"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 85: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 8 (ẤT MÃO, 1015)

Từ tháng 6 nhuận năm Đại Trung Tường Phù thứ 8 đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 6 nhuận, ngày Kỷ Mão, đại xá thiên hạ, trừ những kẻ đã giết người, tham nhũng pháp luật dẫn đến giết người, và phạm tội thập ác đến mức tử hình, còn lại đều được tha. Ban thưởng vật phẩm cho các thợ binh khí sửa chữa trong cung theo thứ bậc. Từ nay, các châu có án tử hình mà tình tiết đáng thương, phải tường trình vụ án lên triều đình. Ra lệnh rằng những hình phạt nặng trong luật pháp chưa thể hiện sự khoan hồng, giao cho quan tòa và quan biên soạn luật trình bày điều khoản.

Trước đó, Vua nói với tể tướng: “Trẫm nghĩ đến các tù nhân trong tháng nóng nực này, muốn ban ân xá, nhưng lấy danh nghĩa gì?” Vương Đán đáp: “Hiện nay biên cương yên ổn, dân chúng no đủ, mưa thuận gió hòa, dịch bệnh không xảy ra, hợp với điềm lành này, nên đặc biệt ban đại xá, là việc hợp lý.” Hôm sau, dâng lên các điều khoản.

Vua nói: “Các chiếu xá trước đây, không lần nào không lấy việc thận trọng trong hình phạt làm đầu. Nay nên phân biệt rõ ràng và ban bố, để thiên hạ hiểu rõ.” Vương Đán bèn xin hai việc, nên đặc biệt ghi lại.

[2] Ngày Canh Thìn, Vương Khâm Nhược dâng lên 70 quyển sách biên soạn về sự tích các hậu phi theo chiếu chỉ, được ban tên là 《Đồng Quản Ý Phạm》.

[3] Vua nói với các cận thần: “Hôm qua trong cung có cháy, triệu tập quân sĩ, chỉ cần tuyên chỉ đến, họ lập tức ứng tiếng mà đến, thật đáng khen ngợi. Nhưng việc này hệ trọng, xưa kia triệu quân phải dùng phù, chính là để phòng lúc khẩn cấp, phải có bằng chứng hợp lệ.”

Ngày Nhâm Ngọ, ra chiếu cho Điện tiền và Thị vệ ty, từ nay nếu không phải thời điểm thích hợp mà triệu tập quân sĩ, phải đợi thấy văn bản có ấn ngự bảo mới được điều động, nếu không thì phải lập tức tâu lên. Ấn ngự bảo ban ra không được chuyển giao cho các cơ quan khác, mỗi khi thay đổi chức vụ, phải trao đổi lẫn nhau.

[4] Chiếu rằng: “Các kho tàng của các ty, nếu trung sứ tuyên lấy vàng bạc tiền của, chỉ theo lệ cũ, lập tức ứng phó, không được lấy số hiện có mà báo cáo. Nếu vi phạm, chủ điển xử tử, giám quan bị cách chức và đày đi.” Theo chế độ cũ, tổng số kho tàng, dù là Tam ty sứ cũng không được biết. Khi Đinh Vị làm sứ, tự trình bày rằng chi phí quốc gia nên biết số thường, Vua miễn cưỡng đồng ý, nhưng lệnh phó sứ trở xuống không được biết. Tuy nhiên, các quan coi kho không rõ điều cấm, mỗi khi nội thần tuyên lấy, đều báo hết số, hoặc liệt kê danh mục để cung cấp. Vì thế, đặc biệt nhắc nhở.

[5] Ngày Bính Tuất, chiếu cho các quan kinh triều, mạc chức, châu huyện ở Quảng Nam, Tây Xuyên, nếu vì tang cha mẹ mà rời nhiệm sở, muốn quản áp vận chuyển cũng được, và cấp giấy phép đi đường.

[6] Chiếu cho Quảng Nam lộ, từ nay những kẻ bất lương phạm pháp năm lần, theo pháp đánh trượng, thích chữ và đày đến lao thành các châu quân phía bắc[1], nếu chưa đủ năm lần nhưng tình tiết nghiêm trọng cũng xử như vậy.

[7] Vì tu sửa điện Văn Đức, tạm ngừng thiết triều, đợi xong việc sẽ trở lại như cũ.

[8] Thời đầu quốc gia, theo lệ cũ “phi tiền” đời Đường, cho phép dân nộp tiền ở kinh sư, để đổi lấy tiền ở các châu. Trước đó, thương nhân phải nộp đơn ở Tam ty, rồi đưa vào kho Tả tàng, cơ quan có trách nhiệm tính mỗi quan tiền thu 20 đồng tiền riêng.

Năm Khai Bảo thứ 3, lập ty Tiền tiện, lệnh thương nhân nộp tiền phải đến ty trình đơn, ngay hôm đó chuyển vào kho Tả tàng, cấp giấy chứng nhận, và ra lệnh các châu đợi thương nhân mang giấy đến, lập tức cấp số tiền đó, từ đó không còn bị trì hoãn. Sau đó, quy định chỉ những châu xa xôi mới được chỉ định. Từ đó về sau, chi tiêu ở kinh sư ngày càng nhiều, tiền các châu đều phải chuyển về, những việc mua bán cần dùng tiền, có khi dùng vật khác thay thế. Lại thêm vàng bạc lậu ra nước ngoài rất nhiều, giá cả tăng cao khiến thương nhân không muốn nhập hàng, thương nhân buôn trà đi qua, nếu phải nộp thuế, lệnh ghi chép, đợi đến kinh sư sẽ nộp chung.

Từ khi thi hành pháp luật mới, những người có giấy giao dẫn cũ chưa được cấp, đã được cấp nhưng chưa đến kinh sư, đã đến nhưng chưa được xét duyệt, đều được phân định số lượng, thu nạp vào quan. Đại thể thương nhân có giấy giao dẫn cũ trị giá một ngàn quan, theo pháp luật mới mỗi năm phải nộp hai trăm quan, đợi năm năm thì cả cũ và mới đều được cấp đủ. Quan phủ dùng trà để chi tiêu công, lo giá rẻ sẽ làm rối loạn pháp luật, nên đều đổi sang dùng vật khác. Sơn trường tiết chế hao hụt, các trạm thuế qua lại đều nghiêm ngặt kiểm soát. Mỗi khi các trạm thuế nhận trà, đều phân bổ đều cho các trạm, theo thứ tự giấy giao dẫn đến trước sau. Các thương nhân lớn biết được nơi có hàng tốt, ngày đêm sai người mang giấy đến quan, nên được ưu tiên.

Ban đầu, cấm muối Hoài Nam, các thương nhân nhỏ đã khốn đốn, đến nay càng không thể tự kinh doanh. Trong ba bốn năm, các cơ quan vì kinh sư cần tiền gấp, thương nhân cầm giấy giao dẫn cũ đến trạm thuế thì được cấp hàng, đôi khi được gia hạn đặc biệt, hoặc vài tháng, hoặc trăm ngày, quá hạn chưa đến thì mỗi mười phần lại phải nộp thêm hai phần tiền mặt, gọi là thiếp nạp. Các thương nhân lớn thường đáp ứng được hạn, thương nhân nhỏ không biết, hoặc không có tiền để thiếp nạp, đành bán rẻ cho thương nhân lớn. Các cơ quan vì tiện lợi, trong một năm có khi thay đổi văn bản đến mười mấy lần, thương nhân hoang mang, do dự không tiến, người dâng sớ đều trách việc thay đổi pháp luật.

Ngày Canh Dần, Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Nhiều người nói rằng pháp luật về trà mới sửa đổi không tiện, số tiền tăng giảm, đó cũng là việc thường, nhưng nghe nói không có lợi cho tiểu thương.” Vương Đán và các quan nói: “Từ khi sửa đổi pháp luật đến nay, chưa thấy có việc gì bất tiện, trong chiếu chỉ ban ra cũng không có điều khoản nào gây khó khăn cho tiểu thương. Nếu những người tâu lên thực sự có ý kiến hay, xin giao cho Trung thư xem xét thi hành. Nếu muốn ngăn chặn các lời bàn tán, thì nên cử triều thần khác để xem xét lợi hại.”

Vua lại hỏi ý kiến Vương Khâm Nhược, Khâm Nhược nói: “Thần không rõ đầu đuôi sự việc.” Trần Nghiêu Tẩu nói: “Chỉ cần các vật phẩm nhập được vào kho, tức là có lợi nhuận.” Đinh Vị nói: “Hà Bắc, Thiểm Tây nhập được cỏ khô và lương thực, tức là của quan nhập kho, các trạm thuế dọc sông không còn trà tồn đọng, tức là pháp luật được thi hành. Những lời đồn đại vụn vặt khác không đáng tin cậy. Nếu có tấu chương, xin ban ra để cùng bàn bạc. Đại để trước khi sửa đổi pháp luật, quan phủ mỗi năm lỗ vốn trà hơn chín nghìn quan, sau khi sửa đổi, mỗi năm thu lợi thường không dưới hai trăm vạn quan, dự trữ biên phòng không thiếu, các trạm thuế không còn tồn đọng, đó là kết quả lớn.”

Vua bèn hạ chiếu cho Hình bộ thượng thư Phùng Chửng, Hàn lâm học sĩ Vương Tăng cùng Tam ty xem xét quyết định.

(Bản chí chép lời đối đáp của Đinh Vị về việc quan phủ lỗ vốn trà hơn chín nghìn quan vào tháng giêng năm sau, nay theo thực lục.)

[9] Cho đồng tử Thái Bá Hi làm Chính tự Bí thư tỉnh, cha của Bá Hi là Quy Tòng làm Hiệu thư lang. Bá Hi vốn quê ở Phúc Châu, theo cha đến kinh đô, mới bốn tuổi đã đọc thuộc hơn trăm bài thơ. Vua cho vào cung, thấy cậu bé ứng đối chu đáo, đọc thơ thuần thục, bèn bổ nhiệm làm quan. Lại thấy Quy Tòng lâu năm ở trường thi, khen ngợi ông dạy con tốt, cho thi ở Trung thư rồi bổ nhiệm. Vua còn làm thơ ban cho Bá Hi.

[10] Ngày Quý Tỵ, Biên sắc sở tâu: “Kẻ giám lâm chủ thủ tự trộm cắp và trộm cắp tài vật của nơi mình giám sát, trước đây từ năm tấm lụa thì bị phạt tù hai năm, tăng dần đến hai mươi lăm tấm thì bị lưu đày hai nghìn năm trăm dặm, ba mươi tấm thì bị xử giảo. Xét theo luật pháp, phàm tăng hình phạt nặng đều phải tuần tự, nay riêng điều này đột ngột đến mức tử hình, xin đổi ba mươi tấm thành lưu đày ba nghìn dặm, ba mươi lăm tấm thì xử giảo.” Được chấp thuận.

[11] Vua nói với tể tướng: “Nhiều người nói rằng quan lại phạm tội tham nhũng nhiều, có lẽ do triều đình nới lỏng việc trừng phạt.”

Vương Đán tâu: “Nay phẩm quan phạm tội tham nhũng, tình lý trái ngược, chỉ cần hơn một nghìn tiền đều bị phạt điền ở nha tiền, gặp đại xá thì được tha, gặp đại xá lần nữa thì được làm tham quân, văn học, suốt đời không được coi là người lương thiện. Còn những kẻ phạm tội nhẹ, gặp đại khánh cũng chỉ được làm phán ty, mỗi lần điều động bổ nhiệm, nhất định phải ghi rõ tội tham nhũng, nhục nhã đến cực điểm. Tuy nhiên, nếu có kẻ đáng bị xử tử, triều đình chỉ giao cho cơ quan chức năng, kẻ phạm tội không thể thoát chết. Thái Tông cẩn trọng trong hình phạt, thi hành ân xá ba lần, những người này phần lớn được giảm tội chết. Từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, số quan lại tham nhũng so với các đời trước có vẻ ít hơn.”

[12] Ngày Bính Thân, lấy Hình bộ viên ngoại lang, kiêm Thị ngự sử tri lam sự Vương Tùy làm Tri chế cáo, Tri Ứng Thiên phủ kiêm Nam Kinh lưu thủ sự.

Trước đó, Vua xem tấu chương của Vương Tùy, nói với các phụ thần: “Tùy tính tình nhu thuận, nhưng có chính kiến.” Vương Đán tâu: “Vũ nghi của triều đình đều xuất phát từ đài các, nếu không thanh liêm tự lập, lại thêm học rộng, thì không thể đàn áp được nhiều kẻ sĩ.” Do đó, Vua đề bạt Tùy nắm giữ chế cáo ngoài, nhưng Tùy không giỏi soạn chế từ, nên được điều ra làm quan ở phiên quận. Sau đó có chiếu tăng tiền công dụng của Ứng Thiên phủ lên một trăm vạn, theo lời thỉnh cầu của Tùy.

(Theo thực lục, Tùy được bổ nhiệm làm Tri chế cáo vào ngày này, rồi ra làm quan ở Nam Kinh, trước đây chưa từng có trường hợp nào như vậy, cần xem xét thêm.)

[13] Ngày Mậu Tuất, Chiêu Tuyên sứ, Bình Châu đoàn luyện sứ, Nhập nội đô tri Tần Hán qua đời. Vua rất thương tiếc, khóc thương, truy tặng chức Bối Châu quan sát sứ, ban thêm tang lễ trọng hậu. Khi việc tu sửa trong cung hoàn tất, lại sai sứ ban áo mặc và đai vàng cho gia đình ông.

Hán là người phóng khoáng, có sức mạnh võ nghệ, tự tin vào tài năng mưu lược, trước sau bị thương 49 lần, các tướng đều khen ngợi sự dũng cảm của ông. Ông coi nhẹ tiền tài, thích làm việc thiện, phần lớn bổng lộc được ban đều chia đều cho tướng sĩ, nên được mọi người quý mến.

Vua từng nói với Vương Đán: “Hán hết lòng trung thành với quốc gia, không hại người, cũng không khen ngợi ai một cách bừa bãi, mỗi khi tâu trình đều rất đáng tin cậy.” Đán đáp: “Hán liêm khiết, cẩn trọng, khiêm tốn, được nhiều người coi là bậc trưởng thượng.”

Vua nói: “Hán ở triều trước, từng nói rằng thân thiết với Lý Kế Thiên, ra vào trướng không ngăn cách, có thể mưu kế ám sát. Ông còn nói rằng mình chỉ là một nội quan, không đáng tiếc, nếu có thể vì quốc gia trừ khử kẻ đại tặc này, dù chết cũng không hối hận. Thái Tông rất khen ngợi lòng trung thành của ông.” Đán nói: “Lôi Hữu Chung ở Tây Xuyên, cùng với Thượng Quan Chính, Thạch Phổ thường không hòa hợp, nhờ Hán hòa giải. Nếu không, hầu như đã xảy ra chuyện.”

Vua nói: “Các quan biên thùy có kẻ kiêu ngạo, cố chấp, khó bề bàn việc, Hán đều hòa giải được, lời nói không rườm rà, chỉ thẳng thắn chân thành, nên mọi người tự nguyện nghe theo. Trước đây Lưu Thừa Khuê qua đời, Hán nói rằng Thừa Khuê không tránh né sự oán giận của mọi người, những kẻ không ưa ông ấy chắc chắn sẽ gièm pha, mong đừng nghe theo. Trẫm càng thêm khen ngợi nhân cách của ông.” Sau đó, truy tặng ông chức Chương Quốc tiết độ sứ. Vua sai Dương Ức soạn văn bia, Ức cho rằng Hán không tích lũy của cải, từ chối nhận vật phẩm biếu tặng, dù triều đình không cho phép, nhưng được người đời khen ngợi.

[14] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu biên soạn tập 《Thái Tông Diệu Giác》 vào tạng kinh Phật.

[15] Kho Nội tàng tâu: “Số vàng lụa mà Tam ty mượn rất nhiều. Trước đây, vàng mượn được dùng vàng cống từ các châu Nhiêu, Hấp và các lộ để hoàn trả. Nay các nơi nộp đến[2], Tam ty chỉ huy đưa thẳng sang kho Tả tàng. Kho này không chỉ dần mất số lượng phong trang, mà còn không hợp với lệ cũ của Lưu Thừa Quy.” Chiếu cho Tam ty lập kế hoạch bù đắp.

[16] Trước đó, cung điện bị cháy, chiếu cho các vương dời cung ra ngoài. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Tuất, sai Trang trạch sứ, Thứ sử châu Trường là Thạch Tri Ngư làm Đô đại quản cư các việc cung điện của thân vương.

[17] Ngày Tân Hợi, chiếu cho các sứ thần Tam ban từ lộ Quảng Nam trở về được miễn làm việc ngắn hạn.

[18] Ngày Quý Sửu, lệnh cho Viện Quan cáo từ nay các cáo thân bổ nhiệm lớn và thư gửi ngoại phiên vẫn dùng giấy lụa hoa kim. Lúc đó cấm dùng vàng, nên các cơ quan xin như vậy.

[19] Ngày Giáp Dần, Đô kiềm hạt trú bạc lộ Kinh Nguyên, Tri châu Vị là Tào Vĩ dâng biểu xin tạm về kinh sư thăm mẹ, chiếu cho phép.

[20] Ngày Bính Thìn, Vương Khâm Nhược theo chiếu xem xét sự tích thần tiên họ Triệu trong Đạo tạng, tổng cộng được 40 người, chiếu cho vẽ ở hành lang cung Cảnh Linh.

[21] Chiếu từ nay các lộ Bộ thự, Kiềm hạt, Đô giám và Thượng thư Thừa lang trở lên nhậm chức, được phép tùy tiện dẫn quân cấm đến nơi đóng quân, ngoài ra đều cấm.

[22] Vì dịch bệnh trâu bò, ban y phương cho các lộ, miễn thuế trâu bò một năm.

[23] Ngày Mậu Ngọ, Xu mật phó sứ Vương Tự Tông bị cách chức, giáng làm Đại Đồng tiết độ sứ.

Trước đó, Tự Tông và Khấu Chuẩn bất hòa nghiêm trọng, nhiều lần dâng biểu xin từ chức. Sau khi Khấu Chuẩn rời khỏi chức vụ, Tự Tông lại kiên quyết xin được bổ nhiệm ra ngoài, nên được trao quyền tiết độ. Sau đó, ông được lệnh làm Tri châu Hứa Châu. Tự Tông trước đây từng du ngoạn ở châu này, có biệt thự tại đây, người đương thời đều cho là vinh dự. Tự Tông dâng biểu xin kiêm nhiệm việc bắt giặc ở Nhữ Châu và Hứa Châu, nhưng chiếu chỉ không chấp thuận.

(Bản truyện chép rằng Tự Tông làm Xu mật phó sứ, Khấu Chuẩn làm Xu mật sứ, Tự Tông bất hòa với ông ta, nhiều lần dâng biểu xin từ chức, nên mới có sự bổ nhiệm này. Xét rằng Khấu Chuẩn bị cách chức Xu mật sứ vào tháng tư ngày Nhâm Tuất, cách đây ba tháng, bản truyện chép không rõ, nay lược bớt và chỉnh sửa lời văn để tránh mâu thuẫn.)

[24] Ngày Kỷ Mùi, lệnh cho Tri chế cáo Lưu Quân đi sứ tế lễ ở cửa sông Biện, vì dòng sông cạn và tắc nghẽn.

[25] Ngày Giáp Tý, hộ dân ở trại Phục Khương, châu Tần là Văn Vũ đánh trống Đăng Văn, tâu rằng những năm gần đây Ôn Trọng Thư vì người Nhung nhiều lần quấy nhiễu dân trại, nên mở rộng biên giới đến cửa ải Đại Lạc Môn, đặt thành trì để phòng thủ, từ đó yên ổn. Nhưng người kế nhiệm lại giao đất Lạc Môn cho bộ lạc phiên, nên đến nay vẫn thường bị cướp phá; xin được đặt trại ở cửa ải Sơn Đan, trên núi Quảng Ngô, thành cổ, thành Đại Lạc Môn và cửa ải Vĩnh Ninh để ngăn chặn quân Nhung. Chiếu chỉ ban thưởng hậu hĩnh và cho về.

[26] Ngày Ất Sửu, cấm các quan chức ở biên giới Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây như Bộ thự, Kiềm hạt, Đô giám, Tri châu tư mua vải quân trang nhuộm màu để đổi lấy ngựa phiên ở Phủ Châu.

[27] Có người dâng thư nói: “Hàng năm, châu Tịnh cấp hơn bốn vạn tấm vải quân trang, đều phải vận chuyển từ kinh đô, nghe nói trong quân đội đều đem đi buôn bán. Xin triều đình tự lập trường, ai muốn bán thì mỗi tấm trả một nghìn hai trăm đồng, thu trữ để dùng hàng năm, có thể giảm một nửa việc vận chuyển.” Chiếu chỉ giao cho Tam ty, Tam ty cũng cho là tiện lợi, nên chấp thuận.

[28] Ngày Bính Dần, Vua đến thăm cung mới của Tương vương Nguyên Ốc, ban cho y phục, đai lưng và đồ dùng. Lại sai ban tiền cho các vương phủ, mỗi nơi một số lượng khác nhau.

[29] Ngày Canh Ngọ, điều Tri châu Thăng Châu, Xu mật trực học sĩ, Công bộ Thị lang Tiết Ánh làm Tri châu Dương Châu; Cấp sự trung Mã Lượng làm Công bộ Thị lang, Tri châu Thăng Châu; Lại bộ Viên ngoại lang, Tri chế cáo Lý Địch làm Hữu Gián nghị đại phu, Tập hiền viện Học sĩ, Tri quân Vĩnh Hưng.

Vua bảo các quan phụ tá rằng: “Các chức trưởng quan ở đại phiên, càng khó chọn người, cốt yếu phải thông hiểu tình hình, tuân theo pháp lệnh, thương dân ngăn bạo mà thôi. Có kẻ làm quan liêm mà tàn ngược, có kẻ sát sao mà rườm rà, có kẻ vội vã thu gom cho công quỹ, có kẻ bỏ bê công việc cho là khoan dung, như thế thì làm sao đạt được trị an?”

(Truyện Lý Địch chép: Lý Địch từ châu Bạc về triều, gặp lúc Thốc Tư La làm phản, Vua lo lắng cho Quan Trung, triệu vào điện Trường Xuân đối đáp, rồi sai làm Tri quân Vĩnh Hưng. Xét lúc này Thốc Tư La chưa làm phản, nên không theo.)

[30] Vua làm thơ đọc 19 đời sử ban cho các quan cận thần họa theo.

[31] Châu Phường báo có mưa lớn, sông tràn, dân chết đuối. Vua xuống chiếu ban tiền cho nhà những người chết.

[32] Ngày Nhâm Thân, xuống chiếu rằng nghe nói những người phạm tội bị đày xa ở Hà Bắc, Thiểm Tây và châu Nghi, đều có ruộng đất yên ổn, từ nay nếu được ân xá thì không cần dời đi nơi khác.

[33] Đinh Vị tâu việc sửa sang cung điện đã xong.

(Tháng 6 ngày Nhâm Tý đã chép các điện xong, nay lại chép, không rõ nguyên do, có lẽ lần trước chỉ nói các điện, lần này nói chung công việc.)

[34] Ngày Ất Hợi, Trung thư môn hạ tâu rằng: “Hàng năm tế Trời và hưởng Thái miếu, theo lệ cũ đều do Tể tướng và Tham tri chính sự đảm nhiệm, gần đây thường sai quan khác, e trái với ý nghiêm trọng, xin theo lệ cũ.” Vua nghe theo.

[35] Cung uyển sứ, Chiêu châu Đoàn luyện sứ Quách Sùng Nhân làm Giải châu Đoàn luyện sứ. Sùng Nhân là con Quách Thủ Văn, em Chương Mục hoàng hậu. Lúc ấy mẹ Sùng Nhân là Lương thị mất, Vua xuống chiếu cho khởi phục, lại có mệnh này. Sùng Nhân tuy là ngoại thích, nhưng triều đình chưa từng quá ban ân huệ, từ đó suốt mười năm không thăng chức.

(Mười năm không thăng, theo bản truyện, chép kèm.)

[36] Tháng này, Vua xuống chiếu cho Tam ban viện, từ nay các chức Tuần kiểm thúc đốc việc vận chuyển trên sông đều chọn những người từng giữ chức Giám áp, Tuần kiểm Điện trực có năng lực để đảm nhiệm. Trước đó, Tam ban định cử Thị cấm Lý Thế Long làm chức Bát phát Tuần kiểm bắt trộm cướp ở sông Thái. Vua nói: “Thế Long mới 25 tuổi, chưa từng trải qua chức vụ nào.” Những người dâng sớ nhiều lần nói rằng các chức Thôi cương, Tróc tặc thường bổ nhiệm con em quyền thế, nên mới đặt ra quy định này.

[37] Phùng Chửng, Vương Tăng nhận chiếu cùng bàn định phép buôn bán mới, đều cho rằng cần thận trọng và giữ chữ tín, nhưng những người dâng sớ vẫn tranh nhau nói về tệ hại của việc thay đổi phép tắc, các nội thần như Lam Kế Tông cũng nhiều lần tâu về sự bất tiện. Vua hỏi các phụ thần, Đinh Vị tâu: “Thần đã biết rõ lợi hại, mong được tranh luận với họ.” Sau đó Vua triệu Kế Tông đến hỏi đầu đuôi sự việc, nhưng họ đều không trả lời được, Đinh Vị liền tâu lên.

[38] Ngày Mậu Dần, Vua xuống chiếu rằng: “Phép trà đã có từ lâu, là kế hoạch thu nhập đã định sẵn, không phải là điều dị đoan có thể công kích. Xem xét những người tâu việc, thường đưa ra lời nói đơn phương, lúc đầu dâng sớ tâu bày, tất nhiên phiền toái kể lể sự việc, nhưng khi xét đến cốt lõi, đa phần không hiểu rõ đầu đuôi. Từ nay, nếu quần thần có điều gì thuận tiện về phép chè, nên dâng sớ rõ ràng, trình bày đầy đủ các điều khoản, giao xuống cho các ty xem xét bàn bạc rồi thi hành. Huống hồ việc tiền bạc lương thực là việc nhỏ nhặt, không phải là việc cơ mật quân quốc, vốn nên thuộc về các cơ quan chức năng, há phải là việc Trẫm nên tự quyết định. Từ nay về sau, nếu có điều gì tâu bày, không được xin lưu lại trong cung nữa.”

[39] Dân Khai Phong là Thôi Bạch, nhà ở kinh thành, vốn là kẻ vô lại, ức hiếp kẻ yếu, cướp của để làm giàu. Trước đó có Mãn Tử Lộ, hung hãn hiếu nghĩa, nổi tiếng khắp kinh đô, Triệu Gián vì ngang ngược mà bị xử tử. Bạch thường nói với mọi người: “Mãn Tử Lộ là đồng loại với ta. Triệu Gián là học trò của ta. Những kẻ khác không đáng kể.”

Bạch ở gần nhà Lương Văn Úy, muốn ép mua nhà của Văn Úy, Văn Úy không đồng ý, Bạch nhiều lần nhục mạ. Khi Văn Úy chết, vợ là Trương và hai con còn nhỏ. Bạch thường sai người ném gạch đá để hù dọa, Trương đành phải dời đi, rồi đem nhà ra cầm cố lấy 130 vạn tiền, Bạch liền mua với giá 90 vạn. Trương kiện lên phủ, Bạch bèn tăng thêm 30 vạn, đồng thời bí mật giảm tiền thuê, lấy người nhà làm chứng, kiện Trương lên phủ, lại hối lộ nhiều cho lại dịch.

Bạch vốn thân với Điện trung thừa, quyền Đại Lý thiếu khanh Diêm Doãn Cung, bèn nhờ Doãn Cung thông báo việc này cho Khai Phong phủ phán quan, Quốc tử bác sĩ Hàn Doãn, Doãn xử Trương tội tăng giá nhà, đánh trượng. Bạch bèn lớn tiếng khoe khoang khắp chợ. Hoàng thành ty kiêm chức tâu lên, Vua xuống chiếu bắt Bạch giao cho Ngự sử đài, tra hỏi ra sự thật.

Ngày Kỷ Mão, Doãn bị tước chức, giáng làm Nhạc Châu văn học; Doãn Cung bị tước chức, giáng làm Phục Châu văn học; Bạch bị đánh trượng, đày đến Lao thành Nhai Châu; con trai Bạch là Đoan bị đánh trượng, đày đến Bản thành Giang Châu, lại hạ chiếu răn dạy dân chúng kinh thành.

[40] Ngày Nhâm Ngọ, sai Nhập nội phó đô tri Trương Cảnh Tông cùng quản lý việc công của phủ đệ trưởng công chúa và các viện quận chúa, huyện chúa. Trước đó sai Cung bị phó sứ Mạch Thủ Ân quản lý, đến lúc này, Thủ Ân xin cho Nhập nội đô tri cùng đảm nhiệm việc này, nên lại sai Cảnh Tông.

[41] Ngày Quý Mùi, vì dân chúng ở phủ Hà Trung, các châu Thiểm, Đồng, Quắc bị đói kém và lưu lạc, Vua sai Thị ngự sử Lý Hành Giản đi thăm hỏi an ủi, đồng thời bàn với Chuyển vận sứ mở kho lương bán và cứu tế. Hành Giản người Phùng Dực, từng làm quan ở Thục. Ở Lăng Châu, có người giàu là Trần Tử Mỹ, cha chết, mẹ kế giả chữ cha đuổi đi, nhiều lần kiện không được xử công bằng. Chuyển vận sứ ra lệnh cho Hành Giản xét lại việc này. Khi thay người khác trở về, Tử Mỹ đem 500 lạng vàng tặng, Hành Giản nổi giận không nhận, Tử Mỹ cảm động khóc mà đi. Hành Giản được Giám sát ngự sử Vương Tự Tông tiến cử, Vương Đán nhiều lần khen tài, Vua cũng biết tiếng, thăng lên làm Thị ngự sử.

(Hành Giản làm Ngự sử vào tháng 12 năm Tường Phù thứ 2, nay phụ chép vào đây.)

[42] Vua ra chiếu bãi bỏ việc sai dùng xe trâu và thuê người chuyên chở ở Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Thiểm Tây theo lệ trước, vì có dịch bệnh ở trâu.

[43] Châu Trần tâu rằng Tri châu, Xu mật trực học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Trương Vịnh mất. Vua truy tặng Tả bộc xạ, thụy là Trung Định. Vua từng khen Vịnh có tài làm tướng, nhưng vì bệnh nên không được dùng hết tài năng. Vịnh lúc sắp mất dâng sớ nói: “Không nên xây cung quán, làm cạn kiệt của cải thiên hạ, tổn thương sinh mạng dân chúng. Đó đều là do tên gian thần Đinh Vị lừa dối bệ hạ, xin chém đầu Vị bêu ở cửa thành để tạ lỗi với thiên hạ, rồi chém đầu thần bêu ở cửa nhà họ Đinh để tạ lỗi với Vị.” Vua cũng không cho là hỗn.

Vịnh vốn nổi tiếng thanh liêm, nhưng lúc tuổi già ở Trần Châu, lại chuyên lo kinh doanh buôn bán, có khi còn ức hiếp dân nghèo, người đương thời lấy làm tiếc.

(Việc chém Đinh Vị theo sách 《Ký văn》, còn lời tâu lúc lâm chung thì theo sách 《Âu Tĩnh Thánh Tống Xuyết Di》 và 《Quốc lão nhàn đàm》.)

[44] Ngày Giáp Thân, Tri châu Mật Châu là Tôn Thích tâu rằng: “Châu thần nhiều lần có bọn cướp mạnh kết án gặp ân xá hoặc bắt được sau khi ân xá, theo chiếu chỉ phải phối tới bản thành thì đều phối tới lao thành. Thần ngu nghĩ rằng triều đình chia bản thành và lao thành làm nặng nhẹ, nay nếu xử đoán một cách chung chung, e rằng trái ý chiếu chỉ, xin hạ lệnh cho quan pháp tham nghị.” Chiếu rằng từ nay các châu quân theo chiếu chỉ thích phối tới bản thành thì chỉ phối tới bản thành có quân ngạch chỉ huy, không được phối tới lao thành.

[45] Ngày Bính Tuất, lấy người tập tiến sĩ là Đái Quốc Tường thử làm chức Chủ bạ Tướng tác giám[3]. Lúc đó, Tri châu Thăng Châu là Mã Lượng tâu rằng: “Năm trước có người đồng khoa đỗ tiến sĩ là Đái Vĩnh đi nhậm chức ở Lĩnh Biểu, nói với thần rằng: ‘Nếu không trở về, xin gửi gắm đứa con mồ côi.’ Không lâu sau, Vĩnh mất, thần tìm được con trai ông ấy mới vài tuổi, đem về nuôi dưỡng trong nhà, khi lớn lên thì gả con gái nhỏ cho, mong được ban ơn thích cát, nối dõi tông đường.” Vua khen ngợi đức tin nghĩa của Lượng, nên có mệnh lệnh này.

[46] Châu Tần tâu rằng bộ tộc Long Trung đến cướp, thủ lĩnh bộ tộc Ban Sát Mặc Tinh là Dĩnh Thành Tư Nạp cùng đánh nhau, thắng được. Ban thưởng cẩm bào, đai bạc, trà lụa có khác nhau.

(Theo Hội yếu, việc này xảy ra ngày Bính Thìn, nay chép thêm vào, cần xem xét lại.)

[47] Ngày Kỷ Sửu, Vua bảo các tể thần rằng: “Gần đây xem các bản tâu của quần thần theo chiếu chỉ nói thẳng, đều chỉ là những việc tầm thường.” Vương Đán nói: “Trong đó nhiều người nói về việc xây dựng cung khuyết.” Hướng Mẫn Trung nói: “Người ngoài không biết việc tu sửa chân quán, tuy tạm thời huy động binh lính, nhưng thực sự không ảnh hưởng đến việc dân.”

Vua nói: “Cũng có người mang tình ý riêng, lời lẽ gần như bỡn cợt, thực không biết rằng sự giả dối dễ nhận ra.” Đán nói: “Đến như Lưu Kỵ, dẫn chứng cổ kim, như thể từ lâu đã chú tâm soạn thảo. Nhưng xem qua lý lịch, ban đầu thì vi phạm pháp luật lấy tiền lãi, dùng cáo sắc để thế chấp; sau lại nhận hối lộ, bị tước chức phối tới nơi khác. Nay mới được làm văn học, mà dâng sớ bàn cao, tự cho rằng không ai bằng mình.”

Vua nói: “Người xưa nói xét lời xem việc, chính là chỉ việc này vậy.”

[48] Ngày Canh Dần, Dương Ức, Tri châu Nhữ Châu, chức Bí thư giám tâu rằng: “Trong bộ nội, mùa thu lúa rất tốt, một gốc lúa có đến bốn mươi bông, một gốc gai có đến chín trăm quả.” Vua xem tờ tâu, nói với các quan phụ tá rằng: “Văn chương của Dương Ức nổi bật nhất đương thời, các học giả đời sau đều ngưỡng mộ.” Vương Đán nói: “Như Lưu Quân, Tống Thụ, Yến Thù, những người kế tiếp nhau soạn văn, có phong cách Trinh Nguyên, Nguyên Hòa, là bắt đầu từ Dương Ức.”

[49] Ngày Tân Mão, tăng thêm một viên Đô giám trú bạc ở châu Hãn, theo lời thỉnh cầu của Ty An phủ Hà Đông.

[50] Ngày Giáp Ngọ, Lý Địch, Tri quân Vĩnh Hưng tâu rằng: “Trường An là đô cũ, số cử nhân và con em quan lại rất đông, nhiều kẻ ỷ thế ấm mà vô lại, làm càn hung ác. Từ nay, những kẻ phạm tội nặng, xin cho phép bộ tống đến kinh đô.” Vua chuẩn tấu. Có Trịnh Văn Thản, thuộc hào tộc trong phủ, nhà hắn đã có ba bốn người bị đi đày. Văn Thản cho dân nghèo vay tiền lãi, bắt họ trả gấp đôi. Đến nay, số nợ đã vượt quá ba bốn lần mà hắn còn giấu giếm khế ước, đòi hỏi không ngừng. Lý Địch bèn trói giải về kinh, xử đánh trượng, xăm mặt, đày đến Lao thành châu Sâm, gặp ân xá cũng không được tha.

[51] Ngày Ất Mùi, lấy Lâm Đặc, Tam ty sứ, chức Công bộ Thị lang làm Hộ bộ Thị lang, kiêm chức Phó sứ cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng; Mã Nguyên Phương, chức Thái thường Thiếu khanh làm Hữu Gián nghị đại phu, quyền Tam ty sứ sự.

Lâm Đặc tinh thông, giỏi việc quan, ngồi xử án cả ngày không mệt. Vua thấy Đặc đã lâu làm việc ở Tam ty, tuổi cao mà vẫn siêng năng, nên đặc cách đặt chức này, bậc trên cả Hàn lâm học sĩ[4], tăng lương tháng để tỏ lòng yêu quý. Sau lại sai Đặc làm Tu sứ cung Cảnh Linh, kiêm quản việc cung Cảnh Linh và quán Hội Linh. Vua thường hỏi ý kiến về việc lớn trong triều, Đặc nhân đó mà gây tổn hại, người ta vì thế mà sợ hắn.

[52] Tào Vĩ nói: “Tình hình của người Phiên Nhung, không thể chỉ thi hành ân huệ. Nên trước tiên tiến hành đánh úp, khiến họ biết sợ hãi, sau đó chiêu dụ, đó là lợi ích lâu dài. Gần đây, các bộ lạc Phiên ở Tần Châu, vốn do Trương Cát dùng sức chiếm đất của họ, khiến họ không có lương thực, dẫn đến xâm phạm. Nay nên cấp một phần đất hoang, để họ canh tác, đó thực sự là kế sách vỗ về.” Chiếu theo lời xin của ông, nhưng căn dặn Vĩ không cần đánh úp.

[53] Ngày Mậu Tuất, Nội điện Sùng ban Chu Văn Chất được làm Nội điện Thừa chế, vẫn giữ chức Nội thị tỉnh Áp ban, sung chức Kinh Nguyên lộ Trú bạc Đô giám, kiêm Duyên biên Tuần kiểm, thay thế Vương Hoài Tín, điều Hoài Tín làm Tần Châu Trú bạc Đô giám.

Ban đầu, Trương Cát đến Tần Châu, mở rộng đất đai, lập Tứ Môn trại, chiếm cứ Đại Lạc Môn, nhưng không dùng ân tín đối đãi với các bộ lạc Phiên, do đó người Nhung tích tức giận, thường xuyên đến cướp bóc. Vua hỏi các quan phụ chính, Vương Đán nói: “Cát dễ tin và hay tranh chấp, e rằng sẽ sinh ra mầm mống biên giới. Nghe nói Vương Hoài Tín đến nơi nào cũng khoan dung và nghiêm khắc vừa phải, xin hãy đổi chức cho ông ấy.” Hướng Mẫn Trung nói: “Những năm gần đây, Ôn Trọng Thư đuổi các bộ lạc Phiên qua sông, mọi người đều cho là tiện lợi.”

Vua nói: “Trẫm cũng từng hỏi thăm, vì những năm gần đây tăng thêm bảy nghìn quân đồn trú, mới không còn lo lắng, biên giới may mắn được yên tĩnh, nhân dân an cư, sao phải sinh sự.” Do đó có mệnh lệnh này, sau đó lại điều Trương Cát làm Bân Ninh Hoàn Khánh Trú bạc Kiềm hạt.

(Trương Cát làm Bân Ninh Hoàn Khánh Kiềm hạt vào tháng 9 ngày Mậu Ngọ, nay ghi chung.)

[54] Cháu của Cung bị khố sứ Dương Cư Trung là Tông Lễ đánh trống Đăng văn tâu rằng: “Ông nội Cư Trung trước đây làm Tri châu Đỉnh Châu, vì phát binh đánh giặc Man nên đã lạm dụng hai mươi vạn quan tiền công, các quan yêu cầu bồi thường.” Chiếu tha cho, bổ Tông Lễ làm Tam ban Tá chức.

[55] Tam ty mượn bốn mươi vạn quan tiền từ Nội tàng khố.

[56] Lệnh cho Kinh Triệu, Hà Trung phủ, Thiểm, Đồng, Hoa, Quắc các châu cho dân vay giống lúa mạch.

[57] Ngày Tân Sửu, cấm trò chơi đấu vật trong quân đội.

[58] Hữu ban Điện trực Vi Kế Thăng bảo vệ đê sông suốt mười lăm năm, Vua khen ngợi sự chăm chỉ của ông, thăng làm Cáp môn Chi hậu.

[59] Đến cung mới của Đoan vương Nguyên Nghiễm, ban cho y phục, đai lưng, yên ngựa, rồi trở về, đến cung của Tương vương Nguyên Ốc.

Lúc đó, xa giá sắp xuất hành, thì con của Nam Dương Khang Hiếu vương Duy Cát mới mười tuổi đột ngột qua đời. Vua nói với tể tướng: “Nguyên Nghiễm đã chuẩn bị sẵn, khó mà dừng chuyến đi này. Nên ra lệnh không tổ chức âm nhạc, không cùng các quan uống rượu, nhưng nhạc Quân Dung có thể ngừng được không?” Vương Đán nói: “Quân Dung là nghi thức hộ vệ, không thể ngừng. Huống chi, đối với cái chết của trẻ nhỏ, lễ nên giản lược. Bệ hạ không nỡ lòng, thì nên bãi bỏ việc các quan uống rượu, không dùng âm nhạc trong bữa ăn, như vậy là rất hợp lý.”

[60] Ngày Bính Ngọ, Tào Vĩ tâu rằng Lưu Vương Nô thuộc bộ tộc của Cốt Tư La sai thuộc hạ là Thanh Bí Cát đến báo cáo[5], gần đây đã sai Tây Lương Tư Đạc Đốc dẫn mười vạn quân đánh úp bộ lạc phương Bắc, thắng trận, tiếp tục dâng lên một số thủ cấp.

(Việc này theo 《Hội yếu》 là ngày 29, nay ghi thêm vào, cần xem xét thêm.)

[61] Chiếu cho Viện Thẩm quan rằng những người ở gần đã hơn hai năm rưỡi, ở xa đã hơn hai năm thì tạm thời cho thay thế, không coi là lệ thường. Vua thấy các quan kinh triều chờ bổ nhiệm đã lâu, người vào chầu khá nhiều, nên có chiếu này.

(Việc này theo 《Hội yếu》, không rõ ngày.)

[62] Tháng 9, ngày Kỷ Dậu, Vua nước Chú Liễn là La Trà La Sạ sai sứ giả là Sa Lí Tam Văn[6] đến cống áo châu, mũ châu, mỗi thứ một chiếc, cùng châu ngọc, ngà voi, hương liệu, dược phẩm.

Trước đó, có thương nhân đến nước này, kể rằng thiên tử đã phong thiền ở phía đông và tế lễ ở phía tây. Vua nước ấy nói: “Mười năm nay biển không có sóng gió, người xưa truyền rằng như vậy là Trung Quốc có thánh nhân xuất hiện”, nên sai sứ đến triều cống. Sứ giả dùng mâm dâng châu ngọc và ngọc bích lên điện, đặt trước ngai vàng, rồi xuống điện lạy hai lần. Thông dịch viên truyền lời rằng: “Xin dâng lên để tỏ lòng ngưỡng mộ của người phương xa.”

Nước Chú Liễn phía đông cách biển 5 dặm[7], phía tây đến Thiên Trúc 1500 dặm, phía nam đến La Lan 2500 dặm, phía bắc đến Đốn Điền 3000 dặm. Từ xưa chưa từng thông hiếu với Trung Quốc. Sứ giả đi thuyền mất 1150 ngày mới đến Quảng Châu, ước tính quãng đường khoảng 411.400 dặm. Nước này có 7 thành, thống trị 31 bộ lạc. Vua nước này truyền ngôi, nay đã được 3 đời.

Vua đối đãi sứ giả nước này theo lệ như nước Cưu Tư. Năm sau, sứ giả trở về, Vua ban chiếu cho La Trà La Sạ, ban thưởng rất hậu. Sa Lí Tam Văn đến huyện Tương Ấp thì bệnh mất, được chôn tại đó. Vua thương xót, sai quan đến tế lễ.

[63] Ngày Canh Tuất, lấy Công bộ lang trung, Tri Đặng châu Trần Nghiêu Tư giữ chức bản quan làm Tri chế cáo. Trước đó, anh của Nghiêu Tư là Xu mật sứ Trần Nghiêu Tẩu nhân việc tâu bày, nói rằng Nghiêu Tư đã được ân xá, nên phục chức Long đồ các trực học sĩ. Vua nói: “Chức học sĩ là chức vụ thanh cao gần gũi, không phải cứ được ân xá là có thể phục chức.”

Nghiêu Tư xin dùng lệ của Tô Dịch Giản trước đây, Dịch Giản trước kia từ chức Tri chế cáo bị cách chức, không lâu sau lại được làm Tri chế cáo[8].

Vua không cho, bèn nói: “Nghiêu Tư cũng từng làm Tri chế cáo, vậy cứ cho giữ chức này cũng được.”

[64] Trần Nghiêu Tư tính cương cường, nhiều lần bị khiển trách, lòng buồn bã không nguôi. Vua nghe chuyện, lại hỏi Trần Nghiêu Tẩu, Nghiêu Tẩu nói: “Nghiêu Tư ban đầu không biết ơn Vua bảo hộ, tự cho rằng bị gièm pha đến nỗi này. Mong bệ hạ lấy những việc phạm tội nặng nhất mà nghiêm trách, để hắn biết hối hận và sợ hãi.”

Vua bèn hạ chiếu cho Nghiêu Tư rằng: “Khanh khi làm quan ở Vĩnh Hưng, việc làm sai trái, không chỉ dùng hình phạt tàn khốc. Như tự ý đặt vũ khố, xây Thảo Đường, mở ba cửa, đắp đường ngầm[9], ra vào dàn quân cấm vệ tự vệ, đây đâu phải là việc bề tôi nên làm! Dư luận xôn xao, không chỉ có tấu chương của Nhạc Hoàng Mục. Trẫm nghĩ đến mẹ khanh tuổi già, Nghiêu Tẩu ngày đêm hầu cận, chưa muốn truy cứu tận cùng, tạm trách nhẹ, rồi sẽ xét lại. Mệnh lệnh đã ban, lời bàn càng nhiều. Khanh không tự xét, chỉ nói bị người hãm hại. Từ nay nên nhớ ơn nước, sửa lỗi làm lành, nếu không, sẽ đem hết sự việc trước sau giao cho hữu ty.” Nghiêu Tư bèn sợ hãi tạ ơn.

[65] Ngự sử trung thừa Phùng Chửng tâu: “Hoàng thành phó sứ Tiêu Thủ Tiết vì liên lụy bị cách chức, tuy gặp ân xá, chưa được dùng lại. Mong bệ hạ ban ân chỉ xét lại.”

Vua nói: “Chửng là đại thần giữ pháp luật, nên thận trọng khi tiến cử. Thủ Tiết là người thường, cần gì phải tâu việc này.”

(Việc này không rõ tháng ngày, nay phụ chép.)

[66] Ngày Giáp Dần, lấy Dẫn tiến sứ, Cao Châu thứ sử, Kinh Nguyên lộ trú bạc đô kiềm hạt, Tri Vị Châu Tào Vĩ lĩnh Anh Châu đoàn luyện sứ, Tri Tần Châu kiêm Duyên biên đô tuần kiểm sứ, Kinh Nguyên Nghi Vị Châu Trấn Nhung quân duyên biên an phủ sứ, đúc riêng ấn an phủ sứ ban cho.

[67] Lúc này, Tông Ca Cốt Tư La lập ra văn pháp, tập hợp được mấy chục vạn người[10], sai người vào triều tâu, nguyện đánh dẹp Hạ để báo đáp. Vua cho rằng người Nhung nhiều mưu mẹo, lo lắng họ sẽ gây hấn ở biên giới, xâm phạm dân chúng, nên trước hết sai Chu Văn Chất giám sát quân Kinh Nguyên, lại điều Tào Vĩ đến châu này, kiêm nhiệm việc hai lộ để phòng bị. Ban cho Vĩ ba trăm vạn tiền công dụng mỗi năm, lại ra chiếu từ nay những người không kiêm chức An phủ sứ thì chỉ được cấp một nửa.

Vua nói với tể tướng: “Trước đây Tào Vĩ vào triều, nói rằng Lập Tuân tàn bạo chuyên quyền, đã mất lòng bộ tộc, e rằng không thể lâu dài. Cốt Tư La là hậu duệ của Tán Phổ, dần dần được mọi người theo về, đều cho rằng Lập Tuân cậy quyền tự ý, không công bằng trong việc.” Vương Đán nói: “Đại để giết người nhiều thì tích oán, lộng quyền thì bại vong, dù là phiên di cũng không thể không cảnh giác. Trước đây Tần Châu tâu rằng Lập Tuân tự ý làm oai phúc, nhiều lần ỷ vào ân sủng của triều đình[11], ức hiếp các bộ lạc biên giới, điều này cũng hợp lý. Ban đầu, Khấu Chuẩn nghe lời Lập Tuân, cho rằng nhất định sẽ đánh bại Đức Minh, nên ban thưởng quá nhiều.”

Vua nói: “Vương Tự Tông cũng nói rằng ngoại quốc đánh nhau là lợi của Trung Quốc. Trẫm nghĩ, hà tất phải mong họ đánh nhau. Chỉ cần sai Tào Vĩ an phủ vùng biên giới, dùng trọng binh trấn giữ Tần Châu, thường xuyên đề phòng, không được khinh suất, đó là thượng sách vậy.”

(《Kinh vũ thánh lược》 ghi việc này vào năm thứ 5 là sai. Tào Vĩ vào triều là việc tháng 7 năm nay, nay nhân việc sai Vĩ làm Tri Tần Châu mà ghi chép lại.)

[68] Ngày Kỷ Mùi, Long Đồ các đãi chế Tôn Thích dâng lời tâu: “Kính xét rằng trong sách 《Lễ Ký》 có thiên 《Nguyệt Lệnh》 xưa, đời Hậu Hán, Tư nông Trịnh Khang Thành cùng các học giả Lô, Mã đã dựa vào đó mà chú giải, lại soạn chú giải cho 《Chu Quan》 và 《Nghi Lễ》, đều được đưa vào học quan, nên ba bộ lễ đều lấy Trịnh thị làm chủ. Thiên 《Nguyệt Lệnh》 nằm ở quyển thứ năm, thiên thứ sáu, từ đời Hán, Ngụy trở về sau, việc truyền thụ không hề gián đoạn. Đời Đường, Lục Đức Minh soạn 《Thích Văn》, Khổng Dĩnh Đạt soạn 《Chính Nghĩa》, thứ tự các thiên quyển vẫn giữ nguyên như cũ. Đến khi Lý Lâm Phủ làm tướng, bèn bới móc những chỗ nhỏ nhặt, phế bỏ điển tịch xưa. Minh Hoàng nhân đó thêm vào những việc đương thời, sửa đổi văn cũ, gọi là 《Ngự San Định Nguyệt Lệnh》, Lý Lâm Phủ và các người khác chú giải, lại nâng thứ tự thiên quyển lên, đặt lên đầu sách 《Lễ Ký》, thực không phải là cổ lễ. Nay đang hưng thịnh Nho nghiệp, khảo cứu kỹ càng các kinh điển xưa, nên khôi phục lại quy chế cũ, để làm sáng tỏ lời dạy của tiền nhân. Thần xin cẩn thận chép lại bản chú giải của Trịnh thị về 《Nguyệt Lệnh》 một bản, kính mong giao cho Quốc Tử Giám khắc in ban hành.” Vua xuống chiếu cho Lễ Nghi Viện cùng hai chế thảo luận kỹ rồi tâu lên. Sau đó, Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh và các người khác tâu: “Nếu bỏ văn bản mới của Lý Lâm Phủ, dùng chú giải cũ của Trịnh Khang Thành, thì việc tế tự bốn mùa của quốc gia đều phải thay đổi. Xét kỹ sự lý, nên khó có thể quyết định nhẹ dạ. Kính xin vẫn dùng 《Nguyệt Lệnh》 do Lý Lâm Phủ chú giải như cũ.” Vua nghe theo.

[69] Nhập nội cung phụng quan Dương Thủ Trân đi sứ Thiểm Tây đốc thúc bắt giặc, xin rằng những kẻ cướp bóc mạnh bạo đến chết, xin giao cho thần xử lăng trì để răn đe kẻ hung ác. Vua nói: “Pháp luật có điều khoản thường lệ, há lại vào lúc thái bình mà làm việc tàn độc!” Bèn xuống chiếu cho Thủ Trân và những người khác bắt giặc cướp đưa về nơi thuộc quyền, xử theo pháp luật[12], những trường hợp tình tiết nghiêm trọng thì tâu lên xin chỉ.

(Việc của Thủ Trân giống với việc tháng 3 năm thứ 4 ở Kinh Đông.)

[70] Ngày Canh Thân, Trương Phục, quyền phán Hồng Lư tự, Lang trung Hình bộ, Trực sử quán, dâng lời tâu xin biên soạn tập hợp các nước triều cống trước năm Đại Trung Tường Phù thứ 8, vẽ hình mũ áo của họ, ghi chép phong tục, làm thành 《Đại Tống Tứ Dịch Thuật Chức Đồ》, trên để biểu thị sự khoan dung của thánh chúa, dưới để bổ sung cho sử thần ghi chép rộng rãi. Vua nghe theo. Khi Trương Phục dâng bản đồ lên, Vua nói: “Từ hai đời thánh đến nay, các nước tứ dịch triều cống không năm nào thiếu, sao chỉ có thế này.” Bèn hạ chiếu cho Lễ Nghi Viện tăng tu bản đồ.

(Việc tăng tu diễn ra vào tháng 4 năm sau, ngày Kỷ Hợi, nay ghi chung lại.)

[71] Ngày Nhâm Tuất, sai Tả Ty Gián, Tri chế cáo Lưu Quân làm Chánh sứ Quốc tín sinh thần quốc chủ Khiết Đan, Cung phụng quan, Cáp môn Chỉ hầu Tống Đức Văn làm Phó sứ. Hộ bộ Phó sứ, Lại bộ Viên ngoại lang Lý Cập làm Chánh sứ Quốc tín chánh đán, Thị cấm, Cáp môn Chỉ hầu Lý Cư Trung làm Phó sứ.

[72] Ngày Tuất Thần, ban cho Tri châu Phong Châu Văn Ngọc tiền lụa, gạo mì, rượu thịt dê, vì cha ông là Thừa Mỹ mới mất.

[73] Ngày Bính Tý, lệnh cho Nội thị tỉnh từ nay phái sứ thần phụ trách Hậu uyển, Ngự viên, Đông môn ty, Long Đồ các, Thái Thanh lâu, đều báo cho Xu mật viện cấp tuyên.

[74] Ban đầu, Khả hãn nước Hồi Cốt Cam Châu là Dạ Lạc Hột nhiều lần giao chiến với Hạ Châu, cống phẩm thường bị Hạ Châu cướp đoạt. Đến khi tộc Tông Ca cảm mến ân đức triều đình, bèn phái người hộ tống sứ giả, nên nhiều năm liền đến được kinh đô. Sau đó, Cốt Tư La muốn cưới con gái khả hãn nhưng không có sính lễ, khả hãn không đồng ý, nên trở thành kẻ thù.

Năm Thánh Tổ giáng lâm, châu Tần phái Chỉ huy sứ Dương Tri Tiến, thông dịch Quách Mẫn đưa sứ giả tiến cống là Trạch Phù Thủ Vinh về Cam Châu, gặp lúc Tông Ca oán hận, chặn đường về, nên giữ lại Tri Tiến không dám phái đi.

Lúc đó, Mẫn được về trước, Khả hãn vương Dạ Lạc Cách dâng biểu, nói rằng Bảo Vật công chúa bị bệnh chết, do người Tây Lương là Tô Thủ Tín gây loạn, ngày ngày giao chiến, không kịp tâu lên. Lại tạ ơn ban cho bảo điến, hộp bạc, lịch và chiếu thư an phủ, đồng thời xin vỗ về Tông Ca, mở đường triều cống. Tô Thủ Tín là người Hạ Châu phái đi, cầm bảy nghìn quân, năm nghìn ngựa đóng giữ Tây Lương, nên Dạ Lạc Cách tâu lên việc này.

(Dạ Lạc Cách nghi là Dạ Lạc Hột, Bảo Vật công chúa chết, cần phải tâu lên. Nếu Dạ Lạc Cách không phải Dạ Lạc Hột, thì không nên tâu mà không nói rõ.)

[75] Mùa đông, tháng 10, ngày Kỷ Mão, phong Cam Châu Tây đầu cung phụng quan Trương Luân làm Đông đầu cung phụng quan. Luân vốn là nha lại Ninh Châu, bị bắt ở Cam Châu, thường kê khai việc biên giới phía tây gửi về kinh sư, Vua khen ngợi lòng trung thuận của ông, bổ làm cung phụng quan, lấy bổng lộc cấp cho gia đình ở Ninh Châu. Đến lúc này, lại dâng biểu, xin nhân dịp quốc gia có đại lễ mà được thăng chức, nên có mệnh lệnh này. Lại sai Xu mật viện cử điện thị mang thư của Luân giao cho gia đình ở Ninh Châu, lấy thư hồi âm giao cho sứ giả phía tây mang về để an ủi lòng ông.

[76] Ngày Tân Tỵ, phong Thượng thư Hình bộ, kiêm Ngự sử trung thừa Phùng Chửng làm Thượng thư Hộ bộ, nhận chức Tri Trần Châu, tăng thêm tiền công dụng mỗi năm một trăm vạn. Lúc đó bàn việc chọn quan nhận chức Tri Thiên Hùng quân, Vua nói: “Phùng Chửng đủ sức đảm nhận việc này, nhưng lại xin về quận nhàn, là sao?” Vương Đán nói: “Chửng năm ngoái từ chối vì bệnh, Mã Tri Tiết từng chê Chửng ham phú quý, chỉ muốn làm Tiết độ sứ. Chửng sợ bị Tri Tiết đánh giá, không dám xin đại phiên, có lẽ vì thế.”

Vua lại nói: “Trẫm mỗi lần chọn quan, chỉ lo tài không đủ dùng, lẽ nào triều đình chưa biết ư?”

(《Bảo Huấn》 ghi là đối đáp với Hướng Mẫn Trung, nay theo bản truyện của Chửng.)

[77] Ngày Nhâm Ngọ, phong Hữu gián nghị đại phu, quyền Tri Khai Phong phủ Vương Thự giữ nguyên chức, thêm chức Xu mật trực học sĩ, nhận chức Tri Ích Châu; Xu mật trực học sĩ, Lang trung Hình bộ Chu Khởi thêm chức Hữu gián nghị đại phu, nhận chức Tri Tịnh Châu.

Lúc đó, hai châu đang đến kỳ thay đổi, Vua xem xét tên họ của các quan thị tòng, nói với các phụ thần rằng: “Những người này đều có sở trường riêng, nhưng tìm người văn nhã thích dụng, có thể uy nghiêm ở phương diện thì ít lắm. Mỗi khi nghĩ đến các bậc hiền tài đời Đường xuất hiện cùng lúc, sao thời đó nhân tài nhiều đến vậy.” Vương Đán nói: “Hiện nay ở chức vụ thấp, há không có người tài giỏi? Chỉ sợ việc đề bạt chưa đến mà thôi. Nhưng xem việc cầu hiền đời trước, không đòi hỏi hoàn hảo, không lấy khuyết điểm nhỏ che lấp đức lớn. Nay các sĩ đại phu ai mà không có lỗi, bệ hạ luôn cố gắng bảo toàn họ. Nhưng lời đồn nhiều quá thì không tiện cho việc sử dụng. Đại để khen ngợi lẫn nhau thì gần như bè phái, chỉ trích lỗi lầm quá mức thì gần như công bằng. Xem xét sự yêu ghét, chỉ nhờ vào thánh ý trên, thì hầu như không bỏ sót người nào!”

[78] Ngày Quý Mùi, sai sứ đến các lộ chọn lọc những quân nhân phạm tội bị đày, dời đến gần, lấy những người trẻ khỏe về kinh để sung vào cấm quân, những người già yếu thì tùy tiện.

[79] Ngày Ất Dậu, bộ tộc Tông Ca thuộc châu Tần là Tư Đạc Đốc sai sứ đến cống.

(Tư Đạc Đốc vốn là thủ lĩnh Tây Lương, nay bỗng nhiên gắn với Tông Ca châu Tần, chưa rõ nguyên do, cần xem xét.)

[80] Ngày Bính Tuất, lấy Hữu gián nghị đại phu Thận Tòng Cát làm Cấp sự trung, quyền tri Khai Phong phủ. Vua gọi Tòng Cát đến dặn rằng: “Kinh đô đông đúc, mọi việc quá nhanh thì sai, quá chậm thì trì trệ, chỉ cần điều hòa vừa phải. Có ai nhờ vả, nhất loạt từ chối.” Lại nói: “Các lại trong phủ thường cùng với hào hữu mưu mô tạo ra tệ nạn, tình hình ngày càng mới. Trẫm nhớ lúc làm doãn, có kẻ đánh dân thường, lại nhận hối lộ đổ tội cho người hầu, người hầu nhận tội, sắp xử, Trẫm nghi không đúng sự thật, lại sai tra hỏi, mới biết được thực tế. Những việc như thế, cần xem xét kỹ.”

Khi Tòng Cát nhận chức phủ, có nhiều người gièm pha. Vua hỏi các phụ thần, Đinh Vị nói: “Tòng Cát thích nói lỗi người khác, nên tích tụ nhiều oán hận.”

Vua nói: “Làm quan nên giữ đạo thường, nếu cố làm việc thiện để lấy tiếng, thì sự hủy báng ắt sẽ theo đến.”

[81] Phát vận sứ Lý Phổ tâu rằng các châu quân Giang Chiết và mười ba trường núi Hoài Nam năm nay thu được 2.906.5700 cân chè, tăng so với định mức cũ là 572.8000 cân.

[82] Có người dâng thư nói: “Triều đình chọn các quan mạc chức, châu huyện được mọi người bảo đảm thì bổ làm kinh quan, nên các lệnh lục ở Xuyên Hạp phần nhiều là quan lại tốt. Còn các tri châu, thông phán ở Xuyên Hạp, Viện Thẩm quan căn cứ vào thứ bậc mà bổ đi, có nhiều người già yếu không làm việc được.” Ngày Kỷ Sửu, xuống chiếu cho Thượng thư Hộ bộ Phùng Chửng trở xuống, mỗi người tiến cử một viên quan kinh triều đang làm tri châu quân, thông phán ở Xuyên Hạp.

[83] Ngày Tân Mão, lấy Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh quyền phán Lại bộ Lưu nội tuyển, Tri chế cáo Thịnh Độ làm Tri Thông tiến Ngân đài ty, kiêm chức Môn hạ Phong bác sự. Huýnh lấy cớ cha tên là Thuyên để từ chối, bèn sai đổi chức với Độ.

Lúc đó Hàn lâm học sĩ Vương Tăng cũng kiêm chức Ngân đài ty, các tể tướng bàn cho Huýnh thay Tăng, Vua nói: “Trẫm nghe ngoài dư luận cho rằng Tăng từng phong bác chiếu sắc, từ đó Trung thư có ác cảm, thường ngăn trở những điều Tăng tâu, nay nếu bãi chức thì đúng như lời đồn bên ngoài.” Đán nói: “Bọn thần vốn không có ý ghen ghét Tăng, nay thánh từ tuyên dụ để tể ty tránh tiếng xấu, xin cho Huýnh và Độ đổi chức, còn Tăng vẫn như cũ.” Vua đồng ý.

Đán nhân đó tâu: “Nay chức phong bác khác xưa, đại để các việc bổ nhiệm, thuyên chuyển lớn nhỏ đều phải tâu xin trước, rồi mới vào thục trạng, đợi khi có thể tâu thì mới ban sắc. Ngoài ra, nếu có sai sót gây hại, tra xét không đúng sự thật, bọn thần xem xét không kỹ, thường có việc ban bố ra bốn phương, thật là không đúng. Các quan ty Phong bác nếu xem xét kỹ mà sửa chữa thì giúp bọn thần những điều chưa làm được, tất không có lý do trách cứ.” Vua cho là phải.

[84] Ngày Nhâm Thìn, Thịnh Độ dâng lên 5 quyển 《Thánh tổ thiên nguyên lục》, nhân đó tâu rằng: “Những sự tích biên soạn, e rằng chưa đầy đủ, mong sai nho thần khác đến các sách ở quán các biên soạn thêm, để ghi chép công lao của tiên liệt.” Chiếu theo lời tâu. Lại sai Vương Tăng và Tập hiền hiệu lí Yến Thù cùng Độ biên soạn.

[85] Ngày Kỷ Hợi, Chuyển vận sứ Ích Châu lộ là Tiết Điền tâu rằng Miên Châu là nơi trọng yếu, quân đồn trú rất đông, xin theo lệ của Bành Châu tăng thêm một viên Đô giám trú bạc. Vua đồng ý.

[86] Ngày Giáp Thìn, Binh bộ Thị lang Triệu An Nhân dâng lên 23 quyển 《Đại Trung Tường Phù Pháp Bảo Lục》, được chiếu khen ngợi và ban thưởng vàng lụa. Tri châu Nhữ Châu là Dương Ức vì từng tham gia biên soạn cũng được ban thưởng như vậy.

[87] Ngày Ất Tỵ, Vương Khâm Nhược dâng lên 12 quyển 《Thánh Tổ Sự Tích》, Vua làm bài tựa, ban tên là 《Tiên Thiên Ký》。 Khâm Nhược lại tiếp tục soạn thêm 32 quyển dâng lên.

[88] Tháng 11, ngày Canh Tuất, ngày Đông chí, Vua ngự ở điện Thiên An nhận triều.

[89] Ngày Đinh Tỵ, Vua đến Hội Linh Quán, yến tiệc các quan cận thần ở điện Chúc Hi, ban thưởng tiền cho binh lính và thợ thuyền theo thứ bậc.

[90] Ngày Canh Thân, Binh bộ Thị lang kiêm Tông chính khanh Triệu An Nhân tâu: “Theo chiếu, dùng thức ăn dâng lên Thái Miếu vào ngày sóc vọng, xin từ nay giao cho Ngự trù lấy mẫu bàn ăn ngọc nha dâng lên vào ngày Vua thân hành tế miếu, tham khảo các món ngon bốn mùa, chọn 10 người thợ nấu giỏi của Thượng cục đến miếu chế biến, để phụng sự thánh tâm, tỏ lòng thành kính.” Chiếu rằng các món ăn dâng lên giao cho Cung vi lệnh giám sát chế biến, An Nhân kiểm tra.

Lúc này, Triệu Thế Trưởng, quan Tri tông chính tự, tâu rằng cung vi lệnh muốn cùng quan bản tự liên thự hành khiển công việc. Vương Đán tấu rằng Triệu An Nhân hiện là Tông chính khanh, tổng lĩnh việc tự, e rằng khó có thể cùng nội thị thông thiêm, xin cho làm như cũ.

Vua nói: “Không bằng theo lệ cung quan, mọi việc cho Thế Trưởng cùng cung vi lệnh đồng trạng tâu lên, An Nhân căn cứ vào trạng mà đơn thự hành khiển.” An Nhân lại tâu: “Hàng năm sai một viên quan Tông chính tự đi bái yết mười hai lăng, đi về đều theo thứ tự chiêu mục, chỉ hơn trăm dặm. Thần nghĩ rằng lễ tế tự vốn cần sự tinh thành, nếu đến nỗi mệt mỏi thì lễ nghi không thành. Xin từ nay ba lăng chuyên sai một viên quyền Tông chính khanh đi bái yết, riêng sai hai viên quan đi bái các lăng khác, mong rằng người không mệt mỏi, lễ được trang nghiêm.” Lại xin đóng hai cái giường dài có cán dài, đặt bia lăng để thay hộp sơn, sai ba mươi hai quân sĩ khoan yêng khiêng xuống lăng. Đều được chấp thuận.

[91] Ngày Tân Dậu, Tương vương Nguyên Ốc được gia kiêm chức Thượng thư lệnh, Đoan vương Nguyên Nghiễm làm Tiết độ sứ các quân Trấn Hải, An Hóa, tiến phong làm Bành vương.

[92] Quyền Kinh Nguyên lộ Kiềm hạt kiêm Tri Vị châu Hác Vinh tâu rằng quân đồn trú ở Kinh châu rất đông, xin dùng một viên Cáp môn chi hậu làm Đô giám, được chấp thuận.

[93] Ngày Giáp Tý, Vua ngự đến cung Cảnh Linh xem lễ thượng lương, ban y phục và tiền cho các quan tùy tùng và sửa cung có sai biệt.

[94] Lấy Quốc tử bác sĩ, Thông phán Hình châu Quách Hoài Ngọc làm Cung bị khố sứ, Đô giám Phùng Xử Chính làm Chỉ huy sứ, Tán trực Lưu Hiển đều được ban chiếu khen thưởng, quân hiệu và lính được thăng chức, ban tiền. Dân châu là Trương Ích được bổ làm Trấn tướng, ban trà và lụa, miễn ba năm lao dịch. Trước đó, trong châu có mười ba tên lính làm giặc, Ích dò biết chỗ ở của chúng, báo cho Hoài Ngọc đem quân bắt được, nên lần lượt ban thưởng.

[95] Phủ Hà Nam tâu rằng Công bộ thị lang là Chủng Phóng mất. Vua rất thương tiếc, tự soạn văn tế, sai nội thị đến tế, hộ tang về Chung Nam, tặng chức Công bộ thượng thư, cho cháu là Thế Ung được học cứu xuất thân.

Trước đó, có người chê trách Phóng là người im lặng, Vua nghe được, nói với các đại thần: “Phóng đã nói với Trẫm rất nhiều việc, chỉ là bên ngoài không biết thôi.” Bèn đưa ra 13 bài nghị luận về thời sự mà Phóng đã dâng lên, bao gồm: Nghị luận về đạo, đức, dụng, khí, văn võ, chế độ, giáo hóa, thưởng phạt, quan chức, quân chính, ngục tụng, thuế má, tà chính. Khi Phóng sắp mất, bỗng nhiên lấy tất cả các bản thảo chương sớ trước đây đốt hết, mặc áo đạo sĩ, triệu tập các môn sinh đến uống rượu từ biệt, uống vài tuần rượu rồi mất.

[96] Ngày Kỷ Tỵ, Tam ty tâu rằng thiếu bạc để chi dùng, xin cho các lộ đổi thuế rượu sang nộp bằng bạc. Vua nói: “Nếu thế, bạc trong dân gian sẽ càng đắt hơn.” Rồi nói với các đại thần: “Năm Hàm Bình, một lạng bạc giá 800, vàng giá 5000, nay giá cả tăng gấp bội, là vì sao?” Vương Đán và các đại thần đáp: “Quốc gia thái bình đã lâu, những kẻ giàu có không phải chịu lao dịch, ngồi không hưởng lợi lớn. Ở kinh thành, người có tài sản trăm vạn rất nhiều, mười vạn trở lên thì đầy rẫy. Vậy thì đồ dùng, của cải tích trữ, sao có thể tính hết được! Ngoài ra, hai nước Phiên và Nam Hải hàng năm đến buôn bán, mang đi mà không mang về. Thêm vào đó, việc khai mỏ có lúc hưng thịnh, có lúc suy tàn. Lý do giá cả tăng, có lẽ là vì thế.”

Vua lại nói: “Nghe nói ở Trường An, đô thành cũ, đến nay vẫn có người đào cát tìm được vàng ngọc, chẳng phải thời đó đặc biệt giàu có sao?” Vương Đán và các đại thần đáp: “Từ thời Tam đại, Hàm Tần đã lập đô, đến thời Tây Hán di dân giàu khắp thiên hạ về đây, kéo dài đến thời Đường, hơn nghìn năm liên tục, sự giàu có thịnh vượng là điều hiển nhiên. Hiện nay kinh thành phồn thịnh, không khác gì thời Hán, Đường. Trường An, Lạc Dương tuy là đô thành cũ, nhưng địa thế hiểm trở và chật hẹp, cách xa vùng Hạ phía đông, nên thời Hán có bảy nước Ngô, Sở, thời Đường có Sơn Đông, Hà Bắc, thường hay cường bạo, cũng vì xa xôi khó kiểm soát. Thêm vào đó, việc vận chuyển lương thực không thuận tiện, phải nhờ cậy bốn phương, thường khổ sở vì chi phí. Nay quốc gia bắt đầu phong ở Tống, khai quốc ở Lương, thực sự là nơi trọng yếu của bốn phương, là vùng đất phúc cho muôn đời.”

[97] Lục cố văn tư sứ, Thứ sử châu Chiêu, Tri châu Bối là Đằng Văn Tập, con là Huyện úy huyện Tiêu Sơn là Tải được bổ làm Tri huyện Thái Bình, cấp bổng lộc cho đến hết tang. Khi Vua còn làm Doãn kinh, Văn Tập làm Quân tuần sứ, được khen là có tài năng, nên ưu đãi con cháu.

[98] Ngày Nhâm Thân, Khiết Đan phái sứ giả là Tả Lâm Nha, Công bộ thượng thư là Gia Luật Trân, Phó sứ là Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, Công bộ thị lang, Thiêm thự Xu mật viện công sự là Lữ Đức Mậu đến chúc mừng lễ Thừa Thiên.

[99] Ngày Quý Dậu, sứ giả Cao Ly là Quách Nguyên, chức Ngự sự Dân quan Thị lang, cùng thủ lĩnh Đông Nữ Chân là Hà Lô Thái đến cống nạp. Vua Cao Ly dâng biểu xin ban lịch và tôn hiệu, đồng thời tâu rằng quân Khiết Đan đã dựng cầu phao ở phía tây nước họ trên sông Áp Lục, lại xây đồn ở phía đông sông, muốn phát binh đốt phá nhưng lo lực lượng không địch nổi, dân biên giới rất bất an, vì Tây Nữ Chân làm hướng đạo cho quân Khiết Đan.

Quách Nguyên tự thuật: “Nước tôi thành không có tường, phủ gọi là Khai Thành, quản lý sáu huyện, dân số mỗi huyện không dưới ba đến năm nghìn người. Có hơn một trăm châu quân, đặt mười lộ Chuyển vận ty để thống lĩnh. Mỗi châu quản lý năm đến sáu huyện, châu nhỏ cũng ba đến bốn huyện, mỗi huyện có ba đến bốn trăm hộ.

Lãnh thổ nước tôi nam bắc dài một nghìn năm trăm dặm, đông tây rộng hai nghìn dặm. Quân và dân sống lẫn lộn, người thuộc quân không bị xăm mặt. Buổi trưa họp chợ, không dùng tiền, chỉ dùng vải và gạo để trao đổi. Đất thích hợp trồng lúa, phong tục khá giống Trung Quốc. Ba năm một lần tổ chức thi cử nhân, có các khoa tiến sĩ, chư khoa, toán học, mỗi kỳ thi có hơn một trăm người dự, nhưng đỗ đạt chỉ khoảng một hai mươi người.”

Quách Nguyên ăn nói cung kính, mỗi khi được ban yến tiệc và thưởng tặng, đều tự viết biểu tạ ơn, văn chương khá hay, triều đình cũng đối đãi ông rất hậu. Năm sau, ông xin về nước, được ban cho Vua Cao Ly bảy bức chiếu thư, y phục, đai lưng, đồ dùng, lụa vóc, ngựa cùng kinh sử, sách 《Thánh Huệ Phương》, lịch… Quách Nguyên lại xin chép lại 《Đăng Khoa Ký》 của triều đình và xin thơ ngự chế để mang về, đều được chấp thuận.

[100] Ngày Giáp Tuất, nhân dịp sinh thần của Vương Đán, Vua xuống chiếu ban tặng rượu thịt dê, gạo và bột mì, lệnh cho các cơ quan lo việc bày trướng, phủ Khai Phong chuẩn bị nhạc, cho phép mở tiệc mời thân hữu, cùng hội họp với các quan gần gũi và các chức như Thừa lang, Cấp gián, cùng các quan thuộc việc biên soạn sử. Theo lệ cũ, vào ngày sinh thần của Tể tướng, ngoài việc ban tặng đồ dùng, lụa là, yên ngựa, chỉ tổ chức hội họp với các phụ thần ở Trung thư. Đến đây, Vua nghe nói ở tư dinh của Vương Đán chưa từng mở tiệc mời khách, nên có lệnh ban tặng này.

[101] Vua xuống chiếu cho Lưu nội tuyển, phàm các quan được tuyển chọn có dâng văn tự, đều cho phép tiếp nhận và thông báo lên. Trước đó, Lưu nội tuyển tâu rằng Hồ Tịch, nguyên là huyện lệnh huyện Hưng Hóa, khi được dẫn vào yết kiến, không tuân theo điều lệ, tự ý dâng biểu, xin giao cho Ngự sử đài xét xử, vì thế Vua hạ chiếu này.

[102] Tháng 12, ngày Đinh Sửu mùng một, lệnh cho Tam ty giảm giá bán than để cứu giúp dân nghèo.

[103] Ngày Mậu Dần, làm lễ gia quan cho hoàng tử.

[104] Ngày Nhâm Ngọ, Xu mật sứ, Đồng bình chương sự Vương Khâm Nhược dâng lên bài ca chúc thọ nhân dịp tiết Thừa Thiên, Vua họa lại.

[105] Ngày Giáp Thân, Vua xuống chiếu từ nay các quận chúa, huyện chúa, cùng các phu nhân ở Nam cung, Bắc trạch tâu xin thăng chức cho thân thuộc, phải đợi đến khi giữ chức được 8 năm mới cho phép.

[106] Ngày Đinh Hợi, Thị cấm Dương Thừa Cát đi sứ Tây Phiên Cốt Tư La trở về, tâu rằng các bộ tộc Phiên rất sợ hai tộc Đinh gia và Mã gia ở gần biên giới Tần châu, hai tộc này có nhiều người và ngựa, nương tựa vào triều đình. Cốt Tư La lấy Lập Tuân làm mưu chủ, Lập Tuân tham lam và tàn bạo, thích giết chóc, khiến thuộc hạ oán hận và sợ hãi. Gần đây xây một tòa thành, chu vi khoảng hai dặm, không có hiệu lệnh gì khác, chỉ cần đánh trống nhanh thì đắp thêm đất, đánh chậm thì giã chày, không bao lâu thì xong.

Thừa Cát lại vẽ bản đồ, từ phía đông nam thành Tông Ca đến trại Vĩnh Ninh là 915 dặm, từ đông bắc đến phủ Tây Lương là 500 dặm[13], từ tây bắc đến châu Cam là 500 dặm, từ phía đông đến châu Lan là 300 dặm, từ phía nam đến châu Hà là 415 dặm, lại từ phía đông đến Cốc Kham là 550 dặm, lại từ tây nam đến Thanh Hải là 400 dặm, lại từ phía đông đến châu Tân Vị là 1890 dặm.

[107] Ngày Mậu Tý, Trứ tác tá lang, Tập hiền hiệu lý Yến Thù dâng lên bài phú về lễ đội mũ của hoàng tử, được chiếu khen thưởng. Vua nói: “Thù từ nhỏ đã cô độc, tự mình nỗ lực học tập, ít người sánh kịp. Thêm vào đó, tính tình trầm tĩnh, cẩn thận, trong mọi việc đều không vượt quá khuôn phép, được các bậc đại thần rất quý trọng. Có nghe nói có gia đình quyền quý muốn gả con gái cho, nhưng Thù kiên quyết từ chối. Khi kinh thành ban yến, các quan trong kinh không được tham dự, bạn bè rủ đi chơi, Thù không đáp lại, chỉ đóng cửa cùng em là Dĩnh đọc sách và viết văn mà thôi. Dĩnh cũng từ nhỏ đã biết làm thơ, Trẫm từng sai người lấy bài vở của nó, và dặn Thù đừng sửa chữa, nhưng em nó xin được tẩy xóa, Thù không xem lại[14], cũng không nói lý do, kín đáo đến thế, quả thật là có tài năng đặc biệt.”

[108] Ngày Canh Dần, chiếu cho Tam ty, từ năm sau lương bổng hàng tháng của các quan văn võ đều được chi trả bằng tiền mặt như cũ[15].

[109] Ngày Tân Mão, phong hoàng tử Khánh Quốc công Thụ Ích làm Trung Chính quân Tiết độ sứ, kiêm Thị trung, tước Thọ Xuân quận vương. Theo lệ cũ, bản châu phải cử nha hiệu, tăng đạo đến kinh chúc mừng, nhưng chiếu bãi bỏ, chỉ cho quan lại gửi thư chúc mừng qua dịch trạm.

[110] Ngày Quý Tỵ, Phò mã đô uý Vương Di Trinh dâng biểu xin được thử làm quan quận. Vua nói: “Con nhà quyền quý chưa từng trải qua việc gì, nếu vội giao cho châu quận, có thể gây phiền nhiễu cho dân.” Không cho phép.

[111] Trước đó, Mã Nguyên Phương xin nạo vét sông Biện ở đoạn giữa, mở rộng năm trượng, sâu năm thước, có thể tiết kiệm chi phí tu sửa đê. Triều đình liền hạ chiếu cho Vi Kế Thăng lo việc khảo sát và nạo vét.

Ngày Giáp Ngọ, Kế Thăng tâu: “Từ châu Tứ đến địa giới phủ Khai Phong, bờ sông rộng, đáy bằng, dòng nước yếu, không cần nạo vét. Xin chỉ nạo vét từ châu Tứ đến Giáp Cương, dùng 865.428 công, huy động dân đinh các châu Túc, Bạc, tính ra giảm được 7.310.000 công.

Lại xin dọc theo sông làm các bậc lên xuống và bờ kè, chỗ nông thì làm răng cưa để thu hẹp dòng nước, khiến dòng chảy mạnh và xiết, sông có thể thoát nước nhanh. Xin hoàn thành trước khi tháo nước mùa xuân, lệnh cho các quan châu, Đô giám, Lệnh tá đốc thúc việc thi công[16].

Từ nay về sau, sông Biển bị bồi lấp, có thể ba đến năm năm nạo vét một lần. Lại xin ở Trung Mâu, Huỳnh Trạch mỗi nơi đào một con sông thoát nước.” Đều được chấp thuận, lại lệnh cho Kế Thăng làm Đô đại Tuần kiểm để tu bổ và bảo vệ.

Khi công trình hoàn thành, Kế Thăng dâng biểu xin tạm ngừng việc tu sửa sông một năm. Vua nói: “Tiết kiệm được nhân công thật là tốt, nhưng có chắc không gây hại cho dân không?” Kế Thăng hết lời nói về lợi ích, Vua cho rằng nên cử người đi khảo sát lại, nếu sau này sông vỡ, dù có trị tội người nói cũng không ích gì.

[112] Ngày Đinh Dậu, lệnh cho các châu Đồng, Diệu nấu cháo cứu đói dân.

[113] Ngày Kỷ Hợi, ban tặng các bậc phụ thần bài thơ và chú giải do Vua ngự chế về sách 《Trần Thư》, nhân đó nói: “Tùy Dạng Đế khi mới bình định nhà Trần, chém năm kẻ nịnh thần để tạ lỗi với dân Tam Ngô, lúc ấy thiên hạ đều khen ngợi. Nhưng về sau vô đạo, còn tệ hơn cả Hậu Chủ, thật đáng than thở.” Vương Đán và các quan tâu rằng: “Bệ hạ xem rộng các sách vở, không chỉ để nghe nhiều nhớ rộng, mà thực sự đều lấy đó làm gương soi. Bàn về kinh điển thì nhất định xét đến đạo lý, nói về sử sách thì nhất định tìm hiểu sự việc, luận về việc làm Vua thì nhất định xem xét trị loạn, nói về việc làm tôi thì nhất định phân biệt tà chính. Thêm vào đó, cầm bút viết lời, đều là tác phẩm giáo hóa người đời và lưu truyền hậu thế. Văn chương ngày nay điển nhã, các bậc tấn thân nghiên cứu cổ học, đều là nhờ ơn huấn dụ của bệ hạ.”

[114] Châu Khâm tâu rằng giặc ở châu Tô Mậu cướp phá huyện An Viễn, cướp bóc người và gia súc, chiếu cho quan chuyển vận sứ của bản lộ phòng ngừa và đánh dẹp.

[115] Ngày Canh Tý, sứ thần nước Khiết Đan là Giám môn vệ Đại tướng quân Tiêu Nhật Tân và phó sứ là Vệ úy Thiếu khanh Điền Văn đến chúc mừng năm mới.

[116] Ngày Giáp Thìn, lệnh cho Xu mật sứ, Đồng bình chương sự Vương Khâm Nhược làm Đô đại đề cử sao chép và hiệu đính sách vở ở các quán các, Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm phó, đúc ấn ban cho.

[117] Lúc đầu, cung điện của Vinh vương bị cháy, thiêu rụi cả Sùng Văn viện và Bí các, sách vở còn lại rất ít. Sau đó, xây dựng riêng một viện bên ngoài, sao chép lại sách vở. Trần Bành Niên xin ban sách từ trong cung, chọn quan viên xem xét kỹ lưỡng rồi mới sao chép. Lệnh cho quan viên ở các viện và chọn người từ Lại bộ thường tuyển để hiệu đính. Sau khi hiệu đính xong, giao cho quan phụ trách các viện xem xét kỹ lại, rồi chọn quan từ hai chế độ trong triều để kiểm tra lại.

Lại lệnh cho hai chế cử năm quan viên chăm chỉ, giỏi văn học để kiểm tra lần nữa. Việc hiệu đính và xem xét kỹ lưỡng được tính theo quy chế của Bí thư tỉnh, các quan viên thay nhau kiểm tra. Mỗi tuần báo cáo tiến độ và tình hình chăm chỉ hay lười biếng, những chỗ nghi ngờ chưa xác định được thì họp bàn để quyết định. Chiếu chỉ đồng ý, chỉ có chức vụ kiểm tra lại do quan hiệu đính kiêm nhiệm. Sau đó, xuất sách từ Thái Thanh lâu, giao cho Trần Bành Niên phụ trách, tuyển hai trăm thợ viết, Bành Niên lại tâu xin cho nội thị Lưu Sùng Siêu tham gia việc này. Lại xin tuyển người bán sách cho triều đình, kiểm tra bản gốc rồi trả tiền, ai có trên năm trăm quyển thì được ban thưởng hậu hĩnh, hoặc người có tài năng đặc biệt thì tâu lên chờ chỉ dụ.

Tổng cộng có mười chín người dâng sách, đều được ban chức và bổ nhiệm vào tam ban, thu được mười tám nghìn bảy trăm năm mươi tư quyển. Trần Bành Niên làm Tham tri chính sự, vẫn kiêm nhiệm việc này. Vương Khâm Nhược làm tướng, dùng Lý Địch thay thế. Từ đó, thường do một Tham tri chính sự kiêm nhiệm, nhưng Bành Niên đã vào Trung thư, không đến viện nữa, việc tổng quản giao cho Sùng Siêu, quan phụ trách các viện cũng không tham gia nữa.

(Theo bản Chí sửa đổi và ghi chép. Tháng 12 năm thứ 8, chiếu cho Xu mật sứ Vương Khâm Nhược làm Đô đại đề cử sao chép và hiệu đính sách ở Tam quán và Bí các, Hàn lâm học sĩ Trần Bành Niên làm phó. Lại lệnh Lại bộ tuyển chọn quan chức ở các châu, huyện có học vấn đến Tam quán và Bí các hiệu đính sách.

Lúc đầu, sách ở các viện bị cháy vào mùa hè, nhiều chỗ thiếu sót, nên lệnh mua sách và sao chép, đồng thời lệnh Lại bộ tuyển người thường tuyển, trước tiên thử viết ba đoạn, mỗi đoạn trên một trăm năm mươi chữ, chọn người khá rồi gửi đến Học sĩ viện thi thơ, phú, luận, lệnh vào các viện hiệu đính, sau ba năm thì đổi làm quan triều. Quan triều cũng có người được đặc cách lệnh hiệu đính. Quan kinh hiệu đính ba năm, đều được tâu lên phong làm Hiệu lý. Đại Lý bình sự Triệu Tông Huýnh đổi chức và hiệu đính đều ba năm, nên lệnh chuyển chức trước, sau khi chuyển chức, thêm một năm nữa thì phong làm Hiệu lý.

Từ đó, quan hiệu đính đều bốn năm mới phong làm Hiệu lý, bắt đầu từ Tông Khác. Bành Niên lại xin lấy quan Trực quán, Hiệu lý và người trúng tuyển ở Lại bộ làm quan hiệu đính, lại lệnh Hàn lâm học sĩ Triệu Huýnh, Lý Duy, Vương Tằng, Tiền Duy Diễn, Tri chế cáo Thịnh Độ, Trần Tri Vi, ở các viện và quan triều, mỗi người cử một người chăm chỉ, giỏi văn học làm quan kiểm tra lại. Huýnh đã dùng Tả chánh ngôn, Hiệu lý Tập hiền viện Tống Thụ[17], Trứ tác tá lang, Trực tập hiền viện Từ Thích, Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện Ma Ôn Kỳ, Trứ tác tá lang, Hiệu lý Tập hiền viện Yến Thù, Đại Lý bình sự, Kiểm thảo Sùng Văn viện Phùng Nguyên sung tuyển. Phàm quan hiệu đính xong, gửi cho quan kiểm tra lại xem xét, xong rồi gửi cho quan phụ trách các viện kiểm tra kỹ.

Lại chọn một hai quan từ hai chế làm quan kiểm tra lại[18], đợi quan phụ trách các viện kiểm tra kỹ xong, lại kiểm tra thêm[19]. Đều có quy định tiến độ để đánh giá sự chăm chỉ hay lười biếng. 《Hội yếu》 ghi chép như vậy, tạm lưu lại để tham khảo.)


  1. thích chữ và đày đến lao thành các châu quân phía bắc 'phía bắc', Tống hội yếu hình pháp 4-7 chép là 'phía nam'.
  2. Nay các nơi nộp đến 'nơi' nguyên là 'lộ', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách Tống hội yếu thực hóa 51-3 sửa.
  3. Chữ 'tập' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung
  4. Bậc trên cả Hàn lâm học sĩ, chữ 'cả' nguyên bản thiếu, theo sách trên mà bổ sung.
  5. Lưu Vương Nô thuộc bộ tộc của Cốt Tư La sai thuộc hạ là Thanh Bí Cát đến báo cáo, 'sở bộ' nguyên bản là 'sở khiển', theo 《Tống hội yếu》 phiên di 6-1 sửa lại.
  6. Sa Lí Tam Văn nguyên bản là 'Bà Lí Tam Văn', căn cứ theo bản Tống và 《Tống hội yếu》 phiên di 7.20, 《Tống sử》 quyển 489, truyện Chú Liễn sửa lại. Dưới đây cũng sửa tương tự.
  7. Nước Chú Liễn phía đông cách biển 5 dặm, các bản và 《Tống sử》 dẫn trên đều giống nhau. Xem 《Thông khảo》 quyển 332, mục Tứ di khảo, và 《Cương mục bị yếu》 quyển 8, chữ '5 dặm' đều viết là '5000 dặm'.
  8. Nghiêu Tư xin dùng lệ của Tô Dịch Giản, Dịch Giản trước kia từ chức Tri chế cáo bị cách chức, không lâu sau lại được làm Tri chế cáo. Ba chữ 'lệ Dịch Giản' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung. Xem 《Tống sử》 quyển 266, truyện Tô Dịch Giản chép: 'Dịch Giản vì thế bị cách chức Tri chế cáo, giữ chức bản quan phụng triều thỉnh. Không lâu sau, lại làm Tri chế cáo. Năm thứ ba, sung chức Hàn lâm học sĩ.'
  9. Đường ngầm 'đạo' nguyên là 'thông', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống sử》 quyển 284 《Đông Đô sự lược》 quyển 44 truyện Trần Nghiêu Tư, 《Tống đại chiếu lệnh tập》 quyển 191 chiếu dụ Trần Nghiêu Tư sửa.
  10. Chữ 'chúng' trong 'tụ chúng số thập vạn' vốn bị khuyết, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 6-1 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 26 phần Vị Châu Phiên Tộc Cốt Tư La Phản Phục bổ sung.
  11. Chữ 'lũ' trong 'lũ thị triều đình ân sủng' vốn viết là 'lự', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại.
  12. 'Y pháp luận quyết' chữ 'Pháp' nguyên bản khuyết, căn cứ vào 《Tống Đại Chiếu Lệnh Tập》 quyển 202 chiếu 'Bất Hứa Dương Thủ Trân Đẳng Khất Lăng Trì Hợp Tử Cường Đạo' bổ sung.
  13. Đông bắc đến phủ Tây Lương 500 dặm, chữ 'phủ' vốn thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Tống hội yếu》 phiên di 6-2 bổ sung.
  14. Chữ 'chi' nguyên là 'tri', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Long bình tập quyển 5 truyện Yến Thù sửa lại.
  15. Chữ 'niên' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu chức quan 57-30 bổ sung.
  16. Lại xin dọc theo sông làm các bậc lên xuống và bờ kè, chỗ nông thì làm răng cưa để thu hẹp dòng nước, khiến dòng chảy mạnh và xiết, sông có thể thoát nước nhanh. Xin hoàn thành trước khi tháo nước mùa xuân, lệnh cho các quan châu, Đô giám, Lệnh tá đốc thúc việc thi công. Theo 《Tống hội yếu》 phương vực 16-4 và 《Tống sử》 quyển 93, Hà cừ chí đều chép: 'Lại xin dọc theo sông làm các bậc lên xuống và bờ kè, chỗ nông thì làm răng cưa để thu hẹp dòng nước, khiến nạo vét thành sông, chỉ dùng binh lính Hà Thanh, Hạ Tá, hoàn thành trước khi tháo nước mùa xuân, lệnh cho các quan châu, Lệnh tá đốc thúc việc thi công.' Bản biên soạn này so với 《Hội yếu》 và 《Tống sử》 có chỗ khác nhau, lại có chỗ khó hiểu, nghi có chỗ sai sót.
  17. Huýnh đã dùng Tả chánh ngôn Hiệu lý Tập hiền viện Tống Thụ, chữ 'đẳng' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Sùng nho 4-5 bổ sung.
  18. Lại chọn một hai quan từ hai chế làm quan kiểm tra lại, chữ 'nhân' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung.
  19. Lại kiểm tra thêm, chữ 'phục' nguyên bản là 'phúc', theo sách trên sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.