"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 82: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 7 (GIÁP DẦN, 1014)

Từ tháng giêng năm Đại Trung Tường Phù thứ 7 đời Chân Tông đến tháng 6 năm đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm Thìn, Vua ban chiếu rằng: Những kẻ bất lương lấy vợ rồi lừa lấy của cải mà bỏ trốn, nếu vợ không thể tự nuôi sống được, từ nay cho phép cải giá. Lúc đó, dân trong kinh thành sau khi lấy vợ, chỉ mười ngày sau đã mang của cải bỏ trốn. Theo luật, nếu chồng bỏ trốn sáu năm thì vợ được cải giá. Vợ của những kẻ này vì đói rét, đã đến Đăng Văn Viện kêu oan, nên Vua đặc biệt ban chiếu này.

[2] Ngày Quý Tỵ, Tam Ty xin mua cỏ khô ở các huyện gần kinh thành, Vua ban chiếu miễn cho các hộ trung đẳng trở xuống.

[3] Ngày Giáp Ngọ, Cao Dương quan báo tin Phó Đô bộ thự, Anh Châu phòng ngự sứ Dương Diên Chiêu qua đời.

Diên Chiêu tức là Diên Lang, người trí dũng, giỏi chiến đấu, lương bổng và ban thưởng đều dùng để khao quân, chưa từng lo việc nhà. Tính tình giản dị, ra vào chỉ có vài kỵ binh hộ tống như tiểu hiệu, hiệu lệnh nghiêm minh, cùng chia sẻ gian khổ với quân sĩ, mùa đông không mặc áo bông, mùa hè không che lọng. Gặp địch nhất định thân chinh ra trận, khi thắng trận thì nhường công cho cấp dưới, nên mọi người đều vui lòng phục vụ. Ông trấn giữ biên cương phía bắc hơn hai mươi năm, quân địch sợ hãi, gọi ông là Dương Lục Lang.

Khi tin báo về, Vua thương tiếc, sai trung sứ đưa linh cữu về, người dân Hà Sóc nhiều người nhìn linh cữu mà khóc. Vua phong quan cho ba con trai ông, những người tùy tùng thân cận cũng được thi cử và bổ nhiệm. Tuy nhiên, Diên Chiêu không thông thạo việc quan, các văn thư trong quân thường giao cho tiểu hiệu Chu Chính xử lý, Chu Chính lợi dụng để làm việc gian trá. Vua biết chuyện, đuổi Chu Chính về doanh trại và cảnh cáo Diên Chiêu.

[4] Ngày Bính Thân, ban tiền cho quân sĩ tuần tra ở Nhung Châu, Lô Châu và con em của Bạch Truỵ.

[5] Trước đó, phán quan Đỉnh Châu là Tôn Vĩ phạm tội tham nhũng, chuyển vận sứ gửi văn thư đến Vận Châu bắt vợ ông về làm chứng, ba con trai đều còn nhỏ, Vua thương xót. Ngày Kỷ Hợi, ban chiếu rằng: Các châu khi xét xử công việc, nếu có liên quan đến phụ nữ cần làm chứng, nếu cách xa hơn nghìn dặm thì không bắt giải, chỉ gửi văn thư đến nơi đó xử lý.

[6] Ngày Canh Tý, ban cho các quan phụ chính ấn bản mới của sách 《Mạnh Tử》.

[7] Ngày Tân Sửu, Vua ngự tại điện Sùng Chính, thân chính xét xử các tù nhân, phần lớn được giảm tội, vì xa giá sắp xuất hành.

[8] Ngày Nhâm Dần, xa giá rời kinh sư, mang theo Thiên thư, cấm cả nước giết mổ súc vật trong mười ngày.

[9] Ngày Bính Ngọ, đến cung Phụng Nguyên, trai giới ở điện Nghênh Hi. Phán châu Bạc là Đinh Vị dâng một con hươu trắng và 95.000 cây linh chi.

[10] Ngày Đinh Mùi, lệnh cho Phó sứ chế trí kinh độ phụng tự là Trần Bành Niên[1] đến cung điện làm lễ đại tiếu.

[11] Ngày Mậu Thân, dâng sách báu ghi thánh hiệu, bái lạy nhận lệnh ở sân. Nhiếp Thái úy Vương Đán cầm tiết, đặt lên xe ngọc, đến cung dâng lên. Nhiếp Trung thư lệnh Đinh Vị đọc xong, đặt vào hòm ngọc.

[12] Ngày Kỷ Dậu, canh ba, chuẩn bị xe pháp giá đến cung. Lúc đó tuyết dày bỗng tạnh, từ Phụng Nguyên đến Thái Thanh hơn mười dặm, hai bên đường đặt đèn lồng và đài đốt lửa, người hai bên cầm đuốc xen kẽ, sáng rực như ban ngày. Canh năm, Vua dâng ngọc và lụa, rót rượu tế, đọc sách văn, lệnh Thái úy đóng hòm đá.

Lại sai quan chia nhau dâng lễ vật tế các vị: Nguyên Trung pháp sư, Tam sư, Chân Vũ, Trương Thiên sư ở cung này; Văn Tử Thông Nguyên chân nhân, Liệt Tử Xung Hư Chí Đức chân nhân, Canh Tang Tử Động Linh chân nhân, Trang Tử Nam Hoa chân nhân, Đường Minh Hoàng, Văn Tông ở điện này, đều theo nghi lễ tòng tự. Lại sai tể tướng và các quan dâng lễ vật tế Tam Thanh Linh Bảo Thiên Tôn ở quán Chân Nguyên, Nguyên Thủy Thiên Tôn và Nguyên Mẫu Kinh Sư ở quán Tiên Thiên, Tiên Thiên Thái Hoàng ở cung Quảng Linh, Tiên Thiên Thái Hậu và Long Nữ ở cung Động Tiêu. Màu lụa: Tam Thanh Linh Bảo, Nguyên Thủy dùng màu xanh biếc, Thái Hoàng dùng màu xanh lục, Nguyên Mẫu dùng màu trắng[2], đều theo nghi lễ đại tự, còn lại giống như tòng tự. Vua lại đến quán Tiên Thiên, cung Động Tiêu Quảng Linh hành hương, rồi đến cung Thái Thanh, quán Chân Nguyên xem xét khắp nơi, rồi trở về cung Phụng Nguyên.

[13] Ban bố lệnh đại xá, các tội nhân từ lưu đày trở xuống ở Bạc Châu và những nơi xa giá đi qua đều được tha, tội tử hình thì tâu lên xin xét xử; miễn thuế một năm rưỡi, vĩnh viễn giảm thuế hàng năm hai phần mười. Thăng Bạc Châu làm Tập Khánh quân, đổi tên huyện Chân Nguyên thành Vệ Chân, miễn thuế hai năm, đổi tên cung Phụng Nguyên thành Minh Đạo cung. Ban cho đạo sĩ và nữ quan áo tía, pháp danh[3], cho tám mươi người được xuất gia.

[14] Chiếu rằng chính điện của ba cung, dân thường không được tự ý lên, quan lại không phải ngày triều hội chỉ được lạy ở sân. Vua làm bài tụng “Triều Yết”, tượng Tiên Thiên Thái Hoàng, Lão Quân, bài tán Chân Vũ; sai Trung thư thị lang kiêm Hình bộ thượng thư, Bình chương sự Hướng Mẫn Trung soạn bài tụng “Thân Từ”, cùng khắc vào đá.

[15] Ty Thiên tâu rằng sao Hàm Dự xuất hiện, Vua làm bài ca, ban cho các quan cận thần để họ họa theo.

[16] Ngày Canh Tuất, khởi hành từ huyện Vệ Chân, dừng chân ở Bạc Châu, vào yết kiến điện Thánh Tổ, ngự ở lâu Phụng Nguyên Quân Khánh, ban yến ba ngày.

[17] Ngày Nhâm Tý, vì ngày kỵ của Thuận Tổ Huệ Nguyên hoàng đế, bãi bỏ việc ban yến.

[18] Chiếu rằng những nơi dọc đường đặt trạm chiếm đất dân, đều căn cứ vào số mẫu, miễn thuế hai năm, những chỗ cần chiếm vĩnh viễn thì bồi thường hậu hĩnh.

[19] Cấp cho Bạc Châu tiền công dụng hàng năm bảy mươi vạn, rượu mỗi tháng mười hộc.

[20] Ngày Giáp Dần, khởi hành từ Bạc Châu.

[21] Ngày Ất Mão, dừng chân ở Ứng Thiên phủ. Khi Thiên thư được đưa lên xe, có mây năm màu như hoa cỏ, lại có mây vàng như người nối áo bay theo xe. Chiêm giả đoán rằng: “Mây mùa xuân như hoa cỏ, là điềm mộc vượng sinh đức; như người nối áo màu vàng, là điềm con cháu chia đất kéo dài phúc.” Tri phù sứ Triệu An Nhân xin phổ nhạc để dùng khi tế lễ, Vua đồng ý.

[22] Ngày Bính Thìn, thăng Ứng Thiên phủ làm Nam Kinh, chính điện đề biển Quy Đức, lại tha tội từ lưu đày trở xuống trong phủ và các huyện thuộc Đông Kỳ mà xa giá đi qua. Truy tặng các công thần nguyên lão trong mạc phủ của Thái Tổ, và thăng chức cho các quan thường tham đã từng phụng sự, ai muốn nhường cho con cháu cũng được. Miễn tiền muối khô cho dân.

Vua ngự ở lầu Trọng Hi Ban Khánh xem yến, tổng cộng ba ngày. Đổi tên điện Thánh Tổ thành Hồng Khánh điện.

[23] Tháng hai, ngày Đinh Tị, mùng một, xuất phát từ Nam Kinh.

[24] Ngày Mậu Ngọ, dừng chân ở huyện Tương Ấp. Hoàng tử đến chầu.

[25] Ngày Canh Thân, dừng chân ở huyện Trần Lưu. Triệu Đức Minh ở Hạ Châu sai sứ đến cống.

[26] Kinh Hồ Bắc Lộ chuyển vận ty tâu rằng, giặc man Ngụy Tiến Vũ đã được chiêu dụ đến huyện Lô Khê xin chịu tội. Chiếu rút toàn bộ quân đã phái đi trước đó về đồn, chỉ để lại 500 người trấn giữ địa phận huyện. Sau đó lại chiếu cho Trương Luân, Tri châu Thần, lập đạo trường ở huyện Lô Khê trong 5 ngày đêm, và tổ chức tế lễ long trọng.

(Chiếu cho Trương Luân lập đạo trường tế lễ, theo 《Hội yếu》 là việc tháng 3, nay phụ chép vào đây.)

[27] Hình Đôn ở huyện Ung Khâu, nổi tiếng về học thuật, từng thi tiến sĩ không đỗ, bèn ẩn cư không ra làm quan.

Khi Vua đến Bạc, Khảo chế độ sứ Vương Tăng tiến cử ông. Khi Vua trở về, triệu ông từ Bạc đến hỏi về đạo trị nước, ông không trả lời. Vua hỏi nguyên do, ông nói: “Bệ hạ đã làm lễ phong thiện ở phía đông, tế lễ ở phía tây, đều đã hoàn tất rồi, thần còn nói gì nữa.” Vua vui, phong ông làm Trợ giáo ở Hứa Châu, rồi cho về. Y phục và nơi ở của ông vẫn như cũ, người làng không biết ông đã làm quan. Khi ông mất, mới thấy chiếu chỉ của ông cùng với giấy vụn buộc chung để trên xà nhà.

(《Tư Mã Quang ký văn》 chép khác với 《Quốc sử》[4], nay theo 《Ký văn》. 《Ký văn》 chép phong làm Tứ môn trợ giáo, e là sai, nay theo 《Quốc sử》.)

[28] Ngày Tân Dậu, xa giá từ Bạc Châu trở về.

[29] Ngày Ất Sửu, chiếu rằng: “Từ nay Thiên thư đặt ở điện Triều Nguyên, xa giá đi vào từ cửa Hữu Thăng Long, từ cửa Đông Thượng Cáp lên bậc phía đông, đến điện dâng hương, không đi qua sân rộng, để tỏ lòng tôn kính. Các cơ quan liên quan ghi thành quy định.”

[30] Ngày Mậu Thìn, gió lớn thổi cát sỏi, các quan tập nghi lễ ở đàn Cung Tạ, có người bị rơi mũ.

[31] Tam ty mượn 50 vạn quan tiền từ kho Nội tàng.

[32] Ngày Kỷ Tỵ, Vua ở trai giới tại điện Tập Hi ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Ngày Canh Ngọ, làm lễ tiến hiến, rồi đến Thái Miếu. Ngày Tân Mùi, tế lục thất. Vua nói: “Khi bắt đầu hát đăng ca mà cứ tiếp tục tấu nhạc nghiêm, điều này rất không ổn.” Bèn hạ chiếu: “Khi sắp hành lễ đại tế, tất cả việc nghiêm cảnh đều ngừng[5]. Khi lễ ở cung miếu xong, trở về điện ác, lại tấu nhạc nghiêm. Khi tế lễ ở đàn giao xong, trường cảnh và nhạc cổ xúy mới được cử lên.”

[33] Ngày Nhâm Thân, Vua làm lễ cung tạ trời đất ở phía đông ngoại thành. Khi trở về, ngự ở cửa Càn Nguyên, đại xá, ban ơn cho tất cả quan văn võ trong ngoài, các lộ được miễn giảm thuế má khác nhau. Những người đỗ cử nhân vì việc bị giáng chức, và những người vĩnh viễn không được vào trường thi mà không bị trách phạt hình sự, được phép tương lai theo lệ mà được xét giải. Từ đó về sau, mỗi khi đại xá đều ban hành chế độ này.

[34] Ngày Quý Dậu, lấy Lại bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo Lý Địch làm Tri châu Bạc. Trước đó, tên tội phạm bỏ trốn là Tư Khang cùng đồng bọn cướp phá thành ấp, triều đình phát binh bắt nhưng lâu không bắt được, dân chúng rất lo sợ. Lý Địch đến, bãi bỏ tất cả binh lính đã phái đi, ngầm nghe biết chỗ ở của giặc, bố trí binh sĩ tinh nhuệ bắt giặc ở trấn Mông Quán. Hạ chiếu khen ngợi.

[35] Ở Tây Xuyên, dùng tiền mới đúc từ niên hiệu Cảnh Đức đã gần mười năm, vì tiền nặng, dân thường nấu chảy làm đồ dùng, mỗi nghìn đồng được 25 cân sắt, bán được 2.000 đồng. Chuyển vận sứ Triệu Trinh tâu rằng việc này không tiện, xin đúc tiền đồng lớn, một đồng đổi được mười đồng, chiếu cho Tam ty bàn bạc, chưa quyết định. Tri châu Ích Châu là Lăng Sách xin giảm theo chế độ Cảnh Đức, đúc riêng tiền sắt lớn, mỗi nghìn đồng nặng 12 cân 10 lạng, vẫn một đổi mười, tiền cũ cũng được phép dùng chung; lại nói rằng tiền nhẹ thì dễ mang đi, sắt ít thì ít lợi khi nấu chảy. Ngày Ất Hợi, chiếu theo lời xin.

[36] Châu Thái, quân Hoài Dương tâu rằng dân đói, chiếu phát thóc quan để cứu tế.

[37] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng nghe nói ở châu Tân, châu Lệ sửa đê xa, bắt dân làm việc nặng, nhiều người bỏ trốn, lập tức bãi bỏ.

[38] Chiếu rằng: Các quan thần liêu khi lên điện dâng tấu sự, sau khi tiến trình xong, không được phê gửi đến Trung thư, Xu mật viện, Tam ty để xin chỉ thị riêng.

[39] Ngày Kỷ Mão, vì lễ cung tạ đã xong, sai quan đến tế cáo ở Xã tắc, Tông miếu, Linh sơn, Thánh tích, các chùa quán, Ngũ Nhạc và Hải độc.

[40] Ngày Canh Thìn, đến yết kiến ở điện Thần ngự Thái Tông tại viện Khải Thánh.

[41] Lấy Tham tri chính sự Đinh Vị làm Phán Lễ nghi viện, Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm Tri viện. Binh bộ thị lang Triệu An Nhân vốn cùng Bành Niên cùng làm Tri viện, đến nay bãi chức. Các quan khác đều bãi, chỉ lệnh cho Vị và Bành Niên hai người. Phàm việc yết bảng, khắc ấn, chuyển văn thư đến các cục khác của Lễ nghi viện, đều lấy Ngân đài ty làm chuẩn. Các chế độ văn vật và đồ dùng trong tế tự có gì chưa hợp lễ, đều lệnh cho định lại. Các thư tấu trong ngoài do phòng Lễ của Trung thư quản lý, đều giao hết cho viện. Các ty có chức vụ liên quan, đều được thống thuộc.

[42] Chiếu rằng: Từ nay trước khi hành lễ tiến hưởng ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, Thái miếu và đàn Giao, các vệ sĩ nghênh giá khởi cư, không được hô vạn tuế.

[43] Ngày Nhâm Ngọ, phủ Khai Phong tâu rằng việc xây đàn Cung tạ Trời Đất chiếm đất của 18 hộ dân. Chiếu cấp tiền đền bù ngoài ra, ban thêm 30 vạn tiền, và miễn thuế ruộng cho họ. Lại chiếu rằng: Dân nghèo ở nhà quan, gặp ngày Đông chí và Hàn thực, được miễn tiền thuê nhà ba ngày.

[44] Có người dâng thư nói rằng: Châu Vận phát binh lính đào sông tháo nước, công việc rất lớn mà thiếu quan đốc thúc. Chiếu cho quan Đề điểm hình ngục của bản lộ là Cáp môn chi hậu Cao Chính giám sát việc này.

[45] Tháng 3, ngày Canh Dần, vì lễ phụng tự đã xong, mở tiệc lớn ở điện Hàm Nguyên.

[46] Ngày Tân Mão, Tuần kiểm sứ châu Nhung và châu Lộ là Vương Hoài Tín tâu rằng: “Các động ở châu Lộ đã yên tĩnh cả. Giám Dục Tỉnh trước không có thành hào, nay xin phát binh lính châu Lộ đào hào xây thành. Lại xin cho người Man ở gần biên giới đến giám bán ngựa, được trả giá theo lệ của châu Nhung.” Chiếu chuẩn y.

(Xét truyện Khấu Giam, việc xây thành đào hào và mua ngựa đều do Giam làm, nhưng thực lục chỉ chép tên Hoài Tín, không rõ vì sao.)

[47] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu cho các quan văn võ từng phụng sự triều Thái Tổ, ban ân cho một người con, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Lý Duy, Tri tạp Ngự sử Đoàn Diệp cùng tham khảo xét duyệt rồi tâu lên. Lý Duy xin lấy từ chức Gián quan ở hai tỉnh, Quan sát sứ trở lên làm chuẩn. Vua đồng ý.

[48] Ngày Giáp Ngọ, các quan lần lượt được ban ân.

[49] Ngày Ất Mùi, triệu tập tể tướng đến xem thánh văn và thần bút của Thái Tông tại điện Ngọc Thần. Mở tiệc ở gác Tường Loan, thưởng rượu bên dòng nước uốn khúc, tấu nhạc Vân Thiều. Vua làm thơ, các quan đều họa theo.

[50] Ban chiếu từ nay các đàn Nam Giao, đàn Ngũ Đế và trai cung đều sai quân sĩ thặng viên đến canh giữ.

[51] Ngày Mậu Tuất, Hàn lâm học sĩ, Hữu Gián nghị đại phu, Tri chế cáo, Long Đồ các học sĩ Trần Bành Niên và Hữu Gián nghị đại phu, Quyền Tam ty sứ công sự Lâm Đặc đều được thăng làm Cấp sự trung. Trước đó, Hộ bộ Thị lang, Tham tri chính sự Đinh Vị vì có công phụng sự tế lễ nên được thăng chức, nhưng Đinh Vị cố từ chối, chỉ nhận thêm tước phẩm và ấp. Trần Bành Niên nhân đó xin theo lệ của Đinh Vị, Vua không cho, lại làm thơ ban cho ông.

[52] Xu mật trực học sĩ, Lại bộ Lang trung Lưu Tống mắc bệnh phong, xin về làm quan ở Hà Trung. Vua cho rằng chức trưởng quan ở Thái Ninh cung miếu phải lo việc tế lễ, Lưu Tống khó khăn trong việc lễ bái, e không thể làm tròn, nên không đồng ý. Ngày Kỷ Hợi, sai ông làm Tri châu Lư Châu.

Lưu Tống cương nghị, giỏi việc quan, đi đến đâu đều trấn áp hào hữu, đề cao pháp luật, được khen là người tài trị. Tuy nhiên, học vấn còn nông cạn, lại hiếu thắng, nên không được dư luận đánh giá cao.

[53] Điện trung Thị ngự sử Tào Định tâu rằng các trưởng quan ở châu có tội, sợ bị tố cáo, liền tự nộp đơn xin nhận tội, dù tình tiết nghiêm trọng cũng được miễn xét theo lệ, xin ban hành điều lệ. Chiếu từ nay các chức Tri châu, Thông phán, Mạc chức quan, Sứ thần tự thú tội, nếu sự việc chưa bị phát giác, thì báo lên Chuyển vận ty, dù đáng được tha cũng phải ghi vào luật.

(Tào Định, chưa rõ lai lịch.)

[54] Ngày Tân Sửu, Nghi Châu tâu dân đói, ban chiếu phát thóc quan cứu tế.

[55] Ban chiếu từ nay các Quan sát sứ ở châu đều theo lệ cũ kiêm chức Thứ sử, theo lời xin của Trần Bành Niên.

[56] Giang, Hoài chế trí phát vận sứ Hồ Tắc từng ở Hàng Châu, buông thả không kiểm soát, Tri châu Thích Luân ghét ông ta. Thông phán Ngô Diệu Khanh là đồng đảng của Tắc, theo dõi động tĩnh của Luân, bí mật báo cho Tắc. Tắc lại kết thân với Lý Phổ, Phổ đang được người quyền thế ủng hộ, nên cùng nhau bới móc lỗi của Luân. Ngày Quý Mão, chiếu chỉ dời Luân làm Tri Dương Châu, Dương Châu cũng thuộc khu vực tuần tra của Phổ và Tắc, họ gây sức ép càng mạnh, Luân xin đổi sang quận xa xôi, mùa đông năm đó lại dời sang Từ Châu.

(Bản truyền chép: Sóng sông gây họa, Luân dựng đê thay cho chế độ cột đá, tuy tránh được nạn lụt, nhưng mọi người phản đối cách làm này. Xét việc này giống như chuyện Trần Nghiêu Tá tranh cãi với Đinh Vị được chép trong truyện của Nghiêu Tá, Nghiêu Tá và Luân cùng bàn việc thay đổi pháp chế, Vị trước dời Luân, sau đó dời Nghiêu Tá, hai truyện chép riêng biệt, không liên quan, nay hợp lại, nhưng việc dời Luân không chỉ vì xây đê, nên nhân việc dời Nghiêu Tá mà chép chung.)

[57] Ngày Giáp Thìn, miễn thuế ruộng cho chùa Kiến Long ở Dương Châu.

[58] Ngày Đinh Mùi, phong hoàng tử Thụ Ích làm Tả vệ Thượng tướng quân, tước Khánh Quốc công, mỗi tháng cấp bổng 200 ngàn tiền. Trước đây, tể tướng nhiều lần tâu rằng hoàng tử chưa được phong tước, trong ngoài đều mong đợi, nay lễ triều đã hoàn thành, xin đặc cách ban chiếu chỉ. Vua tuy nghe theo, nhưng khiêm tốn chưa phong tước vương. Theo chế độ cũ, Quốc công được hưởng thực ấp 3.000 hộ, nay chỉ 1.000 hộ, là do cơ quan phụ trách sai sót. Hoàng tử là con của Lý thị trong hậu cung, lúc này đã 5 tuổi, Lưu hoàng hậu nhận làm con mình, sai Dương Uyển nghi trông nom, nên Nhân Tông thường gọi hoàng hậu là Đại nương nương, Uyển nghi là Tiểu nương nương.

[59] Chiếu rằng: “Các quan văn võ tại kinh được bổ nhiệm hoặc chuyển nhiệm ở các châu ngoài, ngoài thời gian đi đường theo quy định, nếu trên đường bị bệnh, nơi đến phải cử quan đến kiểm tra, cấp giấy chứng nhận, khi đến nhiệm sở, giao cho quan địa phương xác minh. Nếu giả bệnh quá 100 ngày, không được nhậm chức, phải báo tên lên triều đình, xử theo tội vi phạm quy chế. Những người được bổ nhiệm chức vụ xa mà viện cớ không đến nhậm chức, xử theo luật hiện hành. Từ nay, các chức Giám quân, Tuần kiểm, Giám đương sứ thần, ngoài thời gian đi đường, được thêm một tháng để chuẩn bị, trừ trường hợp khẩn cấp phải đi nhanh. Người thay thế về kinh, xử tội nhẹ hơn hai bậc so với quy định trên.” Theo đề nghị của Biên sắc sở.

[60] Ty Chuyển vận Kinh Hồ Bắc tâu rằng các trại Mạn Thủy, Ô Tốc, Lô Khê, Giang Khẩu thuộc quyền quản lý đều là nơi xung yếu, nhưng chỉ có tường gỗ, xin đổi thành tường đất. Triều đình chấp thuận.

[61] Ngày Kỷ Dậu, Ty Mã quân tấu rằng đất chăn nuôi ngựa ở các huyện Ung Khâu bị xâm chiếm nhiều. Chiếu cử một viên Thường tham quan và một viên Cáp môn chi hậu, cùng quan lại địa phương kiểm tra sổ sách, xác định lại ranh giới, dựng cột mốc để đánh dấu.

[62] Ty An phủ Hà Đông tâu rằng từ năm Cảnh Đức thứ hai, 1.625 người Hán bị bắt ở biên giới phía bắc đã tự trở về.

[63] Ngày Nhâm Tý, Bộ thự trú bạc Phu Diên lộ là Tào Lợi Dụng tâu rằng quân mã ở Phu Châu quá đông, xin điều Đô giám Phù Thừa Hàn của lộ này đến quản lý. Triều đình chấp thuận. Lại tâu rằng các chỉ huy sứ của bộ lạc biên giới đã hết lòng chống giặc, xin cấp lương tháng cho những người có thâm niên. Vua nói: “Trước đây, bộ lạc Hoàn Khánh đã có hàng trăm người được cấp lương, chi phí quá lớn. Hãy ra lệnh cho Lợi Dụng báo tên những người có công, sẽ xét cấp thưởng thêm.” Lại bổ nhiệm Chỉ huy sứ bộ lạc Dã Gia tộc ở Diên Châu là Già Lăng làm Tam ban tá chức, giữ chức Tuần kiểm sứ từ Thất Tương Bình, Nhã Khắc Thanh Cáp đến Kim Minh, theo đề nghị của Lợi Dụng.

[64] Ngày Quý Sửu, bãi bỏ việc du ngoạn ở Kim Minh Trì vì Thư vương Nguyên Xưng bị bệnh.

[65] Mùa hạ, tháng 4, ngày Bính Thìn, mùng một, lệnh cho các cơ quan theo nghi chế mới định vẽ lại bức họa “Nhập các đồ”, các chức quan thời Đường đều phải sửa đổi. Theo đề nghị của Đông thượng cáp môn sứ Ngụy Chiêu Lượng. Chiêu Lượng là con thứ của Hàm Tín.

[66] Ngày Đinh Tỵ, Tư Đạc Đốc ở phủ Tây Lương phái sứ giả đến cống.

[67] Ngày Mậu Ngọ, ban chiếu rằng các quân đã được cấp áo mà chết thì không truy thu lại.

[68] Ban chiếu rằng ấn phụng sứ do Xu mật viện quản lý, từ nay trừ việc quốc tín, tiếp đón sứ giả, xét án ngục, thu thuế, xây dựng chùa chiền, còn các việc nhỏ khác không được cấp.

[69] Ngày Kỷ Mùi, ban cho dân các châu Hoài Nam thuộc hộ trung đẳng trở lên được miễn hai phần mười thuế thu, lại cho phép nộp theo cách tiện lợi, còn lại đều miễn hết.

[70] Ban chiếu: “Các quan kinh triều, sứ thần thuộc hạng nhất do Kinh độ chế trí sứ định ra đều được thăng chức, các chức mạc, quan châu huyện được bổ làm quan kinh triều; hạng nhì được ưu tiên bổ nhiệm gần nhà, làm quan thân dân, đô giám, giám áp; hạng ba được ưu tiên bổ nhiệm. Các quân hiệu có công lao đều được thăng một cấp.”

[71] Ngày Canh Thân, Tam ty mượn 15 vạn tấm lụa từ kho nội tàng.

[72] Vua nói với tể tướng: “Nghe nói Trần Nghiêu Tư ở Vĩnh Hưng dùng hình phạt tàn khốc. Quan Trung vừa được mùa, các quận huyện cần được yên ổn, không nên hà khắc. Có Đậu Tùy, làm đề điểm hình ngục của lộ ấy, hay dò xét lỗi người để kích động, muốn làm cho trong ngoài sợ hãi, tạo uy danh, việc này không thể không trách.” Ngày Tân Dậu, điều Tùy sang lộ Kinh Tây. Mấy tháng sau, Nghiêu Tư tâu xin dẫn nước sông Long Thủ vào thành để cung cấp cho dân, được chiếu khen thưởng, Vua nói: “Dẫn nước cứu giúp, không bằng giảm hình phạt để yên dân, như thế mới hợp ý Trẫm.”

[73] Ngày Quý Hợi, ban chiếu từ nay các chức cáp môn kỳ hậu vì tội công mà bị giáng chức, được tính là một nhiệm kỳ.

[74] Thần Châu tâu rằng giặc man ở huyện Lô Khê quấy nhiễu, nay đã yên tĩnh. Chiếu khen thưởng chuyển vận sứ của bản lộ cùng các tri châu Thần, Đỉnh và sứ thần, những nơi giặc man đi qua được miễn thuế ruộng năm nay. Trương Luân sau đó được điều làm tri châu Nguyên Châu, quan lại và dân chúng Thần Châu liệt kê thành tích trị an, đề điểm hình ngục tâu lên, xin ban thưởng. Xu mật viện soạn sớ nhưng không thi hành, Vua đưa cho tể tướng xem và nói: “Luân thanh liêm khổ khắc, dời đi làm quan xa ba nghìn dặm, thật đáng thương. Vốn không hòa hợp với Cao Thân, Thân lại là thân thích của Vương Khâm Nhược, nếu thế thì bè phái thiên vị sao! Nên đặc cách thăng chức và điều đi.”

(Việc này không rõ thời gian, 《Bảo Huấn》 ghi vào năm Tường Phù thứ 9, không rõ Cao Thân lúc đó giữ chức gì, nay chép vào đây. Thân được bổ làm Văn tuyển phán thuyên vào tháng 8 năm thứ 9. Lại theo bản truyện của Luân, ông từ Thần Châu điều đến Vị Châu, không phải Nguyên Châu. Cần tra cứu thêm. Chú thích ngày Tân Sửu tháng 5 năm thứ 6 có thể tham khảo chức vụ của Cao Thân.)

[75] Tri phủ Hà Nam Phùng Chửng tâu rằng từ mùa xuân, viện quân tuần không có tù nhân, có chim cưu làm tổ ở cửa, đẻ được hai con.

[76] Ngày Giáp Tý, phong Quy Nghĩa quân lưu hậu Tào Hiền Thuận làm Quy Nghĩa tiết độ sứ, em là Hiền Huệ làm tri châu Qua Châu. Khi đó, Hiền Thuận sai sứ vào cống, nói cha là Tông Thọ đã mất, theo lời thỉnh cầu của mẹ và người trong nước xin kế vị, chiếu chuẩn y, lại ban cho 《Kim tự tạng kinh》 cùng trà, thuốc, đều theo lời thỉnh cầu.

[77] Chiếu rằng Đại Lý tự xử án nên theo điều luật định tội, những trường hợp tình tiết nhẹ mà luật nặng thì làm sớ niêm phong tâu lên. Lúc đó có người dâng thư nói rằng quan tòa lấy việc tùy thời xin chỉ làm văn bản, đổ lỗi lên trên.

[78] Ngày Bính Dần, Biên sắc sở (ND: Ty biên soạn luật lệnh) tâu: “Châu Vụ, châu Đài xử án hai tên cướp có vũ trang là Tống Đức, Diệp Dật, đều phạm tội cướp giết người, nhưng một bị treo cổ, một bị chém, xử phạt khác nhau. Theo chiếu năm Kiến Trung đời Đường, tội ác nghịch trở lên gồm bốn bậc, theo luật dùng hình phạt, còn lại những tội đáng treo cổ hoặc chém đều xử trượng nặng đến chết để thay cho cực hình. Lại có chiếu năm Cảnh Đức nguyên niên quy định tội xử chém thì chém ngay rồi mới tấu trình. Nay hai châu cùng tội mà xử phạt khác nhau, xin ban bố lại chế độ cũ.” Vua nghe theo.

[79] Ngày Kỷ Tỵ, lệnh cho quần thần đến Quốc Tử Giám, xem thư ngự bút của Thái Tông và các bài biện luận mới được khắc, rồi mở tiệc tại giám.

[80] Ngày Canh Ngọ, chiếu cho quân Khánh Thành tăng thêm quan lại, cho phép trực tiếp tâu lên triều đình. Hàng năm việc tế lễ tại miếu Thái Ninh Cung, giao cho quan quân địa phương chủ trì.

[81] Ngày Giáp Tuất, Đô Kiềm Hạt Kinh Nguyên là Tào Vĩ tâu rằng: Các bộ lạc phiên thuộc ở Châu Nguyên xin phong bổ các thủ lĩnh lớn quản lý trên 100 trướng làm Quân chủ bộ tộc, thứ đến bổ làm Chỉ huy sứ, rồi Phó Chỉ huy sứ, dưới 100 trướng đều bổ làm Chỉ huy sứ bộ tộc, triều đình đồng ý. Lại tâu rằng: Phía bắc Châu Vị có hồ cổ, nối liền chân núi, nay đào thành kênh, cho dân dẫn nước tưới ruộng, ban chiếu khen ngợi.

(Việc đào kênh tưới ruộng, thực lục chép vào ngày 28 tháng này, nay ghi chung. Chức Chỉ huy sứ phiên trướng thấy chép vào năm Thiên Thánh thứ 8 khi Tào Vĩ mất. Đoạn này có thể bỏ. Nhưng cũng không ngại ghi cả hai.)

[82] Ngày Ất Hợi, Viện Lễ Nghi xin ghi chép các sự tích về việc Thánh Tổ giáng lâm, đón rước thánh tượng và phụng thờ, biên tập thành sách, chiếu chuẩn.

[83] Châu Bạc tâu rằng: Từ khi xa giá đến thăm, dân trở về làm ăn được 1.300 hộ.

[84] Ngày Bính Tý, Trấn Nam Ninh Quốc đẳng quân Tiết độ sứ, Thái bảo, kiêm Trung thư lệnh, Thư vương Nguyên Xưng mất. Từ niên hiệu Cảnh Đức về sau, mỗi khi có đại tế, Nguyên Xưng đều làm chủ tế cuối cùng. Ông vốn yếu đuối, thường đau ốm. Khi Vua đến Chân Nguyên, lúc đó bệnh Nguyên Xưng đã nặng, ông khẩn khoản xin đi theo hộ giá, đến Lộc Ấp thì phải trở về trước, Vua nhiều lần đến thăm hỏi. Con trai nhỏ của ông mất trước, sợ ông quá đau buồn, Vua ra lệnh cho gia nhân không được báo tin. Khi ông mất, Vua đến khóc viếng. Hôm sau, Vua nói chuyện với các quan phụ chính mà rơi nước mắt, không kìm được nỗi đau. Khi sắp nhập quan, Vua lại đến viếng. Vua truy tặng ông chức Thái úy, Thượng thư lệnh, truy phong tước Tào vương, thụy là Cung Huệ. Các quan ngự y đều bị khiển trách vì không chăm sóc bệnh tình của ông chu đáo. Nguyên Xưng ham học, giỏi văn chương, đặc biệt kính cẩn với Phật giáo. Ông tính tình nhân từ, khoan dung, từng tổ chức trai đàn ở chùa, người hầu làm mất bình đựng nước bằng vàng, không lâu sau bắt được kẻ trộm, Nguyên Xưng xin giảm nhẹ tội cho hắn, rồi đem chiếc bình đã mất cúng dường cho chùa. Ông có để lại 3 quyển tập văn và 1 quyển bút ký, Vua viết lời tựa, cất giữ trong bí các.

[85] Ngày Mậu Dần, phong thần núi Tiêu Sơn làm Minh Ứng công. Vua thấy sông ở Kinh Khẩu thường xảy ra tai nạn đắm thuyền, núi này nằm giữa sông, gần cửa biển, cầu đảo thường linh ứng, nên gia phong tước vị. Vua còn soạn văn bia, khắc vào đá đặt trong miếu.

[86] Ngày Canh Thìn, ban chiếu cho các lộ tri châu, thông phán từ nay về sau, đối với kho tàng trong thành thì mỗi quý kiểm tra một lần, còn ở các huyện ngoài thành thì chỉ xem xét sổ sách, không cần phải đi tuần tra. Trước đây, vào niên hiệu Thuần Hóa, có chiếu lệnh cho trưởng lại mỗi quý đi tuần tra các huyện, nhưng có những huyện cách xa châu đến năm bảy trăm dặm, vì gây phiền nhiễu nên bãi bỏ.

[87] Ngày Giáp Thân, ban chiếu cho các sứ thần tam ban từ nay về sau, ai muốn thi bắn cung tên thì giao cho bản viện cùng với quan đái ngự khí giới kiểm tra[6], xếp loại năng lực rồi tâu lên.

[88] Tháng này, Trung thư tâu rằng các quan văn vũ vào cuối năm tiến cử các mạc chức, châu huyện quan, nay muốn quy định rằng nếu có năm người trở lên cùng bảo cử một người thì khi thay đổi chức vụ, Lại bộ Lưu nội tuyển sẽ xét duyệt và dẫn vào đối đáp, Vua đồng ý.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 sự việc tháng 4 năm Tường Phù thứ 7, nay phụ lục vào cuối tháng.)

[89] Ban chiếu rằng từ nay về sau, gặp ngày Thánh tiết, Nam giao mà tấu tiến thân thuộc, nếu tấu trình sau ngày Thánh tiết và Nam giao thì không thi hành nữa.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》.)

[90] Xu mật sứ Vương Khâm Nhược và các quan khác tâu rằng: “Các tiểu lại trong viện chúng thần, nhân việc lễ tế thành công, xin được ban ân trạch theo lệ của các quan đường hậu ở Trung thư và các quan trực tỉnh.”

Vua hỏi ý kiến các tể thần, Vương Đán và các quan đáp: “Quan đường hậu vốn được chọn từ những người có học vấn, sau mười năm không có sai sót thì được đổi làm thông phán, đó là chế độ cũ từ triều trước. Nếu từ chức lưu ngoại mà giữ chức đến đường hậu quan thì không có lệ này. Quan trực tỉnh, theo lệ Nam Giao được bảy người xuất chức, nhưng vừa rồi mới có hai người hàng đầu được làm cung phụng quan, đó cũng là lệ định. Đại để, Trung thư và Xu mật viện, thể chế khác nhau. Như phó thừa chỉ ở Xu mật viện, khi xuất ngoại làm phó sứ các ty, nếu chuyển đến phó đô thừa chỉ thì liền được làm đại tướng quân; còn từ chủ sự trở xuống, có người được đặc cách tăng bổng lên đến mười ngàn. Còn các lại ở Trung thư được tăng bổng, không quá hai ba ngàn[7]. Vì thế không thể so sánh được. Quan đường hậu ở Trung thư, từ năm Khai Bảo thứ chín về sau, phần nhiều được thăng chức ưu đãi[8], từ năm Hàm Bình trở lại đây, chỉ có giảm bớt.” Vua đồng ý.

(Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》, là sự việc tháng tư năm thứ bảy, sợ có chỗ khác ghi chép, cần kiểm tra kỹ.)

[91] Ban lệnh cấm các sứ thần Tẩu mã thừa thụ ở các lộ nhận quà tặng từ các lộ.

[92] Tháng năm, ngày Bính Tuất, lấy Tả gián nghị đại phu Trần Tượng Dư làm quyền phán Tây kinh lưu ty Ngự sử đài. Tượng Dư bị bệnh phong tê, đi lại khó khăn, nhiều lần thất lễ khi vào chầu. Hữu quân tuần sứ Khương Tuân hặc tấu việc này, Tượng Dư liền xin được đối đáp, tự trình bày rằng mình có thể trị quận. Vua nói với tể tướng, tể tướng nói: “Tượng Dư không phải là người có tài năng, lại đang bệnh, nếu giao cho trị quận, chỉ thêm lỗi lầm mà thôi!” Vua đồng ý, nên có mệnh lệnh này.

(《Thực lục》 chép rằng Khương Tuân xin cho Tượng Dư làm quan ngoại quận, nhưng theo bản truyện thì chính Tượng Dư tự xin. Nay theo bản truyện.)

[93] Ngày Đinh Hợi, châu Triệu tâu rằng dân huyện Ninh Tấn là Tào Tuân sáu đời cùng ở chung, Vua ban chiếu khen ngợi cửa nhà ông. Tuân là anh của Lợi Dụng.

[94] Ngày Mậu Tý, quan Tri châu Ích Châu là Lăng Sách tâu rằng dân châu Mi Châu là Tôn Diên Thế cưỡng đoạt ruộng của Tôn Phác, tích tụ đã ba mươi năm, sáu lần bị xét xử, quan lại nhận hối lộ làm trái pháp luật. Điện trung thừa, Tri huyện Hoa Dương là Hoàng Mộng Tùng tra xét việc này, thu thập đầy đủ chứng cứ[9]. Chiếu chỉ đợi Mộng Tùng về triều để báo cáo, những người tham gia điều tra đều được thăng chức. Năm sau, Mộng Tùng được thăng làm Giám sát ngự sử.

(Mộng Tùng, không rõ quê quán.)

[95] Ngày Nhâm Thìn, lệnh cho Hữu bộc xạ, Bình chương sự Vương Đán làm sứ tu sửa cung Cảnh Linh ở châu Duyễn.

[96] Cấm dân gian mặc áo nhuộm đen.

[97] Trước đây, đê sông Tiền Đường được đắp bằng đá bọc trong lồng tre, nhưng do thủy triều xói mòn, chỉ vài năm là hư hỏng và phải sửa chữa lại. Chuyển vận sứ Trần Nghiêu Tá nói: “Đê để ngăn lũ, nhưng lại làm hại dân.” Bèn cùng với Tri châu Hàng Châu là Thích Luân bàn bạc đổi sang dùng đất và củi.

Có người gây hại cho chính sách này tâu lên triều đình, cho rằng không tiện. Tham tri chính sự Đinh Vị ủng hộ lời tâu đó để hạ thấp Nghiêu Tá, Nghiêu Tá tranh cãi không ngừng. Đinh Vị đã điều Thích Luân đến Dương Châu, ngày Quý Mùi, lại điều Nghiêu Tá đến Kinh Tây lộ. Phát vận sứ Lý Phổ xin đắp lại đê bằng đá bọc lồng tre, nhưng nhiều năm không xong, sức dân kiệt quệ, cuối cùng dùng kế của Nghiêu Tá, đê mới hoàn thành.

(Việc này khác với bản chí, cần xem xét thêm.)

[98] Ngày Giáp Ngọ, Trung thư trình lên danh sách các quan từng phục vụ dưới thời Thái Tổ. Vua nói: “Năm Khai Bảo, các cử nhân vào chầu, có người dùng võ nghệ để thi đấu.” Vương Đán nói: “Đức anh vũ của Thái Tổ, người hiền kẻ bất tài đều biết. Trong khoa trường, những kẻ không có tài nghệ thường tự xưng giỏi bắn cung và cưỡi ngựa, Thái Tổ miễn cưỡng nghe theo, giao cho các ty xét duyệt danh vị, nhưng cũng chỉ bổ nhiệm vào các châu huyện. Như Tống Chuẩn có văn tài, vừa đỗ đạt đã được bổ làm Hiệu thư lang, Trực sử quán, đó là do thần cơ thánh giám của Thái Tổ, không phải người thường có thể đoán được.”

[99] Ngày Ất Mùi, ban chiếu cho khắc bản sao Thiên thư để thờ tại Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung, lệnh cho Vương Đán làm Sứ khắc ngọc Thiên thư, Vương Khâm Nhược làm Đồng khắc ngọc sứ, Đinh Vị làm Phó sứ, Binh bộ Thị lang Triệu An Nhân và Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm Đồng khắc ngọc phó sứ, Nhập nội Áp ban Chu Hoài Chính làm Đô giám. Vua làm bài thơ ngũ ngôn trăm vần nói về việc lễ phụng tự hoàn thành, ban cho các cận thần và quan viên các quán, các để họ họa lại, mọi người đều dâng chương xin miễn, nhưng không được chấp thuận.

[100] Tu sửa Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung sứ Đinh Vị dâng biểu xin Vua ngự chế bài văn bia và bức hoành cho cung này, được chấp thuận.

[101] Vương Đán tâu rằng triều đình đang tu sửa Cảnh Linh cung, xin dùng ngày Tiên Thiên tiết để thiết đạo trường, sau khi lễ xong thì đến miếu Chí Thánh Văn Tuyên Vương, Hội Chân cung, Đông Nhạc miếu và Chân Quân quan hành lễ, mong ban xuống cho Lễ quan tham khảo chế độ nghi lễ. Lại tâu rằng trên đường đi qua Thiền Châu, muốn đến miếu Hà Độc để dâng lễ. Đều được chấp thuận.

[102] Ngày Canh Tý, Thái thường Bác sĩ Đặng Dư Khánh bị tội vì không kịp nhận lời thề giới, theo pháp luật, tội tư phải xét đến người tiến cử, nhưng Vua ban chiếu tha cho. Vua nhân đó nói với tể tướng rằng: “Việc liên đới tội tiến cử quan chức thật không dễ, như trường hợp này là tội công, còn có thể thương xót. Còn những kẻ vốn không hiểu biết, miễn cưỡng nghe theo lời nhờ vả, đến khi thất bại, làm sao tránh khỏi trách nhiệm.” Vương Đán nói: “Tiến cử nhân tài thật khó, phẩm hạnh của sĩ nhân thường hay thay đổi.” Vua nói: “Nhưng chọn mười được năm, dù có tư tình, triều đình cũng nhờ đó mà có được người tài, cũng không ít.” Vương Đán nói: “Khi tìm người, chỉ tin lời nói mà dùng, nếu có thất bại, cũng căn cứ vào lời nói đó mà xét tội. Thời Thái Tổ, có người từ Viên ngoại lang cùng với quan châu huyện phạm tội bị cách chức. Năm Thái Bình Hưng Quốc đầu tiên, Trình Năng làm Chuyển vận sứ, tiến cử quan chức quá nhiều, nhiều người khinh bỉ.” Vua nói: “Triều đình cần kíp tìm người tài, nếu không cho tiến cử, thì người tài ở dưới không có cách nào tự tiến thân. Cốt yếu của việc tìm người, chắc chắn không ngoài cách này.”

[103] Ngày Quý Mão, Tri lam Ngự sử Vương Tùy xin biên soạn các điều mục mới ban hành của Ngự sử đài thành chế độ nghi lễ, được chấp thuận.

[104] Ngày Bính Ngọ, phủ Châu tâu rằng Tri châu Hưng Châu Thứ sử Chiết Duy Xương qua đời. Trước đó, dân Hà Đông vận lương thực đến Lân Châu, cần phải xuất quân tiếp viện. Duy Xương lúc đó đã bị bệnh, có người xin đóng quân mười ngày[10] để chờ bệnh thuyên giảm. Duy Xương nói: “Người xưa vâng mệnh quên nhà, chết vì việc quan, ta không hối hận.” Liền dẫn bộ kỵ đóng quân ở Ninh Viễn Trại, vượt qua gió cát mà đi, bệnh tình càng nặng. Một ngày trước khi mất[11], ông ngồi trong trai đường họp với các quan khách, mọi người đều tưởng ông đã khỏe. Duy Xương lui về báo với mẹ rằng bệnh đã nặng, và nói: “Cố gắng dự yến tiệc là vì trọng trách ngoài biên giới, lo làm triều đình lo lắng.” Vua nghe tin, sai sứ mang thầy thuốc đến khám, nhưng không kịp. Vì thế, Vua sai Nhập nội Cung phụng quan Trương Văn Chất đến lo việc tang lễ, mọi chi phí do quan cấp. Phong cho em ông là Cung phụng quan, Cáp môn Chỉ hậu Chiết Duy Trung làm Lục trạch sứ, Tri châu sự, và bổ nhiệm hai con trai của ông làm quan.

[105] Lễ bộ Thị lang Phùng Khởi xin nghỉ hưu, Vua hỏi tể tướng về tuổi của ông. Vương Đán nói: “Khởi có thanh danh và đức hạnh, ít người sánh kịp, năm nay đã 70 tuổi, xin chân thành nghỉ hưu.” Vua nói: “Khởi cẩn thận, ít sai lầm, đáng khen, nên đặc cách thăng chức.” Ngày Mậu Thân, phong ông làm Hộ bộ Thị lang nghỉ hưu.

[106] Phó Thừa chỉ Xu mật viện Doãn Đức Nhuận, Câu đương Dẫn kiến ty Tiêu Thủ Tiết, Câu đương Sự tài trường Giả Kế Huân, Câu đương Tu nội ty Lý Tri Tín, và Đồng Câu đương Tu nội ty Vương Tòng Chính đều bị giáng một chức, vì mượn thợ quân để xây nhà cho Đức Nhuận, bị Đông thượng Cáp môn sứ Ngụy Chiêu Lượng tố cáo. Chiêu Lượng làm quan thích soi xét, thường sai người nhà theo dõi đồng liêu, từng cùng Đức Nhuận đi tế Tây, lo việc sắp xếp. Đức Nhuận coi thường Chiêu Lượng vì là con nhà quyền quý, nên nhân cơ hội này trả thù.

[107] Lại bộ Lưu nội tuyển tâu rằng, các châu có người thân thuộc làm quan trong bộ, nếu đến nhiệm chưa đủ một khảo thì cho phép đổi chỗ, còn một khảo trở lên thì xin đợi đến khi mãn nhiệm kỳ mới được thay thế theo lệ thường. Triều đình đồng ý.

[108] Ngày Kỷ Dậu, phong thủ lĩnh tộc người Thổ Phồn ở Vị châu là Thổi Tư La làm Điện trực, sung chức Tuần kiểm sứ. Lúc đó, Thổi Tư La dẫn người trong trướng đến quy phụ, được cấp ruộng đất nhưng chưa kịp gieo trồng, nên xin cấp bổng lộc để sinh sống. Vì thế có mệnh lệnh này. (Ngày Kỷ Dậu, 25 tháng 5. Theo 《Hội yếu》.)

Thổi Tư La vốn là dòng dõi Tán Phổ của Thổ Phồn, tên thật là Khi Nam Lăng Ôn Tiên Bô, “Tiên Bô” nghĩa là Tán Phổ, tiếng Khương đọc chệch thành “Tiên Bô”. Ông sinh ra ở nước Cao Xương Ma Du, năm 12 tuổi, Hà Lang Nghiệp Hiền người Khương ở Hà Châu đi qua Cao Xương, thấy Thổi Tư La tướng mạo khôi ngô, bèn đưa về, đến thành Phượng Tâm, rồi người họ lớn là Tủng Xương Tư Quân lại đưa Thổi Tư La đến ở thành Di Công, muốn lập phép tắc ở Hà Châu. Người Hà Châu gọi Phật là “Thổi”, gọi con trai là “Tư La”. Sau đó, sư người Tông Ca là Lý Lập Tuân và thủ lĩnh lớn người Mạc Xuyên là Ôn Bô Kì đưa Thổi Tư La về Khuếch Châu, tôn lập làm thủ lĩnh, bộ tộc dần hùng mạnh, bèn dời đến ở thành Tông Ca, Lập Tuân làm Luận Bô phụ tá. Lập Tuân còn gọi là Lý Tuân hoặc Lý Lập Tuân. “Luận Bô” nghĩa là Tể tướng.

(Xét Thổi Tư La từng nhận mệnh triều đình làm Điện trực, Tuần kiểm sứ, nhưng 《Thực lục》 không chép, truyện phụ và truyện chính về Thổi Tư La cũng lược bỏ, không rõ vì sao. Lại xét 《Hội yếu》, ban đầu coi Thổi Tư La là người tộc Thổ Phồn ở Vị Châu, có lẽ lúc đó Lý Lập Tuân chưa đưa Thổi Tư La về, nên Thổi Tư La vì cùng quẫn mà quy phụ ta, lại nhận mệnh triều đình, sau đó bị Lập Tuân đưa về Khuếch Châu, rồi dời đến thành Tông Ca. Đến tháng 11 năm đó, Trương Cát tâu rằng Lập Tuân và Thổi Tư La triệu tập các thủ lĩnh mưu đánh vào biên giới. Như vậy, Thổi Tư La là người nổi lên nhanh chóng, mệnh làm Điện trực, Tuần kiểm sứ cũng nhỏ nhặt, hay là sử quan cho việc này nhỏ nên không chép? Cần xét thêm.)

[109] Ngày Tân Hợi, Vua ngự điện Sùng Chính, thân xét tù nhân, giảm tội tử hình xuống tội lưu đày, tội đánh trượng trở xuống thì tha bổng.

[110] Đô kiềm hạt Kinh Nguyên là Tào Vĩ tâu rằng thủ lĩnh lớn của tộc Diệp Thị là Diễm Nô dẫn cả tộc từ biên giới phía bắc về quy thuận. Vua xuống chiếu bổ nhiệm lần lượt làm Thị cấm, Điện trực, cấp bổng lộc hàng tháng.

[111] Ngày Quý Sửu, cho quân sĩ là Trịnh Vinh làm đạo sĩ, ban tên là Tự Thanh, ở tại Thượng Thanh cung. Trước đây, Vinh từng trấn thủ Bích Châu, khi trở về, ban đêm gặp thần nhân bảo rằng: “Ngươi có khí chất đạo, đừng ăn đồ nấu chín.” Nhân đó truyền cho y thuật để cứu người, từ đó không ăn cơm. Thuốc mà ông truyền lại có thể chữa khỏi bệnh phong, dân chúng nhiều người đến xin, đều lấy máu ở cánh tay trộn với bánh để dùng.

[112] Ngày Giáp Dần, xuống chiếu từ nay rượu dùng trong tế tự, lệnh cho Hữu ty nấu riêng, phải đảm bảo nghiêm ngặt và sạch sẽ.

[113] Tri châu Túc Châu là Lý Phòng tâu rằng, ty dẫn kiến xử phạt tội nhân ở ngoài cửa điện Sùng Chính, quá gần chỗ ở của Vua, làm mất đi sự nghiêm trang, mong từ nay đưa đến Khai Phong phủ hoặc Hoàng thành ty xử lý. Vua nói: “Người ngoài không biết, gần đây mỗi tháng chỉ xử phạt một hai lần, hình phạt đều là trượng hoặc roi trở xuống, việc này đã lâu, không muốn thay đổi đột ngột.” (Sự việc trong tháng 5 theo《Hội yếu》).

[114] Ngày Ất Mão mùng một tháng 6, xuống chiếu rằng các văn bản trong và ngoài triều không được dùng tên hiệu và sự tích của Hoàng Đế, những chỗ trong kinh điển cũ không thể tránh thì để khuyết.

[115] Ngày Bính Thìn, xuống chiếu rằng: “Thông phán Mi Châu là Hoàng Oánh, Tri huyện Trường An là Vương Văn Quy, hoặc say rượu lạm dụng hình phạt, hoặc nhận hối lộ bán xử án, đều đày đến vùng hoang vu, vẫn chưa đủ để răn đe, trăm quan nên tự răn mình.”

[116] Trước đây, Tôn Diên Thế giả mạo tờ khai của ông nội để đoạt ruộng của Tôn Phác, trị giá ba trăm vạn. Ty đề điểm hình ngục lệnh cho Hoàng Oánh xét xử, Huyện úy Mi Sơn là Cao Dụng nhận bảy vạn tiền của Diên Thế, đổi sổ đinh để làm chứng cứ, Oánh lại lấy ba mươi lạng vàng, vụ án xong, Lệnh huyện Giáp Giang là Lý Cán xét lại, lại lấy thêm bốn lạng vàng. Nhân đó đuổi Phác, giao hết tài sản cho Diên Thế. Phác đến kinh đô kêu oan, chiếu tra xét được sự thật, Oánh và những người khác đáng tội chết, nhưng nhờ đại xá ngày Mậu Ngọ tháng 10 năm thứ 5, nên chỉ cách chức, đày đến quân bản thành, Oánh đày đến Bạch Châu, Cán đày đến Chương Châu, Dụng đày đến Thiều Châu.

[117] Văn Quy ở Trường An, say rượu đi ra ngoài, quay lại nhìn thấy dân chúng có người ngồi xổm, liền đánh ba mươi trượng, sáng hôm sau thì chết. Pháp tự xét tội đáng phải tăng thêm hình phạt lưu đày, nhưng đặc mệnh bãi chức, đày đi Hải Châu. Nhân đó ban bố khắp thiên hạ.

Ban đầu, các quan đưa bản thảo chiếu chỉ lên, chỉ nói dân chúng ngồi xổm, Vua nói: “Trong lời khai của Văn Quy có hai chữ ‘quay lại’, điều này rất vô lý, không thể không ghi chép.” Xem xét thì quả đúng như vậy, bèn thêm vào.

[118] Ngày Đinh Tỵ, Tứ Châu báo cáo nước lụt làm hại ruộng dân, sai sứ đi cứu tế.

[119] Ngày Mậu Ngọ, cấm các châu xử tội mà bí mật tăng số trượng, lệnh cho các ty Đề điểm hình ngục và Chuyển vận sứ xem xét, cử lên.

[120] Ngày Kỷ Mùi, chiếu chỉ hai kinh và các lộ, tù nhân bị tội chết giao cho quan trưởng thân hành xét hỏi kỹ càng, tội đồ và lưu giảm bậc xử phạt, tội trượng trở xuống thì tha. Vì lúc đó đang là mùa nóng nực.

[121] Tri Tần Châu Trương Cát[12] tâu rằng, đã đặt hai thủy trại mới ở Đại Lạc Môn, vì không đợi chỉ dụ của triều đình nên xin chịu tội. Chiếu chỉ tha tội, lệnh cho Trương Cát vẽ bản đồ dâng lên.

[122] Hà Nam Phủ báo cáo nước sông Lạc dâng cao.

[123] Lý Sùng Chính, Cung phụng quan Thừa thụ Hà Đông Lộ, và Trương Trọng Văn, Thị cấm Thừa thụ Tây Xuyên Lộ, vì tội tăng giảm lời tâu, làm náo động quần chúng, đều bị giáng chức và bắt về ban. Ngày Canh Thân, chiếu chỉ lấy việc này để răn dạy: “Từ nay những nội thần, sứ thần được cử đi thừa thụ biên tấu, nếu có thể chu đáo, cẩn thận, công bằng, sẽ được đặc biệt ghi tên, ưu đãi bổ nhiệm, hoặc tăng lương bổng. Những người có tài năng xuất chúng, thấu hiểu thời cơ, trong việc quy hoạch, thực sự có ích lợi, cũng sẽ được đặc cách thăng chức.”

[124] Ngày Tân Dậu, chiếu chỉ từ nay việc tế tự tại Ngọc Thanh Chiêu Ứng Cung và Cảnh Linh Cung đều phải chuẩn bị nhạc, dùng 36 cỗ.

[125] Biên sắc sở xin từ nay Hình bộ xét bác các châu xử án nhầm người vào tội chết, hặc tội quan lại xong, đem việc ấy bố cáo thiên hạ[13], để họ hiểu rõ, Vua theo lời xin.

[126] Bãi bỏ quân đồn trú ở Dương Châu, Sở Châu, quân Cao Bưu. Trước đây, lấy quân Tuyên Vũ chia nhau đóng giữ vùng Hoài Điện, đến nay trong quân có kẻ bất lương mưu giết hiệu trưởng, chuyển vận sứ xin bãi bỏ nên có lệnh này.

[127] Ngày Nhâm Tuất, sai sứ mang thuốc ngự ban cho sứ tu sửa cung Cảnh Linh là Vương Đán. Ngày Quý Hợi, Vương Đán vào từ biệt, lại ban áo mặc, đai vàng, ngựa có yên cương, lại làm thơ để tỏ lòng yêu quý. Chiếu từ kinh đô đến Duyện Châu[14], xét lại trị dân ẩn, cho phép tùy nghi hành sự.

(Ngày 12, Vương Đán vào nội điện xem bản sao thiên thư xong, mới lên đường.)

[128] Ty An phủ vùng biên giới Hà Bắc tâu rằng có dân từ biên giới phía bắc mua ba con ngựa đến, đã gửi văn thư đưa về quân Thuận Nghĩa. Vua nói: “Nghe nói nước kia mỗi khi bắt được người buôn ngựa ra khỏi biên giới, đều giết chết, đày gia đình họ đi xa, rất đáng thương. Nên lệnh cho An phủ ty, từ nay nếu có việc như vậy, đợi đêm sai người dắt đến biên giới, tháo dây thả đi.”

[129] Chiếu từ nay người từ trấn Đường Long về hàng, giao cho các ty Chuyển vận, An phủ, Kiềm hạt và châu Phủ quy hoạch, cấp ruộng hoang ở nơi xa xôi, không bổ nhiệm chức vụ. Lúc đó An phủ ty xin thu quản ở các tộc châu Phủ, Vua cho rằng trước đây tộc Ngoại Lãng là Đỗ Khánh Quang dẫn người về hàng[15], đã được trao chức vụ, lại trở về Đường Long, nên có lệnh này.

[130] Ngày Ất Sửu, Ty An phủ vùng biên giới phía bắc dâng lên quy chế và bản vẽ về việc đào ao hồ, đắp đê đường dọc biên giới, xin giao cho Ty Đồn điền quản lý và tuân thủ, được chấp thuận. Lại tâu xin trồng liễu và gieo hạt gai ở các thành quân dọc biên giới để phục vụ nhu cầu biên phòng, được chiếu khen thưởng.

[131] Ngày Bính Dần, ban chiếu cho sứ phó khắc ngọc thiên thư đến nội điện xem bản sao do Thịnh Lượng vẽ lại, gồm ba hộp. Vua đều quỳ nhận, đặt lên án, Hướng Mẫn Trung, Trần Nghiêu Tẩu, Đinh Vị, Triệu An Nhân cầm giữ, Vương Đán và Vương Khâm Nhược đối chiếu đọc, Trần Bành Niên xem xét chữ viết. Ban đầu, Hữu ty trình bày nghi thức[16], Vua xem xong, thêm vào việc quỳ nhận và tự mở niêm phong, lại thêm ba lần thắp hương và tám lần lạy.

[132] Ngày Mậu Thìn, lệnh cho các doanh quân đóng ngoài thành mới, tiền lương và áo quần cấp phát, các cửa thành không được ngăn cấm. Lúc đó, phủ Khai Phong thường ngăn cản thương nhân theo lệ cũ.

[133] Ngày Kỷ Tỵ, Chuyển vận sứ Thiểm Tây xin đặt Ty Khai thác gỗ ở các nơi như Tây Sơn, Hồ Điền, Kiêu Thủy thuộc Lũng Châu để phục vụ nhu cầu biên phòng, được chấp thuận.

(Ngày Giáp Tuất tháng 12, việc Trương Cát đặt trường khai thác gỗ có thể liên quan đến việc này[17]. Nên tham khảo.)

[134] Đêm ngày Canh Ngọ, ở phía đông bắc Ngũ Nhạc Quán mới xây tại kinh đô, trong đám mây đen xuất hiện sao sáng như ban ngày, có hình dáng linh kỳ, cờ xí, giáp trượng, người xem hoảng sợ ồn ào. Tu Quan sứ Đinh Vị tâu lên. Vua ban chiếu xây đạo trường.

[135] Bổ nhiệm Tam ban phụng chức Trịnh Kiểm làm Chủ bạ huyện Đặng Thành, Quốc tử giám thuyết thư. Kiểm thông hiểu kinh sách, giảng giải hay, các quan trong triều tiến cử, được thử nghiệm ở Quốc học rồi bổ nhiệm.

[136] Ngày Nhâm Thân, phong Uyển nghi Dương thị làm Thục phi. Ban đầu, Hoàng hậu làm Tu nghi, phi làm Uyển nghi, địa vị gần như ngang hàng với Hoàng hậu. Khi Vua lên Thái Sơn phong thiện, tế Hậu Thổ, cúng tế Thái Thanh cung, mỗi lần tuần du đều đi theo, ân sủng không ai sánh bằng. Phi thông minh, có trí tuệ, khéo léo phụng sự và thuận theo Hoàng hậu không hề trái ý, nên Hoàng hậu yêu quý, do đó dù được sủng ái nhưng phi không bao giờ lấy đó làm điều gây hiềm khích. Khi nhận sách phong, Vua không muốn các phiên thần dâng lễ chúc mừng, không ban chiếu ra ngoài triều, chỉ sai học sĩ soạn chiếu giao cho Trung thư. Hôm sau, tể tướng tâu rằng việc ban ân trong cung là việc mừng của triều đình, bề tôi không thể thiếu lễ, xin cho Khách tỉnh theo lệ nhận lễ chúc mừng. Vua miễn cưỡng đồng ý.

[137] Ngày Quý Dậu, lấy Nội điện Sùng ban, Nhung Lô châu Đô tuần kiểm sứ Vương Hoài Tín làm Cung bị khố Phó sứ, lại lấy Thị cấm, Tri Giang An huyện Tống Bôn làm Cáp môn Chỉ hầu kiêm Dục Tỉnh Giám Tuần kiểm sứ. Những người khác được thăng bổ khác nhau. Khang Huấn vì tử trận, cho bốn con làm quan. Đây là phần thưởng công dẹp man.

(Thực lục bắt đầu ghi việc Hoài Tín dâng công trạng dẹp man ở đây, sai lầm lớn. Việc ban thưởng lâu không thực hiện, nên các quan Xu mật đều bị bãi chức. Nay gạch bỏ.)

[138] Chuyển vận sứ Tử Châu lộ Khấu Giam tâu: “Nha hiệu Phú Thuận Giám, Lô Châu là Triệu Kế Long cùng các thuộc hạ dẫn dắt bọn Bạch Truỵ tử đệ, có nhiều công lao, xin bổ nhiệm làm Nhiếp Châu Tư mã. Tri Nhung Châu Mã Thủ Tuân phòng giặc có công, tại chức đủ năm, mong được thăng chức và lưu nhiệm. Tiến sĩ Lô Châu Bạch Cố chiêu mộ hương đinh theo quân, xin cho thi từ nghệ.” Đều được chấp thuận.

[139] Chiếu miễn thuế cho hai huyện Nguyên Thị và Hoạch Lộc của Trấn Châu vì bị mất mùa.

[140] Ngày Giáp Tuất, sai sứ đem ba con ngựa của Vua ban cho Vương Đán.

[141] Ngày Ất Hợi, Xu mật sứ Vương Khâm Nhược bị bãi chức, giáng làm Lại bộ Thượng thư, Trần Nghiêu Tẩu làm Hộ bộ Thượng thư, Phó sứ Mã Tri Tiết làm Dĩnh Châu Phòng ngự sứ.

Khâm Nhược tính khéo léo, dám làm những việc giả dối, Tri Tiết coi thường nhân cách của ông ta, chưa từng tùy ý theo.

Vua từng ban thơ về tuyết vui cho các quan cận thần, nhưng lại dùng nhầm vần. Vương Đán muốn tâu lên Vua, Khâm Nhược nói: “Thơ của thiên tử, lẽ nào lại lấy quy cách của Lễ bộ để xét!” Vương Đán bèn thôi. Khâm Nhược lui ra, liền bí mật tâu lên. Sau đó Vua dụ hai phủ rằng: “Bài thơ ban trước, nếu không có lời của Khâm Nhược, suýt nữa bị mọi người chê cười.” Vương Đán chỉ vâng dạ, Tri Tiết liền vạch rõ tình trạng gian trá của ông ta, Vua cũng không trị tội.

Mỗi khi Khâm Nhược tâu việc, thường mang theo mấy tờ tấu, nhưng chỉ đưa ra một hai tờ, còn lại đều giấu đi. Sau khi lui ra, lại lấy ý mình làm ý Vua mà thi hành. Tri Tiết từng trước mặt Vua nhìn Khâm Nhược nói: “Tấu trong lòng sao không đưa hết ra?” Khâm Nhược đang được Vua yêu quý, Tri Tiết càng không chịu kém, nhiều lần tranh cãi trước mặt Vua.

Khi Vương Hoài Tín và những người khác dâng công trạng bình định man tộc, Xu mật viện bàn việc ban thưởng. Khâm Nhược và Nghiêu Tẩu xin thăng một bậc, nhưng Tri Tiết nói: “Các quan biên cương lâu nay không có người lập công, xin ban thưởng lớn để khích lệ những người khác.” Bàn cãi mãi không quyết định. Vua thúc giục, Tri Tiết tức giận, bèn đối mặt vạch tội ngắn của Khâm Nhược. Sau đó không kịp tâu bẩm, liền siêu thăng chức cho Hoài Tín và những người khác.

Vua nổi giận, bảo Hướng Mẫn Trung và những người khác rằng: “Khâm Nhược và những người khác bàn việc thưởng cho Hoài Tín, kiên quyết nói rằng không giống như trường hợp Thị Kỳ Húc, phải thưởng thêm. Trẫm bảo họ: ‘Tước thưởng có công, quốc gia không tiếc.’ Vì Hoài Tín đến báo, Xu mật viện không có chút thưởng nào, chỉ mong được như trường hợp Thị Kỳ Húc là may. Khâm Nhược và những người khác tâu, sẽ làm tờ tâu xin chỉ dụ. Nay lại không giống như những gì đã tâu, không làm tờ tâu, cũng không dâng sớ, liền thẳng tay gửi tờ tâu đến Trung thư, Hoài Tín được làm Phó sứ Cung bị khố. Ban đầu thì trì hoãn không thi hành, cuối cùng lại tự ý siêu thăng, dám lấy quyền ban tước thưởng cao thấp làm trách nhiệm của mình, người ở cương vị gần như vậy, Trẫm phải thúc thủ.”

Vua lại nói: “Khâm Nhược và những người khác bất hòa khác thường, việc lớn nhỏ đều tranh cãi. Trẫm đối với bề tôi chỉ có thể như vậy, còn lễ thờ Vua thì người ta đều nhìn thấy! Tri Tiết lại công kích khắp triều đình, Thẩm hình, Thẩm quan, hai chế, ba quán, gián quan, ngự sử, đều không có người, ông ta khinh người trọng mình như vậy!”

Do đó, cả ba người đều bị cách chức. Khâm Nhược và Nghiêu Tẩu, mỗi người giữ nguyên chức cũ. Tri Tiết giữ chức Kiểm hiệu Thái phó, Tuyên huy Bắc viện sứ kiêm Phó sứ, chỉ được bổ làm Phòng ngự sứ, sau đó ra làm Tri châu Lộ Châu.

(Sách 《Vương Đán Di Sự Lục》 chép việc Đán quở trách Khâm Nhược và khuyên Vua trở vào cung, khác với chính sử. Xét lúc này Đán đang đi sứ Duyện Châu, nếu vài tháng trước, Vua vốn không có ý cách chức Khâm Nhược và những người khác. Vua cách chức Khâm Nhược và những người khác, thực ra là vì không đợi tâu bẩm mà tự ý bổ nhiệm quan chức[18], không phải chỉ vì tranh cãi với Vua, e rằng 《Di Sự Lục》 không thể tin hoàn toàn, nay không lấy, lấy sách 《Tây Phủ Bái Bãi Lục》 của Trần Dịch chép lời Vua mà ghi chép đầy đủ.)

[142] Thượng thư Binh bộ Khấu Chuẩn được bổ nhiệm làm Xu mật sứ, Đồng bình chương sự, do Vương Đán tiến cử. Chuẩn chưa kịp tạ ơn, Vua sai Hướng Mẫn Trung tạm quyền phát khiển công việc Xu mật viện. Từ đó, các chức Xu mật đều bị bãi bỏ, liền lệnh cho tể thần tạm quyền phát khiển như trường hợp của Mẫn Trung.

[143] Vua sai trạm dịch triệu quan Sát sứ Đồng châu, Tri châu Trấn châu Vương Tự Tông, Nội khách sứ, Phòng ngự sứ Gia châu, Đô bộ thự Phu Diên Tào Lợi Dụng về kinh.

[144] Ngày Bính Tý, Vua hạ chiếu cho những dân lưu tán ở Lệ châu do nước lụt trở về làm ăn được miễn thuế ba năm.

[145] Ngày Đinh Sửu, Tư không trí sĩ Trương Tề Hiền mất. Vua rất thương tiếc, sai trung sứ đến tế, ban cho 500 tấm vải lụa, cùng với lúa gạo tương đương. Tặng chức Tư đồ, thụy là Văn Định. Tề Hiền bốn lần giữ chức ở hai phủ, chín lần ngồi ở bát tọa, tuổi già về hưu với tước Tam công, hưởng phúc thọ, ít người sánh kịp. Tuy nhiên, ông không chú trọng lễ nghi, thích lo việc sinh kế, hai lần làm tể tướng, nhiều lần khởi xướng các vụ án lớn, lại cùng Khấu Chuẩn tranh giành nhau, vì thế người đời chê trách.

(Tề Hiền được phục chức tể tướng vào tháng 10 năm Hàm Bình thứ nhất, đến tháng 11 năm thứ ba bị bãi chức. Truyện chép rằng ông nhiều lần khởi xướng các vụ án lớn, đây vốn không phải việc nhỏ, nhưng thực lục và chính sử đều không thấy ghi chép, không rõ vì sao? Lúc đó Khấu Chuẩn cũng đang ở ngoài, không rõ việc tranh giành nhau là gì? Tề Hiền lúc đó giữ chức Hữu bộc xạ, phụng triều thỉnh, cùng tể tướng Hướng Mẫn Trung tranh cưới vợ của Tiết Duy Cát, Mẫn Trung vì việc này bị bãi chức, nghi rằng truyện chép việc tranh giành nhau là chỉ Mẫn Trung. Cần xem xét thêm.)

[146] Ngày Mậu Dần, Tần châu báo cáo nước lũ ở trại Định Tây dâng cao, nhiều người chết đuối. Vua hạ chiếu sai sứ ban tiền, người chết được quan phủ chôn cất, lại hạ chiếu tế lễ.

[147] Ngày Canh Thìn, Vua làm bài thơ “Mẫn nông ca”, lại làm bài thơ “Độc thập nhất kinh thi”, ban cho các quan cận thần họa theo. Mỗi khi Vua làm thơ, thường sai các tể phụ, tông thất, hai chế, ba quán, quan thuộc Bí các họa theo, mà các học sĩ Tư chính điện, Long đồ các họa theo nhiều nhất. Đến đây, vịnh khắp kinh sử[19], các quan Tam ty, Gián quan, Ngự sử cũng có người tham gia họa theo. Nếu là lễ lớn khánh thành hay yến hội, thì trăm quan đều làm thơ. Sau đó, Mai Tuân và những người khác giữ chức quán mà ở ngoài, dâng biểu xin họa theo vần, Vua xuống chiếu chép bản gửi theo trạm dịch ban cho.


  1. Lệnh Phó sứ chế trí kinh độ phụng tự Trần Bành Niên: chữ 'Tự' nguyên bản là 'Lễ', căn cứ theo quyển 81 sách này, tháng 8 năm Đại Trung Tường Phù thứ 6, ngày Tân Dậu, và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 20, mục Yết Thái Thanh cung, sửa lại.
  2. Nguyên Mẫu dùng màu trắng: chữ 'Nguyên' nguyên bản là 'Lý', chữ 'dùng' bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 dẫn trên, sửa lại và bổ sung. Xem đoạn trên trong sách này có ghi 'Nguyên Mẫu Kinh Sư'.
  3. Các bản đều ghi 'ban cho đạo sĩ và nữ quan áo tía, pháp danh'. Xét theo ý nghĩa, nghi ngờ 'nữ quan' nên là 'nữ quan'.
  4. 《Tư Mã Quang ký văn》 chép khác với 《Quốc sử》, chữ 'quốc' nguyên bản thiếu, theo Tống bản và 《Tống toát yếu》 bổ sung.
  5. Nghiêm cảnh đều ngừng, chữ 'ngừng' nguyên là 'chuẩn bị', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách 《Thái Thường Nhân Cách Lễ》 quyển 21 mà sửa
  6. Giao cho bản viện cùng với quan đái ngự khí giới kiểm tra, 'bản viện' nguyên bản là 'bản huyện', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 quyển 25, mục 3 mà sửa
  7. Bất quá lưỡng tam thiên 'lưỡng' Tự nguyên thoát, cứ tống bản, tống toát yếu bản cập tống hội yếu chức quan tam chi nhị tứ bổ.
  8. Đa thị ưu chuyển 'Thị' nguyên tác 'Chí' , cứ đồng thượng thư cải.
  9. 'đầy đủ' nguyên văn là 'cùng', căn cứ theo bản Tống và bản Tống Toát Yếu sửa lại
  10. 'Trú sư' nguyên bản là 'Ban sư', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Tục Tư trị thông giám》 quyển 31 sửa lại.
  11. Chữ 'tiền' nguyên bản thiếu, theo bản Tống và bản Tóm tắt Tống bổ sung.
  12. Tri Tần Châu Trương Cát: 'Tần Châu' nguyên bản viết 'Thái Châu', căn cứ theo quyển 83 năm Đại Trung Tường Phù thứ 7 tháng 11 ngày Kỷ Sửu trong sách này, Tống hội yếu phần Phiên Di 6-1, Tống sử quyển 492 phần Thổ Phồn truyện mà sửa.
  13. 'Cụ sự bố cáo thiên hạ' chữ 'cụ' nguyên là 'kì', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. Xem thêm 《Tống hội yếu》 chức quan 15-4.
  14. 'Chiếu tự kinh chí Duyện Châu' chữ 'kinh' nguyên là 'kim', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tục thông giám》 quyển 31 sửa.
  15. 'Thượng dĩ khoảnh tuế Ngoại Lãng tộc Đỗ Khánh Quang đẳng suất bộ hạ lai quy' chữ 'bộ hạ' nguyên là 'bộ mục', theo các bản, hoạt tự bản sửa.
  16. 'Nghi' nguyên là 'Nghị', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 18 sửa.
  17. 'Dữ' nguyên là 'Vu', theo bản các sửa.
  18. thực ra là vì không đợi tâu bẩm mà tự ý bổ nhiệm quan chức 'duyên' nguyên văn là 'lục', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các bản sửa.
  19. Đến đây, vịnh khắp kinh sử, chữ 'Kinh' nguyên là chữ 'Kế', theo sách trên đổi lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.