IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[BETA] QUYỂN 172: NĂM HOÀNG HỰU THỨ 4 (NHÂM THÌN, 1052)
Từ tháng giêng năm Hoàng Hựu thứ 4 đời Nhân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.
[1] Tháng giêng mùa xuân, ngày Tân Hợi, dời Biệt giá Đường Giới ở Anh Châu làm Đoàn luyện phó sứ Toàn Châu, kiêm Giám sát thuế rượu ở Sâm Châu[1].
[2] Vương Nghiêu Thần, Vương Thủ Trung, Trần Húc cùng các quan khác, so sánh tình hình thu chi tài chính trong 4 năm từ Khánh Lịch đến Hoàng Hựu, bao gồm vàng bạc, lụa vải, củi cỏ, đều được thống kê đầy đủ[2]. Sau khi so sánh, năm Hoàng Hựu thứ nhất thu được 126.251.964 quan, chi ra hết sạch; biên soạn thành sách 7 quyển, ngày Bính Thìn, dâng lên Vua. Vua xuống chiếu giao cho Tam ty, lấy số liệu trung bình một năm làm định thức.
(Việc này được giao từ tháng giêng năm thứ hai, đến nay mới hoàn thành.)
[3] Ngày Canh Thân, quân Càn Ninh dâng một chiếc chuông cổ, Vua xuống chiếu giao cho Sở Tường định Đại nhạc.
(《Thực lục》 vào cuối tháng 2 năm sau cũng chép việc Càn Ninh dâng chuông cổ. 《Bản chí》 cũng chép vào tháng 2 năm sau. Nhưng việc dâng chuông năm nay, 《Bản chí》 lại không chép, có lẽ do 《Thực lục》 chép trùng. Nay chỉ giữ lại một chi tiết, tháng 2 năm sau không chép lại.)
[4] Ngày Bính Dần, cho phép Tư lý tham quân Chúc Thân ở Cát Châu được để tang anh trai. Trước đó, An phủ sứ Giang Nam Đông Lục tâu rằng Chúc Thân mồ côi từ nhỏ, được anh trai và chị dâu nuôi dưỡng, đã từng để tang chị dâu, nay lại xin từ chức để tang anh trai. Vua nói: “Gần đây có kẻ giấu tang cha mẹ để mưu cầu tiến thân, nay Chúc Thân tuy việc để tang không đúng lễ, nhưng không quên ơn nuôi dưỡng, cũng đáng khuyến khích.” Bèn đồng ý, và hẹn khi mãn tang sẽ bổ nhiệm làm Mạc chức quan hoặc Tri huyện.
[5] Chiếu rằng: “Trước đây vì Đường Giới có liên quan rõ rệt đến việc kết bè kết đảng[3], nên phải giáng chức, nhưng cũng lo rằng đường ngôn luận bị bế tắc, nên đã sớm cho phục chức. Vẫn còn lo rằng các quan ngôn sự e ngại. Ngự sử đài, Gián viện, phải hết sức thẳng thắn, để chỉ ra những thiếu sót. Lại lệnh cho Thông tiến ty, nếu có chương tấu, phải kịp thời dâng lên[4], tất sẽ tự xem, hoặc chỉ lưu lại trong cung.”
(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 ngày 19 tháng giêng năm thứ 4, ngày Bính Dần.)
[6] Ngày Mậu Thìn, chiếu cho Ngự sử đài, các quan lại trên 70 tuổi, vì lý do sức khỏe bị cách chức hoặc phân ty, trí sĩ, thì không được ban ơn cho con cháu.
[7] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu cho phép các lộ Chuyển vận ty ở những nơi bị thiên tai cho dân vay lương thực giống, nhưng không được lấy danh nghĩa khuyên dụ để ép buộc dân.
[8] Ngày Nhâm Thân, Xu mật trực học sĩ, Công bộ Thị lang, Tri Phúc Châu Lưu Quỳ xin từ quan về núi Vũ Di làm đạo sĩ, không được chấp thuận, sau đó được lệnh làm Tri Kiến Châu. Quỳ là người Kiến Châu[5]. Sau đó được phong làm Hộ bộ Thị lang rồi trí sĩ.
(Việc làm Tri Kiến Châu vào tháng 10 năm nay, ngày Mậu Tuất, trí sĩ vào tháng 4 năm sau, nay ghi chép lại.)
[9] Ngày Quý Dậu, Hình bộ Lang trung, Giang Đông Chuyển vận sứ Trương Miễn được phong làm Trực sử quán. Hàn lâm học sĩ Triệu Khải tâu rằng Miễn từng làm việc ở đài tỉnh, nổi tiếng thanh liêm cẩn thận, xin được khen thưởng.
[10] Ngày Ất Hợi, đắp đập Quách Cố khẩu.
[11] Tháng 2, ngày Mậu Dần, Vua nói với các phụ thần: “Phương Đông Nam mấy năm nay mất mùa, sức dân kiệt quệ, đã từng ra chiếu giảm 1 triệu thạch lương thực chở về kinh. Nay Phát vận sứ Thi Xương Ngôn, Hứa Nguyên lại muốn điều động quân lương ở Lưỡng Chiết, Giang Nam, chắc chắn là để vơ vét của dân, tìm kiếm lợi nhuận để tiến thân, nên phải ngăn chặn.” Bèn ra chiếu cho Xương Ngôn tuân theo chiếu trước, không được tự ý thu thuế.
[12] Ngày Kỷ Mão, giáng chức Lợi Châu lộ Chuyển vận sứ, Độ chi Lang trung Lý Hi Phụ làm Đề điểm Kinh Hồ Bắc lộ Hình ngục, Độ chi Viên ngoại lang Trương Kỷ làm Tri Hấp Châu, đều vì xét việc ở bộ không có thành tích.
[13] Ngày Canh Thìn, Binh bộ lang trung Phó Vĩnh được bổ nhiệm làm Hộ bộ phó sứ. Cuối niên hiệu Khánh Lịch, Phó Vĩnh từ chức Chuyển vận sứ lộ Tử Châu được điều đến Thiểm Tây. Tháng giêng năm Khánh Lịch thứ tám, ông từ Tử Châu chuyển đến. Lúc đó, vùng Quan Trung sử dụng tiền sắt loại mười đồng, việc đúc tiền giả không thể kiểm soát được, cả công lẫn tư đều lo lắng. Phó Vĩnh dâng sách lược xin thay đổi pháp chế tiền tệ. Khi đến nơi, ông hỏi dân chúng về những thiếu thốn, cho vay tiền giống và lương thực, hẹn đến khi lúa chín thì thu lại, chỉ lấy lãi nhẹ, dân chúng rất vui mừng.
Phó Vĩnh lập tức ra lệnh cho các châu huyện, tổng cộng phát ra hai trăm tám mươi vạn quan tiền, tiền lớn đều hết, rồi báo lên triều đình. Sau đó, triều đình thay đổi pháp chế, ban lệnh dùng ba đồng tiền sắt nhỏ đổi một đồng tiền sắt lớn, dân chúng không ngờ tới, nhiều người phá sản, thất nghiệp, tự tử, còn việc đúc tiền giả cũng giảm dần. Số tiền cho vay thu được bốn mươi vạn hộc lúa mạch, thương nhân nộp lương thực ở biên giới và nhận tiền ở Trung Đô, mỗi năm năm trăm vạn quan. Lúc đó, Hà Bắc tâu xin tiền, triều đình chưa có gì để cấp, Phó Vĩnh nói rằng kho lương của địa phương đầy đủ, xin lấy số tiền đáng lẽ được nhận để cấp cho họ[6], Vua khen ngợi.
Từ khi dùng binh ở Khang Định, việc chuyển thuế từ Thiểm, Hoa về phía tây đến biên giới khiến dân chúng cực khổ, Phó Vĩnh ra lệnh nộp thuế tại quận mình, rồi chuyển tiền để cung cấp lương thực cho biên giới, kho lương cũng không thiếu. Vương Nghiêu Thần xét định thành tích, tâu lên việc này, Vua lại ban chiếu khen ngợi. Sau đó, ông được triệu về kinh, quyền chức Củ sát tại kinh hình ngục, rồi được thăng làm phó Tam ty[7].
(《Phó Vĩnh truyện》 chép: Phó Vĩnh dâng sách lược xin thay đổi pháp chế, sau khi cho dân vay tiền sắt lớn, liền ban lệnh dùng một đồng đổi ba đồng, nhiều người dân phá sản, thất nghiệp, còn việc đúc tiền giả cũng chấm dứt. Xét việc thay đổi pháp chế vào tháng sáu năm Khánh Lịch thứ tám, là do Tam ty bàn bạc, có thể cũng do Phó Vĩnh dâng sách lược. Nếu nói rằng Phó Vĩnh tự ban lệnh dùng một đồng đổi ba đồng, thì đó là ông tự ý đặt ra pháp chế để lừa dân, chứ không phải do triều đình thay đổi pháp chế.
Việc triều đình thay đổi pháp chế xảy ra ngay sau khi Phó Vĩnh cho dân vay tiền sắt lớn. Có lẽ Phó Vĩnh cho dân vay tiền sắt lớn, tiền lớn tuy đổi được mười đồng tiền nhỏ, nhưng mười đồng tiền nhỏ có thể đúc lại thành năm đồng tiền lớn và còn dư, tức như Trịnh Tiễn nói, việc đúc tiền giả thu lợi sáu phần mười. Phó Vĩnh trước cho dân vay tiền lớn, nay chỉ lấy tiền nhỏ[8], lại dùng ba đồng tiền nhỏ đổi một đồng tiền lớn loại mười, danh nghĩa là ưu đãi người vay, nhưng thực chất là âm thầm đoạt lợi từ việc đúc tiền giả. 《Phó Vĩnh truyện》 chép việc này không rõ ràng, nay lược bớt và chỉnh sửa cho dễ hiểu.)
[14] Chiếu cho Khai Phong phủ: “Gần đây nghe nói có những kẻ phù phiếm, làm thơ vô danh, nhạo báng đại thần, chửi mắng triều sĩ, cùng chú thích thơ văn của bề tôi để làm trò cười. Hãy nghiêm ngặt truy xét, ai tố giác sẽ được ban thưởng hậu hĩnh.”
[15] Ngày Tân Tỵ, giáng chức Đề điểm Giang Nam Đông lộ Hình ngục, Đô quan viên ngoại lang Trương Túc làm Tri châu Mục Châu, Đồng đề điểm Nội điện thừa chế, Cáp môn kỳ hậu Triệu Mục làm Giám áp nơi nhỏ.
Trước đó, triều đình thấy Kinh Đông, Hoài, Chiết, Giang, Hồ bị thiên tai, bèn lệnh cho Chuyển vận sứ và Đề điểm Hình ngục chia đường đi tuần tra. Nhưng Túc và Mục chần chừ không đi, lại tâu xin theo biên sắc, mỗi khi đi tuần phải cùng đi, lại xin đem gia quyến đến châu quân được phân định. Vua nói: “Ban đầu lệnh chia đường tuần tra là để kịp thời phủ dụ dân nghèo, đốc thúc bắt giặc, mà Túc và Mục lại muốn đem gia quyến để tiện lợi cho mình.” Vì thế giáng chức.
[16] Ngày Quý Mùi, lệnh Ngự sử trung thừa Vương Cử Chính cùng Tam ty xem xét định lại các khoản chi tiêu lãng phí.
[17] Ngày Giáp Thân, Hữu đồn vệ Đại tướng quân Khắc Kế dâng sách 《Cổ Văn Vận》 6 quyển do Hạ Tủng biên tập. Vua bảo các quan phụ chính: “Trong tông thất ít người ham học, chỉ có Khắc Kế chuyên tâm nghiên cứu chữ nghĩa, nên ban chiếu khen ngợi.” Rồi đem sách ấy vào Bí các. Khắc Kế là cháu của Đức Cung, con của Thừa Khánh.
[18] Ngày Ất Dậu, Đoan Minh điện học sĩ kiêm Long Đồ các học sĩ, Lễ bộ Thị lang, Tập Hiền điện Tu soạn Lý Thích, vì mẹ già xin từ chức về phụng dưỡng, được chấp thuận.
[19] Ngày Đinh Hợi, xuống chiếu rằng từ nay trở đi, mỗi năm khi tế sông ở cửa sông Biện, phải thờ cúng thêm 17 ngôi sao. Trước đây, Linh Đài Lang của Ty Thiên Giám là Vương Thái Minh tâu rằng, theo sách chiêm tinh, có 19 ngôi sao chủ quản các việc liên quan đến sông ngòi, kênh rạch, tưới tiêu, nhưng lễ tế ở cửa sông Biện chỉ cúng 7 vị thần sông mà không nhắc đến các ngôi sao.
Chiếu cho Ty Thiên Giám xem xét quy định lại, Ty Thiên Giám tâu: “Trong 19 ngôi sao, sao Khang Trì chủ việc đưa đón nước lên xuống[9]; sao Bắc Hà là giới hạn phía bắc của Khiết Đan, sao Nam Hà là giới hạn phía nam của Việt Môn; sao Thổ Tư Không chủ việc đất đai, đều không liên quan đến sông Giang, Hoài, Tế. Vương Thái Minh bỏ sót ba sao Kỷ, Đẩu, Khuê chuyên chủ việc sông ngòi, xin thờ cùng với các sao Đông Tỉnh, Thiên Tân, Thiên Giang[10], Hàm Trì, Tích Thủy, Thiên Uyên, Thiên Hoàng, Thủy Vị, Thủy Phủ, Tứ Độc, Cửu Khảm, Thiên Thuyền, Vương Lương, La Yển, tổng cộng 17 ngôi sao (xét thấy đoạn này chỉ liệt kê 16 sao, tra cứu chí Lễ trong Tống sử, sau sao Đông Tỉnh có tên sao Thiên Tân, nguyên bản bỏ sót, nay thêm vào). Những sao nằm trong dải Ngân Hà đều nên thờ cúng.” Từ đó, lễ tế các sao ở cửa sông Biện bắt đầu.
[20] Ngày Kỷ Sửu, xuống chiếu rằng hàng năm nước Hạ phải cử thủ lĩnh đến tiến cống, người dẫn đường và áp tải từ nay phải chọn người am hiểu việc biên giới.
[21] Ngày Canh Dần, Tây Thượng Các Môn Sứ, Thứ sử Huệ Châu là Lưu Kiêm Tế được bổ nhiệm làm Tri Hùng Châu. Trước đây, dân biên giới trốn tội chạy sang Khiết Đan, Khiết Đan thường thu nhận, tướng giữ biên giới sợ việc không dám hỏi, Kiêm Tế liền gửi văn thư yêu cầu trả lại.
[22] Ngày Kỷ Hợi, Vua xuống chiếu cho An phủ chuyển vận sứ Hà Bắc, Tri châu Bác là Thái Đĩnh cùng với Nhập nội đô tri là Trương Duy Cát bàn bạc về lợi hại của sông Lục Tháp rồi tâu lên. Lúc đó, sông Quách Cố tuy đã được đắp đê ngăn lại, nhưng nước vẫn còn ứ đọng, có người bàn nên khơi thông sông Lục Tháp để phân tán dòng chảy, nên Vua sai Duy Cát đi xem xét.
Trước đó, Tỉnh Uyên bị giặc bắt, Đĩnh tâu nên noi theo gương Kiều Huyền thời Hán[11], không vì con mình mà chậm trễ việc bắt giặc, triều đình nghe theo. Lúc đó, Hà Bắc nhiều trộm cướp, Đĩnh được chọn làm Tri châu Bác, ra lệnh cho các huyện nghiêm chỉnh phép ngũ, tìm được mấy người từng làm giặc, tha cho nợ cũ, bổ làm lại, sai họ dò xét nơi ở của bọn trộm, mỗi lần ra quân đều bắt được. Lại tâu xin san bằng thuế hai huyện Bác Bình và Liêu Thành, mỗi năm thu thêm được hàng vạn. Điền Huống làm Tam ty sứ, dâng lên phép ấy, thi hành ở các lộ, nhưng đại để là tăng thuế, dân chúng khổ sở.
(Việc san bằng thuế, 《Tống sử》 bỏ đi, nay phụ chép vào đây, cần xét lại.)
[23] Ngày Canh Tý, miễn cho dân châu Hồ số thóc vay của quan là bốn vạn hộc.
[24] Nhập nội nội thị tỉnh tâu rằng, gần đây các nơi thường đem những việc không có tiền lệ xin bản tỉnh sai sứ thần truyền tuyên, sợ rằng sẽ có người viện lệ xin bày, làm rối loạn điều lệnh chiếu chỉ, xin từ nay đều giao cho nơi có thẩm quyền, lệnh kiểm tra điều lệ rồi thi hành, bản tỉnh không cần sai sứ thần truyền tuyên nữa. Vua nghe theo. (Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 tháng 2, nay phụ chép vào cuối tháng.)
[25] Tháng 3, ngày Đinh Mùi, Binh bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế, Tri gián viện Bao Chửng được làm Long Đồ các học sĩ, Hà Bắc đô chuyển vận sứ. Chửng ở Gián viện hơn hai năm, nhiều lần đàn hặc đại thần quyền thế, xin bãi bỏ mọi ân huệ bất chính từ nội cung. Lại dâng lên ba tờ sớ của Ngụy Trịnh Công đời Đường, xin đặt bên cạnh chỗ ngồi để làm gương soi. Lại liệt kê bảy việc:
“Một là: Bệ hạ trời sinh khoan dung nhân hậu, dung nạp bề tôi, nhưng những kẻ tiểu nhân gian hiểm, ngang nhiên bịa đặt những lời vu khống vô căn cứ, hãm hại người lương thiện, khiến họ bị bài xích mà không được tự biện minh. Khi âm mưu của kẻ gian được thực hiện, thì bề tôi trung nghĩa sợ bị gièm pha, lo sợ tai họa, không dám đảm đương việc lớn. Nếu có việc gấp xảy ra, triều đình sẽ dựa vào ai? Mong bệ hạ dùng sự sáng suốt để phán xét, nếu thấy rõ là bị vu oan, hãy giao ngay cho Hữu ty xét rõ sự thật, khiến phải trái rõ ràng, thì bề tôi trung thành mới có thể hết lòng phụng sự.
Hai là: Gần đây có người chỉ trích bề tôi kết bè kết đảng, trong đó những người dám hy sinh thân mình, khuyến khích điều thiện, ghét bỏ điều ác lại bị vu khống xảo quyệt; tiến cử một người hiền tài, thì bị cho là kết đảng giúp nhau; cách chức một kẻ bất tài, cũng bị cho là do đảng phái ghen ghét. Khiến người chính trực phải im lặng, không dám công khai bàn luận phải trái, đây là mối họa lớn cho quốc gia. Khi bậc thánh minh trị vì, làm gì có chuyện kết đảng? Tệ nạn kết đảng bắt nguồn từ thời suy yếu. Thời Hán, nạn đảng cố bắt đầu từ thời An Đế, đến thời Hoàn Đế, Linh Đế thì cực thịnh. Thời Đường, nạn bè đảng bắt đầu từ thời Mục Tông, đến thời Văn Tông, Vũ Tông thì càng nghiêm trọng.
Với sự chăm chỉ trị nước của Bệ hạ, sao có thể so sánh với thời suy yếu của Hán, Đường? Đây là do bề tôi chỉ lo đấu đá lẫn nhau để thỏa chí, không nghĩ đến việc nước. Bệ hạ hãy xét danh thực, dựa vào hành vi để hiểu lòng người, đừng nghi ngờ về việc kết đảng, thì quân tử và tiểu nhân sẽ phân biệt được.
Ba là: Những năm gần đây, đại thần chuyên quyền, ghen ghét nhân tài, nếu có ai đề xuất gì, thì bị cho là cầu danh, nên không ai dám tự nguyện cống hiến. Hoặc có người không sợ thời thế, thẳng thắn trình bày sự việc, thì bị trăm phương ngăn trở, cuối cùng không thể thực hiện. Tuy tại chức nhiều người, nhưng người thực sự lo lắng cho việc nước thì rất ít, may có một người, lại bị ép vì lời cáo buộc cầu danh. Như vậy, kẻ nhút nhát im lặng lại được lợi, còn người có chí hướng nhân nghĩa thì không thể làm gì. Đây là do bề tôi đương chức chỉ lo mưu lợi riêng, bôi nhọ người chính trực, đâu phải là ý của Bệ hạ! Mong Bệ hạ thu nhận ý kiến chung, phân biệt rõ phải trái, đừng nghi ngờ về việc cầu danh, thì mọi người mới có thể hết lòng.
Bốn là: Có người bàn rằng bệ hạ hơi thiên về lời nói trước. Việc triều đình, xét xem đạo lý thế nào[12], không liên quan đến lời nói trước sau. Nếu nhất định cho rằng lời nói trước là đúng, thì những kẻ bề tôi hại người hiền, mưu lợi riêng, ngầm bôi nhọ, chỉ sợ chậm chân, làm loạn chính tà trong thiên hạ, che mắt bệ hạ. Mong rằng khi nghe nhận, chỉ xét việc đúng sai, lấy nghĩa mà quyết định, đừng ham lời nói trước, thì thật giả sẽ rõ.
Năm là: Gần đây đặt ra các điều cấm, thường có sự phòng ngừa nghi ngờ, thiếu một ngự sử, phải tiến cử hai người, tâu lên chờ bệ hạ tự chọn. Lại hạn chế người trong ngoài, và những người từng được hai phủ bàn tiến cử[13], đều không được dự. Các phụ thần chỉ gặp khách vào ngày nghỉ, nếu trăm quan đi tuần sảnh trình việc, quan đài gián tư yết, quan hình pháp tiếp kiến người xin xóa tội kể công[14], đều có lệ cấm. Thần cho rằng đều không phải là đạo đế vương suy thành hết lòng với kẻ dưới[15].
Bệ hạ đang muốn noi theo vết Nghiêu, Thuấn, há lại như Hán Vũ đế đa nghi hay sao! Ấy là do có kẻ bề tôi không biết đại thể, phòng ngừa quá mức, bàn luận sai lầm, làm lầm thánh đức, thần sợ rằng ghi vào sử sách, sẽ bị đời sau chê cười. Mong bỏ chế độ gần đây, đặt lòng tin lớn với quần thần, việc chính sự triều đình, nhất loạt theo phép năm Cảnh Hữu đầu tiên, thì sẽ tốt đẹp vậy.
Sáu là: Những năm gần đây, tai biến xảy ra liên tiếp, nạn châu chấu, lũ lụt, hạn hán lan rộng khắp nơi. Bệ hạ lo lắng, tìm cách cứu vãn, sợ một vật gì đó bị mất mát. Tấm lòng thánh thiện như vậy, lẽ nào không thể ngăn chặn tai họa, điều hòa âm dương sao? Điều này có lẽ là do các quan chấp chính không thể đồng lòng, hợp sức để cứu vãn tình thế; hoặc bệ hạ cũng có thể bị ngăn trở, không thể ủy thác và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ, nên dẫn đến tình trạng này. Hiện nay, dân lưu tán rất nhiều, kho tàng trống rỗng, quan lại tham nhũng, binh lính kiêu ngạo, kẻ thù mạnh mẽ và hung hãn. Nếu không may gặp phải nạn đói kém, lại thêm giặc cướp, thì trong số các quan đương chức, ai là người có thể dựa vào?
Bệ hạ sao không dùng việc để xem xét, ai có thể dốc lòng lo nghĩ về những tệ nạn của thiên hạ, ai có thể ra sức gánh vác trách nhiệm của thiên hạ? Nếu tìm được người như vậy, thì nên tin tưởng và giao phó trọng trách. Còn những kẻ chỉ biết giữ lộc, nịnh hót, ghen ghét người tài, cản trở người giỏi để mưu lợi cho bản thân, thì nên cách chức ngay, không để họ lâu ngày chiếm giữ vị trí quan trọng. Biến nguy thành an, dễ như trở bàn tay. Nếu bỏ lỡ thời cơ này mà không kịp thời hành động, một khi tai họa xảy ra, dù muốn làm gì cũng không kịp nữa.
Bảy là: Những năm gần đây, các bề tôi bị đày ải, có người vô tội, có người vì lỗi nhỏ, có người bị kẻ xấu hãm hại, có người bị kẻ quyền thế ghét bỏ. Họ bị soi mói từng chi tiết, tìm kiếm khuyết điểm, lưới pháp luật giăng kín, tội lỗi bị bủa vây khắp nơi[16]. Một người phụ nữ oán hận, có thể khiến trời nắng hạn kéo dài nhiều năm; một người đàn ông uất ức, có thể khiến sương giá rơi xuống. Huống chi những bề tôi vô tội bị đày ải, khí phách cảm động trời đất, tinh thần thấu suốt nhật nguyệt, lẽ nào chỉ như người phụ nữ hay người đàn ông kia sao?
Xin bệ hạ tự xem xét danh sách những người bị giáng chức, xem xét những người có tài năng, công lao mà không phạm lỗi lớn, hoặc cho họ được phục chức, hoặc ban ân sủng thăng chức. Như vậy, ân đức của bệ hạ sẽ bao trùm rộng lớn, cùng với trời đất, và phong khí vu cáo, hãm hại sẽ không dám hoành.”
Tờ tấu dâng lên, phần lớn được chấp nhận.
(Những điều Bao Chửng trình bày gồm bảy việc, căn cứ theo chính sử. Nay trong thực lục lại chép việc này vào truyện của Ngô Khuê, ắt là sai lầm. Bản Chu đã bỏ đi, nhưng cũng không thể phân biệt được đúng sai, có lẽ Khuê và Chửng cùng ở trong cơ quan gián nghị lúc bàn luận[17], nên bản mực đều chép cả, nay không lấy.)
Trước đây, Bao Chửng từng đề nghị bãi bỏ quân đồn trú ở Hà Bắc, chia về các châu Duyễn, Vận, Tề, Bộc, Tào, Tế ở Hà Nam, gặp cảnh báo thì lập tức xuất quân, nên không lo việc chậm trễ không kịp[18]. Nếu cho rằng quân đồn trú không thể giảm ngay[19], thì hãy huấn luyện nghĩa dũng để tăng cường biên phòng, tuy cấp ít lương thực, mỗi năm không bằng một tháng chi phí của quân đồn trú, dùng thuế một châu có thể cấp cho mười tám vạn nghĩa dũng.
Triều đình cho là khó, bèn lại tấu rằng: (《Bản truyện của Bao Chửng》 chép: Trước đây Bao Chửng từng đề nghị, lúc không có việc xin dời quân về nội địa, không được trả lời. Đến nay lại xin, việc cuối cùng không thực hiện. Xét đề nghị dời quân của Bao Chửng, năm đầu cũng thực hiện sơ lược, không phải không được trả lời. Còn việc muốn dùng nghĩa dũng thay quân đồn trú, thì việc đó cuối cùng bị bỏ dở. Bản truyện gộp hai việc làm một, nên không hợp với thực lục. Nay lược bớt và chỉnh sửa, vẫn ghi cả hai việc. Việc huấn luyện nghĩa dũng thay quân đồn trú, đã ghi đủ vào tháng 3 năm đầu khi làm Đô tào, nay tờ tấu dâng lên, vẫn ghi đủ ở phần sau.)
“Thần trộm thấy mối họa của thiên hạ nằm ở ba vùng, mà Hà Sóc là nghiêm trọng nhất, binh lính dư thừa hao tổn ở trên, chi tiêu công quỹ bị đục khoét ở dưới, bên trong khiến kho tàng trống rỗng, bên ngoài khiến dân chúng khốn khổ. Thần trước sau nhiều lần từng bàn luận, xin dời binh mã đến các châu quân ở Hà Nam, và bãi bỏ việc buôn bán công quỹ ở các nơi, tìm cách ủy thác cho các lộ an phủ, chuyển vận ty xem xét, nhưng cuối cùng vẫn chưa thấy quyết đoán thi hành.
Huống chi phương Bắc xin hòa đã hơn bốn mươi năm, mỗi năm cống nạp vàng lụa hàng chục vạn, là muốn giảm bớt chi tiêu quốc gia và nới sức dân. Hiện nay biên cương không có việc gì[20], chính là lúc bảo vệ đất nước và nghỉ ngơi dân chúng, nhưng binh lính đồn trú ngày càng đông, chi tiêu ngày càng lớn, mỗi năm Hà Bắc mua lương thực ba bốn trăm vạn thạch, ước tính chi tiêu tiền mặt bốn năm trăm vạn quan, chỉ còn dự trữ được hai ba năm[21].
Dù triều đình ra sức ứng phó, cũng không kịp, ngày càng nghiêm trọng, thần e rằng vài năm sau, ắt sẽ có mối họa không thể cứu vãn. Như trước năm Bảo Nguyên, thiên hạ không có việc gì, của cải dồi dào, một khi giặc Ngô hoành hành, điều động khắp nơi, công tư đều cùng quẫn, đến nay vẫn chưa phục hồi. Lấy tình thế hiện nay so với ngày trước, thì không thể so sánh được. Vạn nhất có việc khẩn cấp, lấy gì để ứng phó?
Vả lại, biên địa là tứ chi, Hà Sóc là tâm phúc. May mà bên ngoài không có lo lắng biên cương, mà Hà Sóc lại khốn khổ như vậy[22], là phòng ngừa mối họa chưa xảy ra ở tay chân, mà tự làm hại tâm phúc, thì triều đình sao có thể không lo lắng sâu sắc và tìm cách cứu vãn? Nếu trên dưới đồng lòng, thay đổi cách làm, dễ như lật bàn tay, mà có được sự yên ổn như Thái Sơn, thì còn ngại gì mà không làm?
Muốn tuyên dụ các đại thần chấp chính hai phủ, nên đối với binh mã các châu quân ở vùng biên giới và gần kinh đô, ngoài số cần giữ lại để phòng thủ, còn các quân đồn trú, trú bạc, đều lệnh về doanh để nhận lương. Các quân này sẽ chia nhau đồn trú ở các châu Hà Nam[23], cứ ba năm thay một lần, nếu có việc biên giới, sẽ lập tức xuất quân, không quá mười ngày là có thể đến nơi. Còn tiền công dụng của các châu, ngoài việc tăng thêm một phần cho các châu quân ở vùng biên giới và trên đường đi sứ, thì các lộ khác đều cấm chỉ, không được phép buôn bán.
Như vậy, quốc dụng và sức dân sẽ dần dần được khôi phục. Mong bệ hạ thương xót dân chúng[24], quyết định thực hiện ngay, nếu lại để các lộ bàn bạc, thì sẽ cãi nhau, càng không có hồi kết.”
Việc chia quân đồn trú, cuối cùng không thực hiện được. Việc các châu dùng tiền công dụng để buôn bán cũng bị bãi bỏ.
Sau vài tháng, Bao Chửng được điều làm An phủ sứ lộ Cao Dương Quan, nhân đó xóa bỏ hơn mười vạn quan tiền công mà quan lại và dân chúng trong lộ đã nợ qua nhiều năm.
(Việc ông được điều làm Tri châu Doanh vào tháng bảy ngày Mậu Thân, nay ghi chung lại.)
[26] Ngày Mậu Thân, Quyền Tri Khai Phong phủ, Long đồ các Trực học sĩ, Khởi cư Xá nhân Lý Huyến được cử làm Đồng Đề điểm các ty khố vụ tại kinh. Huyến nổi tiếng có tài trị lý, nhưng thích uống rượu, khi vào chầu buổi sáng, rượu chưa tỉnh, Vua nói: “Việc Khai Phong nhiều, có thể uống rượu sao!” Bèn đổi mệnh cho Binh bộ Viên ngoại lang, Tri chế cáo Hà Trung Lập làm Quyền Phát khiển Khai Phong phủ sự.
[27] Ngày Kỷ Dậu, xuống chiếu cho Lễ bộ tổ chức thi cử.
[28] Ngày Canh Tuất, đặt chức Đề cử Tróc tặc một viên ở hai châu Quảng và Huệ.
[29] Cho con trai của Giang Tân úy Vương Dục Tài là Vương Kinh làm Thái miếu Trai lang, vì Dục Tài bị chết khi đang bắt cướp.
[30] Ngày Tân Hợi, Kinh lược sứ Phu Diên là Địch Thanh tâu: “Từ chức Áp quan trở lên của các Cung tiễn thủ ở Diên Châu và Bảo An quân[25] đều được cấp ruộng thân phận. Nay xin từ chức Thập tướng đến Chỉ huy sứ, căn cứ vào số nhân khẩu trong gia đình[26], chia thành các bậc để cấp thêm ruộng bỏ hoang.” Được chấp thuận.
[31] Ngày Nhâm Tý, Quan văn điện Đại học sĩ, Lại bộ Thượng thư, Tri châu Trần Châu là Trần Chấp Trung được bổ làm Tập Khánh Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán Đại Danh phủ; Vũ Thắng Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán Đại Danh phủ là Trình Lâm được bổ làm Trấn An Tiết độ sứ, về nhận chức ở bản trấn. Sau đó lại có chiếu cho Trình Lâm được ra vào theo nghi thức như các quan đương nhiệm ở Nhị phủ. Trình Lâm trước sau giữ chức ở Ngụy 10 năm, cẩn trọng không gây phiền nhiễu, từng xem xét các nơi hiểm yếu, tu sửa thành lũy, tăng cường phòng thủ. Ông trồng hàng vạn cây, nói: “Sau này dụng cụ làm lầu tháp sẽ không phải lấy từ dân nữa.” Dân chúng yêu mến, lập sinh từ thờ ông.
(Việc ông được ra vào theo nghi thức Nhị phủ là vào ngày Tân Tỵ tháng 4, nay ghi chung vào đây.)
[32] Ngày Giáp Dần, có chiếu rằng: “Các Tri châu Kiền Châu, Đề cử Binh giáp công sự Nam An quân, Hùng Châu, từ nay nếu dẹp yên được giặc cướp, chính trị được khen ngợi, khi mãn nhiệm kỳ sẽ được khen thưởng thăng chức. Các Tri châu Cát, Phủ, Nhiêu, Tín, Tuyên, Hấp và các Tri huyện Cát Thủy thuộc Cát Châu, Vụ Nguyên thuộc Hấp Châu, Phù Lương, Lạc Bình thuộc Nhiêu Châu, Phân Ninh thuộc Hồng Châu, Tân Dụ thuộc Lâm Giang quân, từ nay lệnh cho Thẩm quan viện không căn cứ theo thứ tự mà tuyển chọn người, nếu trong nhiệm kỳ không có sai sót, cũng sẽ được khen thưởng thăng chức.”
Lúc đó, Hàn Giáng và các quan từ Giang Nam đi an phủ trở về[27], tâu rằng người Giang Tây thuế má nặng nề[28], các quan châu huyện phần nhiều không đủ năng lực, nên đối với những vùng khó trị, đặc biệt đặt ra điều lệ này. Năm Khánh Lịch đầu tiên, Vương Kỳ và các quan tăng thuế muối ở sáu lộ Giang Nam, Hoài, Lưỡng Chiết, Kinh Hồ. Khi Giáng từ Giang Nam trở về, tâu rằng giá muối cao, dân không có gì để ăn. Sau đó, các lộ đều tâu lên như vậy, nên những khoản tiền mà Kỳ và các quan tăng thêm đều bãi bỏ và khôi phục như cũ.
(Việc này căn cứ theo bản chí, ghi chép thêm, không rõ thời gian cụ thể.)
[33] Cấm người Hán ở lộ Phu Diên đem ruộng đất bán cho các quan người Phiên.
[34] Ngày Bính Thìn, miễn thuế lương giống mà dân hai lộ Giang Nam Đông và Tây đã vay. Trước đó, Vua nói với các quan phụ chính: “Gần đây Giang Nam bị đói kém, đã cho vay mấy chục vạn hộc lương giống, lại nhiều lần hoãn thu, nhưng Ty Chuyển vận vẫn đòi mãi. Nghe nói dân nghèo không thể trả hết, nếu không phái sứ đi an phủ, thì những việc ở xa không thể thấu lên trên, vậy hãy miễn cho họ.”
[35] Ngày Kỷ Mùi, xuống chiếu cho Đại Lý tự: “Theo chế độ cũ, việc lớn hạn trong 30 ngày, việc vừa 20 ngày, việc nhỏ 10 ngày, Viện Thẩm hình giảm một nửa. Nay đang mùa nắng nóng, sợ việc chờ xét lâu ngày, từ tháng 4 đến hết tháng 6, những vụ án có tù nhân bị giam thì giảm hạn một nửa. Còn các châu quân Ích, Tử, Lợi, Quỳ, Quảng Nam Đông Tây, Phúc Kiến, Kinh Hồ, thì theo lệ xét xử khẩn cấp mà tâu lên.”
[36] Ngày Tân Dậu, Vua ngự tại điện Sùng Chính xét các tù nhân bị giam.
[37] Ngày Nhâm Tuất, xuất 10 vạn tấm lụa từ kho nội tàng để cấp cho Tam ty nhằm hỗ trợ quân phí. (Sự kiện này có thể tra cứu vào tháng 8 năm Chí Hòa nguyên niên).
[38] Ngày Quý Hợi, ban chiếu cho thiên hạ rằng: Việc xin thưởng quân Nam Giao phải được gửi lên kinh đô trước tháng 9 năm trước, hạn chót đến tháng 3 năm sau phải chuyển đến các châu quân. Trước đây, các địa phương thường đợi sát ngày tế Giao mới cử người xin thưởng quân, việc chi trả không kịp thời, lại gấp gáp, nên nhiều người bỏ trốn. Dân chúng Hà Bắc, Hà Đông đặc biệt khổ cực vì việc này, nên mới đặt ra quy định mới.
[39] Ngày Bính Dần, Ty Đô bộ thự Hà Đông, Thiểm Tây tâu rằng: Cây nỏ “Độc Viên Xung Trận Vô Địch Lưu Tinh” do Quách Tư dâng lên có thể dùng trong quân đội. Vua ban chiếu cho Viện Cung Nỗ chế tạo theo mẫu.
(Quách Tư dâng nỏ vào tháng 3 năm Hoàng Hựu nguyên niên. Sau đó, Quách Tư được bổ làm Kiềm hạt Phu Diên lộ, cấp 500 cây nỏ đã chế tạo, chiêu mộ binh lính địa phương để huấn luyện. Khi việc hoàn thành, Kinh lược sứ Hạ An Kỳ tâu rằng nỏ rất tiện dụng[29], Vua ban chiếu lập quân “Độc Viên Nỗ”. Sự việc này được ghi chép liền mạch trong bản chí. Quách Tư làm Kiềm hạt Phu Diên lộ đến tháng 10 năm Chí Hòa thứ 2).
[40] Ngày Đinh Mão, sai quan cầu mưa.
[41] Ngày Mậu Thìn, Vua nói với các phụ thần: “Khai Phong tâu rằng có người phụ nữ tên A Tề vì cầu mưa mà tự chặt cánh tay phải, sợ gây hoang mang trong dân chúng, không thể để ở kinh đô, hãy cho dời đến Tào Châu.” (Bản chí ghi việc A Tề vào năm Khánh Lịch thứ 4, nay theo 《Thực lục》).
[42] Đường Giới, chức Toàn Châu Đoàn luyện phó sứ, Giám Sâm Châu thuế, được bổ làm Bí thư thừa[30].
[43] Ngày Tân Mùi, ban chiếu cho Tạp mãi vụ: Từ nay, mọi vật phẩm mua sắm cho cung cấm đều phải trả giá thực, những thứ không thiết yếu thì không được mua. Trước đó, Vua nói với các phụ thần: “Triều đình ta thấy tệ nạn cung thị đời Đường, nên đặc biết lập ra Tạp mãi vụ, do quan kinh triều và nội thị cùng quản lý, nhằm ngăn chặn việc quấy nhiễu dân. Nhưng gần đây, những thứ không cần thiết cũng đều thu mua, gây phiền nhiễu cho dân quá nhiều.” Vì thế mới ban chiếu này.
[44] Mùa hạ, tháng tư, ngày Mậu Dần, cấm các quan nội túc tụ họp.
[45] Trước đó, trong cung đưa ra một cái bình nghiêng, đặt trước ngự tọa ở Nhĩ Anh Các, dụ bảo Đinh Độ rằng: “Trẫm nghĩ đến phép làm bình nghiêng thời xưa, bèn sai thợ chế tạo để cho các khanh xem.” Rồi sai đổ nước vào. Khi đầy vừa phải thì bình đứng thẳng, khi đầy tràn thì bình đổ, khi không có nước thì bình nghiêng, đều như trong sách 《Gia Ngữ》, 《Tuân Khanh》, 《Hoài Nam》 đã nói. Chế tạo tinh xảo, Độ và các quan đứng hầu xem. Vua nói: “Mặt trời giữa trưa thì xế, trăng đầy thì khuyết; Trẫm muốn lấy đạo trung chính trị thiên hạ, nên cùng các khanh giữ lấy đạo này.” Độ bái tạ nói: “Thần cũng nguyện không nghiêng đổ để phụng sự bệ hạ.” Nhân đó nói rằng Thái Tông từng làm bình này, Chân Tông cũng từng viết luận.
Ngày Canh Thìn, Vua làm bài 《Hậu Thuật》 ban cho Độ và các quan.
[46] Chiếu rằng: Mùa đông năm ngoái, binh phu tu sửa sông ngòi bỏ trốn và chết rất nhiều, là do quan lại không biết vỗ về, từ nay nên tính số người chết mà gia tăng hình phạt.
[47] Lý Giản Chi, Hà Bắc đô chuyển vận sứ, Hữu gián nghị đại phu, Thiên Chương các đãi chế, được bổ làm Long Đồ các trực học sĩ, Tri Tần Châu; Thiệu Sức, Kim bộ lang trung, được bổ làm Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ chế trí phát vận sứ. Mệnh vừa ban chưa nhận chức, đều bị Ngự sử đàn hặc. Ngày Nhâm Ngọ, đổi mệnh cho Tôn Miễn, Long Đồ các trực học sĩ, Lại bộ lang trung, Tri Từ Châu, thay Giản Chi; Lý Huy Chi, Binh bộ viên ngoại lang, thay Sức. Giản Chi được bổ làm Tri Thiền Châu, Sức làm Tri Đàm Châu.
[48] Ngày Bính Tuất, Quốc mẫu nước Khiết Đan phái Thuận Nghĩa tiết độ sứ Hữu Giám môn vệ Thượng tướng quân Tiêu Xương, Hữu Gián nghị đại phu Lưu Tự Phục; Khiết Đan phái Chương Tín tiết độ sứ Tiêu Dục, Ích Châu phòng ngự sứ Lưu Sĩ Phương đến chúc mừng tiết Càn Nguyên. Quốc thư của họ bắt đầu bỏ quốc hiệu, chỉ xưng Nam triều, Bắc triều; và nói rằng thư tín xưng Đại Tống, Đại Khiết Đan là không hợp với nghĩa huynh đệ.
Hoàng đế triệu tập hai phủ bàn bạc, Tham tri chính sự Lương Thích nói: “Tống là Tống, nhận từ trời, không thể đổi. Khiết Đan cũng là quốc hiệu của họ. Từ xưa đến nay, đâu có nước nào không có tên.” Lại xuống chiếu cho hai chế và các quan Đài gián bàn bạc, đều cho rằng từ khi giảng hòa đến nay, quốc thư đã có quy thức, không thể tùy tiện đồng ý. Bèn hạ chiếu cho Học sĩ viện trả lời thư Khiết Đan, vẫn xưng là Đại Tống, Đại Khiết Đan như cũ. Sau đó, Khiết Đan lại có thư, cũng xưng Khiết Đan như trước.
(Chiếu Học sĩ viện vào ngày Tân Sửu, nay ghi chung lại.)
Ban đầu, sứ Khiết Đan đến, Tri chế cáo Hàn Tống làm quán bạn. Sứ Khiết Đan muốn thư tín theo quốc hiệu của họ, chỉ xưng Nam triều, Bắc triều. Tống nói: “Từ xưa đến nay, chưa có nước nào dựng nước mà không có hiệu.” Sứ Khiết Đan xấu hổ, bèn không nói gì nữa. Sau đó, sứ Khiết Đan lại đến, triều đình chọn người làm quán bạn, lúc đó Tống đã mất, Hoàng đế nói: “Ai có thể như Hàn Tống chứ?” (Việc này được ghi chép phụ thêm.)
[49] Ban đầu, Nùng Trí Cao dâng phương vật, xin được nội thuộc, triều đình từ chối. Sau lại dâng thư vàng để thỉnh cầu, quan tri châu Ung Châu là Trần Củng tâu lên, nhưng cũng không được trả lời. Nùng Trí Cao không được chấp thuận, lại thù địch với Giao Chỉ, và chiếm đoạt lợi lộc từ núi rừng Quảng Nguyên, bèn chiêu nạp kẻ vong mệnh, nhiều lần đem áo xấu đổi lấy lương thực, nói dối rằng trong động đói kém, bộ lạc ly tán, Ung Châu tin là yếu thế nên không phòng bị.
Nùng Trí Cao bèn cùng tiến sĩ Quảng Châu là Hoàng Vĩ, Hoàng Sư Mật và đồng đảng là Nùng Kiến Hầu, Nùng Chí Trung (theo 《Tống sử》 là Nùng Chí Trung) ngày đêm mưu tính xâm nhập. Một đêm, đốt sào huyệt, lừa dối bọn chúng rằng: “Tài sản tích lũy cả đời, nay bị lửa trời thiêu rụi, không còn gì để sống, kế cùng rồi. Phải đánh chiếm Ung Châu, chiếm cứ Quảng Châu để tự xưng vương, nếu không ắt phải chết.” Hôm đó[31], dẫn năm nghìn quân men theo sông Uất Giang xuống phía đông, đánh phá trại Hoành Sơn, giết chết trại chủ là Hữu thị cấm Trương Nhật Tân, Đô tuần kiểm Ung Châu là Tả ban điện trực Cao Sĩ An, cùng Đồng tuần kiểm Khâm Châu, Hoành Châu là Hữu ban điện trực Ngô Hương.
[50] Xuống chiếu từ nay quan kỹ thuật không được bổ nhiệm chức Dao quận. (《Hội yếu》 chép việc tháng 4 năm Hoàng Hựu thứ 4, cần xem xét.)
[51] Tháng 5, ngày Ất Tỵ mùng một, Nùng Trí Cao đánh phá Ung Châu, bắt giữ Tri châu là Bắc tác phường sứ Trần Củng, Thông phán là Điện trung thừa Vương Can Hữu, và Quảng Tây đô giám là Lục trạch sứ Trương Lập.
Ban đầu, giặc vây thành, Củng lệnh Can Hữu giữ cửa Lai Viễn, quyền Đô giám, Tam ban Phụng chức Lý Túc giữ cửa Đại An, Chỉ sử Vũ Cát giữ cửa Triều Thiên. Trương Lập từ Tân Châu đến cứu viện, vừa vào thành, Củng khao thưởng quân sĩ trên thành, rượu vừa rót thì thành bị phá. Củng, Lập, Can Hữu cùng Tiết độ Suy quan Trần Phụ Nghiêu, Quan sát Suy quan Đường Giám, Tư hộ Tham quân Khổng Tông Đán đều bị bắt, quân sĩ chết hơn nghìn người.
Trí Cao xem kho quân nhu, thấy hộp vàng dâng lên, giận bảo Củng rằng: “Ta xin quy phụ, cầu một chức quan để thống lĩnh các bộ, ngươi không tâu lên, tại sao vậy?” Củng đáp đã từng tấu nhưng không được trả lời, đòi bản thảo tấu chương, không có, bèn đẩy Củng ra. Củng bị bệnh mắt, không nhìn thấy, hoảng sợ hô vạn tuế, xin được tự hiến, không được chấp thuận, cùng Lập, Can Hữu, Phụ Nghiêu, Giám, Tông Đán đều bị hại. Lập lúc sắp bị hành hình, mắng nhiếc không chịu khuất phục, hơn một tháng sau mới tìm được thi thể, mặt vẫn như lúc sống[32]. Còn Lý Túc, Vũ Cát, Vũ Duyên lệnh Mai Vi Chi, Chi sứ Tô Tòng vốn quen biết với tướng giặc Hoàng Sư Mật nên được tha.
Khi Trí Cao chưa nổi loạn, ở Ung Châu có khí trắng xuất hiện trong sân, nước sông tràn, Tông Đán cho là điềm binh đao, đoán Trí Cao ắt sẽ làm phản, viết thư báo cho Củng, Củng không nghe, Tông Đán nói mãi, Củng giận, mắng rằng: “Tư hộ điên rồi sao!” Đến khi Trí Cao phá trại Hoành Sơn, Tông Đán liền đưa người nhà đến Quế Châu, nói: “Ta có chức vụ phải giữ, không thể đi, đừng để cùng chết.”
Sau đó giặc bắt Tông Đán, muốn giao việc, Tông Đán mắng giặc, lại lớn tiếng chửi, bèn bị hại. Tông Đán là người Lỗ, ban đầu làm quan ở Kinh Đông, cùng Lý Đạo, Từ Trình, Thượng Đồng bốn người làm tai mắt cho Giám ty, được gọi là “Tứ (Mục sanh)“[33], mọi người đều ghét, nhưng khí tiết của ông lại như vậy. (Truyện Dương An Quốc chép “Tứ (Mục sanh)“ là “Tứ trừng”, đã thấy trong năm Khánh Lịch thứ 7[34], nay để cả hai cách ghi.)
Trí Cao chiếm được Ung Châu, liền lập nước Đại Nam giả, xưng hiệu Nhân Huệ Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch, tha tội trong nước, từ Sư Mật trở xuống đều xưng danh hiệu quan chức của Trung Quốc.
(《Hội Yếu》 chép là đổi niên hiệu Đoan Ý, nay theo chính sử.
《Khổng Tông Đán truyện》 chép: Khi Trí Cao đánh phá Hoành Châu, liền đưa thân nhân đến Quế Châu.
Xét ngày mùng một tháng 5, Ung Châu bị phá, Tông Đán bị giết, sau đó 8 ngày mới phá Hoành Châu[35], truyện chép sai. Nên chép là Hoành Sơn Trại, truyện có lẽ dựa theo sách của Tăng Củng[36], sách của Củng cũng gọi là Hoành Sơn Trại[37], không gọi là Hoành Châu, không rõ vì sao lại sai như vậy, nay sửa lại.)
[52] Ngày Bính Ngọ, Thái thường thừa Đại Uyên đã về hưu được phong làm Từ bộ viên ngoại lang. Uyên là người Đạo Giang. Tính tình giản dị, phụng dưỡng cha mẹ nổi tiếng hiếu thảo, từng đỗ tiến sĩ giáp khoa, được bổ làm chủ bạ Thanh Thủy, than rằng: “Bổng lộc không đến được với cha mẹ, làm quan để làm gì!” Liền về nhà dạy học, học trò thường đông đúc.
Vương Củng Thần làm An phủ hai Xuyên, gửi thư muốn mời ông ra làm quan, ông cáo bệnh không đến gặp. Dương Nhật Nghiêm làm Tri ích Châu, lại tiến cử ông, nên ông về hưu. Từ chối học trò, viết sách 《Chu Dịch Chỉ Yếu》, 《Lão Phật Tạp Thuyết》 mười thiên[38]. Khi ấy, Hàn lâm học sĩ Điền Huống dâng sách của ông lên, Vua xuống chiếu ban thưởng thêm hai chức quan. Uyên về già chỉ ăn rau, mặc áo vải, ngao du sơn thủy, tự hiệu là Hư Nhất Tử. Quan lại địa phương thỉnh thoảng đến thăm, ông tiếp đón đạm bạc, không hề nói đến việc riêng.
[53] Lúc đầu, Xu mật sứ, Trấn Hải tiết độ sứ, kiêm Thị trung Vương Di Vĩnh vì bệnh xin từ chức. Vua ban chiếu an ủi, sai thái y đến khám bệnh, thân hành đến thăm, ban thuốc quý từ thượng phương và tự tay lấy cháo loãng cho ăn. Di Vĩnh tự nói rằng mình được hưởng ân sủng quá nhiều, xin được từ chức Xu mật, trả lại ấn sứ tướng để về nhà. Vua hy vọng ông khỏi bệnh, ngày Đinh Mùi, cho Di Vĩnh từ chức Thị trung, đổi làm Chương Tín tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, vẫn giữ chức Xu mật sứ như cũ.
[54] Ngày Mậu Thân, cho con trai của Giang Tân chủ bạ Doãn Lâm Tông là Quân Bình làm Thái miếu trai lang, vì Lâm Tông đã chết trong khi bắt cướp.
[55] Ngày Canh Tuất, ra chiếu rằng từ nay chức Quốc tử giám trực giảng phải chọn người thông hiểu kinh điển, có đức hạnh, tuổi từ bốn mươi trở lên. Lúc đó, Thị ngự sử Lương Thiến tâu rằng có đại thần tiến cử Dương Thầm làm học quan, nhưng Thầm còn trẻ tuổi, ngông cuồng, không thể dùng được. Vì thế ban chiếu này. Thầm là con của Dương Giai.
[56] Ngày Nhâm Tý, ra chiếu rằng từ nay các quan chưởng cơ nghi ở các lộ khi thay về, chỉ được bổ nhiệm ở những nơi gần, nếu đáng được bổ nhiệm ở nơi gần thì được ưu tiên. Lúc đầu, ở Thiểm Tây có quân đồn trú, các quan biên giới làm An phủ sứ, thường dùng con em hoặc người thân quen làm chưởng cơ nghi, khi phủ bị bãi bỏ, thường xin thăng chức, nên phải hạn chế lại.
[57] Ngày Quý Sửu, Nùng Trí Cao tiến vào Hoành châu, Tri châu Điện trung thừa Trương Trọng Hồi, Giám áp Đông đầu cung phụng quan Vương Nhật Dụng bỏ thành chạy.
Ngày Bính Thìn, tiến vào Quý châu (nguyên bản chép là Phí châu, tra cứu 《Tống sử·Địa lý chí》 thấy Quảng Nam Tây lộ không có Phí châu, nên là chữ “Quý” viết nhầm, nay sửa lại). Tri châu Bí thư thừa Lý Cư bỏ thành chạy.
Ngày Canh Thân, tiến vào Cung châu, Tri châu Điện trung thừa Trương Tự bỏ thành chạy.
Ngày Tân Dậu, quân giặc tiến vào châu Đằng; lại tiến vào châu Ngô, châu Phong. Tri châu Đằng là Lý Thực, chức Thái tử Trung xá, và Tri châu Ngô là Giang Tư, chức Bí thư Thừa, đều bỏ thành chạy. Tri châu Phong là Tào Cận, chức Thái tử Trung xá, tử trận. Người châu Phong chưa từng biết đến việc binh đao, quân lính chỉ có trăm người, không đủ sức chiến đấu, lại không có thành trì để phòng thủ.
Có người khuyên Cận tránh giặc, Cận nghiêm nghị quát mắng rằng: “Ta là bề tôi giữ thành, chỉ có chết mà thôi, ai dám nói tránh giặc sẽ bị chém.” Ông ra lệnh cho Đô giám Trần Diệp dẫn quân nghênh chiến giặc, Lệnh phủ Phong Xuyên dẫn hương đinh và cung thủ tiếp ứng. Quân giặc đông gấp trăm lần, quân của Diệp thua chạy, hương đinh cũng tan vỡ. Cận dẫn tàn quân quyết chiến không thắng, bị bắt. Giặc ra lệnh không được giết, bắt ông lạy, và dụ dỗ rằng: “Theo ta, sẽ được làm quan lớn, giao binh quyền cho ngươi, gả con gái cho ngươi.” Cận không chịu lạy, mắng rằng: “Bề tôi chỉ quay mặt về hướng bắc lạy thiên tử, ta há theo ngươi để cầu sống sao! Mau giết ta đi.” Giặc vẫn tiếc không giết, đưa ông lên thuyền. Cận nhịn ăn hai ngày, lấy ấn tín trong người trao cho thuộc hạ và nói: “Ta sắp chết, ngươi hãy tìm đường tắt đem ấn này báo lên cấp trên.” Giặc biết ông không có ý đầu hàng, bèn giết chết. Đến lúc chết, tiếng mắng giặc vẫn không ngừng. Xác ông bị ném xuống sông, hưởng dương 35 tuổi.
[58] Ngày Nhâm Tuất, Nùng Trí Cao tiến vào Khang Châu, Tri châu là Thái tử Hữu Tán thiện đại phu Triệu Sư Đán và Giám áp Hữu ban Điện trực Mã Quý đều tử trận. Sư Đán là cháu của Triệu Chẩn. Giặc sau khi phá được Ung Châu, thuận dòng xuôi về phía đông. Sư Đán sai người đi do thám giặc, người ấy trở về báo rằng: “Các châu đều bỏ thành chạy trốn cả rồi.” Sư Đán quát: “Ngươi cũng muốn ta chạy trốn sao!” Bèn ra lệnh lùng sục, bắt được ba tên gián điệp, chém đầu để răn đe. Giặc đã áp sát dưới chân thành, Sư Đán chỉ có ba trăm quân, mở cửa thành nghênh chiến, giết được mấy chục tên.
Trời tối, giặc tạm lui, Sư Đán bảo vợ lấy ấn châu đeo vào người, bảo bà bế con trốn đi, nói: “Ngày mai giặc ắt kéo đến đông, ta biết không địch nổi, nhưng không thể bỏ đi, ngươi ở lại chết cũng vô ích.” Rồi cùng Mã Quý dẫn quân lính cố thủ thành. Gọi Quý đến ăn, Quý không ăn được, Sư Đán vẫn ăn no như thường. Đến đêm, Quý nằm không yên, Sư Đán thì trong phòng ngủ vẫn ngáy to[39].
Gần sáng, giặc đánh thành càng gấp, tả hữu xin lánh đi chỗ khác, Sư Đán nói: “Chết trận với chết chém thì sao?” Mọi người đều nói: “Nguyện vì nước mà chết.” Đến khi thành vỡ, không một ai bỏ chạy. Hết tên, Sư Đán cùng Quý trở về, ngồi ở sảnh đường. Trí Cao huy quân gào thét, xông vào uy hiếp, Sư Đán mắng lớn: “Đồ lũ đói! Triều đình có gì phụ bạc ngươi mà dám làm phản? Thiên tử chỉ cần phái một đạo quân, bọn ngươi sẽ không còn mống nào.” Trí Cao tức giận, giết cả Sư Đán và Quý.
[59] Ngày Quý Hợi, Nùng Trí Cao tiến vào Đoan Châu, Tri châu là Thái thường bác sĩ Đinh Bảo Thần bỏ thành chạy trốn.
Bảo Thần là người Tấn Lăng.
(Âu Dương Tu và Vương An Thạch viết bia mộ cho Bảo Thần, đều nói rằng Bảo Thần từng ra trận, chém giết được một số quân địch, nhưng cuối cùng không thắng nổi[40], nên phải bỏ chạy. Đó là lời nói khoa trương, nay không chấp nhận.)
[60] Ngày Ất Sửu, Vua đến chùa Từ Hiếu, triều yết điện thờ Thần vị của Thái hậu Chương Hiến, vì trước đây có kẻ trộm cắp đồ thờ cúng.
[61] Ngày Bính Dần, Nùng Trí Cao vây thành Quảng Châu. Hai ngày trước, có người báo tin khẩn cấp, Tri châu Trọng Giản cho là lời bịa đặt, bắt giam người ấy, và hạ lệnh: “Ai dám nói giặc đến sẽ bị chém!” Vì thế dân chúng không đề phòng. Đến khi giặc đến, mới ra lệnh cho dân vào thành, dân tranh nhau đem vàng bạc đút lót cho người giữ cổng để được vào trước, nhiều người bị giẫm đạp đến chết, số còn lại đều theo giặc, thế giặc càng mạnh.
[62] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu cho Ty chế trí phát vận sứ và Lục lộ chuyển vận ty vẫn dùng công văn qua lại như cũ[41]. Trước đây, Hứa Nguyên muốn thu nhiều tiền thừa để lấy lòng Tam ty, nhưng sợ các lộ không nghe theo, nên xin cho Lục lộ chuyển vận ty tự thuộc về mình, đều phải làm tờ trình lên Ty phát vận. Đường Tuân từ Giang Tây chuyển sang Phúc Kiến, các chuyển vận sứ khác lần lượt dâng sớ lên triều đình, cuối cùng bãi bỏ việc này.
[63] Tư chính điện học sĩ, Hộ bộ thị lang Phạm Trọng Yêm vì bệnh xin về Dĩnh Châu, được lệnh từ Thanh Châu chuyển đi, đi đến Từ Châu thì mất. Được truy tặng chức Binh bộ thượng thư, thụy hiệu là Văn Chính.
Ban đầu, Trọng Yêm bị bệnh, Vua từng sai sứ mang thuốc đến thăm hỏi. Khi ông mất, Vua thương tiếc mãi, lại sai sứ đến nhà hỏi thăm. Sau khi chôn cất, Vua tự tay viết bia đề là “Bao hiền chi bi” (“Bia khen người hiền”.)
Phạm Trọng Yêm bên trong cứng rắn, bên ngoài hòa nhã, tính rất hiếu thảo. Vì mẹ ông lúc còn sống rất nghèo, nên sau này dù ông đã hiển quý, nhưng nếu không có khách thì không ăn thịt, vợ con chỉ đủ cơm ăn áo mặc; nhưng ông lại thích làm việc thiện, lập ra Nghĩa trang trong làng để giúp đỡ người thân trong họ. Ông yêu thương mọi người, thích làm việc thiện, nhiều kẻ sĩ đều xuất thân từ cửa nhà ông, dù là người trong ngõ hẻm cũng đều biết tên ông. Ngày ông mất, người nghe tin khắp nơi đều thương tiếc. Ông làm quan trung hậu, đi đến đâu cũng để lại ơn đức, dân chúng hai châu Bân, Khánh và người Khương thuộc quyền đều vẽ tranh, lập sinh từ thờ ông. Khi ông mất, hàng trăm thủ lĩnh người Khương đến chùa làm lễ khóc thương, gọi ông như cha, ăn chay ba ngày rồi mới đi.
[64] Ngày Nhâm Thân, ra chiếu rằng những người được bổ làm Điện thị, nếu không phải là con cháu của những người chết vì việc nước, thì phải đủ 16 tuổi mới được cấp lương.
[65] Lệnh cho Sùng nghi sứ, Tri châu Thiều Châu là Trần Thự đem quân đi đánh Nùng Trí Cao[42].
[66] Ngày Quý Dậu, binh lính ở giám Vĩnh Thông, châu Thiều Châu giết Tri giám là Đô quan viên ngoại lang Đặng Tương, tàn sát cả nhà ông. Quyền Đô giám là Hữu thị cấm Vi Quý bắt và chém kẻ đó. Lập tức lệnh cho Vi Quý làm Đô giám, thăng chức Cáp môn chi hậu.
[67] Triều đình vừa nghe tin Nùng Trí Cao làm phản, liền ra chiếu cho Tiến tấu viện không được tùy tiện báo tin. Tri chế cáo Lã Trân nói: “Biên phòng có việc khẩn cấp, một phương có giặc cướp, nên để các lộ biết, cùng nhau chuẩn bị. Nay muốn người ta không biết, không phải là kế hay.”
[68] Tháng 6, ngày Ất Hợi, khởi phục chức cũ cho Tiền Vệ úy khanh Dư Tĩnh làm Bí thư giám, tri châu Đàm (theo 《Tống sử》 thì làm Hồ Nam an phủ sứ, tri châu Đàm), Tiền Đồn điền viên ngoại lang, Trực sử quán Dương Điền làm Quảng Nam Tây lộ thể lượng an phủ đề cử kinh chế tặc đạo. Tĩnh và Điền đều đang để tang cha.
Trước đó, Tĩnh cùng với người tri châu Thiều kết hợp nông dân thành binh, tu sửa đồn lũy, cùng bàn kế hoạch phòng thủ, triều đình nghe tin khen ngợi; lại thấy Điền vốn quen việc man di, nên có mệnh này. Sau khi nhận mệnh tại nơi để tang, bảy ngày sau, Tĩnh được đổi làm Quảng Nam Tây lộ an phủ sứ, tri châu Quế. Mười ngày sau, Điền được triệu đến ngoài cửa đô, từ chối không dám mặc tang phục vào yết kiến, Vua ban cho khăn ngự dùng, vào chầu ở điện Tiện, ngay hôm đó được thăng chức Khởi cư xá nhân, Đồng tri gián viện rồi sai đi.
(Tĩnh nhận chức tri châu Quế ngày Canh Thìn, Điền được bổ chức Khởi cư xá nhân, tri gián viện ngày Bính Tuất, nay ghi chung lại.)
[69] Dời chức tri châu Tề, Thái thường bác sĩ Vương Xước làm Đề điểm Giang Nam Tây lộ hình ngục.
[70] Ngày Canh Thìn, lệnh cho Đồng đề điểm Quảng Nam Đông lộ hình ngục, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Lý Xu cùng với tri châu Quế, Sùng nghi sứ Trần Thự cùng bắt giết giặc man. Lại lệnh cho Quảng Nam Đông lộ chuyển vận, Kiềm hạt ty phát binh ứng viện. Sau đó lấy Thự làm Quảng Tây lộ Kiềm hạt.
(Thự nhận chức Quảng Tây Kiềm hạt ngày Nhâm Ngọ, nay ghi chung lại.)
[71] Ngày Tân Tỵ, Như kinh sứ, Tư châu thứ sử Trương Trung làm Quảng Nam Đông lộ đô giám.
[72] Ngày Giáp Thân, dời chức tri châu Quảng Châu, Binh bộ lang trung, Thiên chương các đãi chế Trọng Giản làm tri châu Kinh Nam. Triều đình chỉ thấy Giản có tài giữ thành, nên có mệnh này, không biết người Quảng oán hận ông sâu sắc.
[73] Cùng ngày, Quảng, Đoan đô tuần kiểm Cao Sĩ Nghiêu đánh Nùng Trí Cao ở Thị bạc đình, bị giặc đánh bại.
[74] Ngày Ất Dậu, Từ bộ viên ngoại lang, Trực bí các, phán Lại bộ Nam tào Phạm Trấn dâng thư nói:
“Bệ hạ chế định nhạc để phụng sự trời đất, tông miếu, nhằm tôn vinh công đức của tổ tiên, đó là việc lớn của đức thịnh. Tuy nhiên, từ khi hạ chiếu đến nay đã ba năm, các cơ quan hữu trách bàn luận vẫn chưa quyết định, nguyên nhân là do không bàn đến cái gốc mà chỉ tranh cãi về cái ngọn. Thần trộm nghĩ, nhạc là hòa khí, phát ra hòa khí là thanh âm. Thanh âm sinh ra từ cái vô hình, nên người xưa dùng vật hữu hình để truyền lại phép tắc, để người sau tham khảo, từ đó đạt được thanh âm vô hình, và hòa khí có thể dẫn dắt. Vật hữu hình là thứ như thóc kê, luật, thước, sáo, nồi, hộc, toán số, cân đo, chuông, khánh.
Mười thứ này phải hòa hợp mà không trái ngược[43], thì mới đúng. Nay đều trái ngược mà không hòa hợp, thì đó là sai. Vật hữu hình đã sai, mà muốn cầu thanh âm vô hình hòa hợp, làm sao có thể được? Thần xin trình bày mười điều sai lầm này, mong Bệ hạ xem xét và quyết định!
Theo sách 《Thi》 có câu: ‘Đản giáng gia chủng, duy cự duy phi.’ ‘Đản giáng’ có nghĩa là trời ban xuống. Hứa Thúc Trọng nói: ‘Cự là một vỏ hai hạt.’ Lại nói: ‘Một cự hai hạt.’ Đời Hậu Hán, huyện Nhậm Thành sản xuất được ba hộc tám đấu cự thử, hạt đều có hai mễ, sử quan ghi chép lại, coi đó là điềm lành. Người xưa dùng cự thử làm rượu, gọi là cự sưởng. Khi tế lễ ở tông miếu, chỉ dùng một tôn; chư hầu có công, chỉ ban cho một dữu, để tỏ rằng vật trời ban xuống, đời không thường có nên rất quý. Nay cự thử lấy từ dân gian, thường đến vài hộc, phi đều một hạt, người Hà Đông gọi là hắc ma[44]. Giả sử có thứ thật, vì lấy số lượng quá nhiều, không dám dâng lên quan, nên cự thử này không phải là thật, đó là điều thứ nhất.
Lại theo lời các bậc tiên nho, luật có đường kính ba phân, chu vi chín phân, dài chín mươi phân, chứa được một nghìn hai trăm hạt thóc, tích thực tám trăm mười phân. Nay luật có đường kính ba phân bốn li sáu hào, chu vi mười phân ba li tám hào, tức là chu vi chín phân ngoài ra lớn thêm một phân ba li tám hào, sau đó mới chứa được một nghìn hai trăm hạt thóc, trừ đi phần chu vi rộng, thì chiều dài chỉ còn bảy mươi sáu phân hai li[45]. Người bàn luận cho rằng bốn li sáu hào là phân vuông, xưa dùng trúc làm luật, hình trúc vốn tròn, nay dùng phân vuông để tính toán, nên luật này không đúng, đó là điều thứ hai.
Lại xét sách 《Hán thư》, phân, tấc, thước, trượng, dẫn vốn bắt đầu từ độ dài của Hoàng Chung, lại nói rằng chín mươi phần của độ dài Hoàng Chung là dựa trên một ngàn hai trăm hạt kê mà nói. Một ngàn hai trăm hạt kê dùng trong đong lường thì gọi là dược của Hoàng Chung, dùng trong cân đo thì gọi là trọng lượng của Hoàng Chung, dùng trong thước thì gọi là độ dài của Hoàng Chung. Nay bỏ qua số một ngàn hai trăm, mà lấy một trăm hạt kê làm thước, lại không bắt đầu từ Hoàng Chung, điều này là sai lầm thứ ba của thước.
Lại xét sách 《Hán thư》 nói về dược, hình dạng của nó giống như cái tước, tước là cái chén tước, thân của nó tròn đều. Vì vậy, dược phải có đường kính tròn chín phần, sâu mười phần, chứa được một ngàn hai trăm hạt kê, tích thực tám trăm mười phần, giống hệt với phần của luật. Nay dược lại vuông một tấc, sâu tám phần một li[46], chứa được một ngàn hai trăm hạt kê, điều này cũng là dùng phần vuông để tính toán, đây là sai lầm thứ tư của dược.
Lại xét theo phép đong hộc trong 《Chu Lễ》: vuông một thước, tròn bên ngoài, sâu một thước, chứa được sáu đấu bốn thăng. Thước vuông là thước tám tấc. Thước sâu là thước mười tấc. Làm sao biết được thước có sự khác biệt giữa tám tấc và mười tấc? Xét trong 《Chu Lễ》: ‘Bích tiện độ xích, hảo tam thốn dĩ vi độ[47].’ Chế độ bích tiện, dài mười tấc, rộng tám tấc, đều gọi là độ xích. Đã dùng làm thước, thì tám tấc và mười tấc đều là thước cả. Lại trong 《Vương Chế》 nói: ‘Người xưa lấy thước Chu tám thước làm một bước, nay lấy thước Chu sáu thước bốn tấc làm một bước.’ Tám thước là thước tám tấc; sáu thước bốn tấc là thước mười tấc. Đều gọi là thước Chu[48], điều này chứng tỏ thời Chu dùng cả thước tám tấc và mười tấc. Vì vậy biết rằng dùng thước tám tấc làm cạnh vuông của hộc, thước mười tấc làm chiều sâu của hộc, mà chứa được sáu đấu bốn thăng, tức một nghìn hai trăm tám mươi dược. Tích thực một trăm lẻ ba vạn sáu nghìn tám trăm phần. Nay hộc vuông một thước, tích một nghìn tấc, điều này chứng tỏ hộc không đúng, là điều thứ năm.
Lại xét theo phép đong hộc trong 《Hán Thư》: vuông một thước, tròn bên ngoài, chứa được mười đấu, bên cạnh có phần lồi. Vào thời Tùy, hộc Hán vẫn còn, nên 《Tùy Thư》 chép lời minh rằng: ‘Luật gia lượng hộc, vuông một thước, tròn bên ngoài, phần lồi chín li năm hào, diện tích một trăm sáu mươi hai tấc, sâu một thước, chứa được một hộc.’ Nay hộc vuông một thước, sâu một thước sáu tấc hai phân, điều này chứng tỏ hộc không đúng, là điều thứ sáu.
Lại xét về phép tính toán, phần tròn gọi là kính vi, phần vuông gọi là phương tà, tức là câu ‘kính ba, vi chín, phương năm, tà bảy’. Nay phần tròn lại dùng phép vuông để tính toán[49], phép tính này không đúng[50], đó là điều thứ bảy.
Lại xét về quyền hành, khởi đầu từ một ngàn hai trăm hạt kê mà lập phép. Cái phủ của nhà Chu, nặng một quân, âm thanh hợp với Hoàng chung. Cái hộc của nhà Hán, nặng hai quân, âm thanh hợp với Hoàng chung. Chế độ của phủ và hộc, có dung lượng, có kích thước, lại lấy sự nặng nhẹ để thấy được phép dày mỏng, nhằm xét âm thanh. Nay hạt kê nặng nhẹ chưa chính xác, quyền hành này không đúng, đó là điều thứ tám.
Lại xét: ‘Người thợ làm chuông: chuông lớn chia làm mười phần, khoảng giữa mặt trống, lấy một phần làm độ dày. Chuông nhỏ chia làm mười phần, khoảng giữa mặt chuông, lấy một phần làm độ dày.’ Nay không phân biệt lớn nhỏ dày mỏng, mà đều lấy Hoàng chung làm chuẩn, chuông này không đúng, đó là điều thứ chín.
Lại xét: ‘Người thợ làm khánh, góc nghiêng một vuông rưỡi, bề rộng là một, cạnh dài là hai, mặt trống là ba.’ Đều lấy độ dài ngắn của luật làm phép. Nay cũng lấy Hoàng chung làm chuẩn, mà không phân biệt dài ngắn dày mỏng, khánh này không đúng, đó là điều thứ mười.
Trước đây, những thứ này đều là vật hữu hình, dễ thấy. Nếu một trong số đó không phù hợp, thì chưa thể coi là chuẩn mực, huống chi mười thứ đều trái ngược nhau. Thần biết rõ âm thanh vô hình[51], không thể hòa hợp được.
Xin đem chương tấu của thần giao xuống Hữu ty, hỏi xem thử hai hạt kê và một hạt kê, cái nào đúng? Đường kính rỗng của luật ba phân và ba phân bốn ly sáu hào, cái nào đúng? Luật khởi từ thước và thước khởi từ luật, cái nào đúng? Dược chế theo hình tròn và hình vuông, cái nào đúng? Phũ vuông một thước, tròn bên ngoài, sâu một thước và vuông một thước, cái nào đúng? Hộc vuông một thước, tròn bên ngoài, thiêu bên chín ly năm hào và vuông một thước sâu một thước sáu tấc hai phân, cái nào đúng[52]? Toán số dùng phân tròn và phân vuông, cái nào đúng? Quyền hành nặng dùng hai hạt kê cự và một hạt kê, cái nào đúng[53]? Chuông khánh theo cổ pháp có lớn nhỏ, nặng nhẹ, dài ngắn, dày mỏng mà hợp luật, và không theo cổ pháp mà hợp luật, cái nào đúng?
Đúng sai đã định, sau đó chế dược, hợp, thăng, đấu, phũ, hộc, để kiểm tra dung lượng. Dung lượng hợp, sau đó ban chiếu cầu chân thử. Chân thử đến, sau đó mới có thể làm lượng, làm chuông khánh. Lượng và chuông khánh hợp với luật, sau đó mới có thể làm nhạc. Nay thước luật gốc ngọn chưa định, mà hai cục Tường định và Tu chế chi phí công tác không kể hàng ngàn vạn, đây là lý do khiến người bàn luận nói nhiều. Nhưng người bàn luận không nói, Hữu ty bàn luận dựa dẫm không quyết, lại cho rằng làm nhạc là việc quá đáng, lại nói hiện nay nên ưu tiên chính lệnh, mà lễ nhạc không phải việc cấp bách, đây là điều thần đặc biệt nghi ngờ. Nếu Hữu ty hợp với luận bàn về lễ nhạc, đúng cái đúng, sai cái sai, bệ hạ thân chính quyết định, há chẳng phải là việc lớn đối với chính lệnh sao?
Xưa các nhà Nho thời Hán bàn về việc muối và sắt, đời sau truyền lại sách 《Diêm Thiết Luận》. Nay đang định ra nhã nhạc để tìm lại phép tắc đã bị bỏ phế, nhưng các quan bàn luận không ghi chép việc đức lớn, đời sau sẽ căn cứ vào đâu để xét?
Xin hãy lệnh cho các quan, mỗi người đều dựa vào kinh sử mà bàn luận, dâng lên từng điều, hợp lại thành một bộ sách, thì ai dám không hết lòng để đáp ứng ý chỉ của bệ hạ? Nếu cho rằng lời bàn của thần là đúng, xin hãy tạm ngừng hai cục Tường Định và Tu Chế, đợi khi có được hạt kê chính xác, rồi mới làm nhạc, ắt sẽ đạt được sự chính xác, mà không phải tốn kém vô ích.”
Chiếu đưa đến cục Tường Định. Lời bàn của Trấn tự cho là đúng theo phép xưa, nhưng Hiệu lý Tập Hiền viện là Tư Mã Quang nhiều lần tranh luận với ông, cho rằng không hợp. Đời ít người học về chuông và luật, cuối cùng không ai phân biệt được đúng sai.
(Từ chỗ Trấn tự cho là đúng theo phép xưa trở xuống, đều căn cứ vào 《Lưỡng Triều Luật Lịch Chí》.)
[75] Ngày Bính Tuất, Tri châu Việt, Cấp sự trung Ngụy Quán được thăng làm Công bộ Thị lang, Học sĩ Tập Hiền viện, Tri châu Quảng.
Ban đầu, Vua sai Công bộ Lang trung Vương Quỳ làm Thái thường Thiếu khanh, Trực Chiêu Văn quán, thay Trọng Giản. Nhưng có người nói rằng hiện ở Lĩnh Ngoại đang dùng binh, Quỳ không phải là người có tài trị an, nên bãi chức, rồi đổi mệnh cho Quán. Từ khi Nùng Trí Cao nổi loạn, đi đến đâu phá đến đó, chỉ có thành Quảng Châu là giữ vững không hạ. Triều đình xét lại công lao xây thành của Quán, vừa gia phong tước trật, lại cấp thêm năm nghìn quân cấm vệ để đi, và cho phép tùy nghi hành sự.
[76] Phó sứ Lạc Uyển, kiêm Cáp môn Thông sự Xá nhân là Tào Tu làm An phủ Kinh chế Đạo tặc, đồng thể lượng ở lộ Quảng Nam Tây.
Tu là con của Tào Tông.
[77] Chiếu cho các châu quân Lí chính, Áp ty, Lục sự, đã thay thế mà bắt nộp tiền để miễn dịch, thì xử theo tội vi phạm chế độ. Trước đây, Vương Quỳ làm Chuyển vận sứ Kinh Hồ Nam lộ, bắt dân nộp tiền để miễn dịch, thu được 30 vạn quan tiền, dâng lên làm tiền thừa, triều đình đã ban chiếu khen ngợi. Từ đó, các lộ tranh nhau bóc lột, muốn lấy lòng dân, đến nỗi có người phá sản không thể trả nợ. Triều đình biết tệ hại đó, nên quy định lại.
(Việc này căn cứ theo 《Thực lục》. 《Bản chí》 chỉ ghi là Kinh Hồ. Tháng 8 năm Khánh Lịch thứ nhất, từ Hồ Nam lộ bị giáng làm Tri châu Xử Châu. Tháng 3 năm thứ 5 làm Chuyển vận sứ Giang Tây, sau đổi làm Hồ Bắc. Tháng 2 năm thứ 8 từ Hồ Bắc đổi sang Hà Đông. Không rõ 《Bản chí》 ghi Kinh Hồ là Nam lộ hay Bắc lộ.)
[78] Chiếu cho Học sĩ viện khi thi cử phải căn cứ vào bài làm mà công bằng chấm điểm, không được thiên vị cho hạng ưu. (Việc này ghi trong 《Hội yếu》 ngày 13 tháng 6 năm thứ 4.)
[79] Ngày Đinh Hợi, Thái tử Thái sư trí sĩ Vương Đức Dùng được bổ làm Tiết độ sứ Hà Dương Tam thành, Đồng bình chương sự, Phán Trịnh Châu. Lúc bấy giờ có nhiều người họ Vương làm tướng, nhưng trong dân gian đàn bà trẻ con đều gọi Đức Dùng là Hắc Vương Tướng công. Đức Dùng tuy đã trí sĩ, nhưng đến ngày lễ Càn Nguyên vẫn vào chầu, sứ giả Khiết Đan nói với người phiên dịch rằng: “Hắc Vương Tướng công lại ra làm quan sao?” Vua nghe thế, bèn giao cho trấn giữ phương trấn.
[80] Tiết độ sứ Chương Hóa[54], Tri Diên Châu Địch Thanh được bổ nhiệm làm Xu mật phó sứ. Ngự sử trung thừa Vương Cử Chính tâu rằng Địch Thanh xuất thân từ hàng binh lính mà được làm chức vụ chấp chính, điều này chưa từng có trong triều đình, e rằng bốn phương sẽ coi thường triều đình.
Tả ty gián Giả Ám tâu: “Buổi đầu quốc gia, các võ thần và tướng lĩnh kỳ cựu đã phò tá xây dựng đại nghiệp, bình định các nước, những người có công lao trung thành không kể xiết, nhưng chưa từng có ai xuất thân từ hàng binh lính mà lên đến chức vụ trong triều. Nay có năm điều không thể chấp nhận[55]: Bốn phương nghe tin này sẽ có lòng khinh thường Trung Quốc, đó là điều không thể thứ nhất. Kẻ tiểu nhân không biết gì, nghe phong thanh sẽ dao động, cùng nhau hướng về, làm lung lạc lòng người, đó là điều không thể thứ hai. Các đại thần trong triều sẽ cảm thấy xấu hổ khi phải cùng làm việc với ông ta, đó là điều không thể thứ ba[56]. Không tuân thủ quy củ của tổ tông, mà tự so sánh với chính sự suy loạn thời Ngũ Đại, đó là điều không thể thứ tư[57]. Địch Thanh tuy có tài dũng, nhưng chưa từng nghe nói có công lao đánh bại kẻ thù. Làm mất phương pháp cai trị, trái với phép khuyến khích và ban thưởng, đó là điều không thể thứ năm[58].”
Ngự sử Hàn Chí cũng tâu như vậy, nhưng đều không được nghe theo. Lúc đó, trên mặt Địch Thanh vẫn còn vết xăm, hoàng đế từng ra lệnh cho ông dùng thuốc để xóa đi, nhưng Địch Thanh chỉ vào mặt mình và nói: “Bệ hạ bổ nhiệm thần nhờ công lao, không hỏi đến xuất thân và gia thế. Thần có được ngày hôm nay là nhờ vết xăm này[59], xin được giữ lại để khích lệ quân sĩ, không dám phụng chiếu.”
[81] Ngày Mậu Tý, Tống Khắc Long, Tri Nghi châu, Văn Tư phó sứ, được bổ làm Lễ Tân sứ, Tri Ung châu. Vẫn ban chiếu cho Khắc Long chiêu tập những người tản mát, sửa sang thành trì để yên ủi nhân dân.
[82] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu cho Tri Quảng châu, Quế châu từ nay kiêm chức Kinh lược An phủ sứ.
[83] Ngày Canh Dần, Vũ Nhật Tuyên, Đô đại đề cử tróc tặc Quảng Huệ các châu, Tả tàng khố phó sứ Tây Kinh, và Ngụy Thừa Hiến, Tuần kiểm Huệ châu, Tả thị cấm, đánh Nùng Trí Cao dưới thành Quảng châu, đều tử trận.
[84] Ngày Nhâm Thìn, Đường Giới, Bí thư thừa, Giám Thuế Sâm châu, được bổ làm Chủ khách viên ngoại lang, Thông phán Đàm châu.
[85] Ngày Giáp Ngọ, Lý Huyến, Long đồ các trực học sĩ, Khởi cư xá nhân, được bổ làm Tri Tô châu; Thạch Dương Hưu, Diêm thiết phán quan, Từ bộ viên ngoại lang, Bí các hiệu lý, được bổ làm Tri Túc châu.
Trước đây, Huyến làm phủ Khai Phong, Dương Hưu làm Thôi quan, có kẻ trộm đồ thờ cúng của Chương Hiến Hoàng thái hậu ở chùa Từ Hiếu, bị bắt giao cho quan lại, tra khảo nhưng không tìm ra sự thật, liền thả ra. Đến khi Hà Trung Lập thay Huyến làm Tri phủ, người ta bắt lại đưa đến, Trung Lập nói: “Đây là kẻ trộm thật.” Tra xét kỹ, cuối cùng kẻ đó nhận tội. Huyến và Dương Hưu đều bị tội buông lỏng để kẻ trộm thoát và bị khiển trách.
[86] Ngày Bính Thân, Tưởng Giai, Bắc tác phường sứ, Trung châu thứ sử, Tri Phường châu, được bổ làm Cung uyển sứ, Thiều châu Đoàn luyện sứ, Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ.
[87] Ban chiếu cho các nơi bị giặc Man giày xéo ở Quảng Nam Đông lộ và Tây lộ, chưa được thu thuế hạ.
[88] Lễ Tân phó sứ Vương Chính Luân quyền Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ.
[89] Ngày Kỷ Hợi, đặt chức Chuyển vận phán quan cho Quảng Nam Đông Tây lộ, Hồ Nam, Giang Tây, mỗi nơi một người.
[90] Ngày Canh Tý, Chu Thọ Long, Tri Túc châu, Ty môn viên ngoại lang, được bổ làm Đề điểm Hình ngục Quảng Nam Tây lộ. Triều đình trừng phạt việc vùng Lĩnh Biểu không có phòng bị, ra lệnh sửa sang thành trì. Quan giữ Quý châu ngược đãi dân, dân không chịu nổi. Thọ Long đến châu, trói quan giữ châu đưa vào ngục, tâu lên cách chức, dân châu lập đền thờ sống.
Thọ Long là con của Đài Phù.
- 'Giám sát thuế Sâm Châu', nguyên bản viết 'Liễu Châu', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 39 'Đường Giới hặc Trương Nghiêu Tá', 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 thượng, 《Tống sử》 quyển 316 'Đường Giới truyền' sửa lại. ↵
- 'Đều được thống kê đầy đủ', nguyên bản viết 'số kì', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trị tích thống loại》 quyển 29 'Tổ tông dụng độ tổn ích' sửa lại. ↵
- 'rõ rệt' nguyên văn là 'cố', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 đế hệ 9-12 sửa lại ↵
- 'kịp thời' nguyên văn là 'trú', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 đế hệ 9-13 sửa lại ↵
- 'người Kiến Châu' nguyên văn thiếu chữ 'dã', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung ↵
- Xin lấy số tiền đáng lẽ được nhận để cấp cho họ, chữ 'nhận' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tục thông giám》 quyển 52 bổ sung. ↵
- Rồi được thăng làm phó Tam ty, chữ 'thăng' nguyên bản là 'quyền', theo hai bản Tống và 《Tục thông giám》 sửa lại. ↵
- Nay chỉ lấy tiền nhỏ, chữ 'lấy' nguyên bản là 'dùng', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tục thông giám》 quyển 52 sửa lại. ↵
- Chữ 'Trì' nguyên bản viết là 'Địa', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống sử và quyển 5, chí Thiên văn 3 trong Tống sử sửa lại. Chữ 'Ba' trong Tống sử viết là 'Độ', xét theo ý câu, có lẽ đúng là như vậy. ↵
- Chữ 'Thiên Giang' nguyên bản viết là 'Đại Giang', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống sử, bản Các và quyển 102, chí Lễ 5 trong Tống sử sửa lại. ↵
- Lời tâu của Đĩnh nên noi theo gương Kiều Huyền thời Hán, 'Kiều Huyền' nguyên bản viết là 'Kiều Nguyên', căn cứ theo 《Hậu Hán thư》 quyển 81, truyện Kiều Huyền mà sửa lại. ↵
- Xét xem đạo lý thế nào 'Thế nào' nguyên tác 'Nào thế', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản các và sách 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 quyển nhất, mục Trí Quân Thất Sự, sửa lại. ↵
- Bàn tiến cử 'Bàn' nguyên tác 'Dụ', theo sách 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 sửa lại. ↵
- Quan hình pháp tiếp kiến người xin xóa tội kể công 'Tiếp' nguyên tác 'Án', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 sửa lại. ↵
- Thần cho rằng đều không phải là đạo đế vương suy thành hết lòng với kẻ dưới 'Hết lòng' nguyên tác 'Đãi', theo các bản và sách trên sửa lại. ↵
- Tội lỗi bị bủa vây khắp nơi, chữ 'quyến' nguyên là 'mạo', theo bản Tống và bản tóm tắt đời Tống sửa lại ↵
- 'Có lẽ Khuê và Chửng cùng ở trong cơ quan gián nghị lúc bàn luận' nguyên văn là 'Khuê có lẽ', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu sửa lại. ↵
- 'Nên không lo việc chậm trễ không kịp' nguyên văn là 'thả', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu sửa lại. ↵
- 'Nếu cho rằng quân đồn trú không thể giảm ngay' nguyên văn là 'đồn', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 thượng, 《Tống sử》 quyển 316 truyện Bao Chửng sửa lại. ↵
- Hiện nay biên cương không có việc gì 'Không có việc', bản Tống, bản Tống tóm tắt và 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 quyển 9 đều chép là 'không lo sợ'. ↵
- Chỉ còn dự trữ được hai ba năm 'Hai ba năm', nguyên bản chép là 'ba hai năm', theo bản Tống, bản Tống tóm tắt, bản các và 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 sửa lại. ↵
- Mà Hà Sóc lại khốn khổ như vậy 'Mà' chữ nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống tóm tắt và 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 bổ sung. ↵
- Chữ 'tức' trong câu 'chư quân tức phân đồn ư hà nam chư châu' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào hai bản sách trên và sách trên để bổ sung. ↵
- Chữ 'căng' trong câu 'căng niệm nguyên nguyên' vốn là 'vụ', nay căn cứ vào 《Tống Bao Hiếu Túc Công Tấu Nghị》 để sửa. ↵
- Bảo An quân nguyên bản là 'Bảo Tín quân', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 87, phần Địa lý chí và 《Tống hội yếu》 phần Binh 4/4 mà sửa lại. ↵
- 'Số nhân khẩu' nguyên bản là 'số điền', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 nói trên mà sửa lại. ↵
- Hàn Giáng và các quan từ Giang Nam đi an phủ trở về, 'Giang Nam' nguyên bản viết 'Hoài Nam'. Theo sách này, quyển 171, ngày Bính Tuất tháng 8 năm Hoàng Hựu thứ 3, chép rằng Hàn Giáng đi thể lượng an phủ hai lộ Giang Nam Đông và Tây, do Nội điện Sùng ban Ông Nhật Tân làm phó. Đoạn dưới cũng nói rõ 'người Giang Tây, thuế má nặng nề' v.v., nên 'Hoài Nam' chắc là nhầm với 'Giang Nam', vì thế sửa lại. Đoạn dưới 'khi Giáng từ Hoài Nam trở về', trong 《Tống sử》 quyển 182 chép 'Hàn Giáng an phủ Giang Nam trở về', cũng sửa tương tự. ↵
- 'thuế má nặng nề', chữ 'phiền' nguyên bản viết 'phiền', theo bản Tống và bản Tống toát yếu sửa lại. ↵
- 'Kỳ' nguyên bản viết là 'Thậm', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 197 《Binh chí》 sửa lại ↵
- 'Châu' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 thượng bổ sung ↵
- Hôm đó 'hôm' nguyên bản là 'tháng', căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Trị tích thống loại》 quyển 10 'Nhân Tông bình Nùng Trí Cao' sửa. ↵
- mặt vẫn như lúc sống: Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và sách 《Trị tích thống loại》 đều không có chữ 'diện'. ↵
- được gọi là 'Tứ (Mục sanh)': Nguyên văn là 'Tứ (Mục chưởng)', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại, các chỗ sau cũng sửa tương tự. Lại xem 《Tống sử》 quyển 446, 《Khổng Tông Đán truyền》 chữ '(Mục chưởng)' viết là 'sanh', nghĩa giống nhau. ↵
- đã thấy trong năm Khánh Lịch thứ 7: Nguyên văn là 'tứ', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- 'ngày' nguyên bản chép là 'tháng', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản, Các bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 50 'Quảng Nguyên Man Phản', cùng với đoạn dưới ngày Quý Sửu sửa lại ↵
- nguyên bản thiếu chữ 'truyện', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 bổ sung ↵
- nguyên bản thiếu hai chữ 'Củng thư', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản bổ sung ↵
- các bản đều giống nhau, 《Tống Sử》 quyển 458 《Đại Uyên truyện》 và 《Tục Thông Giám》 quyển 52 chép 'mười thiên' thành 'mấy chục thiên' ↵
- Sư Đán tức ngọa nội đại hãn: Chữ 'tức' nguyên có chữ 'nhập' ở dưới, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 446, 《Triệu Sư Đán truyện》 mà bỏ đi. ↵
- Chữ 'năng' dưới chữ 'bất' vốn có, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Vương Văn Công văn tập》 quyển 88 《Đinh Quân mộ chí minh》 mà bỏ. ↵
- Chữ 'ty' vốn thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, 《Tống sử》 quyển 299 《Hứa Nguyên truyền》 và văn dưới đây mà bổ sung. ↵
- Lệnh cho Sùng nghi sứ Tri châu Thiều Châu là Trần Thự đem quân đi đánh Nùng Trí Cao, 'Tri châu Thiều Châu', trong 《Tống sử》 quyển 12, phần Nhân Tông kỷ và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 50, phần Quảng Nguyên man phản đều chép là 'Tri châu Quế Châu', phần sau còn chú thêm: 'Trường biên chép là Thiều Châu'. Xét đoạn dưới trong sách này, ngày Canh Thìn tháng 6, lại có 'Tri châu Quế Châu, Sùng nghi sứ Trần Thự cùng bắt giết giặc man', và trong chú thích ngày Ất Hợi cùng tháng có ghi: 'Dư Tĩnh làm Tri châu Quế Châu vào ngày Canh Thìn.' Không thể cùng ngày có hai người làm Tri châu Quế Châu, nên nghi rằng chép 'Tri châu Thiều Châu' là đúng. ↵
- Mười thứ này phải hòa hợp mà không trái ngược, 'thị' nguyên bản là 'nhiên', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31 Nghị nhạc, 《Tống hội yếu》 Nhạc 2-27, 《Thông khảo》 quyển 131 Nhạc 4, 《Tống Thục văn tập tồn》 quyển 8, 《Lục danh thần tấu nghị》 quyển 60 sửa. ↵
- Người Hà Đông gọi là hắc ma, 'ma' trong 《Trị tích thống loại》 quyển 7, 《Hoàng hữu luận lạc đồng dị》, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31, 《Nghị lạc quân đồng》 đều giống nhau, bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các đều viết là '〈quảng hoà〉', 《Tống hội yếu》 Lạc 2-25 viết là 'thử', 《Thông khảo》 dẫn trên viết là 'hoà', 《Tống sử》 và 《Tống Thục văn tập tồn》 viết là 'mễ'. ↵
- Chiều dài chỉ còn bảy mươi sáu phân hai li, 'chỉ' nguyên văn là 'chính', theo 《Tống hội yếu》 Lạc 2-26 và 《Thông khảo》 dẫn trên, 《Tống sử》, 《Tống Thục văn tập tồn》 sửa lại. ↵
- Sâu tám phần một li, 'phần' nguyên bản là 'tấc', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Tống hội yếu》, 《Thông khảo》, 《Tống sử》, 《Tống Thục văn tập tồn》 sửa lại. ↵
- hảo tam thốn dĩ vi độ 'độ' nguyên tác 'xích' , cứ chu lễ khảo công kí ngọc nhân cập thượng dẫn tống hội yếu, thông khảo cải. ↵
- Đồng vị chi chu xích giả 'xích' Tự nguyên thoát, cứ tống bản, tống toát yếu bản cập đồng thượng tống hội yếu, thông khảo, tống thục văn tập tồn bổ. ↵
- Nay phần tròn lại dùng phép vuông để tính toán, chữ 'phân' vốn bị thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 'Tống hội yếu' quyển 2, phần 2, mục 27, 'Tống sử' quyển 71, 'Luật lịch chí' quyển 4, cùng các sách thông khảo khác, 'Tống Thục văn tập tồn bổ'. ↵
- Phép tính này không đúng, dưới chữ 'số' vốn có chữ 'chi', căn cứ theo hai bản trên và các sách kể trên mà bỏ. ↵
- Thần biết rõ âm thanh vô hình 'kì' chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống hội yếu》, 《Thông khảo》, 《Tống sử》 quyển 71, Luật lịch chí 4 bổ sung. ↵
- Thiêu bên chín ly năm hào và vuông một thước sâu một thước sáu tấc hai phân, cái nào đúng 'sâu một thước' hai chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống hội yếu》, 《Thông khảo》 bổ sung. ↵
- Quyền hành nặng dùng hai hạt kê cự và một hạt kê, cái nào đúng 'nặng' nguyên bản là 'lượng', căn cứ theo 《Tống hội yếu》, 《Thông khảo》, 《Tống Thục văn tập tồn》 và 《Tống sử》 quyển 71, Luật lịch chí 4 sửa. ↵
- Chữ 'Hóa' trong 'Chương Hóa tiết độ sứ' nguyên bản là 'Tín', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Biên niên lục》 quyển 5, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 phần trên, 《Tống sử》 quyển 290 truyện Địch Thanh sửa lại. ↵
- Chữ 'Ngũ' trong 'năm điều không thể chấp nhận' nguyên bản là 'Tứ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Biên niên cương mục》 quyển 14, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 phần trên sửa lại. ↵
- 13 chữ 'Các đại thần trong triều sẽ cảm thấy xấu hổ khi phải cùng làm việc với ông ta, đó là điều không thể thứ ba' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung. Cùng trong 《Biên niên cương mục》 ghi là 'Các đại thần sẽ cảm thấy xấu hổ khi phải cùng làm việc với ông ta, đó là điều thứ ba', 《Tống sử toàn văn》 ghi là 'Các đại thần và tướng súy sẽ cảm thấy xấu hổ khi phải cùng làm việc với ông ta, đó là điều thứ ba'. ↵
- Chữ 'Tứ' trong 'điều không thể thứ tư' nguyên bản là 'Tam', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'Ngũ' trong 'điều không thể thứ năm' nguyên bản là 'Tứ', căn cứ theo hai bản Tống và các sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'Do' trong 'nhờ vết xăm này' nguyên bản là 'Diện', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 290 truyện Địch Thanh sửa lại. ↵