"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 173: NĂM HOÀNG HỰU THỨ 4 (NHÂM THÌN, 1052)

Từ tháng 7 năm Hoàng Hựu thứ 4 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Tỵ, Như Kinh sứ Triệu Du được bổ nhiệm làm Kinh Tây Chỉ huy sứ, chuyên trách việc bắt giặc.

[2] Xuất 30 vạn quan tiền và 10 vạn tấm lụa từ kho Nội tàng để hỗ trợ mua lương thực quân đội ở Hà Bắc. (Xem thêm chi tiết vào tháng 8 năm Chí Hòa thứ 1).

[3] Ngày Bính Ngọ, Lệnh cho Tri Quế châu Dư Tĩnh đảm nhiệm việc kinh lý và đánh dẹp giặc cướp ở hai lộ Quảng Nam Đông và Tây. Khi ấy, Gián quan Giả Ám tâu: “Dư Tĩnh và Dương Điền đều được phép tùy nghi hành sự, nhưng nếu hai người chỉ đạo không thống nhất, thì cấp dưới sẽ không biết nghe theo ai. Hơn nữa, Dư Tĩnh chỉ phụ trách lộ Tây, nếu giặc hướng về phía Đông, thì không thuộc quyền kiểm soát của ông ấy, khó mà điều động quân lính. Chi bằng giao cả hai lộ cho Dư Tĩnh kinh lý.” Dư Tĩnh cũng tự nói: “Giặc ở phía Đông mà bảo thần đi phía Tây, không phải là ý nguyện của thần.” Vua nghe theo lời tâu, nên có mệnh lệnh này.

[4] Ngày Đinh Mùi, Hộ bộ Viên ngoại lang kiêm Thị ngự sử Tri tạp sự Trần Húc được bổ nhiệm làm Thiên Chương các Đãi chế, Hà Bắc Đô Chuyển vận sứ. Sau đó, có người tâu rằng Trần Húc được thăng chức không đúng thứ tự, nên đổi ông làm Lễ bộ Lang trung, Tập Hiền điện Tu soạn, Hà Bắc Chuyển vận sứ. Việc thay đổi mệnh lệnh này diễn ra vào ngày Canh Thân.

[5] Ngày Nhâm Tý, Chiếu cho Thẩm quan viện rằng các châu Liên, Hạ, Đoan, Bạch ở Quảng Tây gần đây bị giặc Man quấy phá, nên chọn quan lại có năng lực để an ủi dân chúng.

[6] Lại chiếu từ kinh đô đến Quảng Châu tăng thêm các trạm ngựa trạm, và lệnh một viên nội thần phụ trách việc này.

[7] Ngày Đinh Tỵ, Gió lớn nổi lên từ phía Tây, làm đổ cây cối.

[8] Xu mật viện tâu rằng, bọn giặc Man có đến hơn 2 vạn người, mỗi ngày tiêu thụ 500 thạch gạo, nếu không có ai cung cấp lương thực cho chúng, thì chúng không thể tồn tại lâu, cần phải nghiêm cấm ngoài pháp luật. Ngày Tân Dậu, chiếu rằng kẻ nào phạm tội cung cấp lương thực cho giặc, kẻ cầm đầu sẽ bị xử trảm, kẻ theo sẽ bị đày đến Lao thành phía Bắc, thuyền xe bị tịch thu.

[9] Ban đầu, Ngụy Quán xây thành Quảng Châu, đào giếng chứa nước, chế tạo nỏ lớn để phòng thủ. Khi Nùng Trí Cao đánh thành rất gấp, lại chặn dòng nước[1], nhưng thành vững chắc, nước giếng không cạn, nỏ bắn trúng liền xuyên thủng, quân giặc thế lực suy yếu.

Tri châu Anh là Tô Giám người Tấn Giang, lúc đầu nghe tin Quảng Châu bị vây, nói với thuộc hạ: “Quảng Châu gần với châu ta, nay thành nguy ngập mà không đến cứu, là không có nghĩa.” Bèn chiêu mộ tráng sĩ được mấy ngàn người, giao ấn châu cho Đề điểm hình ngục Bào Kha, đêm đi cứu viện, cách Quảng Châu 20 dặm đóng quân. Hoàng Sư Mật là người Quảng Châu, bị giặc bắt, làm mưu sĩ, Tô Giám bắt cha hắn, chém đầu để răn đe, giặc nghe tin mất hết khí thế. Lúc đó bọn côn đồ đều nhân cơ hội làm giặc, Tô Giám bắt được hơn 60 người, chém đầu, chiêu dụ những người bị ép buộc lầm lỡ trở về làm nghề cũ, tổng cộng hơn 6800 người.

Thành bị vây lâu ngày, đánh nhiều trận không thắng. Giặc dùng mấy trăm thuyền lớn, gấp rút đánh thành phía nam. Huyện lệnh Phiên Ngư là Tiêu Chú, người Tân Dụ, trước đó từ trong vòng vây ra ngoài, chiêu mộ được hơn 2000 dũng sĩ vùng biển, dùng thuyền biển tập hợp ở thượng lưu, chưa kịp xuất phát thì gặp gió lớn nổi lên ban đêm, bèn phóng hỏa đốt thuyền giặc, khói lửa ngút trời, đại phá quân giặc, xác chết và giáp trụ chất thành núi. Ngay hôm đó mở cửa huyện, quân cứu viện các nơi và dân chúng mang trâu rượu, cỏ lương tiếp tục vào thành, trong thành mới có sinh khí, mỗi trận đánh đều thắng. Chuyển vận sứ Vương Hãn cũng từ bên ngoài chiêu mộ dân binh, rồi vào thành, càng thêm tu sửa phòng thủ.

Giặc biết không thể hạ được, vây 57 ngày, đến ngày Nhâm Tuất thì giải vây rút đi, từ huyện Thanh Viễn vượt sông, mang theo phụ nữ vừa đi vừa làm trò vui. Đánh châu Hạ nhưng không hạ được. Gặp Đô giám Quảng Đông là Trương Trung ở Bạch Điền, Trung đánh thua bị giết. Tuần kiểm châu Kiền là Đổng Ngọc, Tuần kiểm châu Khang là Vương Ý, Tuần kiểm châu Liên là Trương Túc, Tuần kiểm châu Hạ là Triệu Doãn Minh, Giám áp là Trương Toàn, Tư lý Tham quân là Đặng Miện đều tử trận.

Trước đó, Giám cùng Đô giám châu Hồng là Thái Bảo Cung đem 8.000 quân đóng ở Biên Độ Võng, chặn đường về của giặc, gặp Trương Trung từ kinh sư đến, đoạt lấy quân mà chỉ huy. Khi ra trận, bảo thuộc hạ rằng: “Ta mười năm trước là một tên lính khỏe, nhờ chiến công mà làm đến chức Đoàn luyện sứ, các ngươi hãy gắng sức.” Rồi không mặc giáp cưỡi ngựa mà xông lên. Tiên phong gặp giặc bỏ chạy, Trung tay bắt hai tướng giặc, ngựa sa lầy không thể vùng vẫy, bị trúng lao mà chết.

[10] Ngày Giáp Tý, Kiềm hạt Quảng Đông là Tương Giai đánh giặc ở Lộ Điền, binh bại. Tuần kiểm châu Nam Ân là Dương Quỳ, Tuần kiểm quân Nam An là Thiệu Dư Khánh, Quyền Tuần kiểm châu Nghi Dung là Phùng Nhạc, Tây lộ Tróc tặc là Vương Hưng, Trường Dụng Hòa đều tử trận.

(《Thực lục》 chép: Giai chết ở Lộ Điền, 《Bản kỷ》 cũng nói thế. Xét theo 《Bản truyện》 và 《Trí Cao truyện》 thì là ở Thái Bình Trường, 《Thực lục》 và 《Bản kỷ》 đều sai, nay sửa lại. 《Thực lục》 và 《Bản kỷ》 đều chép tháng 7 ngày Giáp Tý Giai chết. Giáp Tý là ngày 20. Căn cứ theo tấu chương của Ngụy Quán tháng 9, thì nói là ngày mồng 6 tháng này. Ngày mồng 6 tháng này là ngày Mậu Thân tháng 9, 《Thực lục》 cũng chép việc này. Lại nói Hà Tông Cổ cùng ba người khác cùng chết, không khớp với 《Thực lục》 và 《Bản kỷ》 chép tháng 7, nên theo tấu chương của Ngụy Quán, 《Thực lục》 và 《Bản kỷ》 đều sai.)

[11] Miễn thuế hạ năm Khánh Lịch thứ 8 cho huyện Úy Thị phủ Khai Phong bị thiên tai lũ lụt.

[12] Ngày Mậu Thìn, xuống chiếu rằng giặc Man chưa dẹp xong, dân chúng Kinh Hồ Nam lộ khổ sở vì phải cung cấp, lệnh cho An phủ Chuyển vận sứ phải thường xuyên thương xót, không được lấy danh nghĩa quân nhu mà thu thuế bừa bãi.

[13] Lại xuống chiếu rằng các quan người Phiên ở châu Tần già yếu bệnh tật, cho phép con cháu cháu trai được giáng hai bậc thay thế.

[14] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu bãi bỏ khoản “đặc chi” (cấp thêm) cho quân sĩ phòng giữ sông. Cấm binh mỗi ngày được cấp 50 đồng tiền ăn, nếu vào làm việc ở Ty Bài Ngạn thì được 30 đồng. Theo chế độ cũ, khi nước sông dâng cao 7 thước 5 tấc, thì kinh thành tập hợp cấm binh vào làm việc, binh Bài Ngạn vác đất đắp lên bờ sông, đủ 5 ngày thì ban tiền để khen thưởng, gọi là “đặc chi”. Nếu nước sông dâng lên nhiều lần, phải phòng giữ nhiều lần, lại chưa đủ 5 ngày đã bãi bỏ, thì quân sĩ nhiều lần mệt nhọc mà không được ban thưởng. Vì thế bắt đầu đổi chế độ, so với “đặc chi” chỉ bằng một phần mười một, quân sĩ thấy tiện lợi.

[15] Ngày Tân Mùi, Tam ty tâu: “Các huyện thuộc phủ Khai Phong, từ hộ đẳng thứ tư trở lên, mỗi năm phải cung cấp 3 triệu bó cỏ cho chợ. Xin cho dùng vải đoan của châu Đăng, châu Lai để chiết giá 1360 đồng, vải thất của châu Nghi 1100 đồng.” Vua bảo các quan phụ tá: “Giá quá cao thì sợ hại dân, nên giảm vải đoan xuống 1200 đồng, vải thất 1000 đồng.”

[16] Cơ quan Khảo công bàn định, dâng lên thụy hiệu cho các quan đã mất: Nguyên Tư không đã về hưu Trương Tề Hiền thụy là Văn Định, Hữu bộc xạ Trần Nghiêu Tẩu thụy là Văn Trung, Thái tử Thái phó đã về hưu Tân Trọng Phủ thụy là Khang Tiết, tặng Lại bộ Thượng thư Ôn Trọng Thư thụy là Cung Túc, tặng Hộ bộ Thượng thư Tiền Nhược Thủy thụy là Tuyên Tĩnh, tặng Hình bộ Thượng thư Tống Thục thụy là Cung Chất, Hữu đồn vệ Thượng tướng quân Vương Tự Tông thụy là Cảnh Trang, Uy Tắc tiết độ sứ Phùng Thủ Tín thụy là Cần Uy.

Từ Trương Tề Hiền trở xuống, đều là bề tôi cũ của tổ tông, đã chôn cất mà chưa được đặt thụy, nhà họ mới xin.

[17] Tháng 8, ngày Quý Dậu mùng một, Lưu Văn Bỉnh, Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây lộ, Chủ khách Lang trung, bị tước 5 chức quan, giáng làm Quân châu Đoàn luyện sứ[2], không được ký tên vào văn thư của châu. Vì tội khi Nùng Trí Cao làm phản, đã không phòng bị.

[18] Chiếu rằng nghe nói các quan trưởng lại và chủ binh quan ở các châu quận Hà Đông phần nhiều làm việc theo thói quen cũ, sai chuyển vận ty và an phủ ty liệt kê tên những kẻ tham ô, lãng phí, không làm tròn chức vụ để tâu lên.

[19] Ngày Giáp Tuất, Tam ty tâu rằng Tả Giám môn vệ Đại tướng quân, Thứ sử Tuần Châu là Thế Thanh vì bệnh nặng nên tự ý đổi ngựa công, tính ra tang vật là 16 tấm lụa, tội này nên xin xét xử. Vua nói: “Dù là tông thất, có thể bỏ qua phép nước sao?” Phạt 40 cân đồng. Thế Thanh là con của Thủ Tốn.

[20] Ngày Bính Tý, giáng chức Tiền Quảng Tây Chuyển vận sứ, Tư Phong Viên ngoại lang Tiêu Cố làm Tri châu Cát Châu, vì tội không xét việc Nùng Trí Cao làm phản.

[21] Ngày Đinh Sửu, Vệ úy tự thừa, Giám thuế huyện Tân Cam là Khâu Tuấn được bổ làm Thiêm thư Phán quan sự châu Trừ.

Trước đây, Tuấn vì tội làm thơ châm biếm thời sự[3], bị giáng chức đã lâu. Đến lúc này, Hoài Nam An phủ Trần Húc, Hồ Bắc Đề điểm hình ngục Tổ Vô Trạch dâng biểu tiến cử. Vua nói: “Tuấn không có hành vi đứng đắn, chỉ dùng lời nói lay động người. Nay Húc khen tài năng của hắn, chẳng phải là khuyến khích thói phù hoa sao!” Các quan phụ chính tâu rằng tội của Tuấn đã qua đại xá, nên cho hắn cơ hội làm lại. Vì thế cho dời về nội địa. Khâu Tuấn bị giáng chức vào tháng 5 năm Khánh Lịch thứ 4, tháng 7 năm đó, Trần Húc đã được bổ làm Hà Bắc Đô tào, còn Hoài Nam là tháng 8 năm thứ 3, tháng giêng năm thứ 4 được bổ làm Trực sứ quán.

(《Hội yếu》 vẫn ghi chức Hoài Nam An phủ, không rõ ngày nào về triều, nay theo 《Thực lục》, không sửa đổi nữa.)

[22] Dương Điền vừa đến Quảng Nam, lại dâng tấu xin bãi bỏ các quy định về hành quân và cách thức thưởng phạt thời Khang Định để ban hành xuống[4], đồng thời thiết lập chức quan kiểm pháp.

Ngày Kỷ Mão, chiếu dụ Dương Điền rằng: “Trí Cao nhân lúc gió mạnh bất ngờ nổi dậy[5], dân chúng hai Quảng đang mong chờ quân triều đình đến, nên giao cho khanh quyền tiết chế, lấy việc tiêu diệt giặc làm mục tiêu. Xử lý tình huống linh hoạt, cần gì phải báo cáo trung ương? Nay đại quân đã tập hợp, không thể căn cứ tình hình mà tiêu diệt ngay, lại còn xin ban hành quy định, thiết lập quan kiểm pháp, đây há phải là kế sách nhanh chóng sao? Nếu giặc thuận gió xuống biển, cướp phá Quỳnh Quản và các châu ven biển, phòng thủ dày thì binh lực không đủ, không phòng bị thì giặc sẽ lợi dụng. Nếu có thể chặn đường biển, thì không cần tính toán thời gian nhanh chậm.”

[23] Ngày Quý Mùi, chiếu cho Khai Phong phủ: Gần đây có gió lớn, nhà dân đổ sập, có người bị chết, quan phủ lo việc tế lễ và chôn cất.

[24] Ngày Ất Dậu, giáng chức Quảng Nam Đông lộ chuyển vận sứ, Kim bộ viên ngoại lang Vương Hãn làm Chủ khách viên ngoại lang, giám Tín châu tửu thuế.

Trước đây, Vương Hãn đến Triều châu bàn việc muối, nghe tin Trí Cao vây Quảng châu, liền dẫn quân trở về thành để chuẩn bị phòng thủ[6], thành không bị hạ được là nhờ công sức của Vương Hãn, nhưng triều đình chưa biết. Đề điểm hình ngục Bào Kha từ Anh châu đem gia quyến định vượt núi về phía bắc, đến Hùng châu, Tri châu Tiêu Bột giữ lại, bèn tâu xin triệu Vương Hãn đến Hùng châu bàn việc, Vương Hãn không đến. Gián quan Lý Đoái bèn hặc tội Vương Hãn nhút nhát trốn tránh giặc, an nhiên ở Quảng châu, triều đình cũng vì Vương Hãn không kịp thời báo cáo, nên bị khiển trách.

(《Tư Mã Quang ký văn》 chép việc Vương Hãn rất chi tiết, có thể tham khảo thêm.)

[25] Ngày Bính Tuất, truy tặng Trương Trung làm Cảm Đức tiết độ sứ. Ghi công cha ông là Suất phủ phó suất đã về hưu Dư Khánh làm Tả Giám môn vệ Đại tướng quân. Ban cho một khu nhà, cấp nửa bổng lộc suốt đời, riêng ban thêm 400 lạng bạc, 400 tấm lụa, 200 tấm vải, 300 quan tiền. Phong mẹ là Giả thị làm Hà Nội quận phu nhân. Em trai là Hạ ban điện thị Nguyện, thăng làm Hữu ban điện trực, Cáp môn chi hậu. Bổ nhiệm các con là Vĩnh Thọ, Vĩnh Cát, Vĩnh Đức và con rể là Lưu Thuần, tổng cộng bốn người. Phong con gái lớn làm Thanh Hà huyện quân.

[26] Ngày Đinh Hợi, bổ nhiệm Tiêu Chú làm Lễ tân phó sứ, kiêm quyền phát khiển công việc huyện Phiên Ngu.

[27] Ngày Mậu Tý, Tư chính điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ, Lại bộ Thượng thư, tri châu Nhữ Châu là Ngô Dục làm Tập hiền viện học sĩ, phán xử công việc tại Tây Kinh lưu ty Ngự sử đài[7], vì Dục cố ý xưng bệnh xin được ở nơi thanh nhàn.

Ban đầu, Dục xin bỏ hết chức học sĩ, chỉ giữ chức vụ cũ, tạm quản lý Lưu đài.

Vua nói: “Nghe nói Dục vì học hành vất vả mà sinh bệnh, hơn nữa Dục văn chương đức hạnh có thể làm gương cho người khác, vốn định triệu về giảng học và tham vấn, mà nay lại có lời thỉnh cầu này, nên đặc cách chấp thuận.” Lại nói: “Nếu chỉ giữ chức cũ thì bổng lộc sẽ giảm, có thể đặc cách phong làm Tập hiền viện học sĩ để hưởng đủ bổng lộc.” Các tể thần tâu rằng: “Bệ hạ hiểu rõ Dục, đối đãi hậu hĩnh, đủ để khích lệ những kẻ cô lập thiển cận, thiên hạ nghe tin ắt đều cố gắng noi theo.”

Lưu đài vốn không quản việc dân sự, lúc đó Trương Nghiêu Tá phán xử ở Hà Dương, những vụ kiện dân sự lâu không giải quyết, nhiều người đến nhờ Dục, Dục phân xử rõ ràng, viết lời phán quyết ở cuối văn bản, Nghiêu Tá sợ hãi vội thi hành.

(Nghiêu Tá lúc đó phán xử ở Hà Dương, nay theo truyện của Nghiêu Tá. Truyện của Dục chép là Hà Nam[8], là sai.)

[28] Chiếu rằng ai ở Quảng Nam bắt được Nùng Trí Cao sẽ được phong làm Chính thứ sử, thưởng ba nghìn quan tiền, hai nghìn tấm lụa; bắt được mẹ Trí Cao sẽ được phong làm Chư ty phó sứ, thưởng ba nghìn quan tiền, hai nghìn tấm lụa; bắt được Hoàng Sư Mật, Hoàng Vĩ sẽ được phong làm Đông đầu cung phụng quan, thưởng một nghìn quan tiền.

[29] Ngày Canh Dần, chiếu rằng những hộ dân ở Phu Châu bị thiên tai lũ lụt được miễn thuế nhà năm nay và các khoản sai dịch chiết biến, quân sĩ được miễn trừ số lương tháng đã mượn và lương thực của dân.

[30] Quân Quảng Nhuệ và Chấn Vũ ở Phu Châu đang đóng quân ở Diên Châu, nghe tin nhà mình bị lũ lụt, đến xin Phó bộ thự Vương Hưng cho về nhưng không được, bèn cùng nhau đào ngũ trở về, đến nơi thì gia đình không còn ai, bèn tụ tập bàn nhau làm giặc, dân trong châu sợ hãi. Tri châu Tiết Hướng sai người thân tín đến dụ rằng: “Phạm pháp để cứu cha mẹ vợ con là lẽ thường tình; không cho các ngươi về là lỗi của võ tướng không biết biến thông. Các ngươi nghe lời ta, hãy về thu nhặt thi thể người thân, ta sẽ tha tội đào ngũ; không nghe lời ta, các ngươi sẽ không còn đường sống.” Mọi người liền vào sân lạy tạ khóc lóc, trong châu được yên ổn. Kinh lược, chuyển vận ty tâu lên tình hình, Vua khen ngợi.

(Việc Vua khen ngợi này căn cứ theo bản truyện của Tiết Hướng, có lẽ là dựa vào bài minh trên bia mộ của Lã Đại Phòng. ‘Thực lục’ chép vào ngày Giáp Thìn tháng 9 Vua dụ Trung thư, nội dung khác hẳn với bản truyện, cần xem xét lại.)

[31] Ngày Tân Mão, đổi Tôn Miễn, người mới được bổ nhiệm làm Tri Tần Châu, làm Kinh Hồ Nam Lộ, Giang Nam Tây Lộ An phủ sứ, Nội viên sứ, Lăng Châu đoàn luyện sứ, Nhập nội áp ban Thạch Toàn Bân làm phó.

Miễn lần đầu vào yết kiến, Vua lấy việc ở Tần Châu để khích lệ ông[9], ông đáp: “Thần tuy già, nhưng việc Tần Châu không đủ làm phiền thánh lự, bệ hạ nên lo lắng về phía Lĩnh Nam. Thần thấy thế giặc đang mạnh, quân triều đình sớm muộn sẽ có tin bại trận.” Sau đó nghe tin Trương Trung chết, Tương Giai thua, Vua bảo các quan chấp chính: “Việc phương Nam quả đúng như Miễn dự đoán.” Tể tướng Bàng Tịch bèn tâu xin cử Miễn đi, nên có mệnh lệnh này, lại cho phép Miễn tùy nghi hành sự.

(《Miễn truyền》 chép rằng ngày hôm sau nghe tin Tương Giai chết. Xét ngày Tân Mão là ngày 19 tháng 8. Ngày 14 tháng 9 là ngày Bính Thìn, Tương Giai mới cùng Dương Điền bị trách phạt, lúc đó đổi mệnh cho Miễn, Tương Giai chưa chết, người chết là Trương Trung, Tương Giai chỉ thua trận mà thôi. 《Mộ chí》 của Vương Khuê, Tất Trọng Du và 《Thần đạo bi》 cũng chỉ chép Tương Giai thua, không chép Tương Giai chết, 《Miễn truyền》 sai, nay sửa lại.)

Miễn cho rằng quân phương Nam liên tiếp bị giặc đánh bại[10], khí thế nhụt chí không thể dùng, xin thêm kỵ binh, lại tuyển thêm 20 tướng phó, xin 5.000 bộ giáp tinh nhuệ từ vũ khố. Tham tri chính sự Lương Thích bác Miễn: “Đừng làm lớn chuyện.” Miễn nói: “Trước đây vì không có phòng bị nên mới đến nông nỗi này. Nay định kỳ diệt giặc, không thể dựa vào may rủi mà thắng, lại muốn tỏ ra trấn tĩnh sao! Chuẩn bị thực sự không đến nơi mà bề ngoài tỏ ra trấn tĩnh, đó là con đường dẫn đến nguy vong.” Hai ngày sau thúc giục lên đường, chỉ được cấp 700 quân. Miễn lo giặc vượt Lĩnh Nam sang phía bắc, bèn hịch cho Hồ Nam, Giang Tây: “Đại quân sắp đến, hãy khéo léo xây doanh trại, chuẩn bị nhiều yến tiệc khao quân.” Giặc nghi ngờ, không dám xâm phạm phía bắc. Miễn đi đến Đỉnh Châu, lại có chiếu gia phong làm An phủ sứ Quảng Nam Đông, Tây lộ.

(Việc Miễn được gia phong An phủ Quảng Nam, 《Thực lục》 không chép. 《Bản truyền》 chép liền với Hồ Nam, Giang Tây. 《Mộ chí》 chép không lâu sau 《Thần đạo bi》 chép Miễn đi đến Đỉnh Châu mới nhận mệnh Quảng Nam, nay theo đó.)

[32] Tri châu Anh, Bí thư thừa Tô Giam làm Cung bị khố phó sứ[11].

[33] Ban đầu, Quảng Châu vì giặc đến gấp, không kịp thanh dã, nên giặc được tự do cướp bóc. Sau đó, Giam biết giặc sắp rút lui, bèn chia quân phòng giữ biên giới, chặn đường về của chúng, bố trí cọc gỗ và đá lớn dài gần bốn mươi dặm. Giặc đến, quả nhiên không thể tiến lên, đành phải đi vòng qua mấy dặm, vào bến Sa Đầu vượt sông, theo đường huyện Thanh Viễn qua Liên Châu, Hạ Châu về phía tây, bị thương vong rất nhiều. Giam thu lại được tất cả những thứ giặc cướp đi.

[34] Ngày Quý Tỵ, Hộ bộ phó sứ, Binh bộ lang trung Phó Vĩnh làm sứ sinh thần mẹ Vua Khiết Đan, Văn tư phó sứ Phan Vĩnh Tự làm phó. Lễ bộ viên ngoại lang kiêm Thị ngự sử tri tạp sự Trương Trạch Hành làm sứ sinh thần Khiết Đan, Tây nhiễm viện phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Hạ Xưng làm phó. Quyền Diêm thiết phán quan, Đô quan viên ngoại lang Tương Bôn làm sứ chánh đán mẹ Vua Khiết Đan, Nội điện thừa chế, Cáp môn kỳ hậu Lý Trung Cẩn làm phó. Thái thường bác sĩ, Trực tập hiền viện, Đồng tu khởi cư chú, Phán Diêm thiết câu viện Hàn Giáng làm sứ chánh đán Khiết Đan, Đông đầu cung phụng quan, Cáp môn kỳ hậu Vương Dịch làm phó.

[35] Ngày Ất Mùi, giáng chức Đề điểm hình ngục Quảng Nam Tây lộ, Chức phương viên ngoại lang Lý Thượng Giao xuống làm Thái thường bác sĩ, vì tội phòng thủ không nghiêm để giặc xâm phạm.

[36] Ngày Bính Thân, xuống chiếu cho các quan văn từ chức Ngự sử tri tạp sự trở lên, quan võ từ chức Quan sát sứ trở lên, tiến cử các chức Phó sứ các ty đến Cáp môn kỳ hậu, ai có khả năng làm Đề điểm hình ngục thì mỗi người tiến cử một người.

[37] Xuống chiếu cho Tôn Miễn, nếu trong quân cần người sử dụng, cho phép điều động từ Giang Nam Đông lộ.

[38] Xuống chiếu cho bốn lộ Xuyên, Hạp, những quân phối ngũ trước đây phạm tội nhẹ hợp lệ được xét tha, thì áp giải về doanh cũ, còn ai không muốn cũng tùy ý.

[39] Ngày Kỷ Hợi, ban chiếu cho các quan chức Đãi chế, Quan sát sứ[12] trở lên, tiến cử mỗi người một văn võ quan có thể đảm nhiệm chức vụ quan trọng ở biên giới[13]. Những người đã ở biên giới hoặc từng giữ chức Lộ phân đô giám thì không cần tiến cử.

[40] Ngày Canh Tý, ban chiếu tạm ngưng thu hồi lương thực mà dân huyện Trung Mâu đã vay, đợi đến mùa màng bội thu mới thu lại.

[41] Binh bộ Viên ngoại lang, Trực sử quán Điền Kinh được thăng làm Công bộ Lang trung. Trước đây, Điền Kinh làm Tri châu Thương Châu, Chuyển vận sứ tâu rằng ông có khả năng chiêu tập lưu dân, cấp ruộng đất và miễn thuế, tăng thêm 17.000 hộ, nên đặc cách thăng chức. Tuy nhiên, có người nói rằng số lưu dân không chính xác, lại cưỡng ép cấp ruộng cho người dân không mong muốn, xâm chiếm đất thuế của dân, áp dụng lại phép đồn điền cổ, nhưng sau đó phép này không thành công, tiền giống và giá trâu bò cấp cho dân phần lớn không được hoàn trả, quan lại sau này dùng roi vọt để đốc thúc, đến nỗi nhiều lần thay đổi cũng không giải quyết được, gây hại cho cả công và tư.

(Điều này căn cứ theo bản truyện của Điền Kinh. 《Thực lục》 chép rằng chiêu tập được 8.291 hộ, khác với bản truyện. Đến năm Chí Hòa thứ nhất, tháng 9 ngày Giáp Tuất, ban chiếu khôi phục thuế ruộng ở Thương Châu theo lệ cũ, liên quan đến việc này, cần xem xét thêm.)

[42] Tháng 9 ngày Giáp Thìn, ban chiếu: “Từ nay về sau, mỗi khi các văn võ thần liêu gặp lễ Càn Nguyên tiết được phép tiến cử thân thuộc, ngoài việc tiến cử thân thuộc tháng đó như cũ, thân thuộc Đại công đợi đến lễ Giao nhân mới được tiến cử một người, thân thuộc Tiểu công trở xuống phải đợi hai lần Giao nhân mới được tiến cử một người. Mỗi khi gặp lễ Giao nhân được phép tiến cử thân thuộc, ngoài việc tiến cử con cháu như cũ, các thân thuộc tháng đó phải đợi hai lần Giao nhân mới được tiến cử một người, thân thuộc Đại công trở xuống phải đợi ba lần Giao nhân mới được tiến cử một người.” Đây là theo quyết định của Ngự sử Trung thừa Vương Cử Chính cùng các quan chức Lưỡng chế, Đài gián.

(Điều này căn cứ theo sách 《Thành Đô phủ biên lục điều quán》, ghi chép thêm. Sớ tấu của Hà Đàm vào tháng 8 năm Hoàng Hựu thứ hai có thể tham khảo.)

[43] Nội điện Thừa chế, Cáp môn Chi hậu Tôn Tông Đán được bổ làm Đô giám Kinh Hồ Nam lộ và Giang Nam Tây lộ.

[44] Sai nội thị truyền dụ Trung thư rằng: “Châu Phu bị lụt lớn, mà Tri châu Tiết Hướng không thể giữ được thành, đến nỗi làm hư kho tàng và nhà cửa của quân dân, nay tuy có sức sửa chữa xong, chỉ có thể miễn tội, không nên bàn đến việc thưởng công.” (Sách viết ngày Canh Dần tháng 8 khen ngợi việc này, nhưng có chỗ khác, cần xem xét lại.)

[45] Chiếu rằng các quan văn vũ xét duyệt công trạng, tội tư hình trượng trở xuống tăng thêm một năm, tội đồ trở lên tăng hai năm, dù phạm tội trượng mà tình tiết nặng thì tâu xin xét xử; tội tang hình trượng trở xuống tăng hai năm, tội đồ trở lên tăng ba năm.

[46] Ngày Mậu Thân, chiếu rằng các lộ Trấn, Định bị lụt, tha các khoản nợ cũ; thuế thu năm nay vẫn sai quan Chuyển vận ty giảm bớt rồi tâu lên.

[47] Cùng ngày, Nùng Trí Cao giết Kiềm hạt Quảng Nam Tương Giai ở trường Thái Bình châu Hạ, Trang trạch phó sứ Hà Tông Cổ, Hữu thị cấm Trương Đạt, Tam ban phụng chức Đường Hiện đều chết.

Giai vừa nhận mệnh đánh giặc Man, ngựa trạm chạy suốt mười bảy ngày, đến dưới thành Quảng Châu, vào thành, chắp tay chào các quan châu chưa xong, liền trách Tri châu Trọng Giản rằng: “Ngài giữ binh tự thủ, không đánh giặc, lại để bộ hạ chém dân lành để cầu thưởng, đáng chém!” Giản nói: “Làm gì có chuyện Đoàn luyện sứ muốn chém Thị tòng quan?” Giai nói: “Kiếm chém chư hầu ở tay ta, nói gì Thị tòng!” Tả hữu can ngăn, mới thôi. Khi giặc rời Quảng Châu, Dương Điền hịch cho Giai đốt lương thực, rút về giữ Thiều Châu. Quân đóng ở Hạ Châu, giặc đêm vào doanh trại, tập kích giết chết. Giai hành động khinh suất, cuối cùng vì thế mà thất bại.

[48] Ngày Giáp Dần, Tuần kiểm Quế Nghi Liễu Châu, Tam ban tá chức Lý Quý đánh Nùng Trí Cao ở động Long Tụ, binh bại, chết trận.

[49] Tri chế cáo Hồ Túc tâu: “Gần đây sai thần sung chức Hàn lâm viện Thị độc học sĩ, thần chưa xứng đáng nhận chức này, không dám vào tạ.” Lúc ấy Túc ở Lân các đã lâu, chấp chính vì viện Cấm lâm đủ người, chưa bàn việc thăng bổ, lại bị dư luận thúc ép, nên cho làm ở Kim Hoa. Các Gián quan Lý Sung, Hàn Chất chỉ trích việc này, nên Túc khẩn khoản từ chối, nhưng cuối cùng không được chấp thuận.

[50] Tiết độ sứ Sơn Nam Đông đạo, Đồng bình chương sự Giả Xương Triều vừa mãn tang mẹ, ngày Ất Mão, được triệu đến Nhĩ Anh các giảng quẻ Càn. Vua nói: “Tướng tương thị giảng, là việc thịnh sự của thiên hạ.” Xương Triều cúi đầu tạ ơn, hôm sau dâng tấu rằng: “Hào thượng cửu quẻ Càn nói ‘Rồng lên cao quá ắt hối hận’, hối là mầm mống của tai họa, hào ở chỗ cực thịnh ắt có tai họa. Không nói thẳng là hung mà nói là hối, vì hối có nghĩa là có thể hung cũng có thể cát; nếu tu đức thì tránh được hối mà được cát, nên chỉ nói hối. ‘Dùng cửu, thấy bầy rồng không có đầu, là tốt’[14], thánh nhân dùng đức cương kiện mới có thể quyết định mọi việc. Khi thiên hạ thịnh lâu, nhu không thể cứu vãn, nhưng quá cương lại không thể bền. Chỉ có thánh nhân ngoài dùng cương kiện quyết sự, trong dùng khiêm cung ứng phó, không dám tự cho mình là đứng đầu thiên hạ, mới được tốt lành.” Vua ban chiếu khen ngợi, lại giao ý nghĩa quẻ Càn mà Xương Triều trình bày cho Sử quán.

Sau đó, Xương Triều được lệnh làm Phán quan Hứa Châu, trước khi đi, Vua sai các quan giảng đọc tiễn ở Tư Thiện đường. Ngày Mậu Ngọ, Xương Triều nhận chức Phán quan Hứa Châu, nay ghi chung lại.

(Sách 《Lã thị gia thục ký》 chép: Xương Triều giảng “Bầy rồng không có đầu, là tốt” rằng: “Đó là thánh nhân đặt mình sau mà lại được đứng trước vậy[15].”)

[51] Ngày Bính Thìn, giáng chức Khởi cư xá nhân, Trực sử quán, Đồng tri Gián viện Dương Điền, người từng làm Thể lượng an phủ kinh chế tặc đạo ở Quảng Nam Đông Tây lộ, xuống làm Tri châu Ngạc Châu, bãi chức Tri Gián viện; cùng chức Thể lượng an phủ kinh chế tặc đạo, Tây thượng các môn phó sứ Tào Tu làm Đô giám Kinh Nam; Kiềm hạt kiêm Tróc sát man tặc Quảng Nam Đông lộ, Cung uyển sứ, Đoàn luyện sứ Thiều Châu Tương Giai làm Đô giám Đàm Châu.

Lúc đầu, Dương Điền và Tào Tu nghe tin Nùng Trí Cao dời quân đến Sa Đầu, sắp vượt sông, liền lệnh cho bỏ chạy khỏi Anh Châu, đốt hết lương thực dự trữ, và triệu Nội điện thừa chế Kỳ Uân, Sầm Tông Mẫn, Tây đầu cung phụng quan Cáp môn chi hậu Vương Tòng Chính rút về giữ Thiều Châu, đồng thời gửi văn thư đến Ngự sử đài và Gián viện, nên cả hai đều bị khiển trách. Lúc đó, Tưởng Giai đã chết được chín ngày.

Tòng Chính là người Khai Phong.

[52] Cung bị khố phó sứ Tô Giam, Lễ tân phó sứ Tiêu Chú, cùng làm Quảng Nam Đông lộ đô giám kiêm quản câu Đông Tây lộ tặc đạo sự.

[53] Mã quân phó đô chỉ huy sứ, Diệu Châu quan sát sứ Chu Mỹ mất. Xa giá đến viếng, ngừng triều một ngày, truy tặng Trung Vũ tiết độ sứ, thụy là Trung Nghị.

Từ khi dùng binh ở Thiểm Tây, các tướng phần nhiều không thuận lợi, riêng Chu Mỹ trước sau hơn mười trận, bình định được hai trăm tộc trướng, đốt hai mươi mốt trại, chiêu dụ mười một tộc quy phụ, khôi phục nhiều thành trì cũ, bổng lộc và thưởng phạt được đều chia cho thuộc hạ, nếu còn dư thì đem khao thưởng. Đến khi mất, nhà không còn của cải gì.

[54] Ngày Đinh Tỵ, lệnh cho Tri Quế Châu Dư Tĩnh làm Đề cử Quảng Nam Đông lộ binh giáp (theo 《Tống sử》 là Đề cử Quảng Nam binh giáp), kinh chế tặc đạo[16].

[55] Lại giáng Khởi cư xá nhân, Trực sử quán Dương Điền làm Đồn điền viên ngoại lang, Tây thượng cáp môn phó sứ Tào Tu làm Lạc uyển sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân, Cung uyển sứ, Thiều Châu đoàn luyện sứ Tưởng Giai làm Bắc tác phường sứ, Trung Châu thứ sử. Lại giáng Nội điện thừa chế Kỳ Uân làm Nội điện sùng ban.

[56] Ngày Mậu Ngọ, ban thưởng tiền cho lính trạm ngựa từ kinh đến Quảng Nam Tây lộ.

[57] Ngày Kỷ Mùi, ban tặng quan tước khác nhau cho những người tử tiết ở các châu Lĩnh Nam: Tri phủ Phong Châu là Tào Cận được truy phong làm Thái thường thiếu khanh, Tri phủ Khang Châu là Triệu Sư Đán được truy phong làm Quang lộc thiếu khanh. Vợ của Tào Cận là Lưu thị, trốn tránh giặc và chết trong rừng núi, được truy phong làm Bành Thành quận quân, ban thêm mũ áo, bổ nhiệm bốn người con làm quan, truy phong cha của Tào Cận là Tào Tu Cổ làm Công bộ thị lang, vợ của Tu Cổ là Trần thị được phong làm Dĩnh Xuyên quận quân.

Mẹ của Triệu Sư Đán là Trường An huyện quân, được Vua ban mũ áo[17], bổ nhiệm con em và ba người cháu làm quan. Vợ của Sư Đán là Vương thị vừa sinh con gái được vài ngày, gặp giặc bỏ con trong cỏ, ba ngày sau tìm lại thì đứa bé vẫn còn sống. Trước đây, Sư Đán từng làm Tri huyện Giang Sơn, xử án công minh, được lòng dân, quan lại không dám lấy của dân một đồng, vật bỏ trên đường không ai dám nhặt. Đến khi tang lễ của ông đi qua Giang Sơn, người dân Giang Sơn đón khóc và tế lễ bên đường, kéo dài hàng trăm dặm không dứt, người dân Khang Châu lập miếu thờ ông. Khi Điền Du làm An phủ sứ Quảng Nam, cũng lập miếu thờ Tào Cận ở Phong Châu.

[58] Ngày Canh Thân, Nùng Trí Cao đánh phá Chiêu Châu, Tri châu Liễu Ứng Thần bỏ thành chạy, Lạc uyển sứ, Quảng Tây kiềm hạt là Vương Chính Luân giao chiến với giặc ở dịch trạm Quán Môn và tử trận. Đông đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu là Vương Tòng Chính, Tam ban phụng chức là Từ Thủ Nhất, Tá chức là Văn Hải đều bị hại. Trong núi của châu có mấy hang, có thể chứa được vài trăm người, dân nghe tin giặc đến, chạy trốn vào đó, đều bị giặc thiêu chết. Ban đầu, giặc bắt được Vương Tòng Chính, ông mắng giặc không ngừng, giặc dùng nước sôi dội lên người, cuối cùng ông vẫn không khuất phục mà chết.

[59] Ngày Tân Dậu, Thái thường bác sĩ, Trực tập hiền viện, Đồng tu khởi cư chú là Hàn Giáng được bổ nhiệm làm Hữu chánh ngôn. Vua dặn rằng: “Khanh là người Trẫm chọn dùng, phàm nói việc gì không nên quá kích động, phải giữ thể diện triều đình, cốt sao việc làm được, đừng để Trẫm thành người không nghe lời can gián.”

Trước đây, sứ giả đi Giang Nam, đã giảm bớt tài lực, cứu giúp và giữ sống được nhiều người; đặt ra năm quy tắc để điều hòa việc phục dịch nha tiền; khai thác lợi ích từ hồ đầm, lấy lại những chỗ bị chiếm giữ để cấp cho dân nghèo; bãi bỏ việc dân châu Tín vận chuyển muối, thúc giục ty Phát vận vận chuyển đúng thời hạn; thái thú châu Tuyên tham nhũng phạm pháp, bị bắt giam, người trong châu vui mừng. Sứ giả về triều tâu đúng ý Vua, nên có mệnh lệnh này.

(Tháng 8 đã sai sứ giả đi phương Bắc, nay lại có sự bổ nhiệm này, cần xem xét.)

[60] Ngày Quý Hợi, chiếu rằng quan lại ngoại trấn có việc tâu bày, phải gửi qua dịch trạm báo lên triều đình, không được trình lên Ngự sử đài. Lúc đó, các châu quận thường dâng tấu lên Ngự sử đài, muốn họ trình lên để được thi hành.

[61] Dương Điền, Tào Tu kinh lý việc đánh dẹp man tộc, không có công trạng, nên đổi mệnh cho Tôn Miễn và Dư Tĩnh, Vua vẫn lo lắng. Có người nói Nùng Trí Cao muốn được làm Tiết độ sứ bảy châu Ung, Quế thì sẽ đầu hàng, Xu mật phó sứ Lương Thích nói: “Nếu vậy, hai Quảng sẽ không còn thuộc về triều đình nữa!”

Vua hỏi tể tướng Bàng Tịch ai có thể làm tướng, Tịch tiến cử Xu mật phó sứ Địch Thanh, Thanh cũng dâng biểu xin đi. Ngày hôm sau vào chầu, tự nói: “Thần xuất thân từ hàng ngũ, nếu không đánh trận thì không báo đáp được quốc gia, xin được vài trăm kỵ binh Phiên Lạc, thêm quân cấm vệ, bắt sống tướng giặc đưa về kinh.” Vua khen ngợi lời nói của ông, ngày Canh Ngọ, đổi làm Tuyên huy Nam viện sứ, Kinh Hồ Bắc lộ Tuyên phủ sứ, Đề cử Quảng Nam Đông, Tây lộ Kinh chế tặc đạo sự[18].

Ban đầu định dùng Nhập nội đô tri Nhậm Thủ Trung làm phó tướng cho Thanh, gián quan Lý Đoái tâu: “Nhà Đường mất chính sách, dùng hoạn quan giám quân, khiến chủ tướng bị trói buộc, không nên noi theo.” Nên bãi chức Thủ Trung.

[62] Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp Tuất, Điện trung thừa Hồ Viện bãi chức trí sĩ, làm Quang lộc tự thừa, Quốc tử giám Trực giảng, cùng bàn việc đại nhạc.

[63] Ngày Bính Tý, xuống chiếu cho các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên chọn 5.000 quân Phiên Lạc và Quảng Nhuệ từng tham gia chiến đấu, đồng thời mỗi lộ cử một viên sứ thần áp tải đến hành dinh Quảng Nam, theo lời thỉnh cầu của Địch Thanh. Địch Thanh tâu rằng giặc quen leo cao vượt hiểm, bộ binh không thể địch nổi, nên mỗi trận đều thua, xin được mang theo quân Phiên Lạc từ biên giới phía tây. Có người cho rằng phương Nam không thích hợp cho kỵ binh, nhưng Xu mật sứ Cao Nhược Nột nói rằng quân Phiên Lạc giỏi bắn cung, chịu được gian khổ, lên xuống núi như đi trên đất bằng, nếu đánh nhanh trước khi dịch bệnh phát tán, ắt sẽ thắng. Cuối cùng, Địch Thanh dùng kỵ binh đánh bại giặc.

[64] Ngày Đinh Sửu, Nùng Trí Cao tiến vào châu Tân, Tri châu, Quốc tử giám Bác sĩ Trình Đông Mĩ bỏ thành chạy.

[65] Ngày Kỷ Mão, ban xuống 100 đạo tuyên đầu và tráp tử không ghi tên, 200 chiếc áo gấm và đai vàng bạc, giao cho Địch Thanh để thưởng quân công.

[66] Binh bộ Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế Trọng Giản bị cách chức, đi nhậm chức Tri châu Quân.

[67] Ngày Canh Thìn, Địch Thanh từ biệt, đặt tiệc ở điện Thùy Củng. Sau khi Địch Thanh lên đường, Vua nói với các phụ thần: “Địch Thanh có uy danh, giặc ắt sợ hãi khi nghe tin ông đến. Những người hầu cận bên cạnh ông phải là người thân tín, ngay cả việc ăn uống, nghỉ ngơi cũng phải đề phòng kẻ gian.” Rồi sai người đem lệnh này đến cảnh báo ông.

[68] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu chỉ nội bộ giao cho Địch Thanh: “Những người trốn tránh giặc trong núi rừng, hãy nhanh chóng chiêu dụ họ trở về làm ăn. Những kẻ nhân cơ hội giặc nổi lên cướp bóc, nếu không giết người, và những người bị giặc ép buộc nhưng trốn về được, đều được tha tội. Những người đã bị thích chữ trên mặt, cho phép họ lấy lại tên, cấp giấy chứng nhận để tự do sinh sống. Nếu có người bị giết mà giả mạo là thủ cấp giặc, hãy cho người nhận diện, cấp tiền gạo để cứu tế. Những người bị đốt phá cướp bóc, tạm miễn thuế dịch; những người đang phục dịch, cho nghỉ phép rộng rãi để họ sửa sang nhà cửa. Những thành trì từng bị đốt phá, hoặc những nơi vốn không có thành, hoặc có thành nhưng không kiên cố, đều phải tu bổ lại. Vũ khí, áo giáp hư hỏng không dùng được, phải sửa chữa lại.”

Hữu chánh ngôn Hàn Giáng tâu rằng Địch Thanh là võ tướng, không thể một mình đảm nhiệm, hoàng đế hỏi ý kiến Bàng Tịch, Tịch nói: “Thanh xuất thân từ hàng ngũ, nếu dùng văn thần làm phó, ắt bị khống chế, mà hiệu lệnh không chuyên, chi bằng không cử.” Bèn hạ chiếu cho các tướng tá Quảng Nam đều nghe theo sự điều khiển của Thanh; còn Tôn Miễn, Dư Tĩnh chia đường đánh giặc, cũng đều nghe theo sự chỉ huy của Miễn.

[69] Ngày Quý Mùi, hạ chiếu cho các châu quân ở Hà Bắc, Giang Nam Đông Tây, Kinh Hồ Nam Bắc, Hoài Nam, Lưỡng Chiết bị thiên tai, giao cho các quan trưởng chiêu mộ người nộp gạo, quan phủ nấu cháo để cứu đói dân, ai khéo léo cứu giúp được nhiều người, sẽ bàn khen thưởng.

[70] Ngày Giáp Thân, Sa Châu sai sứ đến cống phương vật.

[71] Hạ chiếu cho các châu huyện ở Quảng Nam Đông Lộ bị cướp bóc, đã miễn thuế hạ năm nay, thuế thu cũng chưa được thu.

[72] Hôm đó, Nùng Trí Cao lại vào Ung Châu, tri châu, Lễ tân sứ Tống Khắc Long bỏ thành chạy.

Khắc Long, sau khi [thành] bị giặc giày xéo[19] không thể sửa sang phòng thủ, lại buông lỏng cho quân lính xuống các trại núi[20], giết dân chạy loạn, giả làm bắt được giặc, mỗi đầu giặc thưởng mười ngàn tiền, lại giả cấp giấy khen cho thân binh để làm như đã có công[21]. Đến khi Trí Cao lại đến, Khắc Long không cách nào chống giặc, bèn bỏ chạy.

[73] Ngày Đinh Hợi, hạ chiếu rằng: “Gần đây các lộ đói kém dịch bệnh liên tiếp, Trẫm nghĩ đến nỗi khổ sưu thuế, dân chưa được nghỉ ngơi, nỗi khổ nơi thôn xóm, có khi không được nghe thấy, các quan chuyển vận, đề điểm hình ngục là quan gần dân, hãy nghĩ cách cứu giúp, liệt kê tâu lên.”

[74] Ngày Canh Dần, Vua bảo các bề tôi phụ tá rằng: “Gần đây ít có người dâng sớ bàn về được mất của chính sự, há chẳng phải do đường ngôn luận bị bế tắc hay sao? Hạ lệnh cho các cơ quan Cáp môn, Thông tiến Ngân đài ty[22], Đăng văn Lý kiểm viện, Tiến tấu viện, từ nay các châu huyện tâu xin và biểu sớ của bề tôi, không được tùy tiện ngăn trệ giữ lại.”

[75] Ngày Tân Mão, xuống chiếu cho Tam ty: “Phàm mỗi năm xuống các lộ điều khoản, nếu không báo trước mà đột ngột thúc ép, thì sợ rằng vật giá tăng cao mà làm tổn hại nặng nề đến dân. Hãy ước lượng sức dân có thể chịu đựng được, báo trước để họ chuẩn bị. Nếu trong kho phủ đã có sẵn, thì không cần thu mua nữa.”

[76] Ban thưởng tiền đặc chi cho quân sĩ ở doanh Quảng Đông Tây.

[77] Ngày Nhâm Thìn, Xu mật phó sứ Vương Nghiêu Thần tâu: “Xin chia Quảng Tây thành ba lộ: Nghi, Dung, Ung. Lấy các châu Dung, Liễu, Tượng thuộc Nghi châu; các châu Bạch, Cao, Đậu, Lôi, Hoá, Uất Lâm, Nghi, Đằng, Ngô, Cung, Quỳnh thuộc Dung châu; các châu Khâm, Tân, Liêm, Hoành, Tầm, Quý thuộc Ung châu. Ba châu này nên chọn quan võ làm An phủ đô giám kiêm Tri châu sự để thống lĩnh các quận phụ thuộc. Nếu người Man xâm phạm, ba lộ sẽ dẫn quân các quận hợp lực đánh đuổi. Người làm Tri châu Quế nên là quan hàm Lưỡng chế trở lên, kiêm chức Kinh lược An phủ sứ để thống lĩnh ba lộ. Đặt hai viên Kiềm hạt, thay nhau đóng quân ở Ung châu. Lại đặt hai viên Tẩu mã thừa thụ[23], mỗi quý vào triều tâu việc.

Tăng thêm quân Trừng Hải, Trung Cảm, Hùng Lược để đủ số cũ; 4.000 người đóng ở Ung châu, 2.000 người đóng ở Nghi châu, 1.000 người đóng ở Tân châu, 500 người đóng ở Quý châu. Quảng Tây, Giang Nam, Hồ Nam tăng thêm quân phía Bắc, mỗi năm thay một lần, mỗi tháng cấp thêm 300 tiền, 1.000 tiền mua giày. Quân Kinh Hồ Nam Bắc, Quảng Đông Tây lộ thì hai năm thay một lần. Vận chuyển lương từ ba châu Toàn, Vĩnh, Đạo để cung cấp cho quân đội. Quy chế xây thành, nên cao 2 trượng, rộng 8 thước. Lệnh cho Chuyển vận sứ và Phán quan của lộ đó đứng ra tu sửa. Quan lại nào hoàn thành việc xây thành, nhà cửa, doanh trại, kho tàng và chiêu mộ được dân chúng, sẽ được thăng một bậc. Các viên Tuần kiểm Tả Giang, Hữu Giang, Tuần kiểm quản giới, Trại chủ và một viên Chỉ sử, cùng 300 quân, thường xuyên tập luyện.”

Chiếu cho Địch Thanh xem xét kỹ, Thanh cho là tiện lợi, bèn thi hành.

[78] Ngày Giáp Ngọ, xuống chiếu rằng gần đây có quân lính chặn xa giá dâng trạng mà quân vệ sĩ không ngăn cản, nên tha tội cho họ. Vua mới đến cung Cảnh Linh, vừa lên xe, liền ra lệnh cho quân vệ sĩ: “Năm nay các cử nhân trong thiên hạ đều tập trung ở kinh sư, nếu có ai đến kêu oan, đừng ngăn cản họ.” Khi quân lính dâng trạng, quân vệ sĩ cũng không ngăn cản, quan hữu ty muốn định tội, Vua đem hết sự việc kể lại với các quan phụ thần rồi tha tội cho họ.

[79] Ngày Mậu Tuất, Hứa Nguyên, chức Chế trí phát vận sứ Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ, Thị ngự sử, được bổ nhiệm làm Viên ngoại lang Hình bộ, Đãi chế Thiên Chương các.

[80] Ngày Canh Tý, bãi bỏ việc Quảng Châu hàng năm cống nạp mứt mật và cá bễ. Những thứ đã trên đường vận chuyển thì để lại cho các châu quân dùng vào việc công, còn những người lính và hiệu úy đi áp tải thì lập tức cho về.

[81] Tháng 11, ngày Nhâm Dần, mùng 1, nhật thực.

[82] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu cho Ty thiên giám và Hàn lâm thiên văn viện dùng 8 loại lịch thời Đường là Mậu Dần, Lân Đức, Đại Diễn, Ngũ Kỷ, Chính Nguyên, Quán Tượng, Tuyên Minh, Sùng Chân cùng 4 loại lịch thời bản triều là Ứng Thiên, Càn Nguyên, Nghi Thiên, Sùng Thiên để tính toán về hiện tượng nguyệt thực thật sự trong tháng này và thời gian, phân dã[24], mỗi loại lịch làm thành hai bản tâu lên. Lại sai chức Tri chế cáo là Vương Chu và quan biên tu 《Đường thư》 là Lưu Hi Tẩu tham gia định đoạt. Vì Ty thiên giám tâu rằng ngày 15 tháng này sẽ có nguyệt thực.

Năm sau, tháng 3, Chu nói: “Theo Ty thiên giám Lý Dụng Hối và các người khác trình bày, ngày rằm tháng 11, nguyệt thực mười phần, bảy lịch đều giống nhau, mặt trăng tròn lại vào ban ngày, không phân biệt được giờ khắc. Chỉ xét thời điểm bắt đầu khuyết: lịch Tuyên Minh tính vào giờ Sửu chính hai khắc, lịch Nghi Thiên vào giờ Sửu chính ba khắc, lịch Ứng Thiên và Càn Nguyên vào giờ Dần sơ một khắc, lịch Sùng Thiên vào giờ Dần sơ hai khắc[25], lịch Đại Diễn và Cảnh Phúc vào giờ Dần sơ ba khắc, nhưng đêm đó nguyệt thực vào giờ Dần sơ bốn khắc, chỉ có lịch Đại Diễn và Cảnh Phúc là gần đúng.

Tuy nhiên, lịch Cảnh Phúc tính ngày mùng một tháng 4 năm Cảnh Hữu thứ ba, nhật thực hai phần, nhưng lịch Sùng Thiên, Càn Nguyên, Tuyên Minh không ghi nhật thực[26], sau đó quả nhiên không có nhật thực. Lịch Đại Diễn tính ngày mùng một tháng 7 năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường, nhật thực tám phần rưỡi, ngày mùng một tháng 12 năm thứ 13, nhật thực mười ba phần mười lăm, đến lúc đó đều không có nhật thực[27].

Vì thế, Nhất Hành trong 《Đại Diễn lịch nghị》 nói: ‘Giả sử người làm lịch dựa vào hai lần nhật thực năm Khai Nguyên, uốn nắn giới hạn giao hội để phù hợp, thì điều đạt được rất ít, mà điều mất đi rất nhiều.’ Dụng Hối và những người khác cũng không dám khẳng định lịch Đại Diễn và Cảnh Phúc là chính xác, vì việc tính toán nhật nguyệt giao thực, các lịch đều có chỗ gần xa khác nhau, không thể lấy làm chuẩn mãi được. Bởi vì mặt trời và mặt trăng là vật thể chuyển động, há chẳng có lúc hơi dài ngắn[28], cũng có lúc biến đổi không cố định, việc tính toán lịch tượng chắc chắn không thể hoàn toàn chính xác[29], như người xưa nói: ‘Đạo trời xa mà đạo người gần’, từ xưa đến nay, những bậc hiền tài soạn lịch như Thái Sử Công, Lạc Hạ Hoành, Lưu Hâm, Trương Hoành, Đỗ Dự, Lưu Chước, Lý Thuần Phong, Tăng Nhất Hành đều không thể nghiên cứu hết được, huống chi Dụng Hối và những người khác học thức nông cạn, chỉ dựa vào phép cổ mà suy tính, khó mà xác định được sự chính xác của nhật nguyệt thực.

Lại theo lời Hi Tẩu, ý của thánh nhân xưa khi soạn lịch tượng là để kính cẩn truyền dạy thời tiết cho dân chúng, tuy có dự đoán giao hội, nhưng không cần phải khớp chính xác từng giờ khắc, vì thế mới có đạo lý tu đức để cứu nhật nguyệt thực. Đạo trời biến hóa thần kỳ, lý lẽ không thể hiểu hết được, nếu cho rằng có thể hiểu hết, thì các bậc tiên nho đã không tự cho mình là sơ suất. Hơn nữa, bảy lịch như Đại Diễn đều không khác nhau nhiều, phép tính đại thể giống nhau mà chi tiết có chút khác biệt, cũng là do kế thừa lẫn nhau, nhân chia tích lũy, dần dần sai lệch hào ly. Vả lại, giờ khắc và canh trù chỉ dựa vào đồng hồ nước, có lúc hơi nhanh chậm, chưa chắc đã là do lịch sai. Theo 《Tùy thư – Lịch chí》, nhật nguyệt thực đã có lúc bắt đầu và kết thúc sớm muộn, cũng có lúc biến đổi tiến thoái, trong vòng mười ba khắc rưỡi trước và sau thời điểm chính xác để quan sát[30]. Nay chỉ sai ba khắc, có lẽ là do đạo trời biến đổi, chưa phải là sai lầm.

Lại nữa, Nhất Hành vào thời Khai Nguyên soạn lịch, dùng lịch Đại Diễn cùng lịch Lân Đức của Lý Thuần Phong và lịch Hoàng Cực của Lưu Chước để kiểm tra ba mươi bảy lần nhật thực, lịch Đại Diễn đứng đầu, đúng được hai mươi ba lần, lịch Lân Đức đúng năm lần, lịch Hoàng Cực đúng mười lần. Như Nhất Hành thông minh uyên bác, đương thời được coi là thánh nhân, xét cổ kim còn chưa thể hoàn toàn chính xác, huống chi những người như Thuần Phong, càng xa hơn. Huống chi lịch Sùng Thiên của thánh triều đã ban hành hơn ba mươi năm, phổ biến khắp thiên hạ, quen thuộc với dân chúng, đang định dùng mãi mãi, hơn nữa sai lệch không nhiều, không thể vì một lần thiên biến mà dễ dàng thay đổi, xét đến nguồn gốc, cũng là xuất phát từ lịch Đại Diễn. Còn lịch Cảnh Phúc được dùng vào cuối đời Đường, không phải là phép lịch của thời thịnh trị, không thể theo đó mà dùng.” Chiếu vẫn dùng lịch Sùng Thiên.

[83] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu cho An phủ chuyển vận sứ hai lộ Quảng Nam Đông và Tây, phải đặc biệt an ủi, vỗ về những châu huyện bị giặc đốt phá, cướp bóc. Việc xây dựng nhà cửa bằng tre gỗ đều được miễn thuế.

[84] Ngày Bính Ngọ, ban chiếu cho phủ Khai Phong và ty Kim Ngô ở Hoàng thành không được dâng tấu những văn thư nặc danh, ai tự ý đưa lên quan sẽ bị xử theo luật.

[85] Ngày Mậu Thân, ban chiếu cho Dư Tĩnh phải đề phòng những người man ở Cửu Khê Động mà ông chiêu mộ, nguyện giúp quân triều đình, vì sợ họ có âm mưu xấu, ngầm giúp giặc, nên phải cùng Địch Thanh, Tôn Miễn xem xét, phòng ngừa. Trước đó, Dư Tĩnh dự đoán Nùng Trí Cao tất sẽ cầu viện Giao Chỉ và uy hiếp các động để tự củng cố, nên đã hẹn với Lý Đức Chính hợp binh đánh giặc, lại chiêu mộ các tù trưởng họ Nùng, họ Hoàng, đều ban chức tước để họ nghe theo sự điều khiển. Có người nghi ngờ họ không dùng được, Dư Tĩnh nói: “Chỉ cần họ không hợp với Trí Cao là đủ!”

[86] Trước đó, Binh bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo Hà Trung Lập được bổ làm Long đồ các trực học sĩ, Tri Tần châu. Các quan gián quan và ngự sử đều nói Trung Lập không phải là người có tài trị biên. Ngày Kỷ Dậu, đổi ông làm Tri Khánh châu. Trung Lập tâu rằng: “Thần không đảm đương nổi chức Tri Tần châu, thì cũng không đảm đương nổi chức Tri Khánh châu, xin được giữ chức ở Nhữ châu.” Không được trả lời. Có lính thú tố cáo viên đại hiệu nhận hối lộ, Trung Lập nói: “Đây chắc là do có hiềm khích gì đó.” Ông cho đánh roi người tố cáo rồi đuổi đi. Có người hỏi: “Tha cho kẻ gian được sao?” Trung Lập đáp: “Nếu thuộc hạ có thể nắm được chỗ yếu của cấp trên để khống chế, thì người ta sẽ không yên ổn.”

[87] Tri Khánh châu Hình bộ lang trung, Thiên chương các đãi chế Trương Biện được thăng làm Long đồ các trực học sĩ, Tri Tần châu.

[88] Ngày Tân Hợi, ban chiếu rằng từ nay các Tri châu Chân, Sở, Tứ phải do Chế trí phát vận ty liên danh tiến cử. Nếu làm tốt chức vụ, khi mãn nhiệm sẽ được bổ làm Đề điểm hình ngục.

[89] Ngày Quý Sửu, Đô quan viên ngoại lang Quách Thân Tích được bổ nhiệm làm Thị ngự sử. Thân Tích từng làm Tri châu Bác Châu, khi quân lính đi tuần tra, có kẻ muốn ép dân chúng làm loạn, Thân Tích chém một người, xăm mặt hai người, rồi mới yên ổn. Tấu chương đến, Vua nói với các quan chấp chính: “Thân Tích là một tiểu quan, xử lý việc như vậy, thật không dễ kiếm được!” Ở Kinh Đông, bọn cướp bắt giữ Thông phán Bộc Châu Tỉnh Uyên, Vua hạ chiếu điều Thân Tích làm Tri châu Bộc Châu. Đến chưa đầy một tháng, bọn hung ác đều bị bắt.

Thân Tích là người Đại Danh.

[90] Ngày Giáp Dần, Vua hạ chiếu cho Ty Phát vận Giang Hoài: “Từ nay về sau, nếu không phải việc gấp, không được cử quan đi. Nếu phải cử đi, thì không được tùy tiện cho mượn thuyền quan. Ai vi phạm, bản tỉnh, bản ty và người được cử đi đều bị xử theo tội vi chế.”

[91] Ngày Ất Mão, Vua hạ chiếu cho Địch Thanh: “Dân và quan lại ở Quảng Nam, nếu có người buôn bán với người Man, thì chém đầu rồi tâu lên, đồng thời đày gia đình họ lên phía bắc dãy núi.”

[92] Ngày Mậu Ngọ, miễn thuế thu năm nay cho dân ở Giang Tây, Hồ Nam, Quảng Nam phải cung cấp quân nhu, giảm ba phần mười.

[93] Ngày Kỷ Mùi, Vua hạ chiếu rằng: “Triều đình đặt ra tước vị là để khuyến khích người có công. Nhưng tục xô bồ, cầu may, không biết xấu hổ, thì làm sao làm cho phong tục tốt đẹp được? Từ nay về sau, những kẻ may mắn được xin làm quan, Trung thư, Xu mật viện không được dùng trát tử để cấp trước.”

[94] Ngày Canh Thân, Vua ban tên chùa Bảo Nghiêm[31].

Lúc đầu, mẹ của Tề là Trương thị xin ban thưởng, nhưng Trung thư cho rằng không có tiền lệ, Vua đặc cách ban thưởng, nhân đó nói với các quan phụ tá rằng: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, đã bổ nhiệm nhiều người làm Tham tri chính sự, trong số đó, những người trung thành thuần khiết đáng ghi nhớ chỉ có Thái Tề, Lỗ Tông Đạo, Tiết Khuê mà thôi. Các tể tướng như Vương Tằng, Trương Tri Bạch đều là người hành xử trung thành cẩn trọng, tuy đôi khi có chút sai sót nhỏ nhưng cuối cùng không có lỗi lầm lớn. Tâm của Lý Địch cũng trung thực chất phác, tự giữ mình, chỉ là lời nói thường khinh suất mà thôi.” Bàng Tịch và các quan đáp rằng: “Nhân tài khó tìm, từ xưa đến nay đều vậy.” Vua lại nói: “Trẫm ghi nhớ những điều lớn, không ghi nhớ những điều nhỏ, nhưng tất cả đều là danh thần của thời cận đại.”

[95] Ngày Mậu Thìn, Nhậm Bố, người từng giữ chức Tri Hà Nam phủ, Thái tử Thiếu sư về hưu, qua đời. Ông được truy tặng chức Thái tử Thái phó, thụy hiệu là Cung Huệ.

[96] Ngày Canh Ngọ, sai quan cầu tuyết.

[97] Chiếu chỉ cho Tri Quảng Châu Ngụy Quán và Quảng Đông Chuyển vận sứ Nguyên Cương rằng: “Mọi việc phòng thủ, không được làm qua loa. Nếu dân không chịu khó nhọc tạm thời, thì không thể có được sự yên ổn lâu dài. Thành trì Quảng Châu nên chiêu mộ các hộ giàu có người Hán và người ngoại quốc, cùng thanh niên trai tráng hợp sức tu sửa hoàn chỉnh. Nếu không có kế sách chống giặc, chỉ tập trung vào thủy chiến, khi giặc đến mới giao chiến, thì không phải là kế sách hoàn hảo.” Lúc đó, Nùng Trí Cao lại chiếm giữ Ung Châu, ngày ngày đốn gỗ đóng thuyền, huyênh hoang rằng sẽ lại tiến đánh Quảng Châu.

[98] Truy tặng Lạc Uyển sứ, Quảng Đông Kiềm hạt Vương Chính Luân làm Đan Châu Đoàn luyện sứ, Trang trạch phó sứ, Quảng Đông Đô giám Hà Tông Cổ làm Gia Châu Đoàn luyện sứ. (Riêng Trương Quỳ và Đường Hiến không được truy tặng, cần xem xét lại.)

[99] Gián quan Hàn Chí tâu rằng: “Phát vận sứ theo lệ cũ tuy từng vào triều tấu, nhưng không nghe nói mỗi lần đều được thăng chức. Nay xin từ nay mỗi năm không cho phép đến kinh đô tấu sự, chỉ cử một người phụ trách tấu báo số lượng hàng năm đầy đủ.” Chiếu chỉ rằng Phát vận sứ từ nay sau khi vận chuyển lương thực đến ngoại thành kinh đô, không cần vào triều yết kiến. (Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 tháng 11.)

[100] Tháng mười hai, ngày Nhâm Thân, mùng một, Quảng Tây Kiềm hạt Trần Thự đánh Nùng Trí Cao, quân thua ở Kim Thành dịch, Đông đầu cung phụng quan Vương Thừa Cát và Bạch châu trưởng sử Từ Ngạc chết trận[32]. Thự vốn không có uy lệnh, vừa gặp giặc, quân sĩ vẫn còn tụ tập đánh bạc trong doanh trại, sai Thừa Cát dẫn 500 quân Trung Cảm của Nghi châu làm tiên phong, vội vàng mặc giáp tiến lên, nên dẫn đến bại trận.

[101] Ngày Đinh Sửu, Xu mật trực học sĩ, Cấp sự trung Trình Kham được làm Đoan minh điện học sĩ, tri Ích châu.

Trước đây, Mạnh Tri Tường chiếm giữ Thục, Lý Thuận nổi lên làm giặc, năm đó đều là năm Giáp Ngọ. Có người nói năm sau là Giáp Ngọ, Thục sẽ có biến, Vua nói với tể tướng Bàng Tịch rằng: “Trẫm chọn bề tôi trọng trách để trấn phủ Tây Nam, không ai bằng Kham.” Bèn lại sai Kham giữ Thục, và nói với Tịch: “Kham trở về sẽ bổ vào nhị phủ, có thể báo trước cho hắn.” Tịch nói: “Bệ hạ trực tiếp dụ bảo Kham thì được, thần không dám tự ý nói với Kham.” Kham cuối cùng không biết.

Một hôm, Vua quả nhiên trực tiếp dụ bảo Kham, Kham tạ rằng: “Thần vô dụng, được bệ hạ ủy nhiệm, đâu dám đòi ân sủng rồi mới đi.” Những người giữ Thục trước đây phần nhiều vì nghi ngờ không sửa thành, chỉ có Kham tu bổ thành trì.

(Việc của Bàng Tịch cần xem xét kỹ hơn, 《Hội yếu》 nói Đoan minh đặc bái, chỉ có Kham và Vương Tố. Tố được đặc bái vào tháng bảy năm Trị Bình thứ nhất.)

[102] Ngày Nhâm Ngọ, xuống chiếu: “Điện thị đổi sang văn chức thì thi một bài thơ và một bài phú; hoặc thông hiểu một kinh, hỏi nghĩa mười câu, đúng sáu câu là đạt. Lại lệnh Phán Lễ bộ cùng quan Quốc tử giám đồng khảo thí.”

[103] Ngày Ất Dậu, xuống chiếu các châu nha tiền đang làm việc ở vùng biên giới, chỉ được quản lý vật phẩm công, không được quản lý công dụng nhà bếp và ty trà rượu trướng thiết, người vi phạm sẽ bị xử tội vi chế.

[104] Ngày Mậu Tý, Tri châu Quế Châu Dư Tĩnh tâu: “Giao Chỉ năm nay phải vào cống, nhưng vì Nùng Trí Cao làm phản, đường sá bị ngăn trở không thông, đã nhiều lần gửi văn thư xin hội binh đánh giặc, mà triều đình lâu nay chưa trả lời. Xem lời ước hẹn của họ rất thành thực, dù chưa thể tiêu diệt được bọn giặc, cũng có thể khiến chúng thêm chia rẽ. Đã chuẩn bị lương thực cho một vạn người ở châu Ung, châu Khâm để đợi họ.” Triều đình cũng ban cho hai vạn quan tiền để giúp chi phí quân sự, đợi khi dẹp xong giặc sẽ thưởng thêm ba vạn quan tiền. Ban đầu, triều đình không cho phép Giao Chỉ xuất binh, Dư Tĩnh tâu rằng Nùng Trí Cao là kẻ phản loạn của Giao Chỉ, nên cho phép họ xuất binh, đừng ngăn cản thiện ý của họ. Nay không nghe theo, ắt họ sẽ tức giận mà phản lại, giúp đỡ Nùng Trí Cao, nên nhân tiện cho phép họ. Triều đình nghe theo lời thỉnh cầu ấy.

Sau đó, Địch Thanh tâu: “Lý Đức Chính nói sẽ đem năm vạn bộ binh, một nghìn kỵ binh đến cứu viện, nhưng đây không phải là sự thật; hơn nữa, mượn binh ngoại bang để trừ giặc trong nước, không có lợi cho ta. Chỉ vì một Nùng Trí Cao hoành hành khắp hai Quảng, sức ta không đủ để đánh dẹp, nên phải mượn binh của người man. Người man tham lợi quên nghĩa, nhân đó gây loạn, thì lấy gì để chống đỡ! Xin bãi bỏ việc dùng binh Giao Chỉ, và hạ lệnh cho Dư Tĩnh không được thông sứ với Giao Chỉ.”

Triều đình cuối cùng nghe theo kế sách của Địch Thanh, mọi người cũng phục ông có tầm nhìn xa trông rộng.

(Tháng 11, ngày Giáp Tý, Tẩu mã thừa thụ Lý Tông Đạo tâu rằng nghe nói Giao Chỉ sẽ phát hai vạn quân, theo đường thủy vào giúp quân triều đình đánh giặc. Số quân này khác với lời tâu của Địch Thanh, nay chỉ lưu lại lời tâu của Địch Thanh, bỏ đi lời nói của Lý Tông Đạo vào ngày Giáp Tý.)

[105] Ngày Kỷ Sửu, có tuyết. Trước đây, Vua vì trời hạn hán nên tự trách mình, giảm bớt việc ăn uống, khi gặp các quan phụ chính thì nét mặt lo lắng. Bàng Tịch và các quan nhân đó nói: “Chúng thần không thể điều hòa âm dương, khiến Thánh thượng phải lo lắng, xin được giữ chức tản, nhường đường cho người hiền.” Vua nói: “Đó là do Trẫm không đủ thành khẩn để cảm động trời, ân huệ không đến được với dân, chứ không phải lỗi của các khanh.” Đêm hôm đó, trời bắt đầu có tuyết.

[106] Ngày Canh Dần, ban yến mừng tuyết rơi ở Trung thư.

[107] Ngày Nhâm Thìn, hai phủ và các quan hầu cận xem nhạc mới ở điện Tử Thần. Gồm 12 chuông bác: chuông Hoàng Chung cao 2 thước 2 tấc 5 phân, rộng 1 thước 2 tấc[33], 6 trống, 4 chiêng, 6 vũ, cán, đòn ngang và tay quay tổng cộng cao 8 tấc 4 phân, đường kính 2 tấc 2 phân[34], theo Tống sử nhạc chí là 1 tấc 2 phân. Sâu 1 tấc 2 li, dải chữ triện mỗi mặt có 4 dọc, 4 ngang, các núm ở hai bên trống và vũ[35], mỗi chỗ có 9 núm, mỗi mặt tổng cộng 36 núm, khoảng cách giữa hai cánh 1 thước 4 tấc, chứa được 9 đấu 9 thăng 5 hợp, nặng 106 cân; 11 chuông từ Đại Lã trở xuống đều cùng quy cách với Hoàng Chung, nhưng khoảng cách giữa hai cánh giảm dần nửa phân[36], đến chuông Ứng Chung chứa được 9 đấu 3 thăng 5 hợp, nhưng trọng lượng tăng lên đến Ứng Chung, nặng 148 cân: đều phù hợp với luật mới của bản luật.

12 khánh đặc: Hoàng Chung, Đại Lã dài 2 thước, rộng 1 thước, trống 3 thước, rộng 6 tấc 6/9 phân, dây 3 thước 7 tấc 5 phân; từ Thái Thốc trở xuống dài 1 thước 8 tấc, rộng 9 tấc, trống 2 thước 7 tấc, rộng 6 tấc, dây 3 thước 3 tấc 7 phân rưỡi, âm thanh đều phù hợp với bản luật. Hoàng Chung dày 2 tấc 1 phân, từ Đại Lã trở xuống dày dần, đến Ứng Chung dày 3 tấc 5 phân. Chiếu đem hình vẽ gửi đến Trung thư.

Các quan bàn rằng theo Chu lễ: “Chuông lớn lấy 1/10 khoảng cách giữa trống làm độ dày; chuông nhỏ lấy 1/10 khoảng cách giữa chiêng làm độ dày.” Như vậy chuông lớn nên dày, chuông nhỏ nên mỏng. Nay chuông lớn nặng 106 cân, chuông nhỏ nặng 148 cân, tức là chuông nhỏ dày, là không đúng. Lại nói: “Người làm khánh, góc nghiêng một vuông rưỡi, rộng một, đùi hai, trống ba. Chia rộng đùi làm ba, bỏ một để làm rộng trống: chia rộng trống làm ba, lấy một làm độ dày.” Nay khánh không có rộng dày, không có dài ngắn, cũng không đúng.

(Chuông khánh không đúng, có lẽ giống với sách của Phạm Trấn ngày Ất Dậu tháng 6, bản chí ghi nhầm là việc tháng 12 năm thứ 2, nay theo ‘Thực lục’. Xét Lý Đoái tháng 5 năm sau tấu rằng, các quan bàn rằng chế độ chuông khánh chưa phù hợp với luật độ, bèn bỏ không dùng, lại chiếu cho các quan cận thần xem xét định lại. Nhưng ‘Thực lục’ thiếu, nay phụ chép vào đây.)

[108] Trước đó, ở Nhĩ Anh Các giảng sách 《Thượng Thư》 thiên “Vô Dật”. Hoàng đế nói: “Trẫm hiểu rõ rằng bậc Vua cai trị đất nước cần phải cảnh giác với sự nhàn hạ, hưởng lạc.” Dương An Quốc tâu rằng trước đây có bức tranh “Vô Dật”, xin được treo trên bình phong. Hoàng đế nói: “Trẫm không muốn ngồi quay lưng lại với lời dạy của thánh nhân, nên viết riêng và đặt bên trái.” Bèn sai Đinh Đức lấy bốn chương “Thiên Tử”, “Hiếu Trị”, “Thánh Trị”, “Quảng Yếu Đạo” trong 《Hiếu Kinh》 để đối chiếu làm tranh bên phải. Rồi lệnh cho Vương Châu viết thiên “Vô Dật”, Tri chế cáo Thái Tương viết 《Hiếu Kinh》, lại sai Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Vương Củng Thần viết lời tựa cho hai bức tranh, còn Thái Tương viết chữ. Ngày Giáp Ngọ, Vương Châu và Thái Tương đều dâng lên những bản viết của mình.

(Bản viết “Vô Dật” và 《Hiếu Kinh》 của Vương Châu, Thái Tương có chỗ khác với 《Bảo Huấn》 và 《Thực Lục》, nay theo 《Bảo Huấn》.)

[109] Ngày Ất Mùi, bổ nhiệm Nhan Tự Hiền, Ty hộ tham quân Đài Châu, làm Huyện úy Lan Khê, Vụ Châu. Tự Hiền là cháu đời sau của Nhan Chân Khanh.

[110] Ngày Bính Thân, Trọng Giản, Lang trung Binh bộ, bị giáng làm Lang trung Hình bộ. Giản vốn đã bị cách chức Tri quân Châu, nhưng người dâng sớ vẫn không ngừng, nên lại bị giáng tiếp.

[111] Xuống chiếu cho các lộ Kinh Hồ, Giang, Hoài, v.v., hoãn thu thuế năm nay đối với hộ thuộc tứ đẳng trở xuống chưa nộp.

[112] Ngày Đinh Dậu, Quốc mẫu nước Khiết Đan sai Bảo An Tiết độ sứ Tả lĩnh quân Vệ Thượng tướng quân Gia Luật Nguyên Túc, Ninh Châu Quan sát sứ Lưu Nhu; nước Khiết Đan sai Phụng Quốc Tiết độ sứ Tiêu Lương Đức, Vệ úy khanh Lục Phu sang chúc mừng ngày Chính đán.

[113] Ngày Canh Tý, quan gián quan Hàn Giáng nhân lúc vào chầu tâu rằng: “Quyền bính của thiên tử không nên để xuống dưới, việc nên giản lược để bệ hạ quyết đoán.” Vua nói: “Trẫm vốn không ngại tự mình xử lý, chỉ lo chưa hợp lễ, mà các cơ quan phụng hành, thì hại đã đến với dân, nên mỗi lần muốn trước hết xem xét ý kiến của các đại thần, rồi mới thi hành.” Giáng lại tâu rằng Lâm Hiến Khả sai con trai đưa thư cho thần, trong thư phần nhiều chỉ trích lỗi lầm của các đại thần trong triều ngoài nội, thần không dám không tâu lên[37]. Vua nói: “Trẫm không muốn giữ lại trong cung, sợ mở đường cho việc tố cáo kín đáo. Ngươi hãy cầm về đốt đi.”

(Lâm Hiến Khả, năm Cảnh Hựu thứ 3 tháng 2 bị giáng làm Tham quân Chương Châu, không rõ hiện nay từ nơi nào gửi thư cho Hàn Giáng, cần xét lại.)

[114] Quân Trung Thuận ở Hà Bắc, từ thời Thái Tông được thành lập, thuộc Ty Tuần kiểm Chiến trác vùng biên. Năm Khánh Lịch thứ 7, Hạ Tủng kiến nghị cho quân này thay phiên canh giữ cùng với quân chính binh. Năm thứ 8, vì lụt lội nhiều người bỏ trốn, tạm thời tăng quân chính binh để bù vào số thiếu. Năm đó, tạm thời cho về làm ruộng, đợi năm được mùa sẽ trở lại như cũ, từ đó về sau không bổ sung nữa.


  1. chữ 'nước' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống Toát Yếu và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 50 về việc người Man Quảng Nguyên làm phản, 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 10 về việc Vua Nhân Tông dẹp Nùng Trí Cao bổ sung.
  2. Theo 《Tống hội yếu》 chức quan 65-9, 'Quân châu Đoàn luyện sứ' chép là 'Quân châu Đoàn luyện phó sứ'. Xét chế độ nhà Tống, quan bị giáng không có chức Đoàn luyện sứ; mà Quân châu lại thuộc Kinh Tây lộ, lúc đó là châu Phòng ngự, nghi là 'Quân châu Đoàn luyện phó sứ' mới đúng.
  3. Tuấn vì tội làm thơ châm biếm thời sự. Chữ 'thích' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tục thông giám》 quyển 52 bổ sung.
  4. lại dâng tấu xin bãi bỏ các quy định về hành quân và cách thức thưởng phạt thời Khang Định để ban hành xuống, chữ 'tấu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trị tích thống loại》 quyển 50 bổ sung.
  5. Trí Cao nhân lúc gió mạnh bất ngờ nổi dậy, chữ 'tiên' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trị tích thống loại》 bổ sung.
  6. liền dẫn quân trở về thành để chuẩn bị phòng thủ, chữ 'binh' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản trên và 《Tống hội yếu》 chức quan 65/9 bổ sung.
  7. Tây Kinh lưu ty Ngự sử đài, chữ 'ty' nguyên bản là 'thủ', theo sách 《Tống sử》 quyển 298, 《Long bình tập》 quyển 8, 《Đông đô sự lược》 quyển 63 bản truyện sửa lại
  8. Truyện của Dục chép là Hà Nam, chữ 'Nam' nguyên bản là 'Dương', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại
  9. Vua lấy việc ở Tần Châu để khích lệ ông, chữ 'Châu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 phần trên bổ sung.
  10. Miễn cho rằng quân phương Nam liên tiếp bị giặc đánh bại, chữ 'Miễn' trên nguyên bản có chữ 'Chỉ', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và 《Biên niên cương mục》 quyển 14, cùng 《Tống sử toàn văn》 bỏ.
  11. Chữ 'phó' trong 'Cung bị khố phó sứ' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 50 'Quảng Nguyên man phản' và 《Tống sử》 quyển 446, 《Đông đô sự lược》 quyển 110 bản truyền bổ sung. Các chỗ sau đều sửa theo.
  12. Chữ 'sứ' trong Quan sát sứ nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 tuyển cử 27-28 bổ sung.
  13. Chữ 'yếu' trong 'nhiệm biên yếu giả' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 tuyển cử 27-29 bổ sung.
  14. 'thấy bầy rồng không có đầu là tốt' chữ 'tốt' nguyên bản là 'đầu', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống sử toàn văn quyển 9 thượng, Chu Dịch quẻ Càn sửa.
  15. 'đặt mình sau mà lại được đứng trước' chữ 'trước' nguyên bản là 'sáng', theo Tống bản và 《Đạo đức kinh》 chương 7 sửa.
  16. Kinh chế tặc đạo, chữ 'sự' dưới chữ 'đạo' nguyên có, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 50 《Quảng Nguyên man phản》, 《Trị tích thống loại》 quyển 10 《Nhân Tông bình Nùng Trí Cao》, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 trên mà bỏ
  17. Trong bản gốc có chữ 'thê' sau chữ 'quân', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 446, truyện Triệu Sư Đán mà bỏ đi.
  18. Đề cử Quảng Nam Đông Tây lộ Kinh chế tặc đạo sự, chữ 'Tây' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 5. 《Quảng Nguyên man bạn》, 《Trị tích thống loại》 quyển 10 《Nhân Tông bình Nùng Trí Cao》, 《Tống văn toàn văn》 quyển 9 thượng, 《Tống sử》 quyển 290 《Địch Thanh truyện》 bổ sung.
  19. 'thừa' nguyên là 'thừa', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 sửa.
  20. 'pha' nguyên thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 bổ sung.
  21. 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 chép 'để thưởng công'.
  22. Chữ 'kì hạ' trong 'kì hạ cáp môn thông tiến ngân đài ty' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 3, 《Nhân Tông thánh đức》, 《Tống hội yếu》 đế hệ 9 chi 13 bổ sung. Chữ 'tiến' nguyên là chữ 'tấu', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và cùng bản 《Tống hội yếu》 sửa lại.
  23. Lại đặt hai viên Tẩu mã thừa thụ: 'Lại' nguyên là 'nãi', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa.
  24. 'Thái âm chân thực', bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 chép là 'Thái âm trực thực', 《Tống hội yếu》 Vận lịch 1-7 chép là 'Thái âm thực phân'.
  25. Ứng Thiên, Càn Nguyên vào giờ Dần sơ một khắc, Sùng Thiên vào giờ Dần sơ hai khắc, câu này giống như trong 《Tống hội yếu》 ghi là 'Ứng Thiên, Càn Nguyên, Sùng Thiên vào giờ Dần sơ một khắc sau'
  26. Sùng Thiên, Càn Nguyên, Tuyên Minh không ghi nhật thực, hai chữ 'Tuyên Minh' ban đầu bị thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống hội yếu》 bổ sung
  27. Đến lúc đó đều không có nhật thực, chữ 'thời' ban đầu viết là 'nhật', bản Tống và bản Tống toát yếu viết là 'thị', theo 《Tống hội yếu》 sửa lại
  28. há chẳng có lúc hơi dài ngắn, chữ 'súc' ban đầu viết là 'toàn', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống hội yếu》 sửa lại
  29. việc tính toán lịch tượng chắc chắn không thể hoàn toàn chính xác, chữ 'tượng' các bản đều giống nhau, 《Tống hội yếu》 viết là 'gia', có lẽ đúng. Chữ 'toàn' ban đầu viết là 'sở', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Tống hội yếu》 sửa lại
  30. trong vòng mười ba khắc rưỡi trước và sau thời điểm chính xác để quan sát, 'mười ba khắc rưỡi', 《Tùy thư》 quyển 18, 《Luật lịch hạ》 và 《Tống hội yếu》 đều viết là 'mười hai khắc rưỡi'
  31. Ban tên chùa Bảo Nghiêm cho ngôi chùa được xây dựng bên cạnh mộ của cố Tham tri chính sự Thái Tề. 'Nghiêm' nguyên bản là 'Nham', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tục thông giám》 quyển 52 sửa lại.
  32. Bạch châu trưởng sử Từ Ngạc chết trận, 'Ngạc' nguyên bản viết 'Khí', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 50 《Quảng Nguyên man phản》, 《Trị tích thống loại》 quyển 10 《Nhân Tông bình Nùng Trí Cao》, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 trên sửa lại.
  33. Chữ 'vu' trong 'vu quảng nhất xích nhị thốn' vốn bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu nhạc 5/2, Ngọc hải quyển 109, Tống sử quyển 127 nhạc chí bổ sung.
  34. Chữ 'toại' trong 'toại kính nhị thốn nhị phân', theo Chu lễ đông quan khảo công ký, Tống hội yếu và Ngọc hải đều viết là 'toại'.
  35. Chữ 'hiệp' trong 'mai cảnh hiệp cổ dữ vũ' vốn viết là 'hiệp', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Trị tích đồng loại quyển 7 Hoàng hữu luận nhạc đồng dị, Chu lễ, Tống hội yếu, Ngọc hải sửa lại.
  36. Câu 'nhi lưỡng loan gian đệ giảm bán phân' trong các bản và Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 31 Nghị nhạc, Trị tích đồng loại, Tống sử quyển 127 nhạc chí 2 đều giống nhau, trong Tống hội yếu câu này có thêm 14 chữ 'chí hoàng chung nhất xích tam thốn tứ phân bán, dung thụ đệ giảm', nghi ngờ nguyên bản có chỗ thiếu.
  37. Chữ 'bất' trong câu 'thần bất cảm bất dĩ văn' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 thượng, 《Tục thông giám》 quyển 53 bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.