"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 83: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 7 (GIÁP DẦN, 1014)

Từ tháng 7 năm Đại Trung Tường Phù thứ 7 đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Đinh Hợi, Đô Kiềm hạt Kinh Nguyên lộ là Tào Vĩ tâu: “Trước đây, Trấn Nhung quân báo rằng người phương bắc ở Vạn Tử Tập tập hợp người và ngựa, mưu tính cướp bóc. Bèn sai Trú bạc Đô giám Ngõa Đình trại, Điện trực, Các môn Chỉ hậu là Trương Trọng Đạt, Chỉ huy sứ, Ngự tiền Trung tá Mã quân Đô đầu là Trương Tiệp, Điện trực là Lý Đạo dẫn quân đóng ở Thạch Môn. Trọng Đạt và Tiệp tự ý vượt qua Thạch Môn, giao chiến với giặc ở Thiên Ma Xuyên. Đạo theo quân tiếp ứng, quân địch bèn rút lui. Trọng Đạt trúng tên lạc mà chết.”

Chiếu chỉ truy xét tội Tiệp vi phạm mệnh lệnh, tiến quân sâu vào địch, giáng làm Tán Chỉ huy sứ thuộc Quân đầu ty. Ban chiếu khen ngợi Đạo. Cho con của Trọng Đạt làm Tam ban Tá chức, ban tên là Hiển Trung.

Vĩ lại tâu: “Hai chỉ huy Quảng Nhuệ và Phiên Lạc ở Vị Châu đã giết giặc ở Thiên Ma Xuyên, chém được vài chục thủ cấp, cắt hơn trăm tai mũi, thu được khí giới và ngựa. Lại có tộc Ngụy Mai đánh úp quân địch, giết tướng của chúng, chém hơn nghìn thủ cấp, bắt được 800 ngựa, khí giới tương đương.”

[2] Ngày Mậu Tý, Tri Khai Phong phủ là Vương Thự tâu: “Phủ này giải cử nhân, trước đây mỗi kỳ thi đều ghi tên và tấu chương đóng dấu phủ, dễ bị lộ thông tin. Từ nay xin cấp một ấn riêng.” Theo lời tâu.

[3] Ngày Kỷ Sửu, Hữu ty tâu: “Miếu Hiên Viên ở Phường Châu, xin theo chế độ của Đường Minh Hoàng, dùng chúc văn xưng hiệu Thánh Tổ, tự xưng là Tự Hoàng đế thần mỗ dám kính cáo, lễ vật không dùng đồ mặn và máu.” Chiếu chuẩn.

[4] Ngày Canh Dần, lại lấy Hộ bộ Thượng thư Trần Nghiêu Tẩu làm Quần mục Chế trí sứ.

[5] Cho cựu Huyện úy Vọng Đô là Ngô Trí Nhượng làm Tri huyện Đường Dương, cựu Ty lý Tham quân Trì Châu là Từ Đãi Vấn làm Tri châu Thấp Châu, ban 50.000 tiền. Trí Nhượng và Đãi Vấn trước kia bị Khiết Đan bắt, tự trốn về nên được khen thưởng. Sau đó, có nhiều người trở về, đều được phong chức và ban vật.

[6] Ngày Tân Mão, lấy Triệu Trinh, chuyển vận sứ lộ Ích Châu, Binh bộ viên ngoại lang, làm Công bộ lang trung; Khấu Giam, chuyển vận sứ lộ Tử Châu, Điện trung thị ngự sử, làm Thị ngự sử, lại thăng thêm một bậc, vì có công vận chuyển lương thực.

[7] Khai Phong phủ thi cử nhân, theo lệ cũ, các quan coi thi thay phiên niêm phong đầu quyển thi. Dương Khản, Trực tập hiền viện, xin cử quan khác làm việc này, được chấp thuận.

[8] Tiền Duy Trị, Tả Thần Vũ thống quân, Kiểm hiệu Thái sư, mất. Vua nghe nói con cháu ông rất đông, thiếu thốn việc hôn nhân, đặc biệt ban thưởng hậu hĩnh. Nhân đó hỏi Hướng Mẫn Trung: “Nhà này có muốn được chiếu chỉ tổ chức tang lễ không?” Mẫn Trung đáp: “Các quan nghèo thường ngại việc tang lễ do triều đình lo liệu.” Vua bèn hạ chiếu bãi bỏ việc tổ chức tang lễ theo chiếu chỉ.

Ban đầu bàn việc tặng quan, Mẫn Trung dẫn lệ của thống quân Trần Thừa Chiêu và Mạnh Lương, nên được tặng chức bảo phó Đông cung. Vua cho rằng Duy Trị là hậu duệ trung hiếu, đặc biệt tặng Thái sư, cho bốn con ông làm quan, cùng các em trai bên ngoại, con rể, thân tín[1], đều được cất nhắc.

[9] Ngày Nhâm Thìn, Quảng Châu báo tin Thiệu Diệp, Tri châu, Hữu Thái trung đại phu, mất[2]. Thành châu gần biển, mỗi khi tàu nước ngoài cập bến thường bị bão lớn làm hại. Diệp cho đào hào trong để thuyền bè qua lại, bão không gây hại được. Khi ông bệnh, quan lại, dân chúng, thương nhân nước ngoài tụ tập ở chùa làm lễ cầu nguyện. Khi ông mất, nhiều người khóc lóc.

[10] Ngày Giáp Ngọ, hạ chiếu cho các nước Giao Chỉ, Chiêm Thành, Đại Thực, Xà Bà, Tam Phật Tề, Đan Lưu Mi, Tân Đồng Lung, Bồ Đoan cử sứ giả đến cống, nơi nào có sứ giả đến thì phái quan đi cùng đưa về kinh, việc tiếp đãi dọc đường phải chu đáo.

[11] Ngày Ất Mùi, Vua xem biểu của quan coi việc lịch số ở Ty Thiên giám xin thăng chức. Nhân đó nói với tể tướng rằng: “Lịch tượng là môn lớn của phái âm dương, dùng để suy tính đạo trời, sắp xếp thời tiết cho con người; việc xét điềm lành dữ, tuy có thuật hay, cũng phải nhờ đó mà thành. Những năm gần đây, chỉ có Thu quan chính Triệu Chiêu Dật là chuyên tâm về nghề ấy. Lúc đầu, Vương Hi Nguyên dâng lịch Nghi Thiên, chỉ có Chiêu Dật xin tính lại, Hi Nguyên không nghe. Hai năm sau, lịch quả nhiên sai. Chiêu Dật nói độ số của sao Huỳnh Hoặc hơi sai, khi xét nghiệm cũng đúng như lời ông ấy. Ông ấy thường ngày tính toán chưa từng rời tay, Hi Nguyên cũng phục ông ấy là tinh chuyên, nói rằng người sau ít ai bằng.”

(Hi Nguyên là con của Xử Nột. Chiêu Dật không rõ người ở đâu, trong truyện của Hi Nguyên chép là Chiêu Ích, nay theo thực lục. Triệu Chiêu Ích, xem tháng 5 năm Chí Đạo thứ 2.)

[12] Ngày Bính Thân, đổi lệnh cho Vương Khâm Nhược làm Thiên thư đồng khắc ngọc phó sứ. Vì Khâm Nhược đã bãi chức Xu mật, danh vị cũng nên giảm bớt.

[13] Ngày Canh Tý, chiếu cho các cử nhân ở Ích Châu từ nay ngoài số người được tiến cử theo định lệ, được thêm ba người. Vì đấy là nơi xa xôi, có nhiều người học giỏi, nên ưu đãi.

[14] Ngày Tân Sửu, Lý Công Uẩn ở Giao Châu đánh bại giặc Hạc Chạ ở Phương Lâm Châu, chém được mấy vạn đầu, bắt được tướng giặc là Dương Trưởng Huệ, sai sứ đến cống phương vật và báo tin thắng trận.

[15] Ngày Nhâm Dần, Vương Tập Tiên trước làm Tam ban phụng chức, coi việc ở Nhiêu Châu, dùng phép trái luật bắt dân châu đánh đòn, treo ngược lên cột, bị cách chức. Đến nay nhờ ơn xá, Vua ghét hắn ngược dân, sai bổ làm Tán giáo luyện sứ ở Khai Phong phủ.

[16] Ngày Giáp Thìn, lấy Vương Tự Tông và Tào Lợi Dụng đều làm Kiểm hiệu thái bảo, sung chức Xu mật phó sứ.

(Không mang chính quan, là theo lệ của Triệu Phổ.)

[17] Chiếu cho các sứ thần trú bạc và giám tỉnh ở Dục Tỉnh giám thuộc Lô Châu, từ nay ai khéo vỗ về người Man, giữ yên biên giới, khi về triều sẽ bàn khen thưởng.[3]

[18] Ngày Mậu Thân, Vương Đán từ Duyện Châu về, tâu rằng: “Hà Bắc chuyển vận sứ Lý Sĩ Hoành, Trương Sĩ Tốn, Tri Duyện Châu Vương Trăn (người Nhữ Âm), Tri Trường Viên huyện Phạm Thức (chưa rõ), Kinh Đông chuyển vận sứ Du Hiến Khanh, Tri Thiền Châu Trương Vũ Khuê, Đồng Giám tu Cảnh Linh cung Lô Thủ Minh, Kinh Đông Đồng Đô Đề cử Tuần kiểm sứ Lý Hoài Tín (Thủ Minh, Hoài Tín chưa rõ), đều là người làm việc tài giỏi, xin ban chiếu khen ngợi. Thông phán Lai Châu Từ Hoài Thức, Tri Tề Châu Tôn Mộng Hiệp, Thông phán Diêm Duy Cát, theo dư luận thì không có tiếng tăm gì về việc trị dân, xin lệnh cho Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục ty xét lại.” Chiếu chuẩn y.

Có người nói với Vương Đán: “Ông là Nguyên tể, vâng mệnh đi sứ, mà những quan lại ông tiến cử chỉ được khen ngợi, không được thăng chức, như vậy có phải là quá khinh thường không?” Vương Đán đáp: “Đã tiến cử họ, lại xin dùng ngay, thì ơn trên đều do mình mà ra, đó là điều đại kỵ của bề tôi.”

Nội thị Chu Hoài Chính đi cùng Vương Đán, có người xin gặp riêng, ông đợi mọi người tụ tập đông đủ, chỉnh đốn y phục rồi mới tiếp, bàn việc xong thì lui, không bao giờ tư thông. Người đương thời khen là đắc thể.

[19] Ngày Tân Hợi, chiếu rằng ruộng đất của dân ở Giang Nam, Quảng Nam trong thời gian bị chiếm đóng đều lấy người đang canh tác làm chủ, nếu có kiện tụng thì quan phủ không được thụ lý, sau khi khôi phục sẽ xử theo pháp luật.

[20] Chiếu cho Lại bộ Thượng thư Vương Khâm Nhược, Hộ bộ Thượng thư Trần Nghiêu Tẩu được lĩnh lương thực bằng tiền mặt, và tăng thêm 30 nghìn.

[21] Tháng 8, ngày Giáp Dần, đặt chức Cảnh Linh cung sứ, lấy Trung thư Thị lang kiêm Hình bộ Thượng thư, Bình chương sự Hướng Mẫn Trung làm chức này.

[22] Ngày Ất Mão, chiếu rằng dân hộ ở Giang Nam, Lưỡng Chiết bị thiên tai trong năm nay, cùng những khoản thuế hạ, nợ đọng, cứu tế trước đây[4], đều được miễn.

[23] Ngày Bính Thìn, dời Kinh Nguyên lộ Chỉ huy sứ Trương Kế Năng làm Phu Diên lộ Chỉ huy sứ. Trước đó, những hộ nội thuộc giết người Hán chỉ bị phạt tịch thu gia súc, nhưng Kế Năng lại xử theo luật thường, nên người Nhung sợ mà không dám phạm tội. Triệu Đức Minh tuy nhận mệnh triều đình, nhưng các bộ lạc vẫn không ngừng quấy nhiễu biên giới. Kế Năng hàng ngày bắt quân lính chặt tre làm thẻ, ghi chữ lên đó, nói rằng để ghi công tướng sĩ giết giặc. Giặc nghe tin càng thêm sợ hãi.

[24] Giám áp trại Vĩnh Ninh là Dương Quang Tập bị tước chức, phối lưu đến Đặng Châu. Ông bị kết tội tự ý dẫn quân ra khỏi trại đánh nhau với tộc Pha Trung, lại vu cáo trong quân có âm mưu giết Tư mã Trương Tòng Cát.

(Tần Châu có trại Vĩnh Ninh, Phủ Châu có bảo Vĩnh Ninh, sự việc này thuộc về Tần Châu.)

[25] Ngày Mậu Ngọ, Hình bộ Lang trung, Trực sử quán Trương Phục bị giáng làm Công bộ Lang trung; Tả Tư gián, Trực sử quán Thôi Tuân Độ bị giáng làm Tả Chánh ngôn, chức vụ như cũ, và đều bị bãi chức Tu khởi cư chú, vì tội ghi chép trong lễ cung tạ đàn trời đất, thay “Hạo Thiên Thượng Đế” thành “Thiên Hoàng Đại Đế” và tự ý thêm vị thánh tổ vào hàng phối hưởng. [5]

[26] Ngày Canh Thân, các cơ quan chuẩn bị nghi trượng, uy nghi đạo môn, nhạc giáo phường, từ đạo trường điện Vạn Tuế đưa thiên thư đến hậu trướng điện Triều Nguyên để khắc ngọc, Vua thân hành rót rượu dâng lễ. Từ đó, sứ khắc ngọc mỗi ngày đến đốt hương, phó sứ thay nhau đến xem việc khắc chữ, các phần hiệu, đề ký, năm tháng đều do Vua tự tay viết.

[27] Ngày Tân Dậu, xuống chiếu rằng từ nay các sứ thần Tam ban nếu cha mẹ mất thì không được tạm giữ bổng lộc.

[28] Ngày Giáp Tý, lấy Tham tri chính sự Đinh Vị làm Tu Cảnh Linh cung sứ, Quyền Tam ty sứ Lâm Đặc làm phó. Sùng nghi sứ Lam Kế Tông làm Đô giám.

[29] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu rằng từ nay các nội thần nắm việc cục vụ đủ ba năm, các cơ quan phải khảo xét thành tích báo lên. Lúc đó có người dâng thư nói rằng bổng lộc của sứ thần hai tỉnh phân phối không đều, nên ban hành điều ước này.

[30] Cấp áo da cừu và tất dạ cho tướng sĩ tuần biên Hà Đông.

[31] Ngày Bính Dần, Chuyển vận sứ Tử Châu lộ Khấu Giam tâu: “Công thự của bản sứ đặt tại Tử Châu và Toại Châu, cách xa đất Nhung Châu và Lô Châu, nếu có việc biên cảnh khẩn cấp sẽ khó ứng phó kịp thời. Xin dời đến Tư Châu.” Triều đình đồng ý.

[32] Đổi tên trại Kiêu Bề tại Đại Lạc Môn, Tần Châu thành Uy Viễn.

[33] Bí thư giám, phân ty Tây Kinh Dương Ức vì bệnh đã khỏi xin vào triều. Vua nói với Vương Đán: “Dương Ức tính tình cương trực, không a dua theo ai, văn học chắc chắn không ai sánh bằng, nhưng có người nói ông ấy hay bàn bạc việc triều chính, là sao vậy?” Vương Đán đáp: “Đó là do người không ưa Dương Ức, nên vu cáo ông ấy mà thôi. Dương Ức nhận ơn sâu của quốc gia, không phải loại người vô tri, nếu có lời đùa cợt quá đáng thì có thể có, nhưng việc chê bai triều đình thì chắc chắn không có.”

Ngày Mậu Thìn, Vua sai Dương Ức làm Tri châu Nhữ Châu. Sau đó, Giám sát ngự sử Khương Tuân tấu rằng Dương Ức trước đây vì mẹ bệnh, tự ý rời khỏi triều đình, lẽ ra nên ở ẩn chốn thôn dã, hết lòng phụng dưỡng mẹ già, bỗng nhiên xin nhận chức quận, rõ ràng là ép buộc nhà Vua, xin bãi chức ông ấy.

Vua nói: “Dương Ức trước đây xin về quê, vốn không có ý định ở lại phụng dưỡng mẹ mãi mãi, nay bệnh đã khỏi xin vào triều, nên đặc cách cho làm quận, Khương Tuân chưa hiểu ý này mà thôi.” Bèn hạ chiếu cho Trung thư triệu Khương Tuân để giải thích.

Khương Tuân là người Trường Sơn.

(Theo 《Thực lục》 và 《Bảo huấn》 đều nói Dương Ức xin vào triều, chỉ có Khương Tuân nói Dương Ức đột nhiên xin nhận chức quận, không biết tại sao? Hay Khương Tuân nghe không rõ, hoặc 《Thực lục》 và 《Bảo huấn》 đều sai, cần xem xét thêm.)

[34] Ngày Kỷ Tỵ, Lý Công Uẩn ở Giao Châu lại sai sứ đến cống. Học sĩ viện soạn chiếu ban cho Lý Công Uẩn có câu “khéo vỗ về dân chúng”. Vua nói: “Lý Công Uẩn ban đầu không tốt với họ Lê[6], man di không hiểu, có thể nghi ngờ triều đình ám chỉ mình, nên đổi lại rồi ban cho.”

[35] Ngày Nhâm Thân, ban chiếu rằng từ nay các quan khám xét nên suy xét kỹ lưỡng bản án, không được dựa vào lời tấu ban đầu để ép buộc phạm nhân nhận tội, dẫn đến oan sai.

[36] Chiếu rằng những vụ tranh chấp trong kinh thành nếu người dân muốn đưa đến Khai Phong phủ thì đều được chấp nhận, các tuần kiểm trong khu vực không được tự quyết định. Các tuần kiểm ở châu ngoài cũng theo quy định này, đều đưa đến cơ quan có thẩm quyền.

[37] Ngày Giáp Tuất, sông Hoàng Hà vỡ đê ở đập Đại Ngô, châu Thiền. Chiếu cho dân di chuyển đến nơi cao, quan phủ cấp thuyền đưa qua sông. Sai sứ đi tu sửa đê, huy động hàng nghìn nhân công, xây đê mới dài 240 bước, nước sông mới chảy theo đúng hướng.

[38] Bắt đầu cử một viên quân chủ đô ngu hậu kiểm tra việc huấn luyện ở các doanh trại ngoài thành mới.

[39] Phùng Chửng, tri phủ Hà Nam, mãn nhiệm kỳ xin thay người. Trung thư muốn điều Trương Bỉnh từ châu Tương đến thay. Vua nói: “Bỉnh trước đây ở Hà Nam, thanh danh không tốt, không thể dùng.” Vương Đán nói: “Từ chức lang trung trở lên hiện thiếu người, các phó sứ tam ty gần đây thường được thăng chức để ra ngoài lĩnh đại phiên. Hiện các chức quan đều thấp, e rằng chưa thể thăng tiến, nhưng Tây Kinh trước đây đã có thị ngự sử trấn giữ.” Bèn lấy Triệu Tương, phó sứ Diêm Thiết, viên ngoại lang Binh bộ, làm lang trung Hình bộ, trực Chiêu Văn quán, đến thay Chửng.

[40] Ngày Bính Tý, ban chiếu: “Từ nay, sau khi nhận sắc mệnh cử người đi phát giải, tri cử, lập tức sai một viên các môn chỉ hậu dẫn đi khóa túc, không được nói chuyện với đồng liêu, ai vi phạm sẽ bị các môn đàn hặc. Nếu ngựa chưa đến, lập tức cấp ngựa từ trạm.” Trước đây, Hàn lâm học sĩ Vương Tằng, tri chế cáo Tiền Duy Diễn nhận sắc mệnh ở miếu Vũ Thành Vương để khảo thí những người kinh minh hành tu, phục cần từ học, đã nói chuyện riêng với Hàn lâm học sĩ Lý Duy ở điện Trường Xuân, lại đến Viện Thẩm hình chờ ngựa, lưu lại lâu. Duy và Tằng cùng làm việc ở Hàn lâm, vợ Tằng là cháu gái của Duy, lúc đó vợ Tằng sắp sinh, nên Tằng nhờ Duy lo việc nhà. Phó sứ Đông thượng các môn Ngụy Chiêu Lượng nghi ngờ Tằng nhờ vả Duy, bí mật tâu lên, viên áp bạn các môn chỉ hậu Tào Nghi cũng tấu trình. Lập tức cho Tằng, Duy Diễn giải trình, lời khai giống Duy, nên tha cho Tằng, do đó có chiếu này.

(Nghi là con của Tào Xán.)

[41] Ngày Đinh Sửu, đem bài tụng do Vua ngự chế về việc triều yết Thái Thanh cung, bia Minh Đạo cung, minh văn ở Thánh Tổ điện cho các quan cận thần xem.

[42] Sai Nội thị đô tri Diêm Thừa Hàn đem thánh tượng của Thái Tổ, Thái Tông đến an vị tại Hồng Khánh cung ở Nam Kinh.

[43] Phái sứ giả đi xem xét tình hình nước sông và đê ở Châu Lệ. Sứ giả về tâu rằng đê đã được đắp nhiều năm, chỉ may mắn tránh được vỡ đê, nhưng dòng nước chảy xiết và tràn bờ, đất bờ sông bị xói mòn thêm, phía nam thành thế nước sông cao đến hai ba trượng. Tri châu, Điện trung thị ngữ sử Tôn Xung canh giữ quá nghiêm ngặt, dân chuyên chở vật liệu đi trên đê cũng bị đánh. Bèn hạ chiếu chọn quan thay thế Tôn Xung.

[44] Các môn tâu: “Khi dẫn các sứ thần tam ban vào chầu ở điện Sùng Chính, có người xin ân điều gì một cách đường đột, Tuyên Huy viện theo lệ sẽ xét tội họ, nhưng các cơ quan chưa có điều khoản quy định. Từ nay, nếu có người đường đột khi được dẫn vào chầu, xin cho cơ quan phụ trách tâu lên, nếu không tâu thì để các môn và Quân đầu ty xét xử.” Chiếu chuẩn y.

[45] Ngày Mậu Dần, điện Chân Du hoàn thành, triệu các quan cận thần đến dâng hương, rồi mở tiệc chiêu đãi các quan tùy tùng, ban thưởng vật phẩm khác nhau.

(Thực lục chép là ngày này thượng lương, nay theo bản kỷ.)

[46] Ngày Canh Thìn, Tông Chính tự tâu: “Từ nay, xin cho trai lang, thất trưởng ở Thái Miếu, nếu tham dự đủ năm lần tế tự lớn mà không thiếu sót, thì giảm một bậc thăng chọn; nếu hoàn toàn không tham dự, thì giáng một bậc thăng chọn, và dù gặp ân xá cũng không được phóng thích để bổ nhiệm làm quan.” Theo lời tâu.

[47] Ngày Tân Tỵ, hạ chiếu rằng khi quân sĩ đồn thú ở Lĩnh Nam được thay về, mỗi người được cấp năm trăm tiền trang bị.

[48] Lấy quân sĩ bản thành được tuyển chọn ở Châu Ích, Châu Bành, thăng làm cấm quân, đi đồn thú ở Châu Nhung, đặt tên là Ninh Viễn, lương bổng như quân Trung Dũng.

(Theo truyện Khấu Giam chép: Khi giặc yên, Giam chọn một nghìn quân sĩ dũng cảm, chia làm năm bộ, cho thuộc vào cấm quân, làm chỉ huy Ninh Viễn, sai giữ Giám Dục Tỉnh. Khác với thực lục. Nên xét lại.)

[49] Tháng này, hạ chiếu rằng học sinh Quốc Tử Giám và con em đang học tập ở giám, trừ những người thực sự là dân Khai Phong phủ, mỗi người phải có một quan kinh triều làm người bảo lãnh, rồi mới được nhận vào thi, người bảo lãnh phải có giấy tờ đóng dấu đến giám.

[50] Chiếu cho Điếm trạch vụ mỗi năm nộp thuế lợi 140.197 quan tiền vào Nội tàng khố. Vì tiền không đủ chuẩn, từ nay lệnh đổi tiền Diêm viện 140.200 quan để sung vào.

[51] Tháng 9, ngày Giáp Thân mùng một, chiếu rằng từ nay Chế trí phát vận sứ không hạn chế phẩm hàm, vị trí xếp trên cả quan Đề điểm hình ngục.

[52] Ngày Ất Dậu, chiếu tuyển 4 viên Ký ban sứ thần làm Tuần kiểm bốn mặt kinh thành, cấp khí giáp cho cấm quân, tăng lương tháng.

[53] Ngày Bính Tuất, Chuyển vận sứ Tử Châu lộ là Khấu Giam xin lệnh cho Kiềm hạt ty Hạp lộ điều 50 lính cung nỏ thuộc cấm quân đến đóng ở Dục Tỉnh giám, Lô Châu. Được chấp thuận.

[54] Tối hôm đó, sao Hàm Dự lại xuất hiện.

[55] Ngày Kỷ Sửu, tăng 50 vạn quan tiền công dụng cho Hà Nam phủ.

[56] Câu đương Tam ban viện là Lý Duy tâu: “Sứ thần của viện thần, xin từ nay nếu không phải việc công khẩn cấp, hạn trong 7 ngày phải vào triều, rồi đến viện nhận việc. Nếu thiếu người không đúng kỳ, thì căn cứ theo tên do sở Tân thành môn trình lên để định người sai phái[7]. Ai vi phạm sẽ giao cho Tuyên huy viện xét tội.” Được chấp thuận.

[57] Ngày Tân Mão, trong cung ban ra ngự trát cho bề tôi và dân chúng trong thiên hạ, tôn xưng thánh hiệu của Ngọc Hoàng Đại Đế là Thái Thượng Khai Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chân Thể Đạo Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế, định ngày mùng một tháng giêng năm sau sẽ thân hành làm lễ cáo tế, rồi ban bố nghi thức. Trước đó, Vua đặt tượng Ngọc Hoàng ở Tư Phúc điện, đặt thánh hiệu mới soạn trong hộp, lạy hai lạy rồi giao cho Trung thư môn hạ, đưa xe đến hậu trướng Triều Nguyên điện. Sau đó lại nhận ngự trát, đặt án hương ở sân Sùng Đức điện, lạy hai lạy rồi giao cho Xu mật sứ đem đến Văn Đức điện tuyên đọc xong, Tả hữu chánh ngôn bưng hương, Lễ bộ thị lang đem ra, đặt ở Triều Nguyên điện.

[58] Ngày Quý Tỵ, dân châu Hãn đến Đăng Văn Kiểm viện tự đóng đinh vào tay tố cáo về ruộng đất, quan hữu ty cho rằng họ tự ý làm thương tật mình, nên xử trượng trước.

Vua nghe tin, nói với tể tướng: “Trẫm nhớ có cô gái châu Kỳ đến cửa khuyết tố cáo ruộng đất cho cha, rồi bị đánh trượng, thực ra cô ấy từ nghìn dặm đến, không phải vì ruộng mà vì cha. Việc này nếu có oan khuất, sẽ tổn thương hòa khí.” Liền hạ chiếu đưa về bản châu xử lý.

[59] Ngày Giáp Ngọ, Cao Văn Tùng, chức Duyên biên đô tuần kiểm châu Thạch Thấp, Phòng ngự sứ châu Hạp, qua đời. Vua hạ chiếu sai trung sứ hộ tang về châu Tấn, phong chức cho con cháu. Văn Tùng từ khi về triều, được người đời khen là trung thành và biết biến thông. Ông ở lâu tại châu Thạch, được lòng quân dân. Lại có mấy nghìn hộ người Phiên trước theo ông, Vua lo họ không có chỗ nương tựa, liền phong con trưởng của Văn Tùng là Kế Thăng làm Sùng nghi phó sứ, kế nhiệm chức vụ của cha.

[60] Ngày Ất Mùi, Vương Thự, quyền Tri phủ Khai Phong, cùng các phán quan, suy quan, vì xử án sai, bị phạt tiền. Trước đây, pháp tự theo chiếu, trưởng lại bị dân kiện, phạt xong thì thay người khác. Vua cho rằng việc ở kinh đô phức tạp, khác với ngoại quận, chỉ lệnh tăng phạt thêm mười cân vàng, rồi cho giữ nguyên chức vụ.

[61] Ngày Đinh Dậu, Tam ty mượn tám nghìn lạng bạc trong kho nội tạng.

[62] Ngày Mậu Tuất, quần thần dâng tôn hiệu Ngọc Hoàng, đến cửa khuyết dâng biểu chúc mừng. Vua hạ chiếu dụ các quan lại châu quận, khi làm lễ tiến cáo, phải tuân thủ nghiêm túc, nếu có sơ suất, giao cho chuyển vận sứ xét xử. Lệnh các biểu sớ trong ngoài không được dùng liền hai chữ như “Chấp phù”, “Ngự lịch”.

[63] Cao Huệ Liên, Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây lộ, tâu rằng thuyền giặc Giao Châu đậu ở cửa sông trại Như Hồng, đã dặn Tuần kiểm sứ thần các châu Ung, Tân phòng hộ biên giới. Vua hạ chiếu chỉ lệnh bố trí phòng bị trong phạm vi biên giới, không được gây sự.

[64] Vua ngự điện Cảnh Phúc, khảo thí các cử nhân phục cần từ học, kinh minh hành tu ở châu Bạc và lộ Nam Kinh, chọn được 21 người đỗ tiến sĩ, trong đó có Trương Quan, và 21 người đỗ các khoa khác, ban cho học vị cập đệ, bổ nhiệm chức quan theo lệ như việc phong tế đông tây.

Trương Quan là người châu Giáng.

(Châu Giáng không thuộc lộ Tống, Bạc, cần xem xét. Việc Trương Quan được bổ nhiệm chức quan, có lẽ do Quốc Tử Giám và phủ Khai Phong tiến cử, sách thực lục chép không rõ. Nên viết là “Thi các cử nhân do châu Bạc, lộ Nam Kinh cùng phủ Khai Phong và Quốc Tử Giám tiến cử.”)

Vua nói với tể tướng: “Những năm gần đây, các cử nhân văn nghệ khá tinh thông, người cô bần cũng có đường tiến thân. Tuy nhiên, người làm chủ khảo cũng rất khó, chiều theo thỉnh cầu thì hại công, từ chối tiến cử thì bị gièm pha.” Vương Đán nói: “Nay quận huyện rộng lớn, số người cũng đông, cần phải thân chính khảo thí. Còn việc giải phát ở Nam tỉnh (ND: chỉ Lễ bộ), nếu triều đình không đặc biệt chủ trương, thì dù có ép chủ khảo cũng khó thành.”

[65] Ngày Tân Sửu, ngự giá đến quán Ngũ Nhạc, ban yến cho các quan theo hầu, ban thưởng tiền lụa cho binh lính và thợ thuyền theo thứ bậc khác nhau. Hôm sau, làm lễ thượng lương. Lại sai tông thất và các quan phụ chính đến xem, lại ban yến. Cho phép các cơ quan nghỉ việc, sĩ thứ vui chơi. Ban tên quán là Hội Linh.

[66] Kinh Tự, Phó đô bộ thự lộ Bân Ninh Hoàn Khánh, chức Phòng ngự sứ châu Quắc, mất, cho con được tập ấm. Tự xuất thân từ hàng ngũ, tích lũy công lao giữ chức vụ trọng yếu, trải qua 150 trận đánh, có công nhưng chưa từng khoe khoang. Lúc lâm chung dặn con rằng: “Ta nghe nói nhiều đời làm tướng, về sau không thịnh vượng, các con nên càng thêm tu dưỡng cẩn thận.”

[67] Ngày Quý Mão, vì việc phụng thượng tôn hiệu Ngọc Hoàng, sai các quan phụ chính chia nhau làm lễ cáo ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, miếu Giao và Xã Tắc.

[68] Ngày Giáp Thìn, lệnh cho binh lính đồn trú ở giám Dục Tỉnh châu Lô từ nay chia phiên đến đó, vì đất ấy nhiều chướng khí dịch bệnh.

[69] Cấm quân sĩ tư giữ dao găm và khí giới, riêng những người đồn trú biên giới thì không cấm.

[70] Ngày Ất Tỵ, lấy Điện trung thị ngự sử Chu Thực làm sứ sinh thần quốc chủ Khiết Đan, Tây Kinh tác phường phó sứ Đoàn Thủ Luân làm phó. Đồn điền viên ngoại lang Triệu Thế Trưởng làm sứ chánh đán, Nội điện sùng ban, Cáp môn chi hậu Trương Thuấn Thần làm phó.

(Thuấn Thần là con của Huấn. Thủ Luân chưa rõ lai lịch.)

[71] Độ chi phó sứ, Hình bộ viên ngoại lang, Trực sử quán Tôn Miện, vì trước đây tiếp đãi sứ Khiết Đan uống rượu không cẩn thận, ngày Bính Ngọ, bị giáng làm Tri châu Thọ.

[72] Trước đây, Khai Phong phủ giải phóng 25 người tiến sĩ phục cần từ học, bị người thi trượt là Lưu Khải kiện, trong đó 13 người vì ngụ quán, đều bỏ trốn ẩn náu, quan phải truy bắt. Vương Đán tâu rằng: “Bệ hạ vừa ban chiếu ân, tìm kiếm người tài giỏi, nay lại biến thành việc bắt giam, e rằng làm tổn hại phong hóa. Hơn nữa, việc thi cử vốn để chọn người hiền đức, những kẻ này hành xử như vậy, mong bệ hạ đặc biệt ra quyết định để trừng trị thói xấu.”

Vua nói: “Đây là do quan phủ lúc đó không hiểu rõ, dẫn đến sai lầm, những người ngụ quán nên được tha tội, còn Khải giao cho ngoại châu quản thúc.” Sau đó, Ngự sử Cao Biện tâu rằng: “Việc kiện của Khải là có thật, bị trách phạt quá nặng.”

Vua hỏi Vương Đán, Đán nói: “Việc kiện của Khải vốn không xuất phát từ công tâm, theo lời khai thì đợi khi được giải thì kiện[8], đây là loại sâu mọt của giới sĩ phu. Triều đình trừng trị kẻ vô hạnh, gián quan nên vui mừng nghe tin, Biện lại dám tâu bậy[9]. Xem ra, nếu không phải nhờ quyết định sáng suốt của bệ hạ, phân biệt được lỗi lầm của thí sinh, thì phải liên đới trách nhiệm đến phủ huyện. Việc Ngự sử phê phán thật không đáng khen.” Vua đồng ý.

Biện là người Lôi Trạch, sau vì can gián việc xây dựng cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, bị giáng làm Tri quân Quảng Tế.

(Việc Biện bị giáng làm Tri quân Quảng Tế, theo bản truyện phụ lục, cần xem xét thêm.)

[73] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu rằng từ nay những người được cử làm quan nếu nguyên quán rõ ràng không có hộ tịch hoặc đã rời quê lâu ngày, cho phép triệu quan viên bảo lãnh, nộp đơn tại phủ Khai Phong để được xét duyệt.

[74] Ngày Kỷ Dậu, cấp cho châu Lộ 50 vạn tiền công dụng mỗi năm.

[75] Ngày Canh Tuất, ban chiếu khen thưởng Lý Trực Kỷ, Lễ tân phó sứ, quyền tri châu Lân, do chuyển vận sứ tâu rằng ông có tài xử lý công việc.

(Trực Kỷ, chưa rõ lai lịch.)

[76] Ngày Nhâm Tý, bổ nhiệm Lý Duy Giản, Tướng tác giám thừa, làm Thái tử trung doãn về hưu, đặc biệt ban thưởng 30 vạn tiền. Duy Giản là con của Lý Mục, có nhiều tài nghệ, tính cách điềm đạm, không thích làm quan, ẩn cư hơn 20 năm, Vua đặc cách triệu kiến và bổ nhiệm.

Lúc đầu triệu Duy Giản, sứ giả không biết ông ở đâu, Vua bảo đến Trung thư hỏi Vương Đán, sau đó mọi người mới biết Duy Giản là người do Đán tiến cử. Đán luôn giấu tên tuổi, tránh xa quyền thế, những người ông tiến cử rất nhiều, nhưng đều không nói cho ai biết. Sau này, sử quan biên soạn 《Chân Tông thực lục》, thấy các chương tấu trong cung, mới biết phần lớn quan lại trong triều đều do Đán tiến cử.

(Âu Dương Tu trong 《Vương Đán mộ chí》 viết Duy Giản là Hành Giản, là sai. Hành Giản, người Phùng Dực, có truyện riêng.)

[77] Vua từng xem sách ở Long Đồ các, thấy chương tấu của Vương Vũ Xứng, khen ngợi sự thẳng thắn, bèn hỏi thăm con cháu ông. Tể tướng tâu rằng con ông là Vương Gia Ngôn đỗ tiến sĩ, làm huyện úy Giang Đô, rất chăm học văn chương, nhưng nhà nghèo, mẹ già. Hôm đó, cũng triệu kiến, đặc cách bổ làm Đại Lý bình sự.

[78] Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Thìn, Tam ty tâu rằng những quan viên nhậm chức ở ngoài không được mang theo gia đình, xin cho phép chia tiền thiêm chi để cấp cho gia đình họ, Vua đồng ý.

[79] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu cho trưởng lại Dương Châu vào các ngày chính, chí, sóc, vọng phải đến triều bái điện Thần Ngự Thái Tổ ở chùa Kiến Long.

[80] Trước đó, Đăng Châu báo rằng Cao Ly phái sứ giả đến triều cống, nhưng chưa dám đón tiếp, đợi chỉ dụ của triều đình.

Vua hỏi các tể tướng: “Việc này nên xử lý thế nào?” Vương Đán tâu: “Cao Ly từ lâu đã triều cống, nhưng bị Khiết Đan ngăn trở. Nay nên cho phép họ đến kinh đô, Khiết Đan chắc chắn không dám nói gì. Hơn nữa, sứ giả rời Cao Ly, Khiết Đan hẳn đã biết. Nếu họ có hỏi, ta nên trả lời một cách chân thành.” Vương Khâm Nhược nói: “Sứ giả này đến kinh đô, đúng lúc cùng với sứ giả Khiết Đan.” Vương Đán nói: “Các nước xung quanh triều cống để tôn kính Trung Quốc, đó là việc thường. Họ tự có mâu thuẫn, triều đình đâu cần phân biệt yêu ghét.”

Vua nói: “Khanh nói rất hợp đạo lý.” Liền phái sứ giả đến tiếp đón.

[81] Ngày Mậu Ngọ, ban chiếu rằng sứ giả Cao Ly đến các huyện mua vật phẩm, giao cho quan địa phương quản lý, không được để họ bị thiệt hại, đồng thời miễn thuế cho họ.

[82] Ngày Kỷ Mùi, vùng Hoài Nam bị đói kém, Vua sai chuyển vận sứ và phát vận sứ cứu tế.

[83] Điện trung thừa Đồng Tĩnh Chuyên bị tước bỏ quan tịch, lưu đày dài hạn đến Sâm Châu, không được phục chức.

Tĩnh Chuyên trước làm tri châu Dung Châu, phạm tội tham nhũng, theo luật phải đi đày. Lại thêm người chú của ông là Cư Minh trước đây hy sinh vì việc nước, được ban cho một người con làm quan. Con của Cư Minh còn nhỏ, Tĩnh Chuyên mạo nhận để được làm quan. Khi việc này bị phát giác, nên bị trừng phạt nặng. Triều đình cũng sai Phúc Châu tìm con của Cư Minh để báo lên, và con của Cư Minh là Dĩnh năm sau cũng đỗ tiến sĩ.

[84] Vua thấy rằng ở Khánh Châu có nhiều bộ lạc người Hồ đã quy phục, trong đó có người đã nộp con tin cho Hạ Châu, sợ lâu ngày sẽ thành mối lo biên giới. Ngày Tân Dậu, đặt chức Duyên biên đô tuần kiểm sứ ở huyện Hoa Trì, để thống trị các bộ lạc này, mỗi năm cấp 50 vạn quan tiền để chi dùng cho yến tiệc và khao thưởng, theo đề nghị của bộ thự Vương Thủ Bân.

[85] Ngày Quý Hợi, triệu Tả chánh ngôn, trực sử quán Lưu Quân, và Hữu ty gián, trực sử quán Trần Tri Vi đến thi tại Trung thư. Vua xem bài thi của Lưu Quân, khen ngợi đặc biệt, liền thăng ông làm Hữu ty gián, còn Trần Tri Vi làm Tỷ bộ viên ngoại lang, cùng làm chức Tri chế cáo, nhưng Lưu Quân vẫn đứng trên Trần Tri Vi.

[86] Ngày Giáp Tí, vì cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng đã hoàn thành, Vua ban chiếu cho phép dân chúng được uống rượu, ở kinh thành được 5 ngày, hai kinh được 3 ngày, các châu được 1 ngày. Cung điện gồm tổng cộng 2.610 gian. Ban đầu dự tính công trình mất 15 năm, nhưng Tu cung sứ Đinh Vị ra lệnh làm ngày đêm không nghỉ, mỗi khi vẽ một bức tường thì cấp hai ngọn nến[10], nên chỉ 7 năm là hoàn thành.

[87] Vua ban chiếu rằng từ nay quân sĩ nào bỏ trốn quá 3 năm, dù có tự thú, cũng phải trình bày tội trạng để đưa về kinh xét xử, theo lời xin của Tri châu Bạc là Lý Địch.

[88] Ngày Bính Dần, Vua mở tiệc ở điện Sùng Chính, ban y phục, đai vàng, đồ quý cho tông thất và các quan phụ chính, vì lễ tế đã hoàn thành. Nhân dịp này, Vua cùng bắn cung dưới lầu Thái Thanh, làm thơ ban cho mọi người. Ban đầu, chiếu định mở tiệc vào ngày Ất Sửu, nhưng vì Hướng Mẫn Trung có việc riêng nên đổi sang ngày này.

[89] Ngự sử đài xét án kẻ giết người, sau khi kết án, Tri tạp vương Vương Tùy xin xử tội lăng trì. Vua nói: “Ngũ hình đã có quy định, cần gì phải làm thế.” Vương Đán nói: “Vương Tùy giữ chức phong hiến, việc đàn hặc đã có lệ cũ, đây không phải là điều nên nói. Huống chi tội trạng của kẻ này đã rõ, xử tử cũng là đủ rồi.”

[90] Ngày Mậu Thìn, Vua ngự ở điện nhỏ, cho triệu tập các tướng sĩ, thăng chức theo thứ bậc, việc này kéo dài 3 ngày mới xong.

[91] Trước đó, Vua sai nội thị đến châu Lai khai thác ngọc thạch để tạo tượng thánh ở cung Cảnh Linh. Đến nay, Vua ban chiếu miễn thuế và lao dịch cho những nơi khai thác ngọc thạch, ngoại trừ hai loại thuế chính.

[92] Ngày Tân Mùi, Vua sai Tri chế cáo Thịnh Độ làm sứ đến cung Hội Chân ở châu Duyễn để làm lễ cầu đảo, Nội thị áp ban Chu Hoài Chính làm Đô giám. Vua cho rằng thần linh khó lường, lo việc tế lễ chưa đủ, bèn viết văn sai Thịnh Độ và những người khác đến phía nam cung chọn đất dựng đàn tràng làm lễ cầu đảo. Tri châu Duyễn là Vương Trăn đọc văn, thấy nghi lễ rất long trọng, bèn cho khắc đá ngay tại chỗ.

[93] Chiếu rằng từ nay các tiết Thiên Khánh, Thiên Huống, Tiên Thiên, Giáng Thánh[11], các cơ quan không được dâng tấu các văn bản liên quan đến hình phạt và giết chóc.

[94] Tri châu Diên Châu, Viên ngoại lang Lại bộ Lý Cập tâu: “Vùng biên giới Phu Diên lộ, các hiệu trưởng quản lý cung thủ trước đây không được cấp giáp trụ, xin cho phép cấp một số lượng nhất định để phòng thủ. Lại nữa, biên giới Phu Diên tiếp giáp với phương Bắc, xin cấm khai thác gỗ.” Đều được chấp thuận.

[95] Ngày Ất Hợi, chiếu rằng: “Các châu giải cử nhân, nơi nào có nhiều người bị đánh trượt, nên cho châu đó chọn quan lại phúc khảo, lấy những người có tài nghệ xuất sắc gửi về Lễ bộ, hạn đến ngày mùng một tháng 2. Các tiến sĩ, các khoa đã từng qua thi Điện, cùng các khoa ở Hà Bắc, Thiểm Tây đã từng qua thi chung, và những người ở các châu khác đã hai lần thi chung nhưng không đỗ, đều được miễn thi giải.”

[96] Ngày Kỷ Mão, Kinh Đông chuyển vận sứ Lý Tương tâu: “Từ nay những người mới được bổ nhiệm làm kinh quan, hợp lệ phải đến vùng xa, nhưng chưa có chỗ trống, mà tạm thời làm việc ở các châu gần, xin cho phép tính vào công lao khảo xét.” Được chấp thuận.

(Lý Tương chưa thấy xuất hiện.)

[97] Ty Đề điểm hình ngục Hà Bắc tâu rằng ở Bác Châu không có án tụng trong 139 ngày. Tể tướng tâu rằng trong thiên hạ không tháng nào không có tấu về việc không có án tụng, chỉ có bản tấu này số ngày nhiều hơn, Vua đặc biệt hạ chiếu khen thưởng.

[98] Ngày mùng một tháng 11, Quý Mùi, gia hiệu Dực Thánh tướng quân là Dực Thánh Bảo Đức Chân Quân.

[99] Lấy Xu mật phó thừa chỉ, Hữu vệ Đại tướng quân Trương Chất làm Đô thừa chỉ. Chất ở cơ quan Xu mật gần 50 năm, am hiểu công việc, tinh tường cẩn thận, chưa từng có lỗi lầm. Trước đây, các lại viên trong viện ít có người được thăng đến chức Đô thừa chỉ, Vua vốn biết Chất liêm khiết cẩn thận, nên giao chức này cho ông. Vua từng triệu hỏi về chế độ thay đổi quân tịch từ thời Ngũ đại đến đầu triều, và sai ông trình bày lợi hại. Chất soạn thành ba thiên, đặt tên là 《Binh yếu》 dâng lên, Vua xem và khen ngợi.

[100] Ngày Giáp Thân, sai Thái bộc Thiếu khanh Bùi Trang quyền giữ chức Tây Kinh Lưu ty Ngự sử đài, thay thế Trần Tượng Dư. Lấy Tượng Dư làm Vệ úy khanh, phân ty ở Tây Kinh. Lúc đó, Hình bộ Lang trung Triệu Tương làm Tri phủ Hà Nam, Tượng Dư tự cho rằng mình ở trên Tương, mỗi khi hành hương bái biểu, thường kiêu ngạo không giữ lễ, sai tả hữu dìu mình tiến lên. Có người dâng thư tố cáo, nên có mệnh lệnh này. Nhân đó, chiếu cho Tây Kinh từ nay về sau, khi hành hương bái biểu, đều lấy Tri phủ làm người đứng đầu.

(Truyện Trần Tượng Dư chép: Phùng Chửng thay Triệu Tương, tâu lên tình trạng sai trái của Tượng Dư, nên bị khiển trách. Xét rằng Tương vào tháng 8 năm này, ngày Giáp Tuất, làm Tri phủ Hà Nam, thực sự thay thế Chửng. Chửng vừa nhậm chức, đến tháng 11 năm này, ngày Đinh Mùi, mới làm Trung thừa, Tượng Dư bị khiển trách vào ngày Giáp Thân, trước Đinh Mùi 24 ngày. Chửng không phải người thay Tương, cũng không phải người tố cáo Tượng Dư. Nay chỉ theo thực lục.)

[101] Châu Tân tâu rằng sông Hoàng Hà tràn ngập ở trấn An Định.

[102] Ngày Ất Dậu, quần thần đến điện Sùng Đức chúc mừng việc hoàn thành cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Ban thưởng cho cung sứ trở xuống ngựa yên cương, đồ dùng và lụa. Lệnh ân xá giảm tội cho tù nhân các lộ từ tội lưu trở xuống một bậc, tội tử hình đáng thương thì tâu lên xin xét. Các châu huyện khai thác gỗ đá, ban thưởng cho dân giảm thuế.

[103] Ngày Bính Tuất, đến cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Mây tím như cái lọng che điện Thái Sơ, ba con hạc đậu trên lan can điện. Yến tiệc với các quan cận thần ở điện Tập Hi.

[104] Ngày Mậu Tý, Tứ phương quán sứ, Thứ sử Cao Châu, Đô kiềm hạt Kinh Nguyên, kiêm Tri châu Vị là Tào Vĩ được thăng chức Dẫn tiến sứ, lưu lại giữ chức cũ. Lúc đó, bộ lạc Phiên ở Tần Châu quấy nhiễu biên giới, sai Vĩ kinh lược, Vĩ dâng biểu xin từ bỏ việc châu, chuyên lo việc quân. Vua không muốn thay đổi ngay quan giữ chức, nên có mệnh lệnh này, lại ban chiếu mật khuyên bảo.

[105] Ngày Kỷ Sửu, thăng Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung sứ Vương Đán làm Tư không, Tu cung sứ Đinh Vị làm Công bộ Thượng thư, Phó sứ Lâm Đặc làm Công bộ Thị lang kiêm Tam ty sứ, Đô giám Lam Kế Tông làm Lạc uyển sứ lĩnh chức Đoàn luyện sứ Cao Châu.

[106] Đặt chức Phó sứ cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, lấy Đinh Vị làm chức này.

[107] Ngày Tân Mão, Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh dâng bài tụng về cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, con ông là Chính tự Bí thư tỉnh Triều Tông Thao tiếp tục dâng bài ca khánh thành cung Cảnh Linh. Vua nói: “Huýnh tuổi cao, chăm chỉ trước tác và khéo dạy con cháu, cũng là việc tốt của bậc sĩ phu.”

[108] Lấy Giám tu cung Bộ quân Đô quân đầu Hình Hưng làm Mã bộ quân Phó đô quân đầu[12], kiêm chức Thứ sử châu Hạ. Còn lại các quân hiệu, công tượng, được thăng chức tổng cộng 913 người.

[109] Tri châu Tần Chương Cát tâu rằng, dò biết tộc Tông Ca là Lập Tuân, Hòa thượng, Thốc Tư La triệu tập các thủ lĩnh bộ lạc, mưu đánh thành trại, xin tăng thêm quân đồn trú. Vua ra chiếu cho Cát xem xét, nếu người Phiên tự đánh nhau thì bí mật phòng bị, vỗ về rồi cho về, nếu xâm phạm biên giới thì tùy cơ đánh úp, không được tiến sâu.

[110] Ngày Nhâm Thìn, Vua ngự ở cửa Càn Nguyên xem lễ bộ, từ đó kéo dài năm ngày.

[111] Thượng thư Hộ bộ Trần Nghiêu Tẩu dâng sách 《Phần Âm phụng tự ký》 ba quyển. Vua ban chiếu khen ngợi.

[112] Ngày Ất Mùi, Khiêm hạt lộ Phu Diên Trương Kế Năng tâu rằng, sứ giả tiến cống của Triệu Đức Minh mang theo vật tư, muốn tránh thuế chợ, xin ban hành điều ước. Vua nói: “Người Nhung từ xa đến, lợi lộc chẳng được bao nhiêu, cứ theo chế độ cũ là được.”

[113] Ngày Mậu Tuất, lấy Đô chỉ huy sứ Khê động châu Thần là Ngụy Tiến Vũ bổ làm Tam ban tá chức, Giám thuế châu Phòng, lại cấp tiền trang bị để nhậm chức. Tiến Vũ tự tâu rằng châu Phòng tiếp giáp đường núi Quy, Hiệp, gần biên giới man, xin dời đến nơi khác, bèn đổi về Hoài Nam.

[114] Đặt chức Đô tuần kiểm sứ các châu Nhung, Lô, Tư, Vinh và giám Phú Thuận một viên. Lúc đó, Nội điện thừa chế, Các môn chi hậu Mã Thủ Tuân tâu rằng vùng Nhung, Lô có người Di và Hán sống xen kẽ, Khiêm hạt bản lộ ở châu Toại, khi cấp bách không thể phòng thủ, nên đặc biệt đặt chức này.

[115] Ngày Kỷ Hợi, bộ lạc Phiên Lục Cốc phủ Tây Lương đến cống.

[116] Ngày Tân Sửu, Vua xuống chiếu cho Chuyển vận sứ Quảng Nam Đông lộ là Lý Hân và Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây lộ là Cao Huệ Liên đổi chỗ cho nhau. Trước đó, Xu mật sứ Khấu Chuẩn nhân dịp vào chầu tâu rằng: “Thần từng khen Cao Huệ Liên có tài làm quan, có thể giao việc, nhưng gần đây nghe nói ông ta hà khắc, không có tiếng thanh liêm.” Vua cho rằng Tây lộ gần biên giới man di, nên đổi đi. Nhân đó nói: “Huệ Liên trước đây từng dâng sớ, nói rằng triều đình không nên dùng người tốt, vì người tốt thường làm hỏng việc, lại dẫn chứng bằng thuyết ngũ hành của trời. Trẫm xem xong, biết rằng ông ta hiểu đạo còn nông cạn.” Vương Đán nói: “Trời có ngũ hành, nhưng không có lý nào là không tốt. Còn như nói về người tốt, nếu là loại nhu nhược, thì quả thật không dùng được. Nhưng nếu là người làm việc thiện, đó vốn là đạo thường của con người, sao có thể thiếu được! Kinh truyện nói ‘Người tốt là cương kỷ của nước’, Luận ngữ nói ‘Người tốt trị nước trăm năm, có thể thắng được điều tàn bạo, bỏ được hình phạt’, Kinh Dịch nói ‘Nhà tích đức, ắt có phúc dư’, đều là nói về điều đó.” Lý Hân là người Phủ Điền, lúc đầu làm Quân sự suy quan ở Giai Châu, khi đó từ Tri châu trở xuống đều bị tội vì mua ngựa, chỉ có Lý Hân được miễn, nhờ đó nổi tiếng thanh liêm cẩn thận.

[117] Ngày Quý Mão, Vua xuống chiếu cho phép sĩ thứ vào ngày mùng một và rằm tháng giêng hàng năm được đến cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng đốt hương.

[118] Ngày Đinh Mùi, Hình bộ Thượng thư Phùng Chửng kiêm chức Ngự sử Trung thừa, được ban áo mặc, đai vàng, ngựa cùng yên cương, lại được ban thêm đệm thêu. Vì Chửng từng làm việc ở Trung thư, Xu mật viện, nên được ban đặc biệt, không phải là lệ thường.

[119] Ngày Mậu Thân, sứ thần nước Khiết Đan là Tả Lâm Nha, Công bộ Thượng thư Tiêu Diên Ninh và Phó sứ là Vệ úy khanh Trương Dực đến chúc mừng lễ Thừa Thiên.

[120] Ngày Kỷ Dậu, đặt chức Phán quan và Đô giám ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, lấy Hạ Tủng, chức Tả Chánh ngôn, Trực tập hiền viện, làm Phán quan; Chu Hoài Chính, chức Nội điện thừa chế, Nhập nội áp ban, làm Đô giám[13]. Khi Vương Đán làm sứ tu sửa cung Cảnh Linh, Hạ Tủng thực sự nắm giữ việc soạn thảo tấu chương. Hạ Tủng từng bị bệnh nằm liệt giường, Vương Đán tự tay pha thuốc cho uống, nhiều lần khen ngợi tài năng của ông, nhân đó sai dạy chữ cho Khánh Quốc công (Truyện của Hạ Tủng chép rằng dạy chữ ở Tư Thiện đường. Xét rằng Tư Thiện đường đến năm sau mới được đặt, năm nay chưa có, nên chỉ chép là dạy chữ cho Khánh Quốc công). Lại cùng tu sửa sách Khởi cư chú, đến nay làm Phán quan, đều do Vương Đán tiến cử.

Ban đầu, Đinh Vị muốn đại quy mô tu sửa bãi rác phía tây thành, dẫn nước sông Kim Thủy, xây dựng đền thờ Hậu Thổ, để bắt chước theo nơi thờ tự ở Phần Âm. Lâm Đặc muốn xây cầu vượt qua cửa Nguyên Vũ (chữ “Nguyên Vũ” cần tra cứu thêm), làm đường đi kép để nối với cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng. Lý Phổ muốn đưa những tảng đá lớn từ biển vào hồ Hội Linh, tạo thành ba ngọn núi thần, xây dựng các lối đi trên cao, hy vọng gặp được thần tiên. Các quan đều tranh nhau nói về điềm lành. Riêng Hạ Tủng dâng sớ phản đối, cho rằng những việc này đều không nên làm, nên các việc đó đều bị bãi bỏ. Đến khi làm Phán quan, ở hơn một tháng, ông lại tấu rằng quả thực dâng lên thần ở gác Bảo Phù, sáng dậy xem thì không còn, chỉ thấy vỏ quả vương vãi khắp nơi, có lẽ là thần đã ăn.

(Việc dâng sớ phản đối Đinh Vị, phụ truyền có ghi, nhưng chính truyện không chép. Việc tấu về gác Bảo Phù, chính truyện có ghi, nhưng phụ truyện không chép. Có lẽ người viết chính truyện cho rằng Hạ Tủng không chính trực, nên chắc chắn không thể can gián việc trước, nên đã lược bỏ, chỉ chép việc tấu về gác Bảo Phù, để thấy rõ sự nịnh hót của Hạ Tủng. Tuy nhiên, việc Hạ Tủng dâng sớ phản đối chắc chắn không phải là bịa đặt, phụ truyện chép việc này sau khi ông làm Tri chế cáo, có lẽ là sai thứ tự, chắc chắn đây là việc trước khi làm Phán quan. Khi chưa làm Phán quan, Hạ Tủng thường có những lời nói chính trực, nên Vương Đán rất quý mến. Đến khi làm Phán quan, liền phụ họa thần quái, mong tiến nhanh, như việc tấu về gác Bảo Phù. Đã có việc tấu về gác Bảo Phù, thì chắc chắn không phản đối Đinh Vị nữa. Nay ghi chép đầy đủ, tình trạng của kẻ gian, có thể từ đó mà thấy được.)

[121] Tri Tần Châu Trương Cát tâu rằng bộ lạc phiền nhiễu, đã xuất binh đánh nhau, xin tăng thêm quân sĩ. Vương Đán nói: “Hiện nay bốn phương yên ổn, Khiết Đan giữ lời ước rất kiên định, Tây Nhung vào cống không ngừng, các bề tôi ở biên giới nên chú trọng giữ yên tĩnh.” Vua nói: “Quan biên giới thích dùng binh, không biết rằng không đánh là tốt nhất. Trước đây Hà Bắc xin tăng quân biên giới, Vương Khâm Nhược cũng bị lời nói đó mê hoặc, chỉ có Trẫm quyết đoán không nghi ngờ, cuối cùng cũng không có loạn.” Nhân đó nói: “Trước đây từng nói với Hình Bính, Trẫm nửa đêm suy nghĩ, bốn phương rộng lớn, đặt quan lại, giao cho họ ở ngoài ngàn vạn dặm, làm sao biết hết thiện ác, một khi có việc hỏng, thì họa không nhỏ. Từ xưa đế vương dậy sớm thức khuya, chính là vì việc này. Muôn việc nhỏ nhặt, càng nhờ các khanh hết lòng.”

[122] Ngày Canh Tuất, Nội điện đầu Bạch Sùng Khánh tâu rằng việc tu sửa đền Hoài Độc đã xong, dân cầu đảo nhiều, thường giết mổ ồn ào trong đền, xin cấm, và dời nhà huyện lệnh huyện Đồng Bạch về phía đông đền. Vua chuẩn tấu.

[123] Ra lệnh rằng các kho thóc và bãi cỏ trong kinh, nếu có chỉ dụ và Tam ty sứ đòi hỏi số lượng hiện có, thì được phong kín báo cáo; còn các quan viên khác và sứ thần đề điểm đòi hỏi, không được báo cáo, nếu vi phạm sẽ bị xử nghiêm.

[124] Tháng 12, ngày Quý Sửu mùng một, nhật thực không khuyết, quần thần dâng biểu chúc mừng.

[125] Ngày Ất Mão, ra chiếu rằng các sứ thần Tam ban được cử đi xa xin về biên giới, cho viện này khảo sát võ nghệ, chọn người có năng lực bổ nhiệm.

[126] Ra chiếu: “Từ nay các châu đưa tội nhân về kinh hoặc đến châu khác, đều phải cấp giấy và lương thực, và bắt đi theo lộ trình, không được đánh đập vô cớ, đi gấp đôi. Người bệnh, gửi thư đến châu huyện đó cử thầy thuốc chữa trị; người chết, kiểm tra không có nguyên nhân khác, thì lấy giấy chứng thực giao cho lại dịch, người vi phạm sẽ bị quan sở tại xử tội tâu lên.” Trước đây, Châu Truy đưa tù nhân về kinh, dọc đường nhiều người chết, Vua thương xót, đặc biệt ra điều ước.

[127] Ngày Bính Thìn, lệnh cho Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tẩu, Phùng Chửng, Triệu An Nhân và Lâm Đặc mỗi người tiến cử hai người trong số các quan chức kinh triều, mạc chức, châu huyện am hiểu hình luật, thông thạo thời vụ, có thể đảm nhiệm công việc biên cương.

[128] Ngày Đinh Tỵ, chiếu tăng thêm tiền ăn cho Vương Tự Tông và Tào Lợi Dụng mỗi tháng năm vạn.

[129] Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho các chuyển vận sứ, đề điểm hình ngục quan ở Xuyên Hạp, Quảng Nam, Phúc Kiến xem xét các quan lại trong bộ, nếu có kẻ tham nhũng, phạm pháp, dùng hình phạt tàn khốc thì báo lên, vì đường sá xa xôi, dân không có nơi kêu cứu.

[130] Trước đó, người Lão ở Giao Châu là Trương Bà Khán trốn tội chạy sang. Tri châu Khâm Châu là Mục Trọng Dĩnh triệu hắn đến, nhưng giữa đường lại từ chối tiếp nhận. Đô tuần kiểm Tang Tự lệnh cho trại Như Hồng thết đãi bằng trâu rượu. Giao Châu dò biết việc này, bèn bắt người Lão, rồi cướp phá trại Như Hồng, cướp bóc nhiều người và gia súc. Chuyển vận ty gửi văn thư sang Giao Châu đòi bồi thường, đồng thời báo lên triều đình. Chiếu buộc Lý Công Uẩn cho hộ tống trả lại người và vật, đồng thời răn các quan biên giới từ nay không được dụ dỗ người man di, để tránh sinh sự.

[131] Ngày Kỷ Mùi, xây dựng Nguyên Phù Quán. Trước đây, mỗi năm vào tiết Thiên Khánh, thường dựng lều vải ở cửa Tường Phù phía Tả Thừa Thiên để mở đạo trường. Vua thấy xe ngựa qua lại ồn ào, bèn sai sửa sang nhà mới của ty Hoàng Thành làm quán này. Nhà này do Lưu Thừa Khuê xây dựng, là nơi Tư Mệnh (ND: tương truyền là vị thần Đạo giáo, chủ quản sinh mệnh) giáng lâm ở cuối niên hiệu Cảnh Đức.

[132] Ngày Tân Dậu, gia phong cho Sở vương Nguyên Tá làm Thượng thư lệnh, Tương vương Nguyên Ốc làm Thái úy, Vinh vương Nguyên Nghiễm kiêm Trung thư lệnh, các tông thất khác đều được thăng một bậc.

[133] Tiết độ sứ Trung Vũ, Phò mã đô úy Ngụy Hàm Tín làm Đồng bình chương sự. Hàm Tín lúc này đã già, từng nhân dịp tiết Đản Thánh xin chức cho con nhỏ là Chiêu Khản, lại viện dẫn lệ của Thạch Bảo Cát và Ngô Nguyên Ỷ để mong được gia phong. Ông ta mê muội đến vậy. Lại dâng biểu xin được trọng dụng, Vua đưa cho Trung thư Hướng Mẫn Trung xem và nói: “Hàm Tín là thân thích, đã ở ngôi tiết chế, sao lại còn mong cầu!” Vua vẫn ban chiếu ưu đãi trả lời. Sau đó, nhân việc xây dựng Nam Kinh để khen thưởng các cựu thần của Thái Tổ, bèn cho làm sứ tướng, hơn một năm sau, ra làm phán quan ở Thiên Hùng quân.

[134] Ngày Nhâm Tuất, tu sửa Thái Cực Quan ở Cảnh Linh cung thuộc Duyện Châu. Đô giám là Chu Hoài Chính tâu rằng dân Duyện Châu có người dâng vũ khí lên Đông Nhạc miếu, xin cho đốt hết, nếu không đốt được thì giao nộp vào kho giáp trượng của châu, Vua đồng ý.

[135] Ngày Đinh Mão, quyền tri quốc sự Cao Ly là Vương Tuần sai sứ tấu cáo là Doãn Chứng Cổ cùng tướng quân người Nữ Chân là Thái Thiên Cơ và 78 người khác, mang phương vật đến cống. Tuần dâng biểu nói: “Khiết Đan chặn đường, nên lâu nay không thông được. Xin ban tôn hiệu hoàng đế và chính sóc.” Vua xuống chiếu đồng ý. Tuần lại nói[14]: “Thái Thiên Cơ tự xưng cha và anh từng vào chầu, anh ta bị giữ lại không về, nên lần này đi tìm.” Lại có 17 người dân Hà Bắc là Đậu Văn Hiển trước bị Khiết Đan bắt, chạy sang Cao Ly, Tuần cũng cho về, lệnh trở về nguyên quán. Vua khen ngợi ý tốt của Tuần, đãi Chứng Cổ rất hậu.

[136] Ngày Mậu Thìn, Tào Vĩ tâu rằng đã xây xong thành Lung Can ngoài núi Lũng. Vua xuống chiếu khen thưởng. Đến khi đào hào xong, lại ban cho khí tệ và tiền.

(Việc đào hào xong vào tháng 3 năm sau.)

[137] Ngày Canh Ngọ, lệnh Vương Đán làm Tấu cáo đại lễ sứ, Hướng Mẫn Trung làm Nghi trượng sứ, Khấu Chuẩn làm Lỗ bạ sứ, Đinh Vị làm Lễ nghi sứ, Vương Tự Tông làm Kiều đạo đốn đệ sứ. Theo lệ cũ, Lễ nghi sứ đứng đầu trong bốn sứ, giúp việc hành lễ, nhưng Mẫn Trung già yếu bệnh tật, nên nhường cho Vị để tiện lên xuống.

[138] Ngày Giáp Tuất, Trương Cát dâng lên bản đồ trại mới ở Đại Lạc Môn. Trước đó, Cát muốn đặt trường khai thác gỗ gần sông Vị, các tộc người Phiền nghe tin liền dời trại đi. Cát không thể dùng ân đức để vỗ về, người Nhung hối hận, nhờ bọn phản tặc dẫn đường, bèn tiến hành cướp bóc. Cát đem quân đánh sâu vào, đánh bại chúng. Đến lúc này chúng xin giảng hòa, Cát không đồng ý. Lúc bấy giờ, Lập Tuân ở Tông Ca, Thốc Tư La, Ôn Bô Kỳ cùng các tộc trại rất hùng mạnh, có hơn sáu bảy vạn quân tinh nhuệ, chống lại Triệu Đức Minh, hy vọng được triều đình ban tước lộc và bổng lộc. Cát tâu xin cự tuyệt. Riêng Tào Vĩ nói nên hậu đãi Thốc Tư La để kiềm chế Đức Minh, lại xin ban chức Tiết độ sứ cho Lập Tuân theo lệ như Tư Đạc Đốc. Triều đình bèn hạ chiếu cho các đại thần bàn bạc, lượng thêm quan tước, nhưng không vượt quy định thường.

(Trường khai thác gỗ có thể liên quan đến sự việc ghi chép ngày Kỷ Tỵ tháng sáu, cần xem xét thêm. Theo《Hội yếu》thì Tào Vĩ xin ban chức Tiết độ sứ cho Lập Tuân theo lệ như Tư Đạc Đốc, còn《Thực lục》lại nói bộ tộc Phiền là Dĩnh Thành Lận Bô Sất cũng mong được đặt chức Tiết độ sứ như Tư Đạc Đốc, có lẽ Lập Tuân còn có tên là Dĩnh Thành Lận Bô Sất. Nay tạm theo《Hội yếu》. Nhưng Lập Tuân là người phụ tá Thốc Tư La, Thốc Tư La vẫn chưa được ban tước, mà đã vội xin cho Lập Tuân làm Tiết độ sứ, không rõ vì sao? Cần xem xét thêm.《Thực lục》vào ngày Nhâm Dần tháng này mới chép tờ tâu này của Vĩ. Lại nói Thốc Tư La xin đổi giá ngựa để ban cho vàng bạc và các vật dụng khác. Nay chép sau sự việc của Trương Cát, và bỏ phần đổi giá ngựa cùng ngày tháng.)

[139] Ngày Ất Hợi, Xu mật viện tâu: “Bổng lộc của các chức Mã bộ quân đô chỉ huy sứ trở xuống ở các châu không đồng đều. Xin từ nay lệnh cho Tam ty lấy Tam Kinh làm một bậc, các trấn Tiết độ làm một bậc, các châu Phòng, Đoàn và Thứ sử làm một bậc.” Triều đình đồng ý.

[140] Ngày Bính Tý, lấy Y khố sứ Dương Sùng Huân và Sùng nghi sứ Hạ Thủ Uân cùng làm Tây thượng các môn sứ. Trước đó, Thủ Uân vào chầu buổi sáng, Vua sai nội thị Hoàng Phủ Kế Minh hỏi: “Ngươi muốn quản quân hay làm Hoành hành sứ?” Thủ Uân đáp: “Thần được giữ chức vụ, được ngày ngày gần bệ rồng là đủ rồi.” Bèn cùng Sùng Huân được trao chức này.

[141] Thêm một viên Giám áp ở trại Nhu Viễn thuộc châu Tăng Khánh, các trấn Liễu Tuyền thuộc châu Phượng, trấn Hợp Đạo thuộc châu Hoàn, theo lời thỉnh cầu của Thiểm Tây chuyển vận sứ.

[142] Ngày Đinh Sửu, sứ Khiết Đan là Lâm Hải tiết độ sứ Gia Luật Thiếu Ninh, phó sứ là Vĩnh Châu phòng ngự sứ Cảnh Ninh đến chúc mừng Tết Nguyên đán năm sau.

[143] Gộp hai kho sinh sắc và tạp sắc thuộc Tả tàng khố[15] thành kho sinh thục thất đoạn.

(Cuối năm Thuần Hóa thứ 3 không thể tra cứu.)

[144] Năm đó, toàn quốc có 9.055.729 hộ, 21.996.965 nhân khẩu[16].


  1. 'thân tín' nguyên bản là 'thân tộc', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 480 《Ngô Việt Tiền thị thế gia》 sửa lại.
  2. 'Hữu Thái trung đại phu', Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Đông đô sự lược》 quyển 22 《Tuần lại truyền》, 《Tống sử》 quyển 426 《Tuần lại truyền》 đều chép là 'Hữu Gián nghị đại phu'.
  3. 'Đương nghị' hai chữ nguyên đảo, theo các bản mà sửa lại.
  4. Chiếu Giang Nam, Lưỡng Chiết năm nay dân hộ bị thiên tai, cùng những khoản thuế hạ, nợ đọng, cứu tế trước đây, 'hạ' nguyên là 'hạ', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 70-161 sửa. Lại 'Giang Nam', 《Tống hội yếu》 Thực hóa 70-161 chép là 'Giang Hoài'.
  5. Chữ 'chú' trong nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 chức quan 64-22 bổ sung.
  6. 'Lê thị' nguyên bản viết là 'Lê dân'. Theo 《Tống sử》 quyển 488, truyện Giao Chỉ, Lê Hoàn chết, em là Long Đình tự lập, bị Lý Công Uẩn đuổi. Sách này ghi lời của Chân Tông, chắc là chỉ việc này. 'Lê dân' rõ ràng là sai, nay sửa lại.
  7. Tức căn cứ theo tên do sở Tân thành môn trình lên để định người sai phái, 《Tống hội yếu》 quyển 25 chương 3 chép là 'Tức căn cứ theo bảng tên vào cửa để định người sai phái'.
  8. Theo lời kể thì đợi khi được giải thì kiện, 《Tống hội yếu》 tuyển cử 14-25 chép 'được giải thì thôi, trượt thì kiện.' Nguyên bản chữ 'được giải' có lẽ bị thiếu.
  9. Biện dám tâu bậy, chữ 'tấu đối' nguyên bản đảo ngược, theo 《Trị tích thống loại》 quyển 28 tổ tông khoa cử thủ nhân sửa lại.
  10. mỗi khi vẽ một bức tường thì cấp hai ngọn nến, 'hai ngọn nến' nguyên bản là 'một ngọn nến', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Biên niên cương mục》 quyển 8, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 18 về việc xây cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng sửa lại.
  11. Chiếu rằng từ nay các tiết Thiên Khánh, Thiên Huống, Tiên Thiên, Giáng Thánh. 'Tiên Thiên' nguyên bản là 'Quang Thiên', căn cứ theo quyển 79 sách này, tháng 10 năm Đại Trung Tường Phù thứ 5, ngày Nhâm Thân, và 《Tống hội yếu》 lễ 57 chương 29 sửa lại.
  12. Lấy Giám tu cung Bộ quân Đô quân đầu Hình Hưng làm Mã bộ quân Phó đô quân đầu, chữ 'Mã' dưới chữ 'Bộ' vốn bị thiếu, theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 18 về việc xây cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng bổ sung.
  13. 'Nội điện thừa chế' nguyên bản viết là 'Nội điện thừa chỉ', căn cứ theo Tống bản và Tống toát yếu bản mà sửa lại
  14. Chữ 'Tuần' trong câu 'Tuần lại nói' vốn bị thiếu, nay căn cứ theo sách trên mà bổ sung.
  15. 'Tả tàng khố' nguyên bản là 'Tả tàng quân', 'thất bạch' nguyên bản là 'thất bố', theo sách trên sửa lại.
  16. 'Cửu thập cửu vạn' trong các bản Tống, Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 8, kỷ Chân Tông đều chép là 'Cửu thập thất vạn'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.