truyền thống cũ của nho sinh câu nệ, bỏ phép thành của ba triều, không phải là điều Trẫm dùng để tỏ lòng hiếu thảo và yên dân.” Ngạn Bác nói: “Chỉ có bậc thánh nhân sáng suốt mới có thể thấu hiểu tình lễ, thích ứng với sự biến đổi của lễ, không phải là điều bề tôi chúng tôi có thể làm được.”
Hôm sau, Ngạn Bác tâu rằng chiếu thư định lễ thân hành dâng lễ, bao gồm Ngũ Thiên Đế, Thần Châu, so với vị trí ở Viên Khâu, lên xuống vất vả, xin cho quan chia nhau dâng lễ. Vua nói: “Trẫm đối với đại lễ, há dám ngại vất vả.” Lễ quan bàn về vị trí thần theo tế chưa quyết, lại dụ rằng: “Các thần ở gian thứ nhất của đàn giao thì ở trong đường, các thần ở gian thứ hai, thứ ba thì bày ở hai bên tả hữu và trên long trì[10], các thần ở trong ngoài tường đàn thì xếp ở hai bên đông tây và phía sau, để tượng trưng cho chế độ đàn viên. Trước hết hãy vẽ đồ đệ trình.”
[45] Ngày Đinh Mão, quốc mẫu nước Khiết Đan phái An Viễn lưu hậu Gia Luật Khả Cửu, Cấp sự trung Cung Thục; Khiết Đan phái Phụng quốc tiết độ sứ Gia Luật Bá, Hữu gián nghị đại phu Lý Kha đến chúc mừng tiết Càn Nguyên.
[46] Ngày Mậu Thìn, giáng Hàn lâm học sĩ, Binh bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo, Sử quán tu soạn, Quyền tri Khai Phong phủ Tiền Minh Dật làm Long đồ các học sĩ, Tri Thái châu; Khai Phong phủ phán quan, Từ bộ lang trương Trương Thức làm Tri Nhạc châu; suy quan, Đồn điền viên ngoại lang Lý Thuấn Nguyên làm Thông phán Thọ châu.
Trước đó, con trai của một thầy thuốc tên là Lãnh Thanh tự xưng là hoàng tử, nói rằng mẹ mình từng được sủng ái trong cung, có thai rồi bị đuổi ra ngoài, sinh ra Thanh. Dân chúng trong kinh thành tụ tập xem, Minh Dật bắt được đưa vào phủ, Thanh quát Minh Dật: “Minh Dật sao không đứng dậy!” Minh Dật liền đứng dậy. Sau đó cho rằng Thanh điên cuồng, đưa về Nhữ Châu quản thúc. Quan Suy quan Hàn Giáng nói rằng để Thanh ở ngoài sẽ mê hoặc dân chúng, không nên.
Triều đình bàn định đưa Thanh đến Giang Nam, Hàn lâm học sĩ Triệu Khái nói rằng nếu lời của Thanh không sai thì không nên lưu đày; nếu là giả thì không thể không xử tử. Lập tức ra chiếu cho Khái cùng Thiên Chương các đãi chế, Tri gián viện Bao Chửng điều tra kỹ càng vụ việc.
Nguyên do là mẹ của Thanh, họ Vương, từng làm việc trong cung, khi cung cấm xảy ra hỏa hoạn, bị đuổi ra ngoài. Bà lấy một người dân tên là Lãnh Tự, sinh con gái trước, sau đó mới sinh Thanh. Thanh không được bổ nhiệm, lang thang ở Lư Sơn, nhiều lần nói với người khác rằng mình thực sự là con của hoàng đế. Vì vậy, một nhà sư tên là Toàn Đại Đạo đưa Thanh vào kinh thành, muốn tự mình trình bày trước triều đình. Khi vụ án kết thúc, đều bị kết tội đại nghịch, xử tử.
Minh Dật vì làm quan ở kinh thành không có uy tín, lại có người phụ nữ họ Ta phạm tội bị giam trong ngục, bị ngục lại đánh chết, nên cùng Thức và Thuấn Nguyên đều bị khiển trách.
Thức là người Đan Đồ, Giáng là con của Ức.
(Theo 《Thực lục》, Thanh và đồng đảng là Cao Kế An đều bị xử tử. Căn cứ vào truyện của Minh Dật, lại nói rằng nhà sư Toàn Đại Đạo[11], không rõ đâu là đúng? Xem theo tấu nghị của Hà Đàm và Bao Chửng, đều gọi là Cao Kế An. Chửng nói Kế An vốn là quân nhân bị cách chức, trước đây vì phạm tội bị đày đến Đỉnh Châu, sau đó lại trở về kinh thành, giả bệnh để được cách chức, chuyên dùng huyễn thuật kết giao với quyền quý. Có lẽ Kế An chính là Toàn Đại Đạo. Xét Lãnh Thanh là con nhà thầy thuốc, theo bia mộ của Lý Thanh Thần. Lại xem truyện của Tiền Minh Dật nói Thanh không được bổ nhiệm, không rõ vì sao con nhà thầy thuốc lại không được bổ nhiệm? Cần xem xét thêm.)
[47] Kinh Nguyên Kinh lược ty tâu rằng thủ lĩnh của bộ lạc sinh hộ là Na Long cùng con trai là A Tư Đỉnh dẫn cả gia tộc về quy phụ.
[48] Ngày Đinh Sửu, Tả thị cấm Chiết Kế Tổ được phong làm Tây Nhiễm viện sứ, tri phủ Châu. Chiết Kế Mẫn bệnh nặng, xin cho Kế Tổ thay thế, Kế Tổ là em trai của Kế Mẫn.
[49] Phong cho Trương Toại, Thập tướng thuộc Tả đệ nhất chỉ huy ở Diêu Gia Bảo, Vị châu làm Tam ban phụng chức, ban thêm áo mặc và đai vàng. Trương Toại tự nói: “Khi Vương Duyên làm Tri châu Vị châu, tôi từng cùng dân chúng là Phạm Nhân Mĩ mang thư của Vương Duyên vào Tây giới, thực hiện kế phản gián đối với hai anh em Dã Lợi và Ngộ Khất. Việc bại lộ, Nhân Mĩ bị giết, còn tôi bị đày đến Than Lương thành. Đến khi Khiết Đan đánh sang phía Tây, bắt được tôi và đưa về.” Vì thế mà được ghi công.
(《Thực lục》 chép: Việc bại lộ, ba người Dã Lợi đều bị xử tử. Vương Duyên nhậm chức Tri châu Vị châu vào tháng 11 năm Khang Định nguyên niên, đến tháng 10 năm Khánh Lịch thứ 2 bị giáng làm Tri châu Quắc châu, rồi mất vào tháng 11 năm thứ 4 tại Hà Trung.
Việc Dã Lợi bị xử tử xảy ra sau khi Nguyên Hạo xưng thần, hơn nữa Dã Lợi tự mưu giết Nguyên Hạo nên bị diệt tộc, không phải vì mưu đồ quy phụ. Lời Trương Toại nói hẳn là bịa đặt, hoặc có lẽ từng cùng Phạm Nhân Mĩ mang thư của Vương Duyên định thực hiện kế phản gián, nhưng Dã Lợi vốn không có ý quy phụ, nên kế phản gián không thành, lại bị bắt giam, may mắn được sống sót trở về, trong khi Dã Lợi đã chết, nên mạo nhận là công của mình. Triều đình vì quan hệ với Khiết Đan nên không xét lại, tạm ghi công mà thôi.
Việc Chủng Cổ kiện Vương Tung cũng thuộc loại này. Hơn nữa, Toại và Nhân Mĩ cùng mang thư của Vương Duyên vào giới, Nhân Mĩ chết còn Toại sống, thật không hợp lẽ thường. Xét như vậy, lời Toại nói về việc mang thư của Vương Duyên cũng không đáng tin, nay tạm giữ nguyên như cũ. 《Thực lục》 còn chép việc ba người Dã Lợi đều bị xử tử vì kế phản gián của Toại, đó là do tin lời Toại. Nay đặc biệt bỏ đi việc ba người bị xử tử, sửa chữa đôi chút để tránh mâu thuẫn trước sau.)
[50] Ngày Nhâm Ngọ, Vua ban chiếu cho các quan phụ chính cùng với quan Lễ bộ xem xét và bố trí vị trí thần linh trong năm gian của Đại Khánh điện.
Ở gian chính giữa phía bắc, đặt vị trí của Hạo Thiên Thượng Đế, Hoàng Địa Kỳ ở bên trái, đều quay mặt về phía nam. Vị trí của Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông ở phía đông, quay mặt về phía tây. Hoàng Đế ở phía tây nam gian chính giữa, quay mặt về phía bắc. Nhân Đế ở bên trái, lùi lại một chút.
Thanh Đế, Xích Đế, Bạch Đế, Hắc Đế mỗi vị đều theo gian của mình, Nhân Đế ở bên trái, lùi lại một chút. Thần Châu Địa Kỳ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Bắc Cực, Thiên Hoàng Đại Đế đều được đặt ở khoảng giữa năm gian, vị trí lùi lại một chút.
Ngũ Đế, Thần Châu, Mặt Trời, Mặt Trăng, Bắc Cực, Thiên Hoàng ở đàn giao là vị trí thứ nhất.
Ngũ Quan Câu Mang trở xuống, đặt ở sân Minh Đường, hơi về phía đông nam, làm riêng một lều lộ thiên. Ngũ Vĩ, Thập Nhị Thứ, Tử Vi Viên Nội Quan, Ngũ Phương Nhạc Trấn, Biển, Sông, Tuế Tinh, Chân Hiêu, Câu Tinh trở xuống bảy mươi hai vị, đặt trên tấm ván ở hai dãy nhà phía đông và tây. Ở đàn giao là vị trí thứ hai.
Nhị Thập Bát Xá, Hoàng Đạo Nội Thiên Quan, Giác Túc, Nhiếp Đề, Ngũ Phương Núi, Rừng, Sông, Đầm trở xuống một trăm bảy mươi chín vị, đặt trên tấm ván ở hai bên đạo Đan Trì và Long Trì. Ở đàn giao là vị trí thứ ba.
Hoàng Đạo Ngoại Thiên Quan và các ngôi sao, Ngũ Phương Gò, Đồng, Nguyên, Đầm trở xuống bốn trăm chín mươi sáu vị, đều đặt trên tấm ván ở hai dãy nhà phía đông và tây, bao quanh phía sau điện. Lấy phía bắc làm trên, ở đàn giao là vị trí trong và ngoài nội duy. Bắt chước theo chế độ Minh Đường cổ. Lại hơi giống với cách sắp xếp vị trí ở đàn duy.
(Đoạn này căn cứ theo 《Hoàng Hựu Minh Đường Ký》, vào ngày mùng một tháng năm, Đinh Hợi, Viện Lễ tấu xin, Vua chuẩn y, nay phụ chép vào đây. 《Bản Chí》 lấy nghi chú trong 《Minh Đường Ký》[12], số lượng tôn lôi, biên đậu, đều chép đầy đủ, chỉ bỏ qua đoạn này, e rằng mất đi ý nghĩa nặng nhẹ. Vì số lượng tôn lôi, biên đậu là trách nhiệm của các quan hữu ty, còn vị trí thần linh thì do Thánh ý của Nhân Tông quyết định vậy.)
[51] Ban đầu, các quan Lễ bộ tâu: “Theo 《Thông lễ》, khi tế Trời cùng với vị Đế phối hưởng, dùng hai con bò đen; năm vị Đế[13] và năm vị Nhân đế, mỗi vị dùng con vật tế theo màu sắc phương vị, tổng cộng mười con. Xét từ trước đến nay, ở Nam Giao của triều ta, tuy số lượng thần vị rất nhiều, nhưng cũng chỉ dùng bốn con nghé, mười sáu con dê và mười sáu con lợn. Nay xin ở Minh Đường dùng bảy con nghé để tế Thượng đế, Đế phối hưởng và Ngũ phương đế. Dùng năm con dê và năm con lợn để tế năm vị Nhân đế.” Được chấp thuận, sau đó lại có chiếu chỉ hợp tế và thêm vị phối hưởng, đồng thời nhà Vua thân hành dâng lễ tế Ngũ đế và Thần Châu. Các quan Lễ bộ xin tăng thêm bốn con nghé, tổng cộng dùng mười một con nghé, số lượng dê và lợn cũng theo lệ ở Nam Giao, mỗi loại dùng mười sáu con để tế các thần vị từ Nhật Nguyệt trở xuống. Việc này được chấp thuận.
(Việc dùng bảy con nghé, năm con dê và năm con lợn được ghi trong 《Minh Đường ký》, vào ngày Giáp Thìn tháng ba[14]. Việc dùng mười một con nghé, mười sáu con dê và mười sáu con lợn diễn ra vào ngày Quý Tỵ tháng năm. Nay ghi chép cả hai việc này vào đây.)
[52] Ngày Đinh Hợi mùng một tháng năm, Viện Lễ bộ dâng lên ngọc lễ thần và ngọc thiêu mới làm cho Minh Đường.
Ban đầu, Vua nói với các quan phụ chính: “Đời trước khi tế thần, có ngọc tế và ngọc thiêu, nay chỉ có ngọc thiêu, chẳng phải là thiếu sót trong điển lễ tế tự sao?” Văn Ngạn Bác tâu: “Thái thường khanh đời Đường là Vương Khởi, vì thấy việc tế tự đương thời chỉ có ngọc thiêu, nên xin giao cho các cơ quan tìm ngọc tốt để làm ngọc lễ thần. Từ đó chế tạo chín loại khí vật như tông, bích, sau khi tế xong thì cất giữ, còn ngọc thiêu chỉ dùng loại thường. Từ đời Đường trở đi, ngọc lễ thần đã không còn đầy đủ.” Vua nói: “Trẫm phụng thờ Trời Đất, Tổ tiên[15], há lại tiếc gì ngọc quý? Hãy lệnh cho các cơ quan chuẩn bị chế tạo.” Lúc đó, Sa Châu vừa dâng ngọc, bèn chọn loại tốt nhất, chế tạo thành chín khí vật như tông, bích, trong đó loại ửu hoàng đặc biệt tinh khiết và mịn màng. Việc chuẩn bị ngọc tế bắt đầu từ đây.
[53] Ngày Mậu Tý, sai Hộ bộ phán quan, Đồn điền viên ngoại lang, Trực sử quán Dương Điền đến Hà Đông lộ lo việc chuẩn bị lương thảo và xử lý việc đúc tiền sắt trái phép.
[54] Dời Giang Nam Tây lộ chuyển vận sứ, Công bộ viên ngoại lang, Trực sử quán Đường Tuân làm Phúc Kiến chuyển vận sứ. Lúc đó, Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ phát vận sứ Hứa Nguyên xin các lộ chuyển vận ty gửi văn thư đến phát vận sứ đều gọi là “Thân”, như thuộc hạ. Tuân tranh luận cho rằng không thể, triều đình đang ủy nhiệm Nguyên, nên dời Tuân.
[55] Ngày Giáp Ngọ, Lễ viện dâng lên bản đồ chế độ năm gian của Minh đường.
[56] Phong thần núi Ni Khâu ở Duyện Châu làm Dục Thánh hầu.
[57] Ngày Bính Thân, xuống chiếu cho Quốc tín ty bãi bỏ tam phiên sứ thần. Từ khi thông hiếu với Khiết Đan[16], việc đón tiếp sứ thần đều do kinh thành cử tam phiên sứ thần, khiến các châu quân dọc đường khốn đốn vì nhu cầu đòi hỏi. Gián quan Bao Chửng, Ngô Khuê kịch liệt nói về sự phiền nhiễu này, sau khi bãi bỏ tam phiên, các vật dụng cần thiết đều do quan chức châu quân dọc đường tự lo liệu[17].
Ngự sử Hà Đàm tâu: “Thần trộm thấy triều đình trước đây đã ban chỉ hủy bỏ việc đón tiếp sứ thần ba phiên của phương Bắc, chỉ lệnh cho các châu quận Hà Bắc lo việc cung ứng. Những người bàn luận cho rằng việc này rất tiện lợi, không gì lớn hơn. Gần đây biết có quan lại dâng lời xin khôi phục lại như cũ, đây là điều không thấu hiểu nỗi khổ của dân. Bởi vì các châu quận Hà Bắc từ nhiều năm nay phải cung ứng cho ba phiên qua lại, bị các cơ quan trên dưới lợi dụng để bóc lột, những người lo việc công bị phá sản gia sản, chết chóc, lưu lạc không thể kể xiết. Huống chi nay liên tiếp mấy năm bị thiên tai, sức dân không chịu nổi, may mà triều đình thương xót, đặc biệt thay đổi. Nếu lại theo lối cũ, chỉ lấy sinh mạng của dân vài quận để phụng sự cho sự đòi hỏi của các cơ quan trên dưới ba phiên, thì có ích gì cho việc nước? Chiếu chỉ trước của triều đình bãi bỏ việc này là đúng! Thần mong bệ hạ quyết đoán, không bị những lời bàn tầm thường làm lay chuyển, để dân chúng một lộ có hy vọng được nghỉ ngơi.”
(Tấu nghị của Hà Đàm, nay phụ chép. Tháng 10 năm sau, Ngô Khuê nói việc bãi bỏ ba phiên mới được hai tháng đã lại xôn xao. Chắc là chỉ việc này.)
[58] Ngày Đinh Dậu, Minh đường Lễ nghi sứ tâu: “Sắp tới hành lễ, xin hoàng đế trước hết đến vị trí Hạo Thiên Thượng đế, sau đó đến Hoàng Địa Kỳ, Thanh Đế, Xích Đế, Hoàng Đế, Bạch Đế, Hắc Đế, Thần Châu Địa Kỳ, dâng ngọc tệ. Sau đó đến vị trí Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, dâng tệ. Thứ tự dâng rượu cũng như vậy.” Lại tâu nhạc dùng trong Minh đường đều nên theo tháng dùng luật, tháng 9 dùng Vô Xạ làm chuẩn, còn Ngũ Đế thì mỗi vị dùng nhạc theo âm bản xứ. Đều được chấp thuận.
[59] Ngày Nhâm Dần, đặt một viên Tuần kiểm sứ thần ở thôn Thiên Oa, xã Thảo Thành, quân Khả Lam.
[60] Ngày Mậu Thân, Ty Chuyển vận lộ Quảng Nam Tây tâu: “Giao Chỉ phát binh đánh giặc Nùng Trí Cao ở châu Quảng Nguyên, bọn chúng đều trốn vào rừng núi.” Chiếu lệnh cho lộ này phải nghiêm ngặt phòng bị.
[61] Ngày Kỷ Dậu, từ trong cung ban ra tên các khúc nhạc và hai điệu múa dùng trong lễ Minh Đường: Khúc hạ thần gọi là Thành An; khúc hoàng đế lên xuống, đi đứng gọi là Nghi An; khúc dâng ngọc và lụa ở vị trí Hạo Thiên Thượng Đế, Hoàng Địa Kỳ, Thần Châu Địa Kỳ gọi là Trấn An, khúc dâng rượu hiến gọi là Khánh An; khúc dâng lụa ở vị trí Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông gọi là Tín An, khúc dâng rượu hiến gọi là Hiếu An, khúc Tư Đồ dâng thịt gọi là Sí An; khúc dâng ngọc và lụa ở vị trí Ngũ Đế cũng gọi là Trấn An, khúc dâng rượu hiến gọi là Tinh An, khúc hoàng đế uống rượu phúc gọi là Tộ An; khúc rút lui điệu múa văn, đón điệu múa võ, dâng lễ á hiến, tam hiến đều gọi là Mục An, khúc dọn đậu gọi là Hâm An, khúc tiễn thần gọi là Thành An, khúc trở về đại thứ gọi là Khế An. Điệu múa văn gọi là Hữu Văn Hóa Tục, điệu múa võ gọi là Thành Công Duệ Đức. Nhà Vua soạn bốn khúc nhạc chương là Trấn An, Khánh An, Tín An, Hiếu An, còn lại thì sai các quan phụ tá soạn.
[62] Ngày Canh Tuất, xuống chiếu đổi tên các khúc nhạc đã soạn mà trùng với tên các khúc thường dùng trong tế lễ. Bèn đổi khúc Thành An thường dùng trong lễ tế Minh Đường ở Viên Khâu thành Tông An, khúc Khánh An dùng trong lễ tế Cảm Sinh Đế thành Quang An, khúc Tín An dùng trong lễ tế ở Phụng Từ Miếu thành Từ An.
[63] Tháng 6, ngày Kỷ Mùi, từ trong cung ban ra tám khúc nhạc Minh Đường do nhà Vua soạn, lấy quân, thần, dân, sự, vật phối hợp với ngũ âm, mỗi khúc gồm hai mươi thanh; dùng biến cung, biến chủy thì lấy thiên, địa, nhân, bốn mùa làm bảy âm, mỗi khúc gồm ba mươi thanh; lấy sự tương sinh của tử mẫu[18], mỗi khúc gồm hai mươi tám thanh. Tất cả đều lấy Hoàng Chung làm chuẩn.
Lại có nhạc luật tháng Minh Đường, năm mươi bảy thanh làm hai khúc, đều lấy Vô Xạ làm chuẩn; lại lấy hai mươi thanh, hai mươi tám thanh, ba mươi thanh làm ba khúc, cũng lấy Vô Xạ làm chuẩn, đều từ cung Hoàng Chung vào Vô Xạ. Nếu cần dùng bốn mươi tám hoặc năm mươi bảy thanh, thì theo thứ tự của bản nhạc trước mà thành khúc, các thanh triệt vẫn theo luật cũ. Cùng với các khúc Cổ Xúy Cảnh Nghiêm và Hợp Cung Ca do nhà Vua soạn, đều được tập luyện ở Thái Thường.
[64] Ngày Bính Dần, Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Vương Nghiêu Thần tâu rằng:
“Kính vâng chiếu chỉ cùng Thái thường Tham nghị Nguyễn Dật dâng lên phép biên chung bốn thanh thanh, xin dùng ở Minh đường. Thần trộm nghĩ rằng phép luật lã toàn cung, đã định bằng ống, lại chế mười hai chuông, lấy làm mười hai chính thanh, tính theo luật, tự nhiên gấp đôi và một nửa. Người bàn nói: ‘Một nửa, lấy một nửa chính thanh làm mười hai chuông tử thanh, nên có mười hai chính thanh và mười hai tử thanh.’ Tử thanh tức là thanh thanh. Ống chính dài thì dùng chính thanh; ống chính ngắn thì dùng tử thanh, mà thành năm âm. Nhưng phép cầu thanh, gốc ở chuông, nên 《Quốc ngữ》 gọi là ‘độ luật quân chung’[19].
Phép biên chế chuông đá, các đời khác nhau, có khi lấy mười chín làm một cụ, là lấy mười hai chuông ứng với mười hai tháng, lại thêm bảy luật; có khi lấy hai mươi mốt làm một cụ, là lấy một quân thanh thêm trọc bội; có khi lấy mười sáu làm một cụ, là lấy một quân thanh, chính làm mười bốn, cung, thương mỗi thứ một bộ, gọi là ‘huyền tám dùng bảy’; có khi lấy hai mươi bốn làm một cụ, thanh, chính thanh đủ cả. Cho nên chế độ nhà Đường lấy mười sáu số làm giá nhỏ, hai mươi bốn làm giá lớn, dùng ở trời đất, tông miếu, triều hội, mỗi nơi có cách dùng riêng.
Hiện nay, chuông Thái Thường treo mười sáu chiếc, theo truyền thống ngoài chính thanh còn có bốn thanh thanh từ Hoàng Chung đến Giáp Chung. Tuy trong sách vở chưa rõ nguồn gốc, nhưng xét kỹ thì thực có ý nghĩa. Khi từ Di Tắc đến Ứng Chung bốn luật làm quân, nếu dùng hết chính thanh thì cung nhẹ mà thương nặng, vì dưới cung thanh không thể có trọc thanh. Trong một quân, cung yếu thương mạnh, gọi là lấn át, nên phải dùng tử thanh để cân bằng trường đoản. Từ giác trở xuống cũng theo phép này.
Vậy Di Tắc làm cung thì Hoàng Chung làm giác; Nam Lã làm cung thì Đại Lã làm giác; Vô Xạ làm cung thì Hoàng Chung làm thương, Thái Thấu làm giác; Ứng Chung làm cung thì Đại Lã làm thương, Giáp Chung làm giác. Hoàng Chung, Đại Lã, Thái Thấu, Giáp Chung đều là chính luật dài, nên dùng thanh thanh. Như vậy, âm luật hài hòa không chống đối, đây là bằng chứng bốn thanh thanh có thể dùng. Đến khi luật khác làm cung, trường đoản tôn ty tự sắp xếp, không nên dùng thanh thanh xen vào.
Từ cuối thời Đường, nhiều biến cố, văn nhạc suy tàn, phép đánh nhạc đã lâu không truyền. Nay nếu bắt các nhạc khí như bầu, đất, tơ, trúc đều tìm thanh thanh, thì chưa thấy phép ấy. Lại theo lời các nhạc công Đại Nhạc, từ khánh, tiêu, cầm, hòa sào sinh năm nhạc khí vốn có thanh thanh, huân, trì, vu, trúc, sắt năm nhạc khí vốn không có thanh thanh. Ngũ huyền nguyễn, cửu huyền cầm thì có phép phổ thánh chế của Thái Tông hoàng đế. Đến khi ca công dẫn âm hát cao, chỉ đến Hoàng Chung thanh thanh.
Chúng thần bàn bạc, hai thanh thanh và chính đã có căn cứ điển chương, lẽ ra nên áp dụng. Từ nay, khi Đại nhạc tấu bốn quân chính luật từ Di Tắc trở xuống làm cung, thì thương, giác theo thứ tự đều dùng thanh thanh, còn tám quân khác vẫn theo phép thường. Đối với các nhạc khí như đàn, sáo vốn có thanh thanh, thì cho theo chuông đá mà tập luyện[20]. Những nhạc khí vốn không có thanh thanh, thì xét bản gốc bị thiếu mất hai câu “lệnh tùy chung thạch giáo tập, bản vô thanh thanh giả”, ý văn chưa trọn, nay theo 《Tống sử – Nhạc chí》 và 《Tục thông giám》 của Tiết Ứng Kỳ mà thêm vào. Chưa thể sáng tạo tìm phép mới, hãy tạm theo lệ cũ. Chỉ có người hát vốn dùng trung thanh, nên Hạ Vũ lấy thanh làm luật, chứng tỏ ai cũng có thể làm được. Nếu cưỡng ép điều không thể, sẽ làm tổn hại đến sự hòa hợp.
Xin chỉ dùng chính thanh để hát, ứng hợp với các nhạc khí cũng là một âm, không có sai lệch. Còn thanh phổ do Nguyễn Dật dâng lên, lấy thanh trọc tương ứng, trước sau đánh nhau, lấy âm điệu mềm mại, gần với Trịnh thanh, không thể dùng.”
Chiếu chuẩn y.
[65] Ngày Đinh Mão, lấy năm khúc Hoàng chung ngũ âm do Vua soạn, gồm 57 thanh, giao cho Thái thường tập luyện.
[66] Ngày Mậu Thìn, truy tặng bà ngoại của Quý phi Trương thị là Tào thị, tước Việt quốc phu nhân, tằng tổ là Húc làm Bí thư thừa, ông nội là Tĩnh làm Từ bộ viên ngoại lang.
[67] Ngày Kỷ Tỵ, ban lại phép cầu mưa tuyết của triều trước, lệnh các nơi đặt ở chỗ nghiêm trang sạch sẽ.
[68] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu rằng: “Từ nay, các chuyển vận sứ phó ở Hà Bắc, Thiểm Tây mỗi năm cử 12 người làm huyện lệnh, đề điểm hình ngục mỗi nơi cử 6 người; chuyển vận sứ phó ở Hà Đông, Kinh Đông Tây, Hoài Nam mỗi nơi cử 10 người, đề điểm hình ngục mỗi nơi cử 5 người; chuyển vận sứ phó ở Lưỡng Chiết, Giang Nam Đông Tây, Phúc Kiến, Kinh Hồ Nam Bắc, Quảng Nam Đông Tây, Ích, Lợi, Tử mỗi nơi cử 4 người, đề điểm hình ngục mỗi nơi cử 4 người; chuyển vận sứ phó ở Quỳ Châu lộ cử 4 người, đề điểm hình ngục cử 3 người; chuyển vận sứ phó ở 6 lộ chế trí phát vận mỗi nơi cử 6 người; đề điểm hình ngục ở phủ giới cử 3 người; tri phủ Khai Phong và các châu, phủ, quân, giám mỗi nơi cử 1 người, nhưng chỉ được cử quan trong bộ mình.”
Ban đầu, đồng đề điểm hình ngục Kinh Tây là Trương Dịch sắp mãn nhiệm, đã cử 16 người làm huyện lệnh. Vua bèn nói với các phụ thần: “Huyện lệnh là người gần dân nhất, nên Trẫm đặt ra phép bảo cử. Nay Trương Dịch cử quá nhiều, ắt là do có sự nhờ vả.” Bèn lệnh định lại số lượng.
(《Cửu triều kỷ sự bản mạt》 chép: Vua dụ các phụ thần rằng: “Gần đây, các chức ty báo lên nhiều việc trưởng lại không trị lý được, nhưng Trung thư chưa từng thi hành. Trưởng lại là tính mệnh của dân, há không quan trọng sao? Nên chọn những người quá kém mà bãi chức, người kém nhẹ thì đổi đi.” Văn Ngạn Bác và các quan xấu hổ tạ lỗi rồi lui. Từ đó, từ Ngũ Khai ở Ngạc Châu, Lữ Sĩ Tông ở Đài Châu, hoặc vì già yếu, hoặc vì lười biếng mà bị bãi chức hoặc đổi đi, tổng cộng gần 16 người.)
[69] Ngày Tân Mùi, Quách Thừa Hữu, người giữ chức Phán châu Bạc, Tuyên Huy Nam Viện Sứ, Kiến Vũ Tiết Độ Sứ, bị cách chức Tuyên Huy Nam Viện Sứ. Các quan gián và ngự sử đã tâu rằng trước đây Thừa Hữu ở Nam Kinh cấp lương không theo thứ tự, bày cũ lấy mới, chỉ để làm vui lòng quân sĩ, tự ý giữ lại lương thực và phê duyệt văn thư, không điều động quân lính đi trấn thủ, vượt quyền phạt trượng và xử tội nhẹ, mượn dụng khí cụ của Hàn Lâm, ra vào mang theo cờ xí, dùng quân cấm để bắt chước nghi thức cung đình, hành vi quá đáng, không giữ lễ bề tôi.
(Sách 《Ngô Khuê Truyền》 chép là tước chức Tuyên Huy Sứ của Thừa Hữu, và ban chiếu từ nay về sau, gia đình hậu phi không được làm quan chấp chính. Điều này trong 《Ngô Khuê Truyền》 là sai. Chiếu này là do Trương Nghiêu Tá chứ không phải Thừa Hữu. Nay không lấy.)
[70] Ngày Nhâm Thân, Lý Chiêu Lượng, người giữ chức Phán châu Diên, xin đổi các tiểu bảo trại dọc biên giới Thiểm Tây không có quan sứ quản lý thành các trạm, được chấp thuận.
[71] Ngày Bính Tý, các quan gián quan Bao Chửng, Trần Húc, Ngô Khuê tâu rằng: (《Thực lục》 chép rằng: Tri gián viện Bao Chửng, Trần Húc, Ngô Khuê. Xét rằng Trần, Ngô lúc này thực là Hữu ty gián, tháng 10 ngày Nhâm Thân, mới lấy Khởi cư xá nhân làm Tri gián viện, nay chỉ nói là gián quan, để không sai sự thực.)
“Những năm gần đây, âm khí quá thịnh, nước lũ làm hư hại thành quách, đất lại chấn động, sông lớn vỡ đê, nhiều người bị chết đuối, đó đều là do bọn tiểu nhân đạo thịnh vậy. Dù bệ hạ tinh thành cảm phát, nhưng chưa thể lập tức tiêu trừ được, vì sao? Đạo trời ban phúc cho người lành, giáng họa cho kẻ dâm, nếu cùng lòng với dân thì được trời ủng hộ, nếu theo ý riêng mình thì trời sẽ bỏ. Nay muôn dân đều nói rằng Tam ty sứ Trương Nghiêu Tá là kẻ tầm thường, chỉ nhờ ân sủng riêng mà leo lên địa vị cao sang, đảo lộn phải trái, quên hết chức trách, các lộ không chịu nổi sự vơ vét của hắn, kho nội phủ cũng bị phiền nhiễu vì phải giúp đỡ. Pháp chế đã hỏng nát, thương nhân bị ngăn trở, mà Nghiêu Tá vẫn tự đắc, không biết xấu hổ, gọi tai họa đến, thực là do hắn vậy.
Thần trộm nghĩ rằng từ khi dùng Nghiêu Tá, trăm điều quái dị dần lộ ra, đó là trên trái ý trời vậy. Muôn miệng cùng chê, đó là dưới trái lòng dân vậy. Trái ý trời, thì điềm lành khác thường, dù có cầu đảo cúng tế, cũng không ích gì. Trái lòng dân, thì phong hóa trị đạo suy đồi, dù có đốc thúc quản thúc, cũng không cứu vãn được. Bệ hạ sao lại che chở một Nghiêu Tá, trên trái ý trời, dưới trái lòng dân, để gây nên nguy cơ vậy? Thực là đau lòng cho bệ hạ!
Tình riêng thân thiết, thánh nhân không tránh khỏi, nhưng nếu xử lý có đạo, tiến cử hợp lý, khiến không rơi vào nguy cơ, mà thường được bảo toàn nơi yên ổn, đó mới là được. Nếu không đoái hoài đến lời người, không để ý đến điềm trời, họa không chỉ đến với cá nhân ấy, mà còn để lại mối họa cho quốc gia. Những dấu vết được mất của cổ nhân rất nhiều, mong bệ hạ lưu tâm xem xét.”
Bao Chửng lại tâu: “Thần gần đây thấy tài chính trong thiên hạ, cả công lẫn tư đều kiệt quệ, mà các quan chủ quản kế toán, trong triều thì là Tam ty sứ, ngoài thì là Chuyển vận sứ, xin được tuyển chọn kỹ lưỡng, giao phó cho những người tài năng, để tránh việc sau này gây ra thất bại. Thêm nữa, Ngô Khuê, Trần Húc đã nhiều lần dâng tấu, nhưng cuối cùng vẫn chưa được thi hành.
Thần thấy rằng Tam ty sứ Trương Nghiêu Tá, nhờ ân điển sớm được thăng tiến nhanh chóng, được giao phó trọng trách ở Hội phủ, nhưng chức vụ của ông ta bị bỏ bê, quyền lợi bị đảo ngược[21], khiến cả công lẫn tư đều khốn đốn, trong ngoài đều lo sợ. Hơn nữa, từ xưa đến nay, dù họ hàng của hoàng hậu có tài năng, cũng chưa từng được giao quyền lực, huống chi là những kẻ tầm thường không có tài? Chỉ cần giữ cho họ được giàu sang an toàn là đủ, không cần gây hại gì.
Thần thấy rằng từ thời tổ tiên của triều đại ta, khi kho tàng đầy đủ, chi tiêu dư dả, vẫn cẩn thận chọn những quan kế toán như Trần Thứ, Ngụy Vũ để sử dụng, còn lại cũng đều là những người xuất chúng. Huống chi hiện nay tình hình khó khăn như vậy, sao có thể chỉ giao phó cho một người như thế, lâu ngày ở chức vụ này, làm mất lòng tin của thiên hạ, gây ra sai lầm cho thiên hạ, thần thực sự đau lòng vì Bệ hạ. Kính mong Bệ hạ đưa ra quyết định, bãi chức của Nghiêu Tá, tìm người tài giỏi khác, giao phó trọng trách, yêu cầu họ đạt được hiệu quả thực tế, trong một hai năm, có thể sẽ khá hơn. Nếu không, e rằng sẽ để lại mối lo lớn cho Bệ hạ. Hơn nữa, tông miếu xã tắc là điều tối quan trọng, tài chính là việc cấp bách, mà an nguy của đất nước phụ thuộc vào đó, mong Bệ hạ đặc biệt lưu tâm.”
[72] Ngày Canh Thìn, đặc phong em gái thứ tám của Quý phi họ Trương làm Thanh Hà quận quân.
[73] Ngày Tân Tỵ, Đồn điền viên ngoại lang Lữ Công Trước được bổ nhiệm làm Đồng phán Lại bộ Nam tào. Công Trước là con của Di Giản. Trước đây từng được triệu thí chức quan, nhưng không nhận. Lúc này, Vua dụ rằng: “Trẫm biết khanh có tiết tháo điềm đạm.” Nhân đó ban cho áo mặc ngũ phẩm.
[74] Ngày Quý Mùi, Vua ngự điện Sùng Chính xét tù nhân, giáng một bậc đối với tội nhẹ hơn tội chết[22], tội nhẹ hơn trượng hình thì được tha.
[75] Ngày Ất Dậu, Đồng đề điểm Kinh Hồ Nam lộ hình ngục, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Lưu Thuấn Thần dâng lên một quyển sách bàn về Minh đường cùng bản đồ. Việc này căn cứ theo 《Minh đường ký》 và 《Hội yếu》.
[76] Tháng này, Vua giảng sách ở các Nhĩ Anh, nhân đó nói với các quan hầu cận: “Xưa có việc di dân đến vùng đất rộng rãi, nay đất Mân, Thục chật hẹp, dân ở đó có thể di dời không?”
Đinh Độ đáp: “Luật lệnh vẫn còn, chỉ có quan lại không thi hành mà thôi. Thái Tổ từng di dời hơn nghìn hộ dân Thái Nguyên đến Sơn Đông, Thái Tông lại di dời dân Vân, Ứng, Hoàn, Sóc đến các châu phía tây kinh thành. Người vùng Tây Bắc siêng năng, tiết kiệm, nay những người giàu có nổi tiếng trong làng phần nhiều là dân di cư thời đó. Dân vốn yên phận, không muốn rời bỏ quê hương, nhưng nếu đất đai đã cạn kiệt, thì không còn gì để luyến tiếc. Dân Thục hàng năm tăng lên, đất hoang đã khai phá hết, hộ nghèo chỉ có ba mươi đến năm mươi mẫu, hoặc năm đến bảy mẫu mà phải nuôi cả gia đình mười mấy người, một năm mất mùa là chết đói ngay, thật đáng thương. Thần cho rằng không chỉ dân Thục, mà những nơi chật hẹp tương tự đều nên di dời đến vùng đất rộng, cấp đất theo đầu người, miễn thuế cho họ theo luật, đó mới là gốc của việc tích trữ lương thực.”
Vua nghe theo, bèn hạ chiếu cho Ty Chuyển vận Kinh Tây thông báo cho các lộ Ích, Tử, Lợi, Quỳ, Phúc Kiến, dân nào muốn di cư thì cho phép.
(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 có sửa chữa đôi chút.)
[77] Mùa thu, tháng bảy, ngày Đinh Hợi, truy tặng Mỹ nhân họ Thượng làm Sung nghi[23]. Việc này cho thấy sự việc Mỹ nhân họ Thượng được triệu vào cung trở lại.
[78] Ngày Mậu Tý, ban ra ba bản nhạc phổ cung Vô Xạ ở Minh Đường do Vua soạn, mỗi bản đều có 57 chữ. Một khúc ngũ âm dùng khi dâng lễ vật; một khúc nhị biến thất luật dùng khi uống rượu phúc; một khúc thất luật tương sinh dùng khi rút lui văn vũ, đón vũ vũ, dâng lễ á hiến, chung hiến và dọn đậu. Đoạn này e rằng trùng với ngày Kỷ Mùi tháng 6, cần xem xét lại. Theo bản chí, quả nhiên không trùng.
[79] Ngày Bính Thân, Vua đến thăm Tiết độ sứ Chương Tín, kiêm Thị trung Lý Dụng Hòa đang ốm, vào gặp trong phòng ngủ. Thăng con thứ của ông là Tây thượng các môn phó sứ Tuân làm các môn sứ, ban cho nhà ở của ông, và cấp mỗi ngày 5.000 tiền thuê nhà quan[24].
Khi ông mất, Vua lại đến viếng, khóc thương đau đớn. Truy tặng Thái sư, Trung thư lệnh, tước Lũng Tây quận vương. Đặc cách ngừng triều chính năm ngày, mặc tang phục trong vườn. Đặt thụy là Cung Hi, Vua soạn bia thần đạo, khắc chữ: “Bia thân hiền.” Khi vợ ông mất, cũng ngừng triều chính và mặc tang phục.
Vua vì Thái hậu Chương ý không được phụng dưỡng, nên ban ân sủng đặc biệt cho gia đình bên ngoại, vượt xa mức thông thường. Dụng Hòa nhờ là cậu của Vua mà từ dân thường lên đến chức tướng, nhưng biết giữ mình yên lặng, tránh xa quyền thế, đóng cửa từ chối khách, đó cũng là điểm mạnh của ông.
[80] Ngày Nhâm Dần, Châu Tào báo Thái tử thiếu sư trí sĩ Nhậm Trung Sư mất. Truy tặng Thái tử thái bảo, thụy là An Huệ.
[81] Ngày Đinh Mùi, có người dâng thư lên nói:
“Các khúc nhạc dâng rượu tế năm vị Đế trong Minh đường đều dùng một loại âm luật là Hoàng chung, đây là phép cũ dùng trong các lễ tế thường niên và lễ nghênh khí năm mùa của triều đình. Nhưng nếu dùng trong lễ đại tế do nhà Vua thân hành thì chưa thật hợp lý. Hơn nữa, vị trí các điện trong Minh đường, điện Mộc ở hướng Dần, điện Hoả ở hướng Tỵ, điện Kim ở hướng Thân, điện Thuỷ ở hướng Hợi, đều là nơi khởi đầu của Mộc, Hoả, Kim, Thuỷ. Điện Thổ ở hướng Tây Nam, là nơi thứ hai của Thổ. Đã dùng vị trí khởi đầu của ngũ hành, thì nhạc dâng thần cũng nên dùng âm luật tháng khởi đầu của ngũ hành, mỗi loại theo âm của mình để làm thành khúc nhạc. Năm khúc Tinh an nên dùng âm luật Vô xạ. Thái thấu làm Giác, dâng Thanh Đế; Trọng Lã làm Chủy, dâng Xích Đế; Lâm Chung làm Cung, dâng Hoàng Đế; Di Tắc làm Thương, dâng Bạch Đế; Ứng Chung làm Vũ, dâng Hắc Đế.”
Vua xuống chiếu cho các quan hai chế cùng Thái thường bàn bạc, Vương Nghiêu Thần và các quan khác tâu rằng ngày đại tế đã gần, việc khó thay đổi ngay, xin đợi sau đại lễ rồi sẽ bàn kỹ và tâu lên.
- Chữ 'chi' trong 'xuất nhập chi số dĩ văn' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, 《Tống toát yếu》 và 《Trị tích thống loại》 quyển 29 bổ sung ↵
- Muối 800 cân trước bán được 10 vạn tiền: '800 cân', cùng với 《Trị tích thống loại》, 《Biên niên cương mục》 quyển 14, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 đều giống nhau, bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 182 《Thực hóa chí》 đều chép là '108 cân'. ↵
- Thương nhân lấy khoán với giá rẻ để lấy muối: 《Biên niên cương mục》 quyển 14 giống nhau, bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trị tích thống loại》, 《Tống sử toàn văn》 đều không có chữ 'thụ', 《Tống sử》 quyển 182 《Thực hóa chí》 chữ 'thụ' chép là 'thụ'. ↵
- Chữ 'viết' nguyên bản không có, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 Lễ 24-1 bổ sung. ↵
- 'cái' nguyên là 'Ích', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'đắc' trong 'hậu bất đắc phục thủ' nguyên bản là 'năng', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 sửa lại ↵
- Chữ 'nhật' trong 'cái cửu nguyệt nhị thập thất nhật dã' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống hội yếu》 Lễ 24-5 bổ sung ↵
- Chiếu Hà Bắc chuyển vận ty, chữ 'Hà' nguyên là 'Giang', theo các bản sửa lại. ↵
- Nhật nguyệt nguyên tác 'Nguyệt nhật', theo 《Tống hội yếu》 lễ 24-8, 《Tống sử》 quyển 101 lễ chí sửa lại. ↵
- Chữ 'thiết' dưới nguyên có chữ 'vị', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống hội yếu》 lễ 24-8, 《Tống sử》 quyển 101 lễ chí bỏ. ↵
- chữ 'nãi' trong câu 'nãi vân phù đồ toàn đại đạo' vốn bị thiếu, dựa theo Tống bản và Tống toát yếu bản bổ sung ↵
- 《Bản Chí》 lấy nghi chú trong 《Minh Đường Ký》, 'Nghi chú', bản Tống và bản Tống Toát Yếu chép là 'Nghĩa chú'. ↵
- Ngũ đế: Sách 《Tống hội yếu》 chép là 'Ngũ phương đế', có lẽ đúng. ↵
- Ngày Giáp Thìn tháng ba: Chữ 'Giáp' nguyên bản chép là 'Nhật', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và Hoạt tự bản sửa lại. ↵
- Trẫm phụng thờ Trời Đất Tổ tiên: Chữ 'phụng thờ' nguyên bản chép là 'thờ phụng', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Từ khi thông hiếu với Khiết Đan, chữ 'hiếu' nguyên là 'sứ', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tục thông giám》 quyển 51 sửa lại. ↵
- Các vật dụng cần thiết đều do quan chức châu quân dọc đường tự lo liệu, chữ 'lo' nguyên là 'biện', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tục thông giám》 quyển 51 sửa lại. ↵
- Dĩ tử mẫu tương sinh 'tử mẫu' nguyên tác 'Mẫu tử' , cứ tống bản, tống toát yếu bản, các bản cập tống hội yếu lễ nhị tứ chi nhất tứ, tống sử quyển nhất nhị thất lạc chí ất chính. ↵
- 《Quốc ngữ》 gọi là 'độ luật quân chung' vậy. Chữ 'vị' nguyên là 'ngữ', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống hội yếu》 lễ 24-15, cùng 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- chữ 'giáo' nguyên là 'số', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》, 《Tống sử》 mà sửa ↵
- Lợi quyền phản phúc, chữ 'phản' nguyên bản là 'tư', theo bản Tống, Tống toát yếu, các bản khác và sách 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 quyển 3 sửa lại. ↵
- Chữ 'hạ' trong 'tạp phạm tử tội dĩ hạ đệ giáng nhất đẳng' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Hình pháp 5-7 bổ sung. ↵
- 'Sung nghi', bản Tống và bản Tống toát yếu chép là 'Uyển nghi'. ↵
- chữ 'nhật' vốn thiếu, theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và truyện Lý Dụng Hòa trong 《Tống sử》 quyển 464 mà bổ sung ↵