"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

[BETA] QUYỂN 92: NĂM THIÊN HI THỨ 2 (MẬU NGỌ, 1018)

Từ tháng 5 năm Thiên Hi thứ 2 đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 5, ngày Nhâm Tuất, mùng một, lệnh cho Thứ sử Truy Châu, Tri Đăng Châu là Phạm Thăng và Tỷ bộ Viên ngoại lang, Tri Truy Châu là Vương Mục đổi chức cho nhau. Lúc đó, Tri Thanh Châu là Lý Sĩ Hoành tâu rằng Đăng Châu vẫn bị hạn hán mất mùa, Thăng là võ quan, không quen việc trị dân nên có lệnh này. (Phạm Thăng có sách chép là Hoa Thăng, cần xét lại).

[2] Chiếu rằng: “Dân chăm chỉ cày cấy, nhà có dự trữ, là để phòng tai họa lưu hành. Nhưng tục đời suy, ít lo tích trữ, năm nào mất mùa, liền đến lưu vong, há chẳng phải do phương pháp giáo hóa chưa chu đáo sao? Nay lúa mạch sắp chín, lệnh cho các quan địa phương thân hành khuyên bảo, đừng để tái diễn như trước.”

[3] Hình bộ Viên ngoại lang, kiêm Thị ngự sử Tri tạp sự là Lữ Di Giản giữ nguyên chức, cùng coi việc ở Thông tiến Ngân đài ty, kiêm chức Môn hạ Phong bác sự. Độ chi Lang trung là Đỗ Mộng Trinh kiêm Thị ngự sử Tri tạp sự. Di Giản là người thân cận với Trung thừa là Triệu An Nhân, nên tránh hiềm nghi.

[4] Ngày Quý Hợi, chiếu cho xây chính điện của Tường Nguyên Quán trước, phần còn lại đợi sang năm sẽ tu sửa.

[5] Ngày Giáp Tý, Tiết độ sứ các quân Thành Đức, Trấn Ninh, Thái úy, Thượng thư lệnh kiêm Trung thư lệnh Từ vương Nguyên Ốc mất[1].

Trước đó, trong cung điện xảy ra hỏa hoạn thiêu cháy mấy khu nhà, Nguyên Ốc kinh hãi, đột nhiên trúng phong hôn mê không nói được. Vua lo lắng, nhiều lần thân hành đến thăm. Đến lúc này, Vua đến viếng khóc thương, truy tặng Thái sư, Thượng thư lệnh, truy phong Đặng vương[2], thụy là Cung Ý. Ngày an táng, Vua làm thơ viếng. Nguyên Ốc tướng mạo khôi ngô, tính tình khoan hậu ít nói, thích làm việc thiện, giỏi nhiều nghề, biết âm luật. Sau khi mất, Vua sai lấy các bài thơ, văn trong đời biên soạn thành 6 quyển và bút tích 3 quyển, tự làm hai bài tựa, cất giữ ở Bí các.

[6] Ngày Đinh Mão, sai Tể tướng Vương Khâm Nhược quản lý việc tu sửa chùa Tường Nguyên.

[7] Hữu Chánh ngôn Lưu Diệp tâu: “Đời trước truyền nhau về nước thánh đều là chuyện hư vọng không đáng tin. Nay đang giữa mùa hè nắng nóng, không nên khởi công xây dựng để làm việc không gấp.” Tấu chương dâng lên, không được trả lời. Lại từng kiến nghị bãi chức quan Đề điểm hình ngục, cấm dân bỏ cha mẹ để theo Phật, Lão, đều không được thi hành.

[8] Chuyển vận sứ lộ Quỳ Châu tâu rằng người Man châu Thuận là Điền Ngạn Yến[3] cùng những người khác mang theo tờ trình của Bành Nho Mãnh, kêu khóc xin quy thuận. Bèn hạ chiếu tha tội cho Nho Mãnh, lại cất nhắc sử dụng. Lệnh cho các tộc người Man ở Cao Châu và các nơi khác đem chiếu này đi tuyên dụ, nếu dẫn người đến hàng, muốn cấp ruộng để cày cấy, hoặc trở về động Khê, đều tùy ý. Người đi tuyên dụ cũng được thưởng thăng cấp.

[9] Ngày Nhâm Thân, quảng đức quân tâu rằng: “Trong địa phận có miếu Từ Sơn, trước đây dân chúng cúng 200 con trâu, đều cho dân mượn, mỗi năm một con trâu nộp một tấm lụa, có khi trâu đã chết 30 năm mà vẫn phải nộp lụa. Mong rằng những trường hợp đã quá 15 năm thì xin miễn hết.” Chiếu chuẩn y.

[10] Ngày Giáp Tuất, lấy Kinh Hồ Bắc lộ đề điểm hình ngục, quyền chuyển vận sứ sự, đồn điền viên ngoại lang Giang Tự Tông làm đô quan viên ngoại lang; Thần châu đô tuần kiểm, cung bị khố phó sứ Lý Thủ Nguyên làm Tây kinh tác phường phó sứ; nội điện sùng ban, các môn chi hậu, tri Thần châu Tiền Cương làm nội điện thừa chế; nhập nội tây đầu cung phụng quan Giang Đức Nguyên làm nội điện sùng ban; tả thị cấm, các môn chi hậu Lưu Vĩnh Sùng làm đông đầu cung phụng quan; hữu thị cấm, các môn chi hậu, tri Lễ châu Sử Phương làm tây đầu cung phụng quan; Thần, Lễ, Đỉnh châu đô tuần kiểm sứ, hữu ban điện trực, các môn chi hậu Khang Bát Nguyên làm hữu thị cấm, vì có công đánh dẹp người Khê Man. Các sứ thần, tướng hiệu đều được thăng bổ theo thứ bậc khác nhau. Triệu Đức Nguyên, Bát Nguyên về kinh. Lấy Thủ Nguyên làm Thần, Lễ, Đỉnh châu đô tuần kiểm sứ; Cương làm tri Phượng châu; Vĩnh Sùng làm tri Thi châu; Phương làm tri Thần châu. (Khang Bát Nguyên, chưa thấy).

[11] Thái thường bác sĩ Trương Cập tâu, xin tạm ngừng việc làm sổ sách năm nhuận ở các châu quân bị thiên tai, đợi đến năm nhuận sau lại làm như cũ, theo lời tâu.

[12] Ngày Bính Tý, Phú châu thứ sử Hướng Thông Hán dẫn 92 người bộ thuộc đến chầu, dâng ngựa quý, đan sa, kiếm bạc[4], mũ trụ, bảng màu, v.v., chiếu ban cho áo mặc, đai vàng, ngựa có yên cương, cùng con là Quang Trạch trở xuống đều được ban quần áo, đồ dùng, tiền bạc theo thứ bậc. Thông Hán xin được vào chầu thường xuyên, chiếu cho 5 ngày vào chầu một lần.

[13] Ngày Kỷ Mão, Ngự sử trung thừa, Thượng thư hữu thừa, kiêm Tông chính khanh, tặng Lại bộ thượng thư, thụy Văn Định Triệu An Nhân mất.

[14] Ngày Canh Thìn, Kinh Đông chuyển vận sứ xin thêm quân để phòng hộ miếu Văn Tuyên Vương ở huyện Tiên Nguyên, châu Duyễn, được chấp thuận.

[15] Ngày Bính Tuất, Tiết độ sứ Hà Dương Tam Thành là Trương Mân tâu: “Gần đây nghe tin đồn ở Tây Kinh, có vật giống như mũ, ban đêm bay vào nhà dân, lại biến thành hình dạng chó sói lớn, hơi có thể làm hại người. Dân chúng rất hoảng sợ, mỗi đêm đều đóng cửa chặt, thậm chí cầm vũ khí để đuổi bắt.” Triều đình sai sứ đi xem xét, lại lệnh cho Thị ngự sử Lã Ngôn đi nhanh đến xét việc các quan trưởng lại ở phủ đó cùng Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty không kịp thời báo lên. Vẫn thiết lễ tế cầu đảo.

(Lã Ngôn là cha của Tạo Phụ, ông nội của Hạ Khanh.)

[16] Ngày Đinh Hợi, vì trời nóng nực, ban cho các quan phụ thần vải hoa và vải trắng, mỗi người 10 tấm[5].

[17] Hàn lâm học sĩ Lý Duy bị cách chức, giáng làm Hộ bộ Thị lang, Tập hiền viện học sĩ. Ban đầu, ba anh trai của Duy đều mất năm 58 tuổi, đến lúc này Duy cũng bị bệnh, nên cố từ chối chức vụ gần Vua. Khi bệnh Duy đỡ hơn, được lệnh làm Tri châu Hứa. Tập hiền viện học sĩ ra làm quan ở phiên trấn, bắt đầu từ Duy.

(Theo 《Xuân Minh Thoái Triều Lục》.)

[18] Tháng 6, ngày Nhâm Thìn, mùng một, xuống chiếu cho các sứ thần Tam ban đã qua kỳ cải quan ở Phần Âm được 7 năm, đều cho phép khảo khóa để thăng chức[6].

[19] Cấm dân Thiểm Tây bán sơn mài sang địa giới phía Bắc.

[20] Ngày Ất Mùi, lấy Tuyên huy Bắc viện sứ, Đồng tri Xu mật viện sự Tào Lợi Dụng làm Tri viện sự.

[21] Xuống chiếu khen ngợi Đô giám Chu Văn Chất ở Kinh Nguyên, vì đã hoàn thành việc xây thành Nam Sứ và đào hào dọc theo núi, lại ban tên là Tĩnh Biên Trấn.

[22] Ngày Đinh Dậu, lấy Thái thường bác sĩ, Đề điểm Khai Phong phủ giới công sự Tề Cách làm Giám thuế châu An. Cách tự ý ra lệnh cho huyện Uý Thị phá bỏ nhà dân trong phường thị, gây xáo trộn trong mùa nóng, nên bị khiển trách.

[23] Ngày Kỷ Hợi, xuống chiếu cho các chức Văn học, Tham quân, Trưởng lại, Biệt giá ở các châu bị giáng chức đã 10 năm, được phép trở về quê hương.

[24] Ngày Nhâm Dần, Thứ sử Phú Châu là Hướng Thông Hán dâng bản đồ đất Ngũ Khê[7] lên triều đình, xin được ở lại kinh sư. Vua khen ngợi ý tốt của ông, ngày Giáp Thìn, phong cho Thông Hán làm Phòng ngự sứ bản châu, trả lại đất đai, và bổ nhiệm chức danh Tam ban cho cháu của ông là Quang Trạch[8]. Thông Hán lại dâng biểu xin ở lại kinh sư, nhưng không được chấp thuận, bèn xin cho Quang Trạch được làm Giám đương ở nội địa, cùng với việc xin cấp áo lông hằng năm, và mong sứ giả đến nhậm chức. Tất cả đều được chấp thuận.

Thông Hán vốn là người Thanh Châu, từ thời Đường Hy Tông bị kẹt lại ở vùng Khê Động, vì mẹ bệnh nên không ăn thịt[9], đến nay đã ba mươi năm, ngôn ngữ vẫn không khác gì người Trung Hoa.

[25] Ngày Ất Tỵ, Nhập nội cung phụng quan Triệu Dụng Hòa tâu: “Mỗi khi Thái miếu có tế lễ, các quan hành sự đều vào miếu một ngày trước để trai giới. Xin từ nay trở đi, vào các ngày sóc vọng hàng tháng, lệnh Cung vi lệnh trai giới một ngày trước.” Vua đồng ý.

[26] Đêm đó, dân kinh sư đồn rằng yêu quái đội mũ từ Tây Kinh đến, vào nhà dân ăn thịt người, tin đồn lan truyền gây hoảng sợ, dân chúng tụ tập ngồi vòng quanh, suốt đêm la hét, đặc biệt là trong các doanh trại quân đội. Vua lo ngại có kẻ lợi dụng làm việc gian, hạ chiếu lập thưởng, kêu gọi người tố giác kẻ làm yêu quái. Sau đó bắt được tăng Thiên Thưởng, thuật sĩ Cảnh Khái, Trương Cương[10], lệnh cho Khởi cư xá nhân Lữ Di Giản và Nhập nội áp ban Chu Hoài Chính tra xét, kết tội từng làm phép tà, đều xử tử, những người liên quan bị lưu đày. Tuy nhiên, tin đồn thực ra không có bằng chứng. Lúc này, từ kinh sư trở về phía nam, dân chúng đều đóng cửa chặt, ẩn náu sâu trong nhà. Tri ứng thiên phủ Vương Tăng ra lệnh mở cửa làng ban đêm, ai dám phát ngôn đồn đại sẽ bị bắt, yêu quái cũng không xuất hiện.

[27] Ngày Tân Hợi, có sao chổi xuất hiện ở phía đông bắc ngôi sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu, dài khoảng ba thước, di chuyển về hướng bắc, đi qua Thiên Lao, lướt qua Văn Xương, dài hơn ba trượng, đi qua Tử Vi, Tam Thai, Hiên Viên, nhanh chóng di chuyển về phía tây, đến chòm Thất Tinh, tổng cộng 37 ngày thì biến mất.

[28] Ngày Kỷ Mùi, gia phong hiệu Chân Vũ tướng quân là Chân Vũ Linh Ứng Chân Quân.

[29] Quan Tri Tần châu Lý Cập tâu rằng nhận được tờ trình của tộc trưởng quân chủ chín bộ tộc Hồi Cốt là Nạp Đan, xin cho Tào Vĩ được tạm thời trở về kinh, mong được lệnh cho ông tiếp tục tại chức. Chiếu khen ngợi Tào Vĩ và đồng ý theo lời thỉnh cầu.

[30] Trước đây, cha của Hoàng hậu là Thông từng nắm quân cấm vệ, theo Phan Mỹ đánh Quảng Nam, lại nhiều lần chiến đấu ở phía bắc, tích công đến chức Hổ Tiệp đô chỉ huy sứ, kiêm Thứ sử Gia châu. Năm Thái Bình Hưng Quốc, hộ giá đến Thái Nguyên, mất tại quân ngũ, tạm an táng ở phía tây kinh thành, được truy tặng chức Vĩnh Hưng tiết độ sứ, kiêm Trung thư lệnh. Mẹ là Bàng thị, được tặng Từ quốc thái phu nhân. Tháng này, bắt đầu an táng Thông và Bàng thị, chiếu truy tặng Thông là Thái sư, Thượng thư lệnh, thụy Vũ Ý, lệnh cho Thăng vương phủ Tư nghị tham quân Trương Sĩ Tốn chuẩn bị nghi lễ hộ tống an táng ở Đặng Công Nguyên, huyện Tường Phù. Hoàng hậu thân hành đến làm lễ tế, Vua ngự chế bài văn tế đặt bên phải linh tọa.

[31] Tháng 7 mùa thu, ngày Đinh Mão, Tam ty mượn 50 vạn quan tiền trong kho nội phủ.

[32] Ngày Tân Mùi, điều Tri Trần châu Phùng Chửng làm Tri Hà Nam phủ, kiêm Tây Kinh lưu thủ ty sự, thay thế Vương Tự Tông. Lấy Tự Tông làm Tri Thiểm châu. Lúc đó, yêu quái đội mũ xuất hiện từ Tây Kinh, Tự Tông không thể kiểm soát được.

[33] Ngày Nhâm Thân, vì thiên văn có điềm báo biến động, tha tội cho thiên hạ từ tội lưu đày trở xuống, tội chết giảm một bậc. Những tội như thập ác dẫn đến chết, giết người cố ý, cướp giết, mưu sát, quan lại tham nhũng phạm pháp đến mức chết, tạo yêu thuật mê hoặc quần chúng, xử theo luật. Những quan bị giáng chức và quản thúc trên 10 năm được tha về. Các quan kinh triều đang để tang cha mẹ mà đã di chuyển chức vụ 7 năm chưa được thăng chức, phải báo lên.

[34] Chiếu rằng: “Từ nay, những người ứng cử ở các sảnh, các quan trưởng tại địa phương trước tiên phải khảo hạch tài nghệ, nếu đạt thì mới được cho đi thi. Nếu đến Lễ bộ mà không đạt, sẽ bị đình chỉ chức vụ hiện tại, các quan khảo thí trước sau và quan trưởng cử tiến đều bị xử phạt nặng.”

[35] Ngày Giáp Tuất, lấy Xu mật trực học sĩ, Hình bộ Thị lang Lý Sĩ Hoành làm Tam ty sứ, thay cho Mã Nguyên Phương. Sĩ Hoành vì bệnh chân dâng biểu xin được tạ ơn tại cửa, được chấp thuận. Vua làm bài luận “Khoan tài lợi” ban cho Sĩ Hoành, lại xuất 200 vạn quan tiền trong kho nội phủ để giúp kinh phí. Sĩ Hoành nhân đó xin khắc bài luận của Vua tại sảnh đường của mình, được đồng ý.

Sĩ Hoành đang được trọng dụng, Vương Khâm Nhược ghen ghét, muốn nói xấu nhưng chưa có cơ hội. Nhân lúc Vua bàn về tệ nạn của văn chương đương thời, Khâm Nhược bèn nói: “Lộ Chấn là người giỏi văn chương, nhưng không biết thể thống.” Vua hỏi: “Sao vậy?” Khâm Nhược đáp: “Cha của Sĩ Hoành bị xử tử, mà Chấn lại viết cáo phó rằng ‘đời có người hiển đạt’.” Vua gật đầu, Sĩ Hoành vì thế không được trọng dụng nữa.

(Việc Khâm Nhược chèn ép Sĩ Hoành, theo ghi chép của Tô Thức. Lộ Chấn mất vào tháng 10 năm Tường Phù thứ 7, tháng 9 năm ngoái Lý Đối nói ở cửa Đông Nội…[11], có thể tham khảo.)

[36] Ngày Bính Tý, nạo vét cửa sông Biện.

[37] Ngày Kỷ Mão, xuống chiếu: “Từ nay các châu giản lược việc làm sổ sách. Quân sĩ mỗi năm làm một lần, doanh trại nửa năm làm một lần, số ngựa của viên chức và trạm ngựa mỗi quý làm một lần.” Lúc đó có người dâng thư nói việc này rườm rà, tốn giấy mực, thậm chí dẫn đến việc thu gom bừa bãi.

[38] Ngày Quý Mùi, Hữu chánh ngôn Lưu Diệp tâu: “Gần đây có chiếu bắt kẻ tà đạo[12], cho phép tố cáo để được thưởng. Cũng lo người tố cáo vì tham thưởng lớn mà vu cáo dân lành. Khi tra hỏi, xin hãy xem xét kỹ.” Vua nói: “Trước đây đã ra lệnh bắt kẻ tạo yêu đạo, và Lữ Di Giản khi tra xét cũng nhiều lần nhắc nhở phải xem xét kỹ, không để oan sai, quả nhiên có nhiều điều không đúng.” Liền xuống chiếu rằng những người phạm tội trước ngày hôm nay đều không truy cứu nữa.

[39] Ngày Đinh Hợi, đến yết kiến ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, thăm tháp Linh Cảm ở chùa Khai Bảo.

[40] Tối hôm đó, sao chổi biến mất, các quan phụ tá dâng biểu chúc mừng.

[41] Tháng 8, ngày Canh Dần mùng một, Vua đến yết kiến ở cung Cảnh Linh, rồi đến cung Thượng Thanh, đạo quán Tường Nguyên và đạo quán Hội Linh.

[42] Ngày Tân Mão, miễn thuế đò khô ở cửa sông Nguyên Hà thuộc châu Thanh.

[43] Phó sứ Tam Lăng là Hác Chiêu Tín cùng các quan khác xin dựng doanh trại ở huyện Vĩnh An, dời hai chỉ huy quân sĩ đến đó để lấy lương, Vua đồng ý.

[44] Ngày Ất Mùi, quan Phán Tam Ty Đô Thôi Khiếm Bằng Do Ty, Tả Chính Ngôn, Hiệu Lý Tập Hiền là Tống Thụ tâu: “Ty này đã nhiều lần được ân xá tha nợ, sai quan xét định, trong đó có những việc chưa hoàn tất, tổng cộng 68 châu quân, 6.730.000 quan tiền, thạch, cân, lạng, liên quan đến hơn 3.200 người, đến nay vẫn chưa báo cáo đầy đủ. Xin cho Chuyển Vận Ty chọn quan cùng với trưởng lại, quan Thôi Khiếm xét kỹ, nếu hợp lệ thì xin miễn, hạn trong nửa tháng tâu lên.” Vua đồng ý, nhờ đó tất cả đều được miễn.

(Việc được miễn nợ, theo bản truyện của Tống Thụ.)

[45] Ngày Bính Thân, Vua tiếp các quan phụ tá ở Long Đồ các.

[46] Ngày Đinh Dậu, quần thần dâng biểu xin lập Hoàng thái tử, Vua không chấp thuận. Dâng biểu ba lần, Vua mới đồng ý.

[47] Trước đó, Tri châu Ngô Châu, Vệ úy tự thừa Trần Chấp Trung dâng lên ba thiên 《Phục cổ yếu đạo》, Vua lấy làm lạ bèn triệu vào. Lúc này Vua đã mang bệnh, tuổi đã cao, các đại thần không ai dám nói đến việc lập Thái tử. Chấp Trung đến nơi, dâng lên ba thiên 《Diễn yếu》, bàn về việc sớm định nền tảng thiên hạ.

Hôm sau, Vua đem tờ sớ khác cho các phụ thần xem, đều khen rằng: “Hay.” Vua chỉ vào trong tay áo nói: “Còn có cái hay hơn thế này.” Rồi lấy ra, chính là 《Diễn yếu》. Nhân đó triệu vào điện tiện đối đáp, Vua hỏi han rất lâu, sau đó thăng làm Hữu chính ngôn. Chấp Trung là con của Trần Thứ.

(Theo 《Thực lục》, Chấp Trung được gặp ở điện Sùng Chính, ngày Giáp Dần, sau khi lập Thái tử mười ngày. Còn theo bản truyện thì Chấp Trung được gặp hơn một tháng mới lập Thái tử, không rõ cái nào đúng. Xét theo lý, bản truyện có lẽ đúng hơn, vì các quần thần nhờ lời Chấp Trung mới bàn việc lập Thái tử. Việc gặp ở điện Sùng Chính, e không phải lần đầu đối đáp. Nay theo bản truyện. Phụ truyện của Chấp Trung và chính truyện chép về 《Diễn yếu》 cũng có chỗ khác nhau, nay theo chính truyện. Nghi rằng chính truyện khảo cứu tường tận hơn.)

[48] Ngày Tân Sửu, xuống chiếu cho Lưu nội tuyển, những người được tuyển chọn có nhiều lần phạm tội bị cách chức mà dâng văn xin thi lại, không được tiến cử vào trong.

[49] Ngày Nhâm Dần, Quyền đô tuần kiểm trong thành mới là Chu Nhân Mỹ tâu: “Quân sĩ tuần kiểm các địa phận bắt trốn chạy, trộm cướp, nếu không bắt được đều bị phạt, mà bắt được thì không được thưởng. Nay xin bắt được một người lính trốn, thưởng hai trăm tiền; bắt được một tên giặc, thưởng năm trăm tiền.” Vua nghe theo.

(Nhân Mỹ là người Thâm Châu.)

[50] Thần, Lễ, Đỉnh châu Đô tuần kiểm sứ Trương Luân tâu: “Hạ Khê châu Thứ sử Bành Nho Mãnh nộp lại những nhân khẩu, khí giáp bị bắt trước đây, xin tiếp tục triều cống như cũ.” Chiếu ban cho Nho Mãnh áo gấm, đai bạc, lệnh Thần châu Thông phán Lưu Trung Tượng[13] mang chiếu đến Minh Than, cùng uống máu ăn thề, rồi cho về.

[51] Ngày Quý Mão, chiếu rằng năm trước đã ban yến tiệc nhân dịp dâng tôn hiệu và sách bảo, nay mùa thu được mùa, có thể tổ chức lại.

[52] Ngày Giáp Thìn, lập Thăng vương Thụ Ích làm Hoàng thái tử, đổi tên là Trinh. Đại xá thiên hạ, chỉ trừ tội Thập ác, cướp giết, mưu giết, cố ý giết, đánh nhau giết, trộm cắp của công, làm giả ấn tín, quan lại phạm tội tham nhũng, xử theo luật. Tông thất đều được gia ân. Con trai của các quan văn võ thường tham triều chính, đang giữ chức quan, được cha truyền lại, thì ban thưởng một bậc huân.

[53] Ngày Ất Tỵ, lấy Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh làm Lễ nghi sứ lập Hoàng thái tử, sai Bí thư giám Dương Ức soạn văn sách lập Hoàng thái tử, Tri chế cáo Thịnh Độ viết sách, Trần Nghiêu Tư viết bảo.

[54] Ngày Đinh Mùi, trong cung đưa ra 《Tứ thời nhiếp sinh luận》 của Trịnh Cảnh Tụ và một quyển phương thuật do Trần Nghiêu Tẩu tập hợp, cho các đại thần xem. Vua viết lời tựa, sai khắc bản in, giao cho Cáp môn, ban cho các quan lại nhậm chức ở Quảng Nam, và phân phát cho các đạo, châu, quân.

[55] Ngày Mậu Thân, Lê châu Sơn hậu Lưỡng Lâm Bách Man Đô vương Lý A Thiện sai tướng quân Ty Thục cùng 150 người đến triều cống.

[56] Ngày Kỷ Dậu, miễn thuế muối khô cho dân phiêu tán ở Dĩnh châu và Bộc châu.

[57] Ngày Canh Tuất, lấy Hữu Gián nghị đại phu, Tri Khai Phong phủ Nhạc Hoàng Mục làm Cấp sự trung, kiêm Thái tử Tả thứ tử; Thăng vương phủ Tư nghị tham quân[14], Lại bộ Lang trung, Trực Chiêu văn quán Trương Sĩ Tốn làm Hữu Gián nghị đại phu, kiêm Hữu thứ tử; Lễ bộ Lang trung, Trực Sử quán Thôi Tuân Độ làm Lại bộ Lang trung, Trực Sử quán, kiêm Tả Dụ đức; Ký thất tham quân, Tả Chánh ngôn, Trực Sử quán Yến Thù kiêm Xá nhân, ban thưởng kim tử; Hữu Chánh ngôn Lỗ Tông Đạo làm Hộ bộ Viên ngoại lang, kiêm Hữu Dụ đức, ban thưởng phi ngư; Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung Tư Thiện đường Đô giám, Tả Tàng khố sứ, Trưởng châu Thứ sử, Nhập nội Áp ban Chu Hoài Chính làm Tả Kỳ Kỵ sứ, Nhập nội Phó đô tri, kiêm Quản cú Tả Hữu Xuân phường sự.

[58] Ngày Nhâm Tý, phong Bành vương Nguyên Nghiễm thêm chức Thái phó, làm Vĩnh Thanh, Hoành Hải tiết độ sứ[15], tiến phong làm Thông vương.

[59] Lấy Tham tri chính sự Lý Địch kiêm Thái tử Tân khách. Ban đầu, Vua muốn phong Địch làm Thái tử Thái phó, nhưng Địch từ chối, nói rằng thời Thái Tông chưa từng lập chức Bảo phó, nên chỉ kiêm Tân khách, và ra chiếu cho Hoàng thái tử đối xử với Tân khách như Sư phó. Có người tên là Trương Địch làm Điện thị, Xuân phường Chi hậu, Thái tử không muốn tên ông trùng với Tân khách, nên đổi tên thành Khắc Nhất. Địch tâu việc này lên, Vua vui mừng, bèn báo cho các phụ thần.

[60] Lấy Hạ châu Đoàn luyện sứ Tiền Duy Hạo làm Tri Hòa châu. Duy Hạo dâng biểu tạ ơn, tự trình bày rằng Hòa châu cách kinh đô quá xa, nên được đổi làm Tri Liên Thủy quân. Duy Hạo là con của Tiền Thục.

[61] Chiếu rằng các quan Trung thư Môn hạ từ ngũ phẩm trở lên, Thượng thư tỉnh và Ngự sử đài từ tứ phẩm trở lên, các ty từ tam phẩm trở lên, khi gặp Hoàng thái tử đều phải đáp lễ, còn lại thì chỉ nhận lễ.

[62] Ngày Quý Sửu, Vua làm bài 《Nguyên Lương Châm》 ban cho Hoàng thái tử, lại làm thơ ban cho các quan khách trở xuống.

[63] Ngày Giáp Dần, Sở vương Nguyên Tá được thêm chức Hưng Nguyên Mục, chức Ung Châu Mục vẫn giữ như cũ. Việc kiêm nhiệm hai chức mục ở châu và phủ bắt đầu từ Nguyên Tá. Từ Quốc Trưởng Công chúa được tiến phong làm Phúc Quốc, Bân Quốc Trưởng Công chúa được tiến phong làm Kiến Quốc, Túc Quốc Trưởng Công chúa được tiến phong làm Ngạc Quốc.

[64] Ngày Ất Mão, Cấp sự trung kiêm Thái tử Tả thứ tử Nhạc Hoàng Mục bị giáng làm Tả Gián nghị đại phu, nhận chức Tri Kinh Nam phủ. Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Hội Châu thứ sử, Nhập nội Phó đô tri Trương Kế Năng bị giáng làm Tây Kinh Tác phường sứ, bãi chức cấm đình, làm Kiềm hạt ở Bân Ninh Hoàn Khánh lộ. Phán quan Khai Phong phủ, Ngu bộ Viên ngoại lang Lý Trực Phương bị giám sát thuế ở Liên Thủy quân. Suy quan, Giám sát Ngự sử Trương Cập bị giám sát thuế ở Cao Bưu quân.

Trước đây, Kế Năng phụ trách việc qua lại quốc thư, có lại thuộc Quốc tín ty là Trần Thành, rất xảo quyệt, Kế Năng muốn đưa vào Quần mục ty, nhưng Thành trước đã thuộc Quần mục ty, vì phạm tội nên bị đình chỉ chức vụ.

Đến lúc này, lại thuộc Quần mục ty là Tả Tông tố cáo việc Thành còn nợ cũ, báo lên Chế trí sứ Tào Lợi Dụng, nên Thành không đạt được yêu cầu. Kế Năng tức giận vì Tông ngăn cản mình, bí mật sai thân sự theo dõi Tông. Gặp lúc em trai Tông là Nguyên mất vợ, Tông từng mượn ngựa của Hiệu úy Giáo Tuấn quân để đưa tang, khi về, Nguyên vào quán rượu đánh nhau với chủ quán, bị bắt giam ở phủ, còn việc mượn ngựa chưa bị phát giác. Thành liền báo với Kế Năng, xin thuộc phủ xét xử luôn[16].

Hoàng Mục lúc đó làm Tri phủ, nhận lệnh của Kế Năng, vụ án chưa xong, bị Phó sứ Quần mục ty Dương Sùng Huân phát giác, nên Hoàng Mục và những người khác đều bị giáng chức. Kế Năng tự xin không muốn ra ngoài nhậm chức, được giữ chức Chưởng Thụy Thánh viên.

[65] Tháng 9, ngày Canh Thân, Điện trung thừa Sử Oánh tâu: “Theo chiếu chỉ đến địa phận Trịnh Châu để đo đạc dẫn nước sông Quyến Sách vào sông Kim Thủy, hiện chỉ có 7.000 lính phục dịch. Xin điều động dân phu Trịnh Châu, có thể hoàn thành trong một tháng.” Chiếu chỉ cấp 10.000 quân sĩ, không được quấy nhiễu dân, lại lệnh Hữu lĩnh quân vệ Đại tướng quân, Ngô Châu Đoàn luyện sứ Ngụy Vinh làm Đô đại bộ thự, Ngự tiền Trung tá Mã quân Phó đô quân đầu Trương Vinh làm phó.

[66] Ngày Tân Dậu, chiếu chỉ cấp cho Hoàng thái tử mỗi tháng 2.000 quan tiền.

[67] Lễ nghi viện tâu: “Năm Chí Đạo có chiếu chỉ bách quan đối với Hoàng thái tử xưng tên, cung liêu xưng thần. Sau đó theo chiếu chỉ, theo lời thỉnh cầu của Hoàng thái tử, cung liêu chỉ xưng tên.” Chiếu chỉ theo chế độ năm Chí Đạo.

[68] Tri châu Kỳ Châu, Cung bị khố Phó sứ Cao Chí Ninh xin vào triều bàn việc biên giới, được chấp thuận. Ngày Nhâm Tuất, được đối đáp ở điện Thừa Minh.

(Theo 《Hàn Kỳ mộ chí》, Chí Ninh từ Kỳ Châu xin vào chầu, khi đối đáp, tâu mật rằng đức nghiệp của bệ hạ ngày càng mới mẻ, nên sớm lập Đông cung. Chân Tông tỉnh ngộ, ban thưởng 50 lạng vàng, cho về trị sở. Lại chiếu cho Chí Ninh, phàm việc tâu báo, cho phép thông qua Nội thị tỉnh, không qua Ngân đài ty. Xét ngày Chí Ninh đối đáp ở Thừa Minh thì Đông cung đã lập rồi, nay không chép.)

[69] Ngày Giáp Tý, Hữu gián nghị đại phu kiêm Thái tử Tả thứ tử Trương Sĩ Tốn tâu: “Thần mỗi ngày đến Tư Thiện đường tham kiến Hoàng thái tử, vẫn phải bước lên thềm lạy rồi mới quỳ nhận chỉ. Xin cho ngồi nhận tham kiến.” Không được chấp thuận.

[70] Ngày Ất Sửu, Vua nước Chiêm Thành là Thi Hắc Bài Ma Điệp[17] sai sứ là La Bì Đế Gia đem phương vật đến cống. La Bì Đế Gia nói rằng người nước họ đến Quảng Châu, có khi thuyền bị gió dạt đến Thạch Đường, thì phải mất nhiều năm mới tới được. Năm sau, sứ giả trở về, ban cho Vua nước ấy 4.700 lạng bạc, cùng vũ khí, yên ngựa (theo 《Hội yếu》 là 47.000 lạng, nay theo bản truyện).

[71] Quan Đoàn luyện sứ Thái Châu là Đức Ung xin Hoàng thái tử nhận lễ bái, Vua không cho.

[72] Ngày Đinh Mão, Vua ngự ở điện Thiên An, làm lễ sách phong Hoàng thái tử.

[73] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu rằng theo chế độ cũ, khi ban thưởng vật phẩm cho các quân, những người đóng quân ở ngoài được giảm một nửa, nay cho phép ban thưởng toàn bộ.

[74] Lưu nội tuyển tâu rằng từ nay khi bổ nhiệm các chức Quân, Giám phán quan, xin không kiêm chức Thông phán, và những người thường theo hầu không được cấp quân sĩ, Vua đồng ý.

[75] Ngày Tân Mùi, lệnh cho phủ Hà Nam tu sửa đạo quán Dương Đài ở núi Vương Ốc, cấp ruộng công làm của thường trú. Lúc đó, nữ đạo sĩ Vương Đạo Chân trụ trì ở đạo quán này, tìm được ngọc bích trong núi, nên xin tu sửa thêm.

[76] Ngày Nhâm Thân, Hoàng thái tử đến yết kiến ở cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng và cung Cảnh Linh.

[77] Ngày Quý Dậu, đến yết kiến ở Thái Miếu.

[78] Long Đồ các Đãi chế Lý Hư Kỉ dâng lên tập 《Minh Lương Tập》 500 quyển, biên soạn theo chiếu chỉ, gồm các bài thơ ngự chế và thơ họa của quần thần, được ban thưởng bạc lụa.

[79] Tam Ty mượn 10 vạn lạng bạc từ kho Nội tạng.

[80] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu rằng các sứ thần Tam Ban phụ trách vận chuyển hàng hóa từ Ích Châu đến Kinh Nam mà không có thiếu sót, từ nay mỗi lần vận chuyển được thưởng 50.000 tiền, các tướng lớn của Ty Quân được thưởng 10.000 tiền.

[81] Ngày Mậu Dần, Giám sát Ngự sử Lưu Bình xin được đối đáp ở điện Thừa Minh.

[82] Ngày Canh Thìn, Vua ngự ở cửa Chính Dương xem lễ bộ, từ đó kéo dài năm ngày. Vua làm bài thơ 《Giá Sắc Bội Đăng》 và hai bài luận 《Khi Khí Giới Tửu》 để ban cho các phụ thần.

[83] Xuống chiếu rằng các cơ quan trong kinh thành khi tổ chức lễ tế thần đất[18], không được dùng ngày 7 tháng 10, vì đó là ngày sinh của Thái Tông.

[84] Hà Trung phủ và Đồng Diệu châu dân đói khổ, nhiều người lưu vong, triều đình sai Độ chi phán quan, Thị ngự sử Chu Thực đi trạm đến thăm hỏi và an ủi họ.

[85] Ngày Nhâm Ngọ, mây lành xuất hiện trên lầu cửa Chính Dương.

[86] Hữu chánh ngôn Lưu Diệp tâu: “Năm nay kỳ thi thu, các gia đình hưởng bổng lộc đóng cửa phủ để ứng thí rất nhiều. Xin ban dụ trong ngoài, từ nay con cháu, em cháu của các gia đình hưởng bổng lộc, nếu văn nghệ đủ trình độ thi cử, thì không được dựa vào ân tứ; người đã có chức quan thì không được tranh giành với người nghèo hèn.” Chiếu không chấp thuận, chỉ lệnh các châu khảo xét kỹ càng.

[87] Ngày Giáp Thân, Khởi cư xá nhân Lữ Di Giản làm sứ sinh thần của quốc chủ Khiết Đan, Cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Tào Tông làm phó. Công bộ lang trung, Trực sử quán Trần Nghiêu Tá làm sứ chánh đán, Thị cấm, Cáp môn chi hậu Trương Quân Bình làm phó. Tông là con út của Tào Bân. Quân Bình là người Phũ Dương.

[88] Quân Bình quản lý cửa sông Biện, từng kiến nghị mỗi năm mở cửa sông Biện nên chọn địa điểm cẩn thận, thì nước chảy xiết mà không đọng cát, mỗi năm có thể tiết kiệm hơn trăm vạn công sức nạo vét. Chiếu dùng kế sách đó. Tuy việc không làm hàng năm, nhưng sau đó dần có nạn bồi lấp. Lại xin các quan huyện dọc sông, sứ thần trồng được hơn vạn cây du liễu, thì ghi vào sổ làm thành tích; người chết đuối ở sông Biện không có tên tuổi, thì lệnh nơi đó thu nhặt chôn cất. Đều được thi hành.

(Việc trồng du liễu ghi sổ làm thành tích, 《Hội yếu》 chép vào tháng 3 năm Thiên Hi nguyên niên, nay theo bản truyện, chép chung vào đây.)

[89] Tường Nguyên Quan hoàn thành, gồm 613 gian. Lấy Giám tu nội thần, Nội nhiễm viện sứ Đặng Thủ Ân làm Sùng nghi sứ.

[90] Tháng này, Kinh Đông lộ, Nhiêu châu, Thiều châu, Ba châu, Xương châu, Kinh Môn quân, Bảo An quân đều báo mùa màng bội thu.

[91] Tháng 10 mùa đông, ngày Nhâm Thìn, chiếu từ nay sai sứ đi kiểm tra hộ chạy trốn, thiên tai, lệnh Tam ty đưa mẫu sổ tấu cho họ.

[92] Khai Phong phủ phát giải quan Nhâm Bố cùng các quan xin theo lệ của Nam Tỉnh, sao chép quyển thi của tiến sĩ và đề thi tiến sĩ, để nhà Vua chấm điểm. Chiếu chỉ cho phép nộp đề thi, còn lại không cho phép.

[93] Ngày Ất Mùi, có tuyết, Vua làm thơ “Thụy Tuyết” ban cho các quan phụ tá.

[94] Ngày Canh Tý, chiếu cho các quan cận thần đến xem lúa Chiêm Thành ở điện Ngọc Thần, rồi dự yến ở điện An Phúc, Vua làm thơ, các quan đều chúc mừng.

[95] Ngày Nhâm Dần, triệu Tri Ích Châu, Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Vương Thự làm Cấp sự trung, kiêm Thái tử tân khách, chức vụ như cũ.

[96] Ngày Quý Mão, Tam ty sứ Lý Sĩ Hoành tâu rằng: “Theo chiếu chỉ, hàng năm giảm bớt hai phần văn trướng trở lên, các chủ điển trong ty cũng nên giảm bớt.” Chiếu lệnh cùng các quan ba bộ bàn kỹ, liệt kê các danh mục cần giữ lại để tâu lên. Sau đó, chọn những việc đơn giản mà người đông, cho ra bổ nhiệm làm Tam ban.

[97] Ngày Tân Hợi, Phó sứ An phủ vùng biên giới Hà Bắc là Trương Chiêu Viễn tâu: “Ở Bảo Châu và các nơi khác trồng nhiều cây du liễu, thường có quân lính trốn tránh, cũng từng giết hại lính canh. Lại thêm các trại sách dọc biên giới trồng nhiều loại cây này, lâu ngày cũng không tiện. Xin cho chặt bớt.” Vua nghe theo.

[98] Ngày Quý Sửu, Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lý Lý Thùy xin cho hai lộ Giang, Chiết thông hàng trà. Tả gián nghị đại phu Tôn Thích tâu: “Pháp chế về trà thay đổi nhiều lần, không phải là đạo giữ chữ tín, xin sai quan định lại chế độ lâu dài.” Liền chiếu cho Thích cùng Tam ty bàn kỹ, cốt sao khoan dung giản dị. Lúc đó, người tâu càng nhiều, đại để chỉ muốn ban ơn cho tiểu thương, ưu đãi người trồng trà, triều đình cũng từng sai tăng giá, thêm cấp. Đại để tiếc việc xuất trà, mà cần tiền thực ở kinh sư, nên pháp chế không thể thay đổi. Người tâu chỉ dựa vào lời nói suông, không thiết thực. Không lâu sau, Thích ra làm Tri Hà Dương, việc bèn dừng lại.

Thích vừa từ Mật Châu trở về, lúc đó vừa đặt các tiết như Thiên Khánh, thiên hạ tổ chức trai tiếu, yến tiệc tốn kém nhiều. Thích lại xin cắt giảm chi phí không cần thiết, nhưng không được trả lời. Thích lại ra ngoài, thời gian ở triều đình chưa đầy một năm. (Ngày 19 tháng 11, Thích ra làm Tri Hà Dương, nay ghi chung.)

[99] Xu mật trực học sĩ Vương Thự tâu rằng, từ nay các chuyển vận sứ, phó sứ, đề điểm hình ngục, triều thần, sứ thần tiến cử quan lại, xin không cho phép báo trước qua văn thư, để tránh tạo ân tư, mong đạt được công đạo. Chiếu lệnh ban hành điều ước riêng.

(Theo《Hội yếu》, việc này xảy ra vào tháng 10.)

[100] Tháng 11, ngày Kỷ Mùi, Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh được làm Thừa chỉ. Lúc đó triều đình nhiều lần tổ chức đại lễ, chiếu lệnh ban ra phần lớn do Huýnh soạn thảo. Có lần được triệu vào ban đêm, Vua sai nội thị cầm đuốc tiễn về viện. Một hôm yến tiệc ở Nghi Thánh điện, trong cung đem ra hơn trăm chậu hoa mẫu đơn, trong đó chỉ có hơn chục bông là loại nghìn cánh, ban cho tể thần và thân vương. Vua nhìn Huýnh và học sĩ Tiền Duy Diễn, cũng ban cho họ.

[101] Ngày Nhâm Tuất, chiếu rằng ruộng chức điền các châu, trước đây lấy tháng 3, tháng 4, tháng 9 làm hạn đến nhậm chức, nếu quá tháng đó hoặc có tháng nhuận thì không tính.

[102] Ngày Kỷ Tỵ, Tam ty tâu: “Việc nộp cỏ lương ở Thiểm Tây, xin theo lệ của Hà Bắc, mỗi đấu, bó tăng giá trị, tính tiền thực trả bằng giấy, vào kinh dùng tiền mặt mua. Nếu muốn nhận trà hoặc giao dẫn, thì theo số tiền thực mà cấp, lệnh cho giác hóa vụ theo thời giá thu tiền và cấp trà, không được dùng giấy cỏ lương để đổi lấy trà.” Chiếu rằng cứ mỗi trăm ngàn tiền nộp, tăng thêm năm ngàn trà dẫn, còn lại theo lời xin.

[103] Ngày Tân Mùi, triệu tập cận thần xem sách ở Thái Thanh lâu, bút tích của Thái Tông và ngự chế, rồi ban yến. Vua làm thơ, các quan đều họa theo.

[104] Ngày Nhâm Thân, chém Uy Vũ quân phó sứ đô đầu Vương Thành và Trách Kiến, vì tội tung tin đồn nhảm gây rối.

(Chữ “Trách” trong Trách Kiến cần tra lại.)

[105] Ngày Giáp Tuất, sai Hàn lâm học sĩ Tiền Duy Diễn, Thịnh Độ, Xu mật trực học sĩ Vương Thự, Long đồ các đãi chế Lý Hư Kỷ, Lý Hành Giản, ở Bí các khảo định lại quyển thi của cử nhân đỗ giải ở Khai Phong phủ, lệnh Bí các hiệu lý Vương Chuẩn phong kín, định làm ba bậc, ghi tên tâu lên. Bèn hạ chiếu lấy 150 người đỗ giải trên. Chuẩn là con tin.

(Phong kín, việc này không phải bắt đầu từ đây, ghi chép việc này làm căn cứ cho việc Nhậm Bố bị tội sau này.)

[106] Ngày Ất Hợi, Vua làm thơ yến tiệc Đông chí với người thân và hiền tài, lại đưa ra thơ ngự chế về ba giáo, mỗi loại 100 bài, 9 bài ca luận, cho tể tướng xem.

[107] Khởi cư xá nhân Lữ Di Giản tâu rằng Thiền, Ngụy được mùa, xin xuất 20 vạn quan tiền trong kho nội phủ để mua cỏ và lương thực[19], theo lời tâu.

[108] Ngày Tân Tỵ, đón kinh sách Đạo, Thích đến ba cung quán và các chùa trong kinh thành. Trước đó, Vua sai chọn những bản tinh diệu trong tạng kinh, tổng cộng 58 quyển, hiệu đính và in lại, đến nay hoàn thành.

[109] Ngày Quý Mùi, Vua làm thơ yến tiệc ở vườn sau với người thân tộc, ban cho Hoàng thái tử và Thông vương.

[110] Bí thư thừa Chu Chính Thần tâu rằng: “Trước đây thông phán Quảng Châu, thấy thương nhân nước ngoài thường đến Giao Châu buôn bán, mang chữ Lê và tiền cát sáp đến châu, làm rối loạn phép tắc Trung Quốc. Xin từ nay người phạm tội bị phạt đi lao dịch ở thành, hàng hóa mang theo đều tịch thu sung công.” Hạ chiếu cho Quảng Nam chuyển vận sứ và Quảng Châu bàn lại. Sau đó tâu rằng: “Châu này đường biển tiếp giáp với Giao Châu, Chiêm Thành, thương nhân nước ngoài đi thuyền thường bị gió biển đưa đi, vì thế đến nước ngoài, vốn không cố ý đi buôn bán. Xin từ nay những vật như chữ Lê, cát sáp mang đến đều tịch thu sung công, còn những thứ trao đổi được như vải vóc, lấy một phần ba, phần còn lại trả lại. Người phạm tội bị xử theo tội vi chế.” Chiếu chuẩn.

[111] Ngày Bính Tuất, Khiết Đan sai sứ là Hữu vệ thượng tướng quân Gia Luật Lưu Ninh, phó sứ là Hàn lâm học sĩ, Khởi cư xá nhân, Tri chế cáo Ngô Thúc Đạt đến chúc mừng lễ Thừa Thiên.

[112] Ngày Đinh Hợi, sai Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Triều Huýnh, Tri chế cáo Trần Nghiêu Tư ở Bí các khảo lại quyển thi văn của tiến sĩ trong kỳ thi riêng của Quốc tử giám và Thái thường tự, dâng tên lên. Chiếu cho Quốc tử giám chọn 20 người, Thái thường tự chọn 6 người. Các quan phát giải của Khai Phong phủ, Quốc tử giám, Thái thường tự đều bị tội tiến cử không đúng sự thật, bị giáng chức làm giám các châu về thuế rượu: Đồn điền viên ngoại lang, Phán độ chi câu viện Nhâm Bố, giáng làm Tri châu Đặng Châu; Trứ tác lang, Trực tập hiền viện Từ Thích, giáng làm Tri châu Hồng Châu; Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện Ma Ôn Kỳ, giáng làm Tri châu Trì Châu; Độ chi phán quan, Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện Dương Khản, giáng làm Tri châu Nhữ Châu; Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện Đinh Độ, giáng làm Tri châu Tề Châu. Thái thường thiếu khanh, Trực sử quán Trương Phục bị phạt 10 cân đồng.

[113] Lúc đầu xây dựng Tường Nguyên Quán, Nhâm Bố bàn việc này, đã trái ý tể tướng, đến khi khảo thí ở Khai Phong, Từ Thích bí mật mở quyển thi xem, nên cùng Từ Thích đều bị giáng chức. Đinh Độ là người Tường Phù.

[114] Tháng 12, ngày Kỷ Sửu, mùng một, miễn thuế chuyển đổi cỏ khô ở Kinh Châu, Nguyên Châu, vì mùa màng không được.

[115] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng: “Nghe nói dân lưu tán ở Bân Châu, Ninh Châu, Kinh Châu, Nguyên Châu nhiều người chạy đến vùng núi Cố Quan Sơn của Tần Châu, Lũng Châu và vùng ngoài núi của Vị Châu, Trấn Nhung quân để kiếm ăn, lo rằng có kẻ không biết dụ dỗ bắt người, bán sang địa giới phiên, nên lệnh cho các châu huyện và quan tuần kiểm sứ thần xét bắt.”

[116] Ngày Đinh Dậu, Chu Thực tâu: “Các châu Đồng, Diệu, Bân, Ninh, Kinh, Nguyên, Vị, Hoa, Quắc, Lũng[20]và hai huyện Vĩnh Lạc, Ngu Hương của Hà Trung phủ bị hạn hán mất mùa, xin tạm ngừng thu thuế, và bãi bỏ việc mua lương thực.” Theo lời tâu.

(Chu Thực, tháng 9 đi sứ.)

[117] Chiếu rằng từ nay các quan văn võ, ngoài con cháu ra, những người thuộc dòng họ và đã hưởng bổng lộc, không được tiến cử.

[118] Ngày Tân Sửu, lấy Hà Dương tam thành tiết độ sứ Trương Mân làm Vũ Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự. Trương Mân đang chịu tang, có chiếu cho khởi phục, bèn từ Hà Dương về triều, được đặc cách gia ân, sau đó ra làm Phán châu Trần Châu.

[119] Công bộ Thị lang, Tham tri chính sự Trương Tri Bạch thường bất đồng ý kiến với Tể tướng Vương Khâm Nhược, bèn cáo bệnh xin từ chức. Ngày Bính Ngọ, ông bị cách chức xuống làm Hình bộ Thị lang, Hàn lâm Thị độc học sĩ, nhậm chức Tri Thiên Hùng quân. Vua làm thơ tiễn ông. Từ đây, các quan phụ tá lấy chức Tạp học sĩ ra trấn nhậm ngoài biên, kiêm cả chức Hàn lâm Thị độc học sĩ đi sứ ngoài, đều bắt đầu từ Trương Tri Bạch.

(Sách 《Xuân Minh Thoái Triều Lục》 của Tống Mẫn Cầu chép: Thời tổ tông, Tể tướng bị cách chức, chỉ có Triệu Lệnh được làm Sứ tướng, còn lại đa phần giữ nguyên chức cũ về triều, các chức Tham tri, Xu mật cũng vậy. Năm Thiên Hi, Trương Văn Tiết bắt đầu lấy chức Thị độc học sĩ nhậm chức Tri Nam Kinh. Năm Thiên Thánh, Vương Văn Khang lấy chức Tư chính điện học sĩ nhậm chức Tri Thiểm Châu. Từ niên hiệu Khánh Lịch về sau, các quan bị cách chức đều được phục chức.)

[120] Tướng tác Giám thừa Thái Tề được bổ làm Trứ tác lang, Trực Tập hiền viện. Theo lệ cũ, người đỗ đầu khoa thi, đến nhậm chức một năm thì được triệu về thi. Thái Tề từ chức Thông phán Duyện Châu chuyển sang Duy Châu, dâng lên các bài văn của mình, mới được triệu về thi.

(Việc này căn cứ theo 《Tạp Chí》 của Giang Hưu Phục, cần xem xét thêm.)

[121] Ngày Quý Sửu, Khiết Đan phái sứ giả là Tả Lâm nha, Công bộ Thượng thư Tiêu Lưu Ninh, Phó sứ là Hữu Gián nghị đại phu Mã Di Mưu đến chúc mừng năm mới.

[122] Ngày Giáp Dần, xuống chiếu rằng các quan văn võ từng đi sứ Khiết Đan và tiếp đón sứ giả, từ nay khi sứ giả đến kinh đô, ngoài các quan Lưỡng tỉnh, Cấp xá, đều cho ra vào từ cửa Tả Dịch.

[123] Ngày Bính Thìn, ban cho học cứu Từ Trú ở Tuyên Châu được xuất thân. Trú dâng lên kế sách làm lợi cho trà trường Kinh Huyện, mỗi năm tăng thuế được mười vạn.

[124] Lễ nghi viện tâu rằng, trong sách 《Nghi Chế Đồ》 có chép chức Cáp môn Thông sự xá nhân, nay muốn đổi tên thành Thông sự xá nhân, Vua đồng ý.

(Việc này xảy ra năm Hàm Bình thứ 4, tháng 7, liên quan đến Tiêu Thủ Tiết, cần xem xét thêm.)


  1. Chữ 'kiêm Trung thư lệnh' bốn chữ vốn thiếu, theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và quyển 89 sách này, ngày Mậu Dần tháng 2 năm Thiên Hi thứ 1, cùng sách 《Tống hội yếu》 phần Đế hệ 1-31 bổ sung
  2. 'Đặng vương', nguyên bản là 'Quận vương', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách 《Tống hội yếu》 phần Đế hệ 1-31, cùng 《Tống sử》 quyển 245 truyện Trấn vương Nguyên Ốc sửa lại
  3. 'Điền Ngạn Yến' nguyên bản là 'Điền Sản Ngạn', theo sách 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 5-79 đến 80, cùng 《Tống sử》 quyển 493 truyện các Man động Khê Nam sửa lại
  4. Nguyên bản chữ 'kiếm' viết là 'liễm', căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》, 《Tống sử》 sửa lại.
  5. Chữ 'người' nguyên bản viết là 'tám', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và bản các bản sửa lại.
  6. Chữ 'trật' nguyên bản viết là 'tỉ', bản các bản viết là 'trắc', theo 《Tống Sử》 quyển 8, 《Chân Tông Kỷ》 sửa lại.
  7. Ngũ Khê nguyên bản là 'Ngũ Châu', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phiên di 5-80 và 《Tống sử》 quyển 493, phần Tây Nam Khê Động chư man truyện sửa lại.
  8. Bổ nhiệm chức danh Tam ban cho Quang Trạch: căn cứ theo sách trên, câu này không có chữ 'huynh'.
  9. Vì mẹ bệnh nên không ăn thịt: chữ 'mẫu' nguyên bản là 'mỗi', căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 phiên di 5-80 sửa lại.
  10. Trương Cương nguyên bản là 'Trương Sơn Cương', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Thập triều cương yếu》 quyển 3 sửa lại.
  11. 'Lý Đối' nguyên bản là 'Lý Sĩ Đối', 'cửa Đông Nội' nguyên bản là 'cửa Đông', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và quyển 90 sách này, năm Thiên Hi thứ nhất, tháng 9 ngày Quý Mão sửa lại.
  12. 'Chiếu' nguyên bản là 'chiêu', theo các bản và bản Hoạt tự sửa lại.
  13. Lưu Trung Tượng, chữ 'Tượng' nguyên bản là 'Đẳng', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5-80 sửa lại. Chữ 'Trung', 《Tống hội yếu》 chép là 'Trọng'.
  14. Thăng vương phủ Tư nghị tham quân, chữ 'tư' nguyên bản là 'chiếu', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 28 'Huấn đạo Thái tử', 《Tống Kỳ Cảnh văn tập》 quyển 57 'Trương Văn Ý công Sĩ Tốn cựu đức chi bi' và 《Tống sử》 quyển 162 'Chức quan chí', quyển 311 'Trương Sĩ Tốn truyện' sửa lại.
  15. Làm Vĩnh Thanh, Hoành Hải tiết độ sứ, chữ 'Hoành Hải' nguyên bản là 'Hoàng Mai', căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 Đế hệ 1 chi 32, 《Thập triều cương yếu》 quyển 2, 《Tống sử》 quyển 245 'Chu vương Nguyên Nghiễm truyện' sửa lại.
  16. Thành tức báo Kế Năng xin thuộc phủ xét xử luôn, chữ 'thỉnh' nguyên bản là 'thân', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 466 《Trương Kế Năng truyện》 sửa lại
  17. Thi Hắc Bài Ma Điệp nguyên bản là 'Thi Lí Bài Ma Điệp', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di tứ chi lục cửu và 《Tống sử》 quyển 489, truyện Chiêm Thành sửa lại.
  18. Chiếu rằng các cơ quan trong kinh thành khi tổ chức lễ tế thần đất, chữ 'giả' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản khác bổ sung.
  19. Xin xuất 20 vạn quan tiền trong kho nội phủ để mua cỏ và lương thực: chữ 'cỏ' dưới nguyên có thêm chữ 'tích', theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống và 《Tục thông giám》 quyển 34 mà bỏ.
  20. Lũng Châu nguyên bản chép là 'Lũng Xuyên', theo bản trong các các sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.