III. TỐNG CHÂN TÔNG
QUYỂN 86: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 9 (BÍNH THÌN, 1016)
Từ tháng giêng năm Đại Trung Tường Phù thứ 9 đời Chân Tông đến hết tháng 4 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm Tý, Tuần kiểm tộc Thạc Nhĩ ở địa giới Diên Châu là Điện trực Lý Văn Chân cùng quân phiên chuyển chiến, chém được thủ cấp của Thái bảo Tịch Ngộ, được lệnh thăng một bậc, ban thêm áo gấm và đai bạc.
[2] Ngày Bính Thìn, đặt chức Hội Linh Quán sứ, lấy Tham tri chính sự Đinh Vị giữ chức này, đồng thời gia phong chức Hình bộ Thượng thư.
[3] Lấy Mã quân Phó đô chỉ huy sứ Trương Mân làm Tuyên Huy Nam viện sứ kiêm Xu mật Phó sứ, vẫn lĩnh chức Tiết độ sứ Chiêu Vũ quân; Điện tiền Đô chỉ huy sứ Tào Xán lĩnh chức Tiết độ sứ Vũ Ninh quân; Bộ quân Phó đô chỉ huy sứ Vương Năng làm Đô chỉ huy sứ, lĩnh chức Tiết độ sứ Tĩnh Giang quân; Điện tiền Đô ngu hậu Uất Chiêu Mẫn làm Mã quân Phó đô chỉ huy sứ, lĩnh chức Phu Châu Quan sát sứ.
Trước đó, Trương Mân được chỉ thị tuyển chọn binh sĩ, nhưng hạ lệnh quá nghiêm khắc, khiến binh sĩ lo sợ, âm mưu tạo phản. Có người bí mật báo việc này lên, Vua triệu tập hai phủ bàn bạc. Vương Đán nói: “Nếu trị tội Trương Mân, từ nay các tướng lĩnh sẽ dùng cách gì để quản lý quân đội? Nếu bắt gấp những kẻ mưu phản, sẽ gây chấn động kinh thành, điều này càng không thể.”
Vua hỏi: “Vậy phải làm sao?” Vương Đán đáp: “Bệ hạ nhiều lần muốn bổ nhiệm Trương Mân làm Xu mật, thần chưa dám vâng mệnh. Nay nếu thăng chức cho ông ta, tước bỏ binh quyền, những kẻ bất an sẽ tự yên lòng.” Vua nghe theo, nên các tướng lĩnh đều được thăng chức, quân đội không xảy ra biến loạn.
Vua nói với tả hữu: “Vương Đán xử lý việc lớn rất khéo, đúng là bậc tể tướng tài.”
(Theo 《Thực lục》: Đinh Vị được thăng làm Hình bộ thượng thư; Trương Mân làm Nam Tuyên Huy, Phó Xu mật, thêm hàm Kiểm bảo, đổi làm Tiết độ sứ Chiêu Vũ; Tào Xán thêm hàm Kiểm úy, đổi làm Tiết độ sứ Vũ Ninh, đều là để khen thưởng công lao tu sửa cung điện. Nếu chỉ khen thưởng công lao tu sửa cung điện, thì việc Đinh Vị, Tào Xán được thăng chức, đổi tiết trấn là hợp lý, nhưng việc thăng vào hai phủ thì Đinh và Tào khác nhau, ắt có nguyên nhân khác. Nay lấy sự việc ghi trong 《Di sự lục》 bổ sung vào, cần xem xét thêm. Lại theo 《Hội yếu》: Tào Bân nhờ công bình định Giang Nam được làm Xu mật sứ, không bị tước tiết việt, mười chín ngày sau mới bãi chức, đến khi Trương Mân làm Phó Xu mật, vẫn giữ nguyên tiết việt.)
[4] Ngày Kỷ Mùi, Vua đến Hội Linh quan dâng hương, sai Hữu ty định ra nghi thức triều bái, ghi thành quy chế.
(Việc này theo 《Hội yếu》.)
[5] Ngày Tân Dậu, Phó sứ cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng là Lâm Đặc dâng sách 《Hội Kế Lục》, Vua xuống chiếu khen ngợi, rồi giao cho Bí các lưu giữ. Trước đây, Lâm Đặc làm Tam ty sứ, vâng chiếu biên soạn số liệu hộ khẩu và tài phú trong thiên hạ năm Đại Trung Tường Phù thứ 8, gồm: 8.422.403 hộ, 18.881.930 nhân khẩu, thu nhập từ hai khoản thuế tiền, lụa và thóc là 22.764.133, tơ lụa, bông, giày, cỏ là 22.836.636, lợi nhuận từ thuế trà, muối, rượu và các loại tiền, lụa, vàng, bạc là 28.002.000.
[6] Ngày Quý Hợi, phát 50 vạn quan tiền trong kho nội phủ cấp cho Tam ty.
[7] Trước đó, Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lý là Niếp Chấn để tang mẹ đẻ, nhưng mẹ cả vẫn còn. Quan Lễ bàn rằng: “Theo chế độ nhà Chu, con thứ ở nhà cha thì không để tang mẹ đẻ. Thời Tấn, Giải Toại hỏi Thái Mô rằng: ‘Con thứ để tang mẹ đẻ, mẹ cả còn sống, không biết nên để tang nặng hay nhẹ.’ Thái Mô đáp: ‘Con của thiếp để tang mẹ giống như người thường để tang mẹ.’ Lại có Hồ Đạm để tang mẹ đẻ, nhưng có anh cả đích thừa tự, mà mẹ cả còn sống, nghi ngờ không được để tang ba năm, hỏi Phạm Tuyên, đáp rằng: ‘Để tang mẹ kế còn ba năm, huống chi là mẹ đẻ? Mẹ cả tuy quý, nhưng chế độ giáng cấp, cha không can thiệp. Đàn bà không có quyền chuyên chế, sao có thể so sánh với cha mà giáng cấp con thứ?’ Thời Nam Tề, Chử Uyên để tang mẹ thứ là Quách thị, sau khi chôn cất xong, được bổ làm Trung quân tướng quân. Sau đó, mẹ cả là Ngô quận công chúa mất, chôn cất xong, được lệnh tạm giữ chức.”
Lập tức lệnh cho Niếp Chấn từ chức, lúc đó Chấn đang hiệu đính sách 《Sách phủ nguyên quy》, Xu mật sứ Vương Khâm Nhược phụ trách việc này, nói rằng mẹ cả của Chấn còn sống, nên miễn việc để tang. Việc này được đưa xuống Lễ nghi viện, tấu rằng: “Nếu có mệnh lệnh đặc biệt đoạt tình, xin không dùng danh nghĩa truy xuất. Từ nay về sau, quan viên hiển hách có việc tương tự, cũng xin không gọi là khởi phục, chỉ tạm giữ chức.” Ngày Giáp Tý, chiếu cho Niếp Chấn vẫn đến Tuyên huy viện hiệu đính sách 《Sách phủ nguyên quy》, đây là chế độ tùy nghi.
[8] Ngày Ất Sửu, Tông Ca Cốt Tư La, Lập Tuân phái sứ giả đến cống ngựa tạ ơn, tổng cộng 582 con, lại ban cho khí tệ, tiền, tổng cộng 12.000.
Ban đầu, các bề tôi tham gia bàn luận về việc ban thưởng, đều nói: “Lập Tuân tham lam xảo trá, không biết thời cơ, trước đây vì Khấu Chuẩn nhẹ dạ tin tưởng, ban thưởng quá hậu, khiến hắn thêm kiêu ngạo. Nay nên ước lượng giá trị vật cống mà ban cho. Nếu hắn đòi hỏi những vật xa xỉ, chỉ nên ban cho đồ dùng bằng vàng mạ bạc.”
Vua nói: “Sứ giả đến nói rằng Lập Tuân không tuân pháp luật, nếu không được như ý, khi về ắt bị giết. Điều này không đáng tin, nghi ngờ có người xúi giục.” Tào Lợi Dụng nói: “Lập Tuân làm nhiều việc phi pháp, đều có thể chất vấn trách cứ, để ngăn chặn sự đòi hỏi quá đáng.”
Vua nói: “Có người nói dùng kẻ thù đánh kẻ thù, là lợi ích của triều đình.” Hướng Mẫn Trung nói: “Triệu Đức Minh hiện đang quy phục, cần gì phải dùng Cốt Tư La đánh dẹp, huống chi chưa thể dẹp yên! Giả sử dẹp được, thế lực hắn càng lớn, lại phải lo an phủ.” Vương Đán nói: “Trước đây xem tấu chương, nói rằng Lập Tuân đặt ra phép tắc, thống lĩnh ba mươi vạn người. Triều đình cũng nghi ngờ việc làm của hắn, nên sai sứ đi sâu vào để xem xét. Đến khi Dương Thừa Cát trở về, biết được ý đồ của hắn, chỉ tham tài sát nhân. Người dân không phục, trên dưới đều oán hận, lại không có mưu lược xa, sao có thể thành công? Nếu ban cho ân sủng, thì các bộ tộc nhỏ ắt bị ức hiếp. Nếu biết triều đình không tin dùng, ắt sẽ tự giết hại lẫn nhau.” Vua cho là phải.
[9] Ngày Kỷ Tỵ, lệnh cho Xu mật viện mỗi quý dâng lên tổng số quân mã, để giảm bớt phiền phức của việc tấu hàng tháng.
[10] Hưng Châu đoàn luyện sứ Đức Văn tâu: “Con là Thị cấm Thừa Hiển đến chầu, xin theo lệ của con Thừa Dụ của Hà Châu quan sát sứ Đức Quân đã được tặng, xếp trên con Tòng Khác của Ngạc Châu quan sát sứ Duy Trung đã được tặng.” Tòng Khác tuy là cháu của Thừa Hiển, nhưng nhận chức trước, nên chiếu cho Tông Chính tự định bản đồ thứ tự tông thất để tâu lên. Tông Chính tâu: “Theo lệnh công thức, khi vào chầu và đứng hàng, người cùng chức thì xét tước trước, nếu tước cũng giống nhau thì xét tuổi. Nay xin các tông tử cùng chức mà là anh, chú đứng trước em, cháu thì để trống một vị trí mà đứng.” Đức Văn lại tâu: “Tước giống nhau thì xét tuổi trước, nên sắp xếp theo thứ tự tôn ti.”
Vua nói: “Chế độ ban thứ của triều đình lấy thứ tự nhận chức làm trước sau, không thể thay đổi.”
Đức Văn từ nhỏ ham học, mọi sách kinh sử, bách gia đều tự chép tóm tắt, giỏi làm văn chương[1].
Vua thấy ông chăm chỉ như học trò, thường nhân lúc vào chầu, gọi đùa là “Ngũ tú tài”, từ đó trong cung đều gọi như vậy, vì Đức Văn là con thứ tám của Tần Điệu Vương, ba người anh đều mất sớm, nên ông xếp thứ năm. Khi Vua phong Thái Sơn, tế Phần Âm, đến Bạc, Đức Văn đều dâng phú tụng. Mỗi khi Vua ban thơ, đều bảo ông họa lại.
Ông từng mắc bệnh sốt rét[2], đổi nhiều thầy thuốc không khỏi, có người nói có thầy thuốc giỏi ở Giang Nam, Vua sai trạm dịch triệu về. Thầy thuốc đến, nói cần dùng sữa bò tươi, Vua chiếu cho Hữu ty mỗi ngày cấp một hũ. Khi khỏi bệnh, thưởng cho thầy thuốc một chức quan. Ông cũng từng nhân lúc bệnh dâng mười ba bài thơ, Vua đều họa lại. Ông nhiều lần xin được danh sĩ làm thầy bạn, Vua đặc mệnh Hàn lâm học sĩ Dương Ức cùng ông kết giao.
Duy Trung là con thứ tư của Ngụy Ý vương Đức Chiêu.
[11] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu cho Viện Truyền Pháp lấy tập 《Diệu Giác》 của Thái Tông làm 《Diệu Giác Bí Thuyên》, tập 《Pháp Âm》 do Vua chế tác làm 《Pháp Âm Chỉ Yếu》, in ấn ban hành, theo lời thỉnh cầu của Thị lang Binh bộ Triệu An Nhân.
[12] Độ chi Viên ngoại lang, Tri Hà Trung phủ Câu Khắc Kiệm có vợ hung dữ, thường qua lại với nhà giàu, nhận hối lộ, Khắc Kiệm không ngăn cản được. Ngày Tân Mùi, giáng Khắc Kiệm làm Tri châu Ninh Châu[3].
[13] Ngày Nhâm Thân, có mưa tuyết, bãi triều.
[14] Lấy Công bộ Lang trung Trương Sĩ Tốn làm Hộ bộ Lang trung, Trực Chiêu Văn quán, Tả Ty Gián, Trực Sử quán Thôi Tuân Độ làm Hộ bộ Viên ngoại lang, Trực Sử quán như cũ, cùng sung chức Thọ Xuân Quận vương hữu, ban áo mặc, đai tê, tiền. Lại ban cho Tuân Độ kim tử, làm thơ khen ngợi.
Lúc đó, Quận vương sắp học kinh, Vua sai Trung thư chọn người đức cao chính trực, có học thuật làm quan phủ. Sĩ Tốn lúc đó làm Chuyển vận sứ Hà Bắc, vì tính ôn hòa cẩn trọng, từng làm quan ngoài có tiếng trị dân tốt, không màng danh lợi. Tuân Độ cùng tu sửa sách 《Khởi Cư Chú》 hơn mười năm, đứng trên điện thường lùi vào cột tránh mặt Vua, được mọi người khen là người đức độ. Vua liền triệu Sĩ Tốn về kinh và cùng bổ nhiệm.
Ban đầu, tể tướng định dùng Sĩ Tốn làm Dực Thiện, Ký Thất, Vua nói: “Dực Thiện, Ký Thất là thuộc quan phủ, Quận vương đều phải bái lạy.” Nên lấy chức Vương hữu bổ nhiệm, lệnh Quận vương mỗi lần gặp đều đáp lễ, tỏ ý tôn kính khách. Sĩ Tốn từng yết kiến Vương Đán, khen Quận vương học chữ có phép, Đán nói: “Ông làm Vương hữu, chức trách chỉ có thế sao?” Sĩ Tốn xấu hổ tạ lỗi.
(Âu Dương Tu cho việc này là trách nhiệm của Dực Đức. Tháng 8 năm thứ 2, bắt đầu xây Đông cung, Thôi Tuân Độ, Lỗ Tông Đạo thực làm Dực Đức, lúc đó Vương Đán đã mất. Nay chỉ theo 《Di Sự Lục》.)
[15] Phát 20 vạn quan tiền trong kho nội phủ[4], lệnh cho Tam ty mua trước lụa và lĩnh, để cứu tế sự thiếu thốn ở Kinh Đông và Kinh Tây. Lúc đó, giá lĩnh ở vùng Thanh, Tề là 800 đồng, lụa là 600 đồng, quan phủ trả giá lĩnh là 1000 đồng, lụa là 800 đồng, dân chúng rất lấy làm tiện lợi. Từ đó, giá lụa và lĩnh ngày càng tăng, vài năm sau đều tăng gấp đôi so với trước.
(Theo sách “Bách Nhất Biên” của Vương Hạo, năm Tường Phù thứ 8, cung cấm bị cháy, kho Tả tàng và kho Nội tàng đều bị thiêu rụi. Năm sau, ban chỉ cho các châu quận, ứng trước tiền mua lụa và lĩnh, dân gian mỗi năm tằm tơ đã thu hoạch, giá lĩnh ở vùng Thanh, Tề là 800 đồng, lụa lại giảm 200 đồng. Lúc đó, quan phủ trả 1000 đồng tiền lĩnh, 800 đồng tiền lụa. Từ đó, giá lụa và lĩnh ngày càng tăng, vài năm sau đều tăng gấp đôi so với trước.
Lại theo sách “Quốc Lão Nhàn Đàm”: Vương Đán khi ở Trung thư, cuối năm Tường Phù, kho nội phủ bị hỏa hoạn, lụa vải gần như cạn kiệt. Lúc đó, Tam ty sứ Lâm Đặc xin mua hàng hóa ở ngoài sông, dâng biểu ba lần, nhưng Vương Đán đều ngăn lại[5]. Sau đó, Lâm Đặc dẫn thuộc hạ đến phủ Tể tướng kêu ca, Vương Đán từ tốn nói: “Lụa vải nhỏ nhặt, tự nhiên sẽ đến, sao lại làm lộ sự yếu kém của quốc gia ra bốn phương.” Mấy ngày sau, cống phẩm từ ngoài đổ về, nhận được 4 triệu tấm lụa, đó là do Vương Đán đã dùng mật lệnh thúc giục trước[6]. Nay không chép.)
[16] Ngày Ất Hợi, chiếu cho các quan kinh triều, mạc chức, châu huyện xin về hưu, lệnh cho Thẩm quan viện và Lại bộ xét lại lý lịch xem có tham nhũng hay không rồi tâu lên.
[17] Tháng đó, Vua ban chiếu rằng: “Tam ty thường tìm kiếm các vụ việc từ nhiều năm trước trong sổ sách, trực tiếp chỉ huy, truyền xuống các châu, phủ để điều tra, xét lại. Nhưng do thời gian đã lâu, hồ sơ không đầy đủ, việc triệu tập, đối chiếu gây ra nhiều phiền nhiễu. Từ nay không được làm như vậy nữa, nếu vi phạm, các châu, phủ phải niêm phong văn bản nhận được và dâng lên. Nếu châu, phủ tự tiện thi hành, sẽ giao cho chuyển vận sứ và đề điểm hình ngục sứ điều tra, tâu lên.”
[18] Bổ nhiệm Mã Sùng Tố, chủ sự thủ khuyết của Xu mật viện, làm Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu; Thư lệnh sử Mã Sùng Chí làm Tả ban điện trực; Mã Sùng Khánh làm Hữu ban điện trực; Thiếp phòng Mã Dụng Hòa làm Tá chức. Việc này theo lời xin của Xu mật phó sứ Trương Mân, vì Sùng Tố và những người kia đều là thân thuộc của vợ Mân.
[19] Tháng 2, ngày Đinh Sửu mùng một, cho Triệu Hoài Trung, Tả kiêu vệ tướng quân đã về hưu, làm Văn tư phó sứ. Hoài Trung, vào đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc làm hoạn quan, từng theo Thái Tông xuất chinh, được cầm lọng chạy hầu hai bên, Thái Tông thương xót. Trước đây vì bệnh nên về hưu, đến nay bệnh khỏi, nên có mệnh lệnh này.
[20] Vua ban chiếu rằng: Các quan lại tại kinh đô phụ trách kho tàng, nếu có việc công lên điện xin chỉ thị, phải cùng đồng liêu bàn bạc thống nhất, trình bày cụ thể lên, nếu vi phạm sẽ bị trị tội. Ban đầu, các giám quan lên điện thường một mình tâu bẩm, nhưng lời tâu không đúng, nên ra lệnh quy định.
(Theo 《Hội yếu》, việc ngày mùng một tháng 2.)
[21] Ngày Mậu Dần, cho Triệu Thế Trưởng, Độ chi viên ngoại lang, quyền tri tông chính tự sự, làm Tri châu Mạnh; Triệu Khuếch, Thái tử hữu tán thiện đại phu, làm Quyền tông chính thừa sự.
[22] Ban đầu, Tông chính tự tâu rằng việc hành lễ ở lăng miếu thiếu quan, theo lệnh văn thì Tông chính khanh một viên[7], Thiếu khanh, Thừa mỗi chức hai viên, Chủ bạ một viên. Lúc đó chỉ có Triệu An Nhân kiêm chức Khanh, Thế Trưởng làm việc ở Tự.
Vua bèn nói với Vương Đán rằng: “An Nhân từng tham gia tể phủ, cùng Thế Trưởng liệt hàm không tiện.” Đán tâu: “Xin từ nay mệnh kinh quan kiêm Chủ bạ, Lang trung trở xuống kiêm Thiếu khanh, Thừa lang trở lên kiêm Khanh[8], làm thành quy chế vĩnh viễn. Nhưng Thế Trưởng làm việc ở Tự nhiều năm, đột nhiên giáng làm kiêm Thừa, cũng có vẻ vô nghĩa.
Vương Tự Tông từng nói cha của Thế Trưởng là Dụng Thành vì tội tham nhũng bị xử tử, không nên để ông ta quản Tông chính[9], mong bổ nhiệm ra ngoại quận, chọn quan khác để đảm nhiệm chức vụ tông thất.” Vua nghe theo, lại xuống chiếu cấp mỗi tháng cho Tông chính tự công dụng tiền năm mươi ngàn.
[23] Ngày Canh Thìn, Vua nói với các quan phụ tá rằng: “Đề cử các ty khố vụ là Lam Kế Tông tâu rằng, năm ngoái tiền thu từ trà dẫn của ty Giác hóa vụ là một trăm năm mươi vạn quan, so với mức mới thì thiếu hụt gần mười vạn quan.” Đinh Vị nói: “So với các năm trước và mức mới tuy ít hơn, nhưng so với trước khi cải cách pháp lệnh thì lợi nhuận đã tăng gấp đôi. Từ năm Đại Trung Tường Phù trở đi, mỗi năm thu được hai trăm vạn quan, năm thứ sáu lên đến ba trăm vạn quan, năm thứ bảy lại tăng thêm chín mươi vạn quan, nên năm thứ tám chỉ còn số này. Nhưng so với tháng giêng năm nay và năm ngoái, đã lãi thêm ba mươi vạn quan. Xét như vậy, cải cách pháp lệnh không phải là không có lợi.”
Hôm sau, Trung thư lại đem số lợi nhuận từ trà hàng năm của Tam ty tâu lên, Vua hỏi: “Ban đầu mỗi năm lợi nhuận là bao nhiêu? So với các triều đại trước, thì nay nhiều hơn hay ít hơn?” Vương Đán và các quan tâu: “Theo quốc kế năm Nguyên Hòa, thuế trà mỗi năm không quá bốn mươi vạn quan. Triều đình từ khi khôi phục Giang, Chiết, tổng cộng các sơn trường và ty Giác hóa vụ thu được hơn bốn trăm vạn quan. Đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, đều là tiền thật. Sau đó, vùng Tây Bắc cần gấp lương quân, khi nhập trung, tăng giá và hao hụt, nơi nhập thóc và nơi xuất trà không tương ứng, nên giá trị thực đều trở thành tiền ảo. Pháp lệnh cũ đã hỏng nặng, khó thi hành, nên phải cải cách. Nay nếu giữ nguyên không đổi, thì mỗi năm ba trăm vạn quan lợi nhuận có thể không mất.”
(Bản chí chép lời Vương Đán đối đáp với Vua và lời Đinh Vị, nay theo thực lục.)
[24] Ngày Nhâm Ngọ, điều Khấu Chuẩn, Tri phủ Hà Nam, làm Phán quân Vĩnh Hưng, Lý Địch, Tri quân Vĩnh Hưng, làm Đô chuyển vận sứ Thiểm Tây.
[25] Ngày Quý Mùi, ban chiếu rằng từ nay các quan chức được đề cử ở Ngự sử đài sẽ có nhiệm kỳ hai năm, nếu không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị thay bằng người khác và bổ nhiệm ra ngoài theo thứ bậc. Lúc đó, Điện trung thị ngự sử Lý Tốc người Kim Lăng dẫn theo lệ của Cao Biện và Du Hiến Khanh, xin được bổ nhiệm ra ngoại quận. Trung thư nói: “Cao Biện vốn là người tầm thường, không có tài năng gì, nhưng tại chức gần hai năm, vì cha mẹ già xin về phụng dưỡng, nên đặc cách cho làm Tri châu Truy. Du Hiến Khanh đã trải qua nhiều nhiệm vụ, được làm Tri châu Dĩnh. Lý Tốc mới chỉ làm Thông phán một nhiệm kỳ, vào Ngự sử đài mới được một năm, không thể so sánh với Cao Biện. Ban đầu chiếu định thời hạn ba năm, nếu giảm một nửa[10], đặc biệt là do ý chỉ của hoàng đế.” Do đó ban chiếu này.
[26] Chiếu rằng tất cả các chuyến vận chuyển từ Quảng Nam đều do quan quân đưa đến cửa quan, từ nay đến Kiền Châu thì thay đổi.
[27] Ngày Ất Dậu, Vua bàn luận với tể tướng về sự ưu khuyết trong chính trị thời Khai Nguyên và Thiên Bảo nhà Đường, nói: “Diêu Sùng, Tống Cảnh thật là danh tướng, Minh Hoàng tin tưởng giao phó không nghi ngờ, thật là đúng đắn, nhưng quá tin vào Dương Quốc Trung và Lý Lâm Phủ, thật đáng tiếc.” Vương Đán nói: “Kẻ gian tà, vu hãm người lương thiện, lời nói của họ nghe như trung thành, Vua khó phân biệt, mà người ngoài ít dám nói thẳng để tránh họa, nên Dương Quốc Trung và Lý Lâm Phủ mới có thể chuyên quyền hãm hại người. Nếu Vua có thể nhận ra kẻ hãm hại người để tự tiến thân, thì mười phần có thể thấy được bảy tám. Nhà Đường nhiều lần lâm nguy, nhưng người dân vẫn quy phục nhà Đường, là nhờ ơn đức của tổ tiên sâu dày.”
Vua nói: “Lục Chí nói Đức Tông anh minh, có chí muốn một mình cai trị thiên hạ, nhưng thiên hạ quá rộng lớn, làm sao Vua có thể một mình cai trị được?”
[28] Ngày Bính Tuất, Tri châu Tần Châu là Tào Vĩ tâu rằng: “Dân trong châu kiện tụng nhiều về ruộng đất, khi truy lấy khế ước, đều nói đã mất. Nếu triệu tập lân bảo, rất phiền nhiễu. Nguyên do là lúc mua đất ban đầu, chưa từng nộp thuế khế và đổi hộ, nên kiện tụng nhiều. Thần đã ra thông báo cho các huyện thuộc châu, những người trước đây không có khế ước, hạn trong hai tháng phải đến quan khai báo, nộp thuế và in khế ước. Tổng cộng thu được 1.620 hộ mới[11], thuế tiền 4.230 quan, kiện tụng lập tức chấm dứt. Lo rằng các lộ khác cũng có nhiều trường hợp tương tự, xin ban hành điều ước khắp nơi.” Được chấp thuận.
[29] Ngày Đinh Hợi, Giám tu Quốc sử là Vương Đán cùng các quan dâng lên 《Lưỡng triều Quốc sử》 gồm 120 quyển, được ban chiếu khen ngợi. Ngày Mậu Tý, gia phong cho Vương Đán chức Thủ Tư đồ, các quan tu sử là Triệu An Nhân, Triều Huýnh, Trần Bành Niên, Hạ Tủng, Thôi Độ đều được thăng chức và ban thưởng vật phẩm khác nhau. Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tẩu, Dương Ức từng tham gia tu sử, cũng được ban thưởng.
[30] Ngày Kỷ Sửu, Viện Tu Quốc sử tâu rằng 《Lưỡng triều Thực lục》 còn nhiều việc chưa đầy đủ, xin cho xuống viện để bổ sung tu chỉnh. Được chấp thuận.
[31] Ngày Tân Mão, vì dân Thiểm Tây đói kém, xuất kho lương cứu tế.
[32] Ngày Nhâm Thìn, sai Tu Cảnh Linh cung Phó sứ, Đồng Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung Phó sứ, Hộ bộ Thị lang Lâm Đặc đến Cảnh Linh cung và Thái Cực quán ở Duyện Châu làm lễ tế, vì việc xây dựng đã hoàn thành. Tổng cộng cung quán có 1.322 khu. Ban chiếu khen thưởng các quan giám tu nội thần, ban tiền cho thợ và lính.
[33] Ngày Giáp Ngọ, ban chiếu xây dựng nhà học phía nam Nguyên Phù quán, làm nơi học tập cho hoàng tử, đặt tên là “Tư Thiện”, Vua viết bài ký, khắc vào bia đá trong nhà. Sai Nhập nội Áp ban Chu Hoài Chính làm Đô giám, Nhập nội Cung phụng quan Dương Hoài Ngọc làm Bạn đọc cho Thọ Xuân quận vương, lại dặn dò không được đùa giỡn trong nhà học và bày các đồ chơi, mọi việc phải theo lễ, để vương thân cận với bạn bè và quan lại.
[34] Ngày Bính Thân, phong Sùng Dương huyện quân Lý thị ở hậu cung làm Tài nhân.
[35] Ngày Đinh Dậu, có người dâng thư nói rằng bộ lạc Phiên ở Diên Châu thiếu lương thực, đúng vào mùa làm ruộng, mong phát thóc từ kho lương của các châu lân cận để cho vay, Vua đồng ý. Sau đó, chuyển vận sứ tâu rằng Diên Châu hiện đang dự trữ 27 vạn thạch lương quân, xin xuất 5.000 thạch để cứu tế, đợi mùa màng bội thu thì thu lại trả về kho, Vua hạ chiếu chuẩn y.
[36] Ngày Mậu Tuất, Trung thư môn hạ xin từ nay các ngày nghỉ và ngày không thiết triều, đồng thời xin không ngồi chầu ở hậu điện, hai lần dâng biểu cố xin. Vua hạ chiếu từ nay các ngày Thượng Tỵ, Đoan Ngọ, Trùng Dương, hai kỳ tế Xã cùng những ngày mưa to tuyết lớn không thiết triều, cũng không xử lý công việc, các việc khác vẫn như cũ, nếu có việc cần tâu bẩm thì lập tức xin phong sớ. Lại xin ngày nghỉ hàng tuần không ngự ở tiện điện xử lý công việc, Vua đồng ý.
[37] Ngày Nhâm Dần, Vua hạ chiếu cấp thêm 20 vạn tiền công phí hàng năm cho Dương Châu, theo lời xin của Tri châu Tiết Ánh.
[38] Ngày Quý Mão, Vua triệu tập các quan cận thần đến Tường Loan các xem thư ngự bút của Thái Tông cùng các bài tụng Thánh văn thần bút, ký sự điện Ngọc Thần do Vua soạn, Vua làm thơ, sai các quan họa theo. Lại ngự giá đến điện Lưu Bôi dự tiệc rượu, lên đình Thúy Phương trên núi Tượng Doanh, dự yến ở điện Ngọc Thần. Điện này nằm trong vườn ngự, gần kề cung cấm, Vua ưu đãi các tể tướng, mỗi khi đại lễ thành công, thường vui vẻ triệu tập đến đây. Sau này, cả hai chế đều được dự, là ân điển đặc biệt.
[39] Ngày Giáp Thìn, Tu sửa cung Cảnh Linh sứ Đinh Vị xin tuyển 300 quân sĩ thuộc về cung Cảnh Linh và đài Thái Cực ở Duyện Châu, cấp việc quét dọn, Vua hạ chiếu chuẩn y.
[40] Vua hạ chiếu rằng từ nay nếu có thuyền Tân La trôi dạt đến bờ ở Minh Châu, thì căn cứ vào số người mà cấp lương, đối đãi ân cần, đợi khi thuận gió thì cho về.
[41] Ngày Ất Tỵ, đầu tháng 3, Vua hạ chiếu từ nay ngày nghỉ hàng tuần không xử lý công việc, nếu gặp việc công cần phúc tấu thì đến tiện điện xin đối đáp.
(Theo 《Hội yếu》, chiếu ngày mùng 1 tháng 3.)
[42] Thưởng Dạng Đan ở Tần châu là thủ lĩnh bộ lạc[12], lại là cậu của Cốt Tư La. Cốt Tư La sai người này cùng với người thục hộ là Khuếch Tư Đôn bàn việc lập văn pháp ở tộc Ly Vương, nói với Tư Đôn rằng: “Văn pháp thành lập xong, có thể xâm lấn biên giới nhà Hán, khôi phục lại đất cũ của bộ lạc.”
Tào Vĩ biết chuyện, bèn kết giao thân thiết với Tư Đôn, từng cởi đai ngọc tặng cho ông ta. Tư Đôn cảm kích, xin được tự nguyện báo đáp, nói với Tào Vĩ: “Phụ thân muốn sai con làm gì? Dù muốn lấy đầu, con cũng có thể chặt để dâng.” Tào Vĩ thấy ông ta thành thật, bèn nói: “Ta biết Thưởng Dạng Đan thường đến trướng của ngươi, ngươi có thể bắt hắn cho ta không?” Tư Đôn kinh ngạc nói: “Xin vâng.” Sau hơn mười ngày, quả nhiên chặt đầu Thưởng Dạng Đan đem đến.
[43] Ngày Bính Ngọ, Tào Vĩ xin thăng tước cho Khuếch Tư Đôn, Vua khen ngợi công lao, muốn ban thưởng rõ ràng cho Tư Đôn, nhưng lại lo ngại Cốt Tư La sẽ nói rằng Vĩ bí mật sai người hại thân tộc của mình, có thể gây ra rắc rối, nên ban chiếu cho Vĩ, bảo ông cân nhắc kỹ. Vĩ đang bàn việc xây thành Nam Thị, tâu rằng Tư Đôn dâng đất nên được thưởng, bèn phong Tư Đôn làm Thứ sử châu Thuận.
Nam Thị vốn gọi là Nam Sứ, tiếng Phiên đọc trại thành Nam Thị, phía tây nam cách châu 150 dặm, phía đông bắc cách thành Lung Can 80 dặm, là nơi tiếp giáp giữa Tần và Vị, nắm giữ vị trí trọng yếu của Tây Nhung[13]. Tào Vĩ xin dùng quân năm châu Tần, Vị và các tay cung gần trại, xây thành và đóng quân ở đó, ngày sau khi quân đồn trú thay phiên, sẽ tuyển thêm 3.000 dũng sĩ làm tay cung ở thành Nam Thị. Vua khen Vĩ làm việc yên ổn và có hiệu quả, ban chiếu khen ngợi.
(Theo 《Thực lục》, phong Tư Đôn làm Thứ sử châu Thuận vào ngày mồng 2 tháng 3, đến ngày 21 mới ban chiếu cho Vĩ cân nhắc, Vĩ tâu Tư Đôn dâng đất, mới ban cáo mệnh, việc ban cáo mệnh có lẽ diễn ra sau ngày 21. Vì ngày mồng 2 mới bắt đầu phong Tư Đôn làm Thứ sử, chưa ban hành, phải đợi Vĩ tâu lại, nên sau ngày 21 mới ban hành. 《Thực lục》 chỉ ghi việc bắt đầu phong. Nay ghi chép cả sự việc trước sau. Xây thành Nam Thị[14], 《Thực lục》 lại ghi vào ngày 25, nay cũng ghi thêm.)
[44] Ngày Mậu Thân, triệu tập tông thất đến điện Ngọc Thần xem sách.
Ngày Kỷ Dậu, lại triệu tập tông thất dự tiệc và bắn cung trong vườn. Lần trước triệu xem sách, thời gian kéo dài, không kịp tổ chức tiệc, nên lại triệu tập. Vua hỏi các vương về kinh sử, họ đều trả lời được, xem qua các quyển sách, không có sai sót, Vua rất hài lòng.
[45] Sai sứ đi tuần phủ các châu Ôn, Xử, phát lương thực cứu tế dân nghèo, đồng thời kiểm tra bờ sông ở Hàng Châu.
[46] Phủ Kinh Triệu tâu dân đói, Vua ban chiếu cứu tế.
[47] Chọn một người trong nội thị và tam ban làm chức Tẩu mã thừa thụ công sự ở vùng biên giới Tần châu. Lúc đó, Tào Vĩ xin lấy Vương Hoài Tín, Đô giám trú bạc của bản lộ, làm An phủ đô giám, nếu có việc cơ mật thì Phó sứ và Đô giám thay nhau vào tâu, nhưng Vua không cho phép mà lập ra chức này.
[48] Xu mật sứ Vương Khâm Nhược dâng lên bộ kinh Đạo tạng mới được hiệu đính, ban tên mục lục là 《Bảo Văn Thống Lục》, Vua làm bài tựa, ban thưởng cho Khâm Nhược và các quan hiệu đính khí vật, tiền bạc khác nhau. Sau đó lại gia tăng thực ấp cho Khâm Nhược, thăng cấp bậc và ban thưởng phẩm phục cho các quan hiệu đính. Trước đây, sau khi phong thiền ở phía đông, lệnh cho các đạo sĩ có đạo hạnh ở hai phố tập hợp tu chỉnh nghi thức trai đàn, (ngày Nhâm Thân tháng 7 năm thứ 2), sai Khâm Nhược xem xét và định ra, soạn thành 10 quyển 《La Thiên Tiếu Nghi》. (Ngày Bính Thân tháng giêng năm thứ 8).
Lại chọn 10 đạo sĩ để hiệu đính kinh Đạo tạng. (ngày Tân Mão tháng 8 năm thứ 2). Năm sau, tập hợp các quan ở Sùng Văn Viện để hiệu đính kỹ lưỡng, Khâm Nhược đứng đầu, đúc ấn ban cấp. Kinh tạng cũ có 3.737 quyển, Thái Tông từng sai Tán kỵ thường thị Từ Huyền[15], Tri chế cáo Vương Vũ Xứng, Thái thường thiếu khanh Khổng Thừa Cung hiệu chính bản chép tay, đưa đến các cung quán lớn, Khâm Nhược tăng thêm 622 quyển.
Lại cho rằng 《Đạo Đức Kinh》 và 《Âm Phù Kinh》 là do Lão quân Thánh tổ soạn ra, nên đưa từ bộ Tứ Phụ lên bộ Động Chân. Khâm Nhược tự cho mình thông hiểu giáo pháp, nhiều lần dâng tấu kiến nghị. Lúc đó, Viên ngoại lang Chức phương Tào Cốc cũng được khen là thông thạo, Khâm Nhược tâu xin hiệu đính kinh tạng, chưa bao lâu, Tào Cốc được bổ làm Hoài Nam chuyển vận sứ, tâu xin trở về hoàn thành công việc, sắp xếp lại các bộ loại, nâng hạ phẩm cấp, phần lớn là do ông ta làm. Lại sai Trứ tác tá lang Trương Quân Phòng đến Hàng Châu giám sát việc chép bản.
Trước đó, có chiếu lấy các kinh Đạo tạng và Phật tạng có nội dung hủy báng lẫn nhau để xóa bỏ[16], Khâm Nhược tâu: (năm này tháng này) “《Lão Tử Hóa Hồ Kinh》[17] là di tích của thánh nhân xưa, không thể xóa bỏ.” Lại tâu (tháng 12 năm thứ 5) “《Cửu Thiên Sinh Thần Chương》, 《Ngọc Kinh》, 《Thông Thần》, 《Tiêu Tai》, 《Cứu Khổ》, 《Ngũ Tinh》, 《Bí Thụ》, 《Diên Thọ》, 《Định Quan》, 《Nội Bảo Mệnh》, 《Lục Trai》, 《Thập Trực》 tổng cộng 12 bộ kinh, có ích cho dân, xin cho in ấn ban hành.” Vua đồng ý.
(Đoạn này tổng thuật, có thể đã có trong 《Trường Biên》, nên kiểm tra xóa bỏ. Tào Cốc chính là người nghiệm chứng văn linh ở Phần Âm. Ngày Quý Sửu tháng 5 năm thứ 7, Khâm Nhược dâng lên 670 quyển thuộc bộ Động Chân.)
[49] Ngày Nhâm Tý, Cấp sự trung Thận Tòng Cát bị giáng một chức, Hàn lâm học sĩ, Cấp sự trung Tiền Duy Diễn bị cách chức Học sĩ.
Ban đầu, vợ của dân huyện Hàm Bình là Trương Uân, họ Lô, tố cáo cháu trai là Chất say rượu và có lời lẽ thô tục. Họ Trương là một gia tộc giàu có, Chất vốn là con nuôi, và các chứng cứ đều rõ ràng. Chất đã hối lộ cho các lại dịch. Con của Tòng Cát là Nhuệ, giữ chức Đại Lý tự thừa, lúc đó đang đốc vận sông Thạch Đường, qua lại Hàm Bình, đã xin quan huyện giúp đỡ. Quan huyện phán quyết khôi phục họ Lưu cho Chất, và chỉ yêu cầu Chất cùng sống chung với Lô. Chất và Lô liên tục kiện tụng, quan huyện báo lên phủ. Lúc đó, Tòng Cát đang quyền tri phủ sự, bèn sai Hộ tào tham quân Lã Khải đến huyện xét hỏi. Chú của Lô là Chiêu Nhất, giữ chức Quắc Lược úy, đã đút lót cho Khải ba trăm lạng bạc. Khải kéo dài vụ án không quyết định, lấy cớ chờ truy bắt họ Lưu rồi trở về phủ.
Anh của Lô là Văn Chất, giữ chức Thái tử trung xá, lại nhờ tiến sĩ Ngô Cập đút lót bảy mươi vạn tiền cho con trưởng của Tòng Cát là Quân, giữ chức Đại Lý tự thừa, để trình bày sự việc với cha, nhưng giấu đi việc nhận hối lộ. Lô lại đến phủ tố cáo, việc này được giao cho Hữu quân tuần viện xét xử. Anh của Chiêu Nhất là Trừng từng viết thư gửi Duy Diễn, nhắn Tòng Cát rằng việc này liên quan đến Quân và Nhuệ, xin hoãn lại. Lúc đó, Ngô Cập đã bỏ trốn, quân tuần xin lệnh bắt giữ, và nói: “Nếu không bắt được Cập, thì vụ án không thể kết thúc.” Tòng Cát vội triệu phán quan quân tuần là Chúc Thản đến sảnh đường hỏi, hủy bỏ tờ trình xin bắt giữ, lại sai Nhuệ bí mật hỏi Thản về tình hình vụ án, tự nghi ngờ và lo sợ, bèn bí mật làm tấu xin giao việc này cho Ngự sử đài, nhưng chưa được phúc đáp.
Củ sát hình ngục Vương Tằng và Triệu Chẩn đến điện tâu lên, và nói rằng việc này liên quan đến Tòng Cát, e rằng quân tuần sẽ né tránh. Chẩn vừa nhận chức tri tạp, xin không giao việc này cho đài. Bèn sai Điện trung thị ngự sử Vương Kỳ, Hộ bộ phán quan, Trứ tác lang, Trực sử quán Lương Cố xét xử, lại sai trung sứ Đàm Nguyên Cát giám sát, bắt giữ hơn trăm người. Vụ án kết thúc, Khải và Quân bị cách chức, lưu đày đến châu Hoành và châu Dĩnh; Nhuệ, Thản, Văn Chất đều bị cách một chức, Thản bị biếm làm tham quân châu Hào.
Lô Trừng là một đại hào ở huyện Trần Lưu, từng đóng góp lương thực, được làm Trợ giáo châu Tào, buôn bán kiếm lợi, ức hiếp dân lành, kết thân với quyền quý, nên càng ngang ngược. Khi Lưu Tống làm tri phủ, Trừng từng phạm pháp. Tống tức giận vì sự ngang ngược của hắn, bèn trừng trị, cách chức, lưu đày đến châu Dĩnh, và xin rằng nếu sau này phạm tội sẽ không được chuộc tội. Chiếu chỉ đồng ý với lời tấu.
Đến lúc này, Trừng và Chiêu Nhất đều bị đánh trượng, Trừng bị lưu đày đến châu Giang, Chiêu Nhất bị tước bỏ danh hiệu. Tòng Cát và Duy Diễn đều bị khiển trách, những người khác bị xử phạt khác nhau, người phạm tội nặng bị lưu đày đến các châu ngoài. Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, Tri ích châu Vương Thự, trước đây làm tri Khai Phong, từng tiến cử Khải, bèn bị giáng làm Tả ty lang trung, chức vụ như cũ.
(Vương Thự bị giáng chức vào tháng 7 ngày Canh Tuất. Vương Kỳ, trong 《Đài ký》 có truyện, không rõ quê quán.)
[50] Ngày Quý Sửu, ban chiếu rằng các quan lại phạm tội tham nhũng bị tố cáo, nếu có cố tình kéo dài thời gian để chờ đợi ân xá, từ nay Pháp tự không được dùng ân xá để tha tội.
[51] Ngày Ất Mão, lấy Tứ phương quán sứ, Thứ sử châu Tưởng là Lý Doãn Tắc làm Dẫn tiến sứ, kiêm chức Đoàn luyện sứ châu Tự, vẫn như trước giữ chức Tri châu Hùng kiêm Bộ thự bản châu. Doãn Tắc lâu năm ở biên thành, siêng năng trong chức vụ. Đến nay về triều, lại được tăng phẩm hàm và cử đi. Sau đó, Doãn Tắc tâu rằng tên của quốc chủ Khiết Đan là Tự, việc thư từ qua lại ở biên giới, dùng tên hiềm kỵ không tiện, nên đổi thành châu Cao.
[52] Ngày Mậu Ngọ, Lễ nghi viện tâu: “Bản chúc văn ở nơi thờ tự giao miếu và ngọc tế lễ ở đại tự đặt trong phòng trai, là vật dùng để tế lễ thần linh, nhưng lại bị coi thường. Xin từ nay bản chúc văn và ngọc tế lễ đều đặt ở sảnh trai cung, một ngày trước khi hành lễ, Thái úy cùng Giám sát ngự sử, Giám lễ bác sĩ cùng mở xem[18], Thái chúc tập đọc, để tỏ lòng tôn kính.
Lại nữa, mỗi năm vào ngày đông chí tế giao, bệ thờ của Hạo Thiên Thượng Đế chỉ sai lính tráng bày biện. Xin từ nay sai một viên nội thị và một viên quan Ty thiên giám đích thân bố trí, lại thêm đèn lồng và đài lửa bên cạnh bệ thờ để chống gió mạnh.
Lại theo lệ cũ, đồ tế lễ ở đàn Nam Giao đều đặt dưới đàn trong lều, từ trước đến nay quan hữu ty làm xong đồ tế lễ liền bỏ vào giỏ, có khi để qua đêm. Xin cho xây nhà, khi làm xong đồ tế lễ liền cất vào tủ[19], đến khi hành lễ thì chia ra bỏ vào giỏ. Lại chọn hai viên nội thị, sau khi các quan công khanh kiểm tra đồ tế lễ xong, chuyên trách việc làm đồ tế lễ, Giám sát[20] cùng xem xét. Khi hành lễ, sai mười lính thân sự đứng ngoài đàn để xem xét.
Lại nữa, khi tế giao gặp mưa tuyết, chỉ tạm làm lễ vọng tế ở sảnh trai của Thái úy, vì là nơi ở tạm mà chỉ tế Thượng Đế, chưa hợp lòng tôn kính. Xin xây điện vọng tế trong cửa trai cung, các phòng trai của các ty cũng tăng thêm số lượng. Theo lệ cũ, đại tự chỉ có Thái phủ tự cung cấp hương, nay tế trời đất tông miếu thường xuyên, xin ban hương của Vua.” Đều theo lời tâu.
Lại làm tủ sơn trao cho Quang lộc tự và Ty nông tự[21], mỗi khi tế lễ, sai quan phán tự niêm phong đồ lễ đưa đến nơi tế.
[53] Ngày Canh Thân, Vua ban chiếu khen thưởng cho Điện trung thừa Nhậm Chiêu, người phụ trách việc vận chuyển lương thực trên sông Quảng Tế. Trước đây, mỗi năm chỉ vận chuyển được 10 vạn thạch lương, nhưng trong một năm tại chức, Nhậm Chiêu đã vận chuyển được 45 vạn thạch.
(Nhậm Chiêu chưa rõ lai lịch.)
[54] Ngày Tân Dậu, Vua cùng các bề tôi bàn về chế độ của Thượng thư tỉnh, nhân đó nói: “Hiện nay chỉ còn việc tuyển chọn quan lại là còn giữ được chút điển cố, mà trong số các quan chức mạc phủ, châu huyện cũng có người tài giỏi, không nên xem thường.” Vương Đán nói: “Lại bộ khác với các cơ quan khác, chỉ là không thể làm tròn chức trách mà thôi.”
Vua nói: “Những người tâu việc nhiều lần xin khôi phục chế độ 24 ty, Dương Lệ từng nói việc này không khó, chỉ cần để các lang trung và các ty sứ cùng đảm nhiệm một chức vụ, thì dần dần có thể cải cách.”
Vương Đán nói: “Nhà Đường thiết lập các ty sứ trong nội đình, đều mô phỏng theo Thượng thư tỉnh, như ty Kinh là tương đương với bộ Thương[22]; ty Hoàng thành tương đương với ty Môn; ty Lễ tân tương đương với ty Chủ khách. Tuy danh phẩm có thể noi theo, nhưng chức trách thì khác nhau.
Lúc đó, các ty chỉ quản lý việc trong và ngoài kinh đô. Binh lực và thuế má của các đạo đều thuộc về phiên trấn, không phải là một lang trung hay viên ngoại lang của Nam cung có thể kiểm soát được. Triều đình chỉ thu được một phần ba, gọi là thượng cung, còn lại là các khoản lưu châu, tống sứ, đều thuộc về phiên trấn. Sau này, các tướng lĩnh cậy thế lộng hành, là do phiên trấn quá mạnh.
Nay tam ty chính là Thượng thư tỉnh, điển cố vẫn còn đầy đủ, chỉ là mọi khoản thuế đều quy về triều đình và phải nhờ cấp phát, nên khi miễn giảm thì ân huệ đến với dân, khi ban thưởng thì ân đức thuộc về Vua, đó là chế độ bất di bất dịch của quốc gia.”
Vua nói: “Hà Thừa Củ từng xin lấy thuế hộ của năm bậc tước phong để cấp phát.” Vương Đán nói: “Các phiên trấn thời Đường giàu có kiêu ngạo, thường sa vào con đường bất chính, phần lớn là do sự nuông chiều quá mức. Mỗi lần thay một tướng, hiếm có ai vâng lệnh ngay. Chu Thế Tông triệu Tiết độ sứ Tương châu là An Thẩm Kỳ, ông ta lập tức đi ngựa trạm đến, Thế Tông rất vui, ban thưởng hậu hĩnh. Từ khi Thái Tổ thay đổi chế độ đến nay, các phiên trấn cầm quân ở biên cương kiêm chức tể tướng, mỗi khi được triệu đều vội vã đến ngay, đó là điểm then chốt của việc kiểm soát, những người thích bàn về cổ xưa, e rằng chưa nghĩ đến điều này.” Vua cho là phải.
[55] Lấy người thuộc tộc Tông Ca của Tây Phiên là Lý Tuân làm Tiết độ sứ quân Bảo Thuận, ban cho áo kế tập, đai vàng, đồ vật quý, yên ngựa, giáp trụ.
Tuân còn có tên là Lập Tuân, cũng gọi là Dĩnh Thành Lận Bô Sất, ban đầu làm sư, sau tự hoàn tục, giúp Cốt Tư La, cai quản các tộc Phiên, rất có uy danh, nhiều lần xin triều đình phong tước. Sau lại xin được xưng là Tán Phổ. Tào Vĩ nói: “Xuân Thu cho phép người Di Địch, không thể đủ hết. Tán Phổ là hiệu của Khả Hãn, nếu Tuân một lời mà được, thì sẽ xử Cốt Tư La thế nào? Hơn nữa, nếu lại có yêu cầu khác, sẽ khó kiểm soát. Xin theo lệ của Tư Đạc Đốc, phong chức là được.” Vua bàn việc này với các đại thần, Vương Đán nói: “Tuân dám xin Tán Phổ, muốn đứng trên Cốt Tư La, mà Cốt Tư La lại không yêu cầu gì. Tuân kiêu ngạo quá, nhưng không thể không chấp nhận.” Vua nghe theo lời Tào Vĩ.
[56] Châu Nghi báo rằng người Man Phủ Thủy cướp phá trại Thiên Hà, Vua sai Lý Thủ Duệ, Đô giám châu Đàm, Nội điện Sùng ban, đi chiêu phủ, nếu chúng dám chống cự, thì lập tức phát binh tiêu diệt.
[57] Ngày Nhâm Tuất, Vua hạ chiếu: “Từ nay, các quan văn võ nếu tiến cử người phạm tội tham nhũng, người tiến cử cũng phải chịu tội. Nếu chưa đến mức bị truy quan và được ân xá giảm tội[23], thì giao cho Viện Thẩm hình xét tình tiết tâu lên, sẽ bàn việc giáng chức hoặc giáng chức vụ. Nếu trước đây tiến cử người có tham nhũng, cũng cho phép tự thú. Từ nay phải chọn người liêm chính, mới được tiến cử, không còn trong phạm vi cho phép tự thú.”
[58] Ngày Quý Hợi, Tông chính khanh Triệu An Nhân tâu: “Ngọc điệp nhà Đường ghi đầu tiên là Hỗn Nguyên hoàng đế, nay xin lấy sách 《Thánh Tổ giáng lâm ký》 do nhà Vua soạn đặt lên đầu ngọc điệp của các bậc thánh, và biên soạn riêng tân phổ của hoàng triều như 《Thiên Hoàng Nguyên Phái Phổ》 nhà Đường, cũng lấy 《Giáng Lâm Ký》 đặt lên đầu, lại đặt tên đẹp. Lại xin lấy Tri chế cáo Lưu Quân và Hạ Tủng cùng làm quan tu ngọc điệp ở Tông chính tự.” Vua nghe theo, đặt tên tân phổ là 《Tiên Nguyên Tích Khánh Đồ》.
(Sách 《Tiên Nguyên Tích Khánh Đồ》 theo bản truyện của An Nhân ghi phụ, 《Nghệ Văn Chí》 nói, sổ tịch hoàng tộc đặt tên đẹp là 《Hoàng Tống Ngọc Điệp》, việc này ở năm thứ 6. Năm thứ 8, Triệu An Nhân dâng 《Tiên Nguyên Tích Khánh Đồ》, khác với việc này, cần xét lại.)
[59] Ngày Ất Sửu, Trứ tác lang Cao Thanh bị đánh bằng gậy vào lưng, chích chữ lên mặt, đày ra đảo Sa Môn. Thanh làm tri huyện Thái Khang, có dân trong huyện đến phủ kiện về gia sản, Thanh nhận hối lộ của họ. Lúc đó đã bãi chức, liền trốn đến nơi khác. Tri phủ Thận Tòng Cát xin vào chầu, tâu rằng con trai ông là Nhuệ trước đây có mượn của Thanh 70 lạng bạch kim, mong truyền chiếu bắt giam, lại đặt ngục. Bèn sai Giá bộ viên ngoại lang Lưu Tông Ngôn và Giám sát ngự sử Giang Trọng Phủ đi xét án. Thanh trốn ở nhà tiến sĩ Đinh Vũ, báo quan bắt được, lại khám nhà, thu được rất nhiều của cải, quần áo có thứ xa xỉ trái lệnh cấm, bèn dán bảng cho dân tố giác, lại thu được tang vật khác.
Việc án xong, Pháp tự cho rằng số của hối lộ nhận được không phân biệt đúng sai, đổi sai Đồn điền viên ngoại lang Đinh Cẩn Tu xét lại, Thanh phạm tội tham nhũng đáng chết, Vua đặc cách tha cho.
Thanh, con trai của Khố bộ Lang trung Sĩ Hoành, đỗ Tiến sĩ vào niên hiệu Cảnh Đức, được Tể tướng Khấu Chuẩn gả con gái của em trai mình cho. Sau khi Khấu Chuẩn qua đời, nhà họ Lý Hãng lại cưới ông làm rể. Trong quá trình làm quan, ông nổi tiếng vì nhận hối lộ, ỷ thế thân thích để ức hiếp dân lành, cố ý kiêu căng phóng túng, ăn mặc như nhà công hầu.
Ban đầu, Nhuệ đến vay tiền của Thanh, Thanh vì việc nhận nhiều hối lộ sắp bị phát giác nên đã đồng ý, mong Nhuệ giúp đỡ. Lúc đó đang xét vụ án nhà họ Lô, Vương Tăng làm chức Củ sát, ra sức bao che cho Thanh. Tòng Cát phát giác việc này, muốn tự giải oan. Nhuệ vốn xảo quyệt, ban đầu mượn tiền của Thanh để được bao che, nhưng khi nghe có người kiện tụng liền trả lại ngay.
Trước đó vì vụ án nhà họ Lô, Thanh đã bị cách chức một nhiệm kỳ, đến lúc này lại phạm tội thỉnh cầu, bị tước chức Vệ úy Tự thừa. Tòng Cát vì tự thú sau khi sự việc đã bị phát giác, lại tấu trình không trung thực, nên bị xử phạt tiền. Chiếu chỉ nói rằng Tòng Cát nhiều lần vi phạm pháp luật, đáng bị cách chức và lưu đày, nhưng đặc cách chỉ truy chức Hữu Gián nghị đại phu, miễn cho việc an trí. Nhuệ bị đày đến Đơn Châu. Ngoài ra, có hàng chục người bị xử phạt và lưu đày. Tông Ngôn và Trọng Phủ vì xét án không đúng sự thật, đều bị cách chức Giám vật vụ. Diêu Nhuận Chi, Ngu bộ Viên ngoại lang, Phủ giới Đề điểm, và Vương Thừa Cẩn, Nội điện Sùng ban Cáp môn Chi hậu, vì không thể xem xét và tiến cử, lại bảo lãnh cho Thanh, đều bị miễn chức.
[60] Chiếu chỉ rằng từ nay các quan văn võ tiến cử Tam ban Sứ thần, nếu người cùng chức và người tiến cử chưa từng làm quan ngoại nhiệm thì không được tính vào số lượng được bổ nhiệm.
[61] Ngày Bính Dần, đặt trạm dịch ở Châu Tử. Trước đây, dùng dân đinh để chuyển phát, nay đã bãi bỏ.
[62] Tào Vĩ tâu: “Binh lính đồn trú ở Châu Tần thiếu nhiều nhà ở, thậm chí có người phải ở nhờ nhà dân, gây nhiều phiền nhiễu. Thần đã sai lính đốn gỗ, làm ngói, xây được 1.400 căn nhà, nay đã hoàn thành.”
Vua nói: “Đây là việc cấp thiết của châu quận, đáng khen ngợi.”
[63] Ngày Mậu Thìn, đổi Dinh điền vụ ở Châu Định, Châu Bảo và Quân Thuận An thành Đồn điền vụ, theo lời thỉnh cầu của Lý Doãn Tắc.
[64] Ngày Canh Ngọ, Châu Bạc tâu rằng Minh Đạo cung đã hoàn thành, tổng cộng 480 gian. Chiếu chỉ sai Nội thị làm lễ tế, thưởng cho quan lại, ban tiền cho binh lính và thợ thuyền.
[65] Mùa hạ, tháng tư, ngày Mậu Dần, xuống chiếu cho các quan trong triều từ 60 tuổi trở lên không được cử làm giám quan các kho ở kinh thành. Lúc đó, Quốc tử bác sĩ Ung Văn Tải 65 tuổi, nhận chiếu chỉ, dâng sớ xin miễn.
Vua nói: “Từ khi nhận lương thực đến khi phát xong, khoảng sáu bảy năm. Nếu để những người này nhận chức một nhiệm kỳ, thì sẽ già đi trong việc quản lý kho tàng.” Nhân đó định ra quy chế.
[66] Ngày Kỷ Mão, Lạc Uyển sứ, Cao Châu đoàn luyện sứ Lam Kế Tông bị giáng làm Như Kinh sứ, vì tội tham gia tu sửa lăng Trang Mục hoàng hậu, đến lúc này đường hầm bị sụt lún. Các sứ thần, quân hiệu đều bị giáng phạt.
[67] Ngày Canh Thìn, Ty Thiên giám tâu rằng sao Chu Bá lại xuất hiện.
(Ngày mùng một tháng 5 năm Cảnh Đức thứ 3 cần tham khảo.)
[68] Ngày Ất Dậu, xuống chiếu phạt Vũ Thắng lưu hậu, Phò mã đô úy Sài Tông Khánh 20 cân vàng. Tông Khánh theo hầu đến vườn Quỳnh Lâm, ngồi sai tả hữu lấy nước uống, bị các quan Cáp môn tố cáo.
[69] Ngày Bính Tuất, khắc bia ngự chế tán tụng về cung Cảnh Linh.
[70] Tào Vĩ tâu: “Vùng biên giới trước đây không có hào rãnh, khiến bộ lạc phiên thường xâm lấn. Nay quy hoạch đào hào từ thành phía tây trại Vĩnh Khánh đến Tạt La Mang, tổng cộng 51 dặm. Đã triệu tập quân Sương, dân trại đến làm việc, 22 ngày thì xong.” Tạt La Mang là nơi hiểm yếu của bộ lạc phiên. Vua ban thưởng, các sứ thần, tướng hiệu phụ trách đều được ban khí vật, lụa.
(Tháng 5 năm Cảnh Đức thứ 3, Vĩ đào hào ở Trấn Nhung, cần tham khảo.)
[71] Ngày Đinh Hợi, Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Trương Tượng Trung tâu: “Hai ao An Ấp, Giải Huyện hiện chứa 3.276 yểm muối, tổng cộng 388.828.928 cân, trị giá 21.761.800 quan. Thần lo rằng còn có lợi nhuận bị bỏ sót, mong ban hành điều ước.”
Vua nói: “Đất dày sinh của cải, thế là đủ rồi. Nếu cầu lợi quá mức, ắt có lúc thiếu hụt[24], không thể chấp nhận được.”
[72] Ngày Kỷ Sửu, Ty Thiên tâu rằng mặt trăng sẽ bị che khuất, chiêm tinh cho rằng đây là điềm tai họa cho đại thần. Vua xuống chiếu cho Vương Đán lập đạo trường ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, sau đó mây che không thấy mặt trăng.
[73] Ngày Nhâm Thìn, lấy Công bộ Lang trung, Long Đồ các Đãi chế Trương Tri Bạch làm Hữu Gián nghị Đại phu, quyền Ngự sử Trung thừa. Tri Bạch từ Thanh Châu về triều, dâng biểu xin xử lý việc ở Quốc Tử Giám.
Vua nói: “Tri Bạch chẳng lẽ đã chán việc xử lý công việc khó khăn sao?” Các tể thần tâu: “Tri Bạch đã trải qua nhiều chức vụ trong và ngoài triều, chưa từng vì lợi ích cá nhân, thật đáng khen ngợi.” Lúc này chức vụ Ngự sử đã khuyết lâu ngày, nên đặc cách bổ nhiệm ông.
[74] Ngày Ất Mùi, xuống chiếu rằng các tội đại hình ở Tam Kinh và các lộ, nếu án đã xét xong mà có người chết oan, thì giao cho các quan Củ sát, Đề điểm hình ngục xem xét.
[75] Ngày Bính Thân, ban cho thiên hạ được uống rượu, ở Đông Kinh được 5 ngày, Tây Kinh và Nam Kinh được 3 ngày, các châu, quân, giám được 1 ngày.
[76] Cốt Tư La sai sứ đến cống.
[77] Ngày Đinh Dậu, cấm dân Giang Nam bán keo li.
(Tháng 3 năm thứ 3, chỉ cấm ở Kiền Châu.)
[78] Ngày Mậu Tuất, Quảng Tây Chuyển vận sứ Du Hiến Khả tâu: “Người Man ở Phủ Thủy nhiều lần quấy nhiễu biên giới, Tri châu Nghi Châu là Đổng Nguyên đã không khéo léo trong việc vỗ về. Trước đây, Tào Vĩnh Cát làm Tri châu, khi người Man đói, đến xin lương thực, Vĩnh Cát đã cấp phát rộng rãi, họ đều vui vẻ ra về. Nguyên đã không hề khoan dung, lại để cho thuộc hạ bớt xén, người Man xin đến kinh đô cống nạp, Nguyên đã ngăn cản ý định của họ, khiến họ phẫn nộ làm loạn. Xin cách chức Nguyên đã, lấy Đô giám Đàm Châu là Lý Thủ Duệ thay thế[25].” Vua chuẩn tấu.
[79] Xu mật sứ, Đồng bình chương sự Trần Nghiêu Tẩu vì bệnh chân xin từ chức, Vua không cho. Nghiêu Tẩu đã xin nghỉ lâu ngày, ngày Canh Tý, Vua ngự giá đến nhà ông, ban thưởng hậu hĩnh.
[80] Ngày Tân Sửu, quan tri phủ Vĩnh Hưng là Khấu Chuẩn tâu: “Trong bộ hạ của thần có nhiều kẻ giàu có cho người nghèo vay tiền, lấy lãi nặng, đến kỳ hạn không trả được thì chiếm đoạt ruộng đất. Xin ban chiếu chỉ cho phép người dân tố cáo, nghiêm khắc xử phạt.”
Vua nói: “Vùng Tần, Ung mùa đông năm ngoái giá cả tăng vọt, nếu ban chiếu này, chắc chắn sẽ xảy ra nhiều kiện tụng. Hơn nữa, dân nghèo đói khổ, ai còn dám cho vay nữa! Hãy bảo Khấu Chuẩn đợi đến năm được mùa rồi thi hành.”
[81] Lệnh cho Nội thị tỉnh quy định số lượng lễ vật hôn nhân giữa các quan lại và các cung viện. Trước đây, những người kết hôn với hoàng thân quốc thích thường tốn kém quá mức, mỗi khi làm lễ nạp thái, thường dẫn theo nhiều người hầu, gia đình phải cung cấp ăn uống, chi phí lên đến hàng ngàn vạn, có nhà phải phá sản.
Vua nói: “Hoàng tộc ngày càng đông đúc, việc này không thể không hạn chế chế độ.” Do đó, giảm bớt nhiều khoản, lại ban thêm vàng lụa để chi phí.
[82] Cháu bảy đời của tể tướng nhà Đường là Nguyên Chẩn là Nguyên Chiếu dâng lên sắc lệnh của Nguyên Chẩn từ niên hiệu Trường Khánh. Ngày Nhâm Dần, phong Nguyên Chiếu làm Tư mã châu Đài.
[83] Tháng này, ban chiếu: “Các kinh đô và các lộ chuyển vận ty, trừ các châu quân ở vùng Xuyên Hạp, căn cứ vào số huyện quản lý, mỗi người lính cung thủ được mượn một cây nỏ, còn tên, giáo, kiếm thì tự trang bị, lập sổ quản lý, thay nhau giao nhận, giao cho lệnh úy thường xuyên huấn luyện.”
Trước đây, chỉ ban chiếu cho chuyển vận ty Hà Bắc, Thái thường bác sĩ Trương Hi Nhan tâu rằng ở Phục Châu có lính cung thủ trang bị cung tên để bắt giặc, nhưng châu này lại dẫn luật tư trang bị áo giáp, khí giới để trị tội, đều bị đánh bằng gậy và lưu đày tại chỗ. Vua bèn lệnh ban hành khắp các đạo.
- Giỏi làm văn chương, chữ 'chương' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 244, truyện Ngụy Vương Đình Mỹ phụ Đức Văn truyện bổ sung. ↵
- Từng mắc bệnh sốt rét, chữ 'thiêm' nguyên bản viết là 'điên', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác sửa. ↵
- Giáng Khắc Kiệm làm Tri châu Ninh Châu, 'Ninh Châu' nguyên bản là 'Tôn Châu', theo bản khác sửa lại. Xét 'Tôn Châu' không rõ. ↵
- '20' nguyên bản là '2', căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và bản các sửa. ↵
- 'ngăn' nguyên bản là 'bẻ', căn cứ theo bản các và sách 'Quốc Lão Đàm Uyển' quyển 2 sửa. ↵
- 'lệnh' nguyên bản là 'phủ', căn cứ theo sách trên sửa. ↵
- Theo lệnh văn, Tông chính khanh một viên. Chữ 'chuẩn' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Chức quan phân kỷ》 quyển 18, điều Tông chính khanh bổ sung. Xét 《Tống hội yếu》 Lễ 39/6, 'chuẩn lệnh văn' lại viết là 'án lệnh văn'. Chữ 'văn' nguyên bản là 'đại', căn cứ vào bản các và sách trên sửa lại. ↵
- 'Lang trung trở xuống kiêm Thiếu khanh, Thừa lang trở lên kiêm Khanh'. Nguyên bản 'Lang trung trở xuống kiêm Thiếu khanh' viết là 'Lang trung trở xuống tịnh Thiếu khanh', căn cứ vào bản các sửa 'tịnh' thành 'kiêm'. Xét 《Tống hội yếu》 Chức quan 20/4 viết: 'Lang trung trở lên kiêm Thừa, Cấp xá trở xuống kiêm Thiếu khanh, Thừa lang trở lên kiêm Khanh.' 《Chức quan phân kỷ》 quyển 18, điều Tông chính khanh viết: 'Lang trung trở xuống kiêm Thừa, Cấp xá trở xuống kiêm Thiếu khanh, Thừa lang trở xuống kiêm Khanh.' Các sách ghi chép có chỗ khác nhau. Nghi ngờ bản này giữa 'Lang trung trở xuống' và 'Thiếu khanh' có chỗ thiếu. ↵
- 'Không nên để ông ta quản Tông chính'. Chữ 'chính' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 và 《Chức quan phân kỷ》 bổ sung. ↵
- Nếu giảm một nửa: Theo 《Tống hội yếu》 chức quan 17-5, câu này viết 'Chân Tông nhân mệnh sai giảm niên hạn', nghi ngờ rằng câu này trong bản gốc có thể viết là 'nếu giảm một nửa'. ↵
- 1.620 hộ mới: Bản Tống và bản Tống toát yếu đều ghi là '1.620'. 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa có ghi chép việc này, nhưng không nêu rõ số hộ và số tiền thuế. ↵
- Nguyên bản viết 'phiền quận', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 26, sửa thành 'phiền bộ'. ↵
- 'Nhung' nguyên bản là 'Giới', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại ↵
- 'Thị' nguyên bản là 'Sự', theo các bản và chính văn sửa lại ↵
- Tán kỵ thường thị Từ Huyền, nguyên bản chép là 'Thị lang', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 16 về việc Vương Khâm Nhược hiệu đính Đạo tạng kinh và 《Tống Sử》 quyển 441 bản truyện sửa lại. ↵
- Chiếu lấy các kinh Đạo tạng và Phật tạng có nội dung hủy báng lẫn nhau để xóa bỏ, nguyên bản chữ 'san' (xóa) trên có chữ 'giai' (đều), căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 dẫn trên mà xóa. ↵
- 《Lão Tử Hóa Hồ Kinh》, nguyên bản thiếu chữ 'Hồ', căn cứ theo sách trên và 《Quận Trai Chí Hậu Chí》 quyển 2 bổ sung. ↵
- Thái úy cùng Giám sát ngự sử, Giám lễ bác sĩ cùng mở xem 'cùng mở', bản các đều giống. Xét 《Tống hội yếu》 lễ 14-18 chép 'cùng xem', 《Thái thường nhân cách lễ》 quyển 11 chép 'cùng xem xét'. Nghi ngờ 'cùng mở' nên là 'cùng xem'. ↵
- Cất vào tủ 'tủ' nguyên bản chép 'cầu', theo bản các và 《Tống hội yếu》 14-18 sửa. Xét 《Thái thường nhân cách lễ》 quyển 16 chép: 'Tiếp thần trù xây nhà và làm tủ đựng đồ ăn, mỗi khi làm đồ tế lễ liền cất vào đó'. ↵
- Giám sát, 《Tống hội yếu》 trên chép 'Giám tế', nghi ngờ là đúng. ↵
- Lại làm tủ sơn trao cho Quang lộc tự và Ty nông tự 'sơn' nguyên bản chép 'thêm', theo bản các và 《Tống hội yếu》 lễ 14-19, 《Tống sử》 quyển 98 Lễ chí sửa. ↵
- Theo bản Tống và bản Tóm tắt của Tống, câu này có thêm câu 'Trang trạch tương đương với bộ Đồn điền'. ↵
- chữ 'cập' nguyên là 'kí', theo 《Tống hội yếu》 quyển 27, mục 14 và 《Tống đại chiếu lệnh tập》 quyển 166, chiếu 'Không cho phép tiến cử quan lại tự thú' sửa lại ↵
- Chữ 'nhi' trong 'ắt có lúc thiếu hụt' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Tục thông giám》 quyển 32 bổ sung. ↵
- Xin cách chức Nguyên đã, lấy Đô giám Đàm Châu là Lý Thủ Duệ thay thế: hai chữ 'Vọng', 'Đô' vốn thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phiên di 5/5, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 26 Phủ Thủy Man phản, 《Tống sử》 quyển 495 Man di truyền bổ sung. ↵