IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 175: NĂM HOÀNG HỰU THỨ 5 (QUÝ TỴ, 1053)
Từ tháng 7 năm Hoàng Hựu thứ 5 đời Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Nhâm Dần, Vua ban chiếu rằng vào ngày đông chí sẽ tổ chức lễ tế ở Nam Giao.
[2] Ngày Quý Mão, Vua ban chiếu cho Ty An phủ sứ Quảng Nam Tây Lộ, trước đây lưu lại 4.000 quân cấm vệ để trấn thủ Ung Châu, mỗi tháng cấp 300 tiền, mỗi quý cấp tiền mua giày bạc.
[3] Ngày Ất Tỵ, Vua ban chiếu cho các châu quân bị thiên tai ở Kinh Hồ Bắc Lộ, trước hết mở kho Thường Bình để cứu đói dân chúng. Nếu nghe nói Ty Nông Tự lại xét duyệt việc này, thì rất trái với ý cứu tế của triều đình, nên cấp phát ngay.
[4] Ngày Kỷ Dậu, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm mong cầu hiền tài, nên mở đường tiến cử, lòng thành tiếp nhận, rõ ràng không nghi ngờ. Nhưng những năm gần đây, phần nhiều sai lầm, hoặc người tài kém cỏi mà được khen ngợi quá mức, hoặc kẻ có tội lỗi xấu xa mà vội xin xóa bỏ, hoặc chức vụ xa cách mà đề cử quá cao. Xét tâm ý của họ, không phải để khoe khoang tư lợi thì sao đến mức này! Không biết mà nói là che đậy, biết mà nói là lừa dối[1]. Lấy việc này phụng sự trên, Trẫm còn trông cậy vào ai? Từ nay, ai tiến cử người không xứng đáng, hãy để Ngự Sử Đài đàn hặc, sẽ trị tội theo pháp luật. Những người đang giữ chức Giám ty trở lên, không được tiến cử bàn luận.” 《Hội Yếu》 chép: Năm Gia Hựu thứ 6, tháng giêng, Ngự Sử Đài xin nhắc lại chiếu này, Vua ban chiếu cho bản đài mỗi năm đầu thực hiện.
[5] Ngày Canh Tuất, Vua nói với các quan phụ chính: “Nghe nói các châu quân thường vào khoảng hạ thu, trước tâu rằng mưa thuận thấm nhuần, lúa tốt tươi, sau nếu gặp thiên tai, lại không dám tâu, khiến dân không được miễn thuế, rất trái với ý yêu dân của quan lại, nên nghiêm khắc nhắc nhở.”
[6] Ngày Tân Hợi, làm “Trấn quốc thần bảo”, sai Tể thần là Bàng Tịch viết chữ triện, Tham tri chính sự Lưu Hãng viết bia. Trước đó, Vua nói với Bàng Tịch rằng: “Kho Phụng Thần có ngọc quý, rộng một thước, dày nửa thước, là báu vật hiếm có, không muốn dùng làm đồ chơi. Vả lại, thiên tử có tám ngọc tỷ, một trong số đó gọi là thần bảo.” Bèn lệnh Tham tri chính sự Lương Thích soạn tên bảo và khắc lên đó. Khi bảo làm xong dâng lên, Vua triệu tập các cận thần và tông thất đến xem ở điện Diên Hòa. Thái thường lễ viện tâu rằng: “Theo thứ tự trong 《Đường lục điển》, một là thần bảo, hai là thụ mệnh bảo. Khi tế Nam Giao vào ngày Đông chí, nghi trượng đại giá xin dùng Trấn quốc thần bảo đi trước thụ mệnh bảo làm tiền đạo.” Bèn định làm quy thức. Khi Bàng Tịch bãi chức tể tướng, đổi lệnh cho Trần Chấp Trung viết chữ triện. Việc Bàng Tịch bãi chức tể tướng và đổi lệnh cho Trần Chấp Trung viết chữ triện là việc tháng bảy nhuận, nay phụ chép vào đây.
[7] Ngày Quý Sửu, xuống chiếu cho quần thần không được nhân việc tế giao mà xin thêm tôn hiệu. 《Tống hội yếu》 chép: Ngày 16 tháng 7 năm thứ 5, xuống chiếu rằng dân lực còn khốn khổ, mùa màng thường thất bát, có năm hạn hán, lại thêm nạn sâu bọ, đang lo việc báo đáp lớn để chờ điềm lành, không cần dùng hư danh để làm nặng thêm tội lỗi.
[8] Phán quan Kỳ Châu là Lý Hư Nhất dâng sách 《Khái Tào Tân Thư》 40 quyển, trong đó có nói nhiều về việc tu sửa đê Lục Tháp. Chiếu đưa sách đến ty Hà Cừ để kiểm tra. Lý Hư Nhất được đặc cách thăng một bậc.
[9] Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu: “Thái thường vừa định thụy hiệu cho các quan, chỉ căn cứ vào hành trạng, nhưng nhiều chỗ văn chương quá lời, làm mất ý nghĩa khuyên răn. Từ nay về sau phải trực tiếp thuật lại sự thực, không được khen quá lên.”
[10] Binh bộ viên ngoại lang Vương Điền làm Kinh Đông chuyển vận sứ. Ngự sử Du Hi Mạnh tâu rằng Vương Điền già yếu không đủ sức đảm đương, bèn bãi chức.
[11] Ngày Kỷ Mùi, Vua ngự ra vườn sau, triệu tập các cận thần, quan các, đài gián, tỉnh phủ suy phán quan đến xem hoa sen quý.
[12] Ngày Canh Thân, Trang trạch phó sứ Triệu Tư kiêm chức Cáp môn thông sự xá nhân, quyền nhiệm chức Tịnh Đại kiềm hạt. Năm Khánh Lịch đầu tiên, Tư giữ chức Hữu thị cấm làm Đô tuần kiểm quân Kinh Nguyên, Nghi Vị, Trấn Nhung, từng dụ hàng được bọn phản loạn ở trại Đức Thắng, nhưng không được thưởng. Phạm Trọng Yêm và Hàn Kỳ khi kinh lược Thiểm Tây tiến cử ông, nên được làm Cáp môn chi hậu. Lúc đó, giặc quân ở Kinh Tây là Trương Hải lâu ngày chưa bị bắt giết, triều đình sai Tư làm Đô đại đề cử tróc tặc hai lộ Thiểm Tây và Kinh Tây, mấy tháng sau dẹp yên giặc. Sau đó, ông làm Đô tuần kiểm lộ Kinh Đông Đông. Phú Bật làm An phủ sứ, tiến cử ông tái nhiệm ở Đăng Châu. Binh lính ở trại Nhũ Sơn làm phản, giết Tuần kiểm, tướng châu giết mấy tên cầm đầu, nhưng không truy xét đến cùng. Tư nhận lệnh xét án, đi ngựa vào trại, lần lượt tra hỏi, bắt được hơn trăm đồng đảng giao cho ngục lại, mọi người không ai dám động đậy.
[13] Ở Kinh Đông năm năm, bắt được nhiều giặc, nhưng không tự nói. Phú Bật thay ông tâu lên, nên từ chức Đông đầu cung phụng quan được thăng vượt cấp làm Cung bị khố phó sứ, Đô giám trú bạc lộ Định Châu. Có lần cấp lương thực cho quân, đồng liêu nói thóc không tốt, Tư quát: “Ngươi muốn làm chúng nổi giận sao? Nếu chúng nói một lời, ta sẽ chém ngươi trước để răn đe.” Hàn Kỳ nghe thấy, khen là bậc trượng phu, cho là có tài làm tướng. Tư được bổ nhiệm như vậy là theo lời xin của Kỳ.
[14] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu cho Quốc tử giám, nghe nói giám sinh có người đem bổ điệp cầm bán cho người khác, khiến kẻ sĩ lưu lạc không có hạnh kiểm, mạo nhận thi cử ở hữu ty, nên xét kỹ.
[15] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu rằng hành trạng của thần liêu do nhà mình soạn hoặc nhờ người khác soạn, đều phải dựa trên sự thật, không được khen quá, nếu kiểm tra thấy không đúng sự thật, sẽ bị tội. Theo lời xin của Thị ngự sử Ngô Bí. Điều này căn cứ vào sách biên lục điều quán tăng tu.
[16] Ngày Mậu Thìn mùng một tháng nhuận tháng bảy, đặt chợ Hòa Thị ở ngoài thành châu Ung.
[17] Xuống chiếu cho Nội thị tỉnh, từ nay số lượng nội thị từ Cung phụng quan đến Hoàng môn lấy 180 người làm định ngạch.
(Sớ của Ngô Cập, có thể dời từ cuối năm Chí Hòa thứ nhất đến đây, cần xem xét kỹ thêm.)
[18] Lại xuống chiếu rằng những dân ở Quảng Nam bị giặc cướp giày xéo mà bỏ trốn chưa trở về, hạn trong một năm phải trở về làm ăn, và được miễn thuế hai kỳ cùng miễn sai dịch trong ba năm. Đây là theo lời tâu của Chu Hãng, quan Thể lượng an phủ.
[19] Trước đó, dân chúng trốn tránh giặc cướp, nhiều người bỏ ruộng đất chạy đi xa, quan lại theo luật thường, ai quá nửa năm không trở về thì cho người khác chiếm làm ruộng cày. Chu Hãng nói: “Việc này đâu thể đánh đồng với những kẻ trốn thuế dịch trong năm mất mùa!” Bèn tâu xin gia hạn thêm một năm, những ruộng đất đã bị chiếm thì phải trả lại, người nghèo được quan phủ cho vay giống lúa. Ban đầu, Vua cho rằng đất Quảng Nam xấu, xuống chiếu bảo Chu Hãng không cần đến những châu huyện không bị giặc cướp giày xéo. Chu Hãng nói: “Dân chúng ở xa mới bị tai họa, không thể không đi tuyên bố ân trạch của thiên tử.” Bèn đi khắp các châu huyện.
[20] Ngày Tân Mùi, điều Văn Ngạn Bác, Tri châu Thanh Châu, sang làm Tri châu Tần Châu; Trương Biện, Tri châu Tần Châu, sang làm Tri châu Thanh Châu. Lúc đó đang xây thành ở Cổ Vị Châu, Trương Biện bàn không hợp nên bị điều đi.
[21] Ngự sử trung thừa Tôn Biện tâu: “Triều đình trước đây xây thành ở ngoài biên giới[2], lòng dân các phiên đã đều không yên. Nay lại đặc biệt cử tể tướng cũ đến biên giới, việc này khác thường lệ, ắt sẽ càng làm tăng thêm nghi ngờ, hoặc sinh ra biến cố khác. Huống chi nghe nói Tri Vĩnh Hưng quân Yến Thù sắp mãn nhiệm kỳ, triều đình ắt cần tài năng và uy tín của Ngạn Bác, chi bằng cử ông trấn thủ Quan Trung, kiêm quản việc Tần Phượng, như vậy các bộ phiên sẽ không đến nỗi kinh động, đối với quốc thể, thật là tiện lợi.”
(Trương Biện trước đây bị điều đến Thanh Châu, là vì không muốn xây thành Cổ Vị. Bản truyện nói rằng Lưu Hoán vu cáo Quách Ân giết nhiều người già trẻ, nên Biện bị điều đến Thanh Châu. Xét việc Biện điều đến Thanh Châu là vào ngày mồng 4 tháng nhuận, sau đó 13 ngày Hoán và Ân đều dâng công phá giặc, ngày 13 tháng 8 lại về Tần Châu. Vào ngày mồng 4 tháng nhuận, làm sao Hoán có thể dự báo việc Ân giết nhiều người già trẻ? Bản truyện này chắc chắn sai. Vì Biện làm tướng Tần Châu trong nửa năm, có một lần bị điều chuyển, một lần bị bãi chức, bản truyện gộp hai việc làm một, nên không khớp. Nay sửa lại. Việc Biện bị bãi chức là vào ngày Canh Tý tháng 12, thực lục không chép, nhân Trương Phương Bình mới thấy được.)
[22] Chiếu cho binh lính đóng ở Quảng Nam Tây lộ đã hai năm mà chưa được thay thế đều được rút về, binh lính địa phương do Nha Kiềm hạt cử đi, mỗi năm thay một lần. Từ khi Nùng Trí Cao làm loạn, quân cấm vệ đóng ở Quế Châu và các nơi như Hùng Lược, Trung Cảm, Trừng Hải, tổng cộng 24.441 người, chia nhau đóng giữ các châu. Đến nay, đều rút quân cấm vệ về, chỉ để binh lính địa phương đóng giữ.
[23] Ngày Nhâm Thân, Hộ bộ thị lang, Bình chương sự Bàng Tịch lấy chức vụ cũ làm Tri Vận Châu. Xét 《Tống sử Tể tướng biểu》, ông được cử làm Kinh Đông Tây lộ An phủ sứ rồi ra làm Tri Vận Châu.
[24] Ban đầu, học trò ở Tề châu là Hoàng Phủ Uyên bắt được giặc, theo phép nên được thưởng tiền, Uyên dâng thư xin đổi lấy một chức quan. Đạo sĩ Triệu Thanh Huống là cháu của Tịch, giả làm Uyên để bạch với Tịch, rồi cùng với viên lại ở đường nhận hối lộ của Uyên. Uyên nhiều lần đến viện Đãi Lậu tự nói, Tịch bèn bắt Uyên về Tề châu. Có viên lại nhỏ báo việc Thanh Huống và những người khác nhận hối lộ, Tịch liền bắt gửi đến phủ Khai Phong. Thanh Huống và viên lại ở đường đều bị kết tội nhận hối lộ, bị đày đi Lĩnh Ngoại, đi đến Hứa châu thì chết. Gián quan Hàn Giáng nói Tịch ngầm sai phủ đánh chết Thanh Huống để bịt miệng, lại nói việc này nên giao cho Xu mật viện, không nên để Trung thư tự làm, nên bãi chức. Nhưng nói Tịch ngầm sai phủ Khai Phong, xét lại không có thực.
[25] Tập Khánh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Phán Đại Danh phủ Trần Chấp Trung làm Lại bộ Thượng thư, Bình chương sự, Chiêu Văn quán Đại học sĩ, Giám tu Quốc sử; Cấp sự trung, Tham tri chính sự Lương Thích làm Lễ bộ Thị lang, Bình chương sự, Tập Hiền điện Đại học sĩ.
[26] Ngày Quý Dậu, điều Phán Hứa châu Giả Xương Triều làm Phán Đại Danh phủ.
[27] Ngày Giáp Tuất, truy tặng Bí thư giám trí sĩ Hồ Đán làm Công bộ Thị lang, lại ban cho nhà ông ba mươi vạn tiền, lệnh Tương châu lo việc chôn cất. Vệ úy Thiếu khanh, Tri châu Mã Tầm nói nhà Đán nghèo, lâu nay không thể chôn cất, nên ban ơn đến đó.
[28] Tầm người Hạng Thành[3], nổi tiếng thông thạo luật pháp. Khi ở Tương châu, gặp năm đói kém, có người vào nhà giàu cướp lúa, ngục lại xét là tội cướp, Tầm nói: “Đây là vì đói quá[4], tình hình khác với cướp.” Tâu xin được giảm tội chết, từ đó thành lệ. Việc của Tầm được ghi chép thêm, có thể có ngày tháng riêng.
[29] Ngày Ất Hợi, chiếu các lộ, tri châu quân vũ thần đều phải cùng với liêu thuộc bàn bạc việc công, không được tự quyết, lại lệnh An phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty thường xuyên kiểm tra.
[30] Ngày Bính Tý, Lý Trung Sư, Từ bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lý, được bổ nhiệm làm Hoài Nam chuyển vận sứ. Trung Sư vào từ biệt, Vua bảo rằng: “Trẫm nghe nói các lộ chuyển vận sứ thường dâng tiền thừa để cầu tiến thân, nhưng gặp năm mất mùa thì không tránh khỏi việc bóc lột dân, điều đó Trẫm không chấp nhận, khanh hãy ghi nhớ.” Lời Vua nói vào ngày Nhâm Ngọ, nay ghi chung lại.
[31] Xuất kho nội tàng 10 vạn quan tiền, 20 vạn tấm lụa, 10 vạn cân bông, giao xuống Hà Bắc để mua thêm lương thực dự trữ cho quân đội. (Việc này xảy ra vào tháng 8 năm Chí Hòa thứ nhất, có thể tra cứu thêm).
[32] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu cho Ty Nông tự: Số tiền và thóc trong kho Thường bình ở Quảng Nam Tây lộ bị giặc đốt phá và cướp bóc, đều được miễn thu.
[33] Ngày Mậu Dần, ban thưởng tiền cho binh lính đang sửa chữa thành trì ở Diên Châu.
[34] Ngày Canh Thìn, Ty Kinh lược an phủ Tần Phượng lộ tâu: Các bộ lạc ở Cổ Vị trại, Á Nhi hạp, Quảng Ngô lĩnh nhiều lần ra quấy nhiễu biên giới, làm cản trở giao thông. Lập tức lệnh cho Bộ thự Lưu Hoán làm Trung quân, Kiềm hạt Lưu Ôn Nhuận và Đô giám Quách Ân làm Tiên phong, Tri Trấn Nhung quân Quách Quỳ làm Sách tiên phong, Đô giám Ngô Bôn và Thôi Ý làm Điện hậu, Tẩu mã thừa thụ Chu Thế Xương theo Trung quân đi đánh dẹp. Hoán chém được 204 thủ cấp, Ôn Nhuận chém được 565 thủ cấp, Ân chém được 925 thủ cấp, Quỳ chém được 459 thủ cấp, Bôn chém được 28 thủ cấp, Thế Xương chém được 27 thủ cấp. Ngày Tân Tỵ, Hoán từ chức Trạch Châu đoàn luyện sứ được thăng làm Phòng ngự sứ, Ôn Nhuận từ chức Lễ tân sứ được lĩnh chức Anh Châu thứ sử, Ân từ chức Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu được thăng làm Sùng nghi phó sứ, Quỳ từ chức Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu được thăng làm Lễ tân phó sứ, Bôn từ chức Nội điện thừa chế được thăng làm Cung bị khố phó sứ, Ý từ chức Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu được thăng làm Đông đầu cung phụng quan, Thế Xương từ chức Tây đầu cung phụng quan được thăng làm Đông đầu cung phụng quan. Những quân hiệu có công thuộc quân phân chuyển viên được thăng một cấp, đồng thời tăng một bậc; quân phân không thuộc chuyển viên được thăng một cấp. Riêng Quách Ân không được thăng chức, nghi ngờ là do thực lục bị sót, căn cứ theo bản truyện của Ân, Ân từ chức Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu được thăng làm Sùng nghi phó sứ. Nay bổ sung lại.
[35] Chiếu cho các huyện bị thiên tai ở Khai Phong phủ, các quan lệnh tá phải xem xét giảm thuế, không cần phái quan khác đi xem xét lại, và giảm một phần ba số cỏ mua theo thể lượng năm nay.
[36] Ngày Mậu Tý, chiếu cho Lễ bộ Cống viện: “Từ nay, các khoa cử nhân, khi thi cuối kỳ, hỏi mười câu đại nghĩa, mỗi câu lấy một hai câu đầu của khoa làm câu hỏi, ai có thể dựa vào chú sớ của bản kinh để trả lời và thêm văn từ trau chuốt, phát minh ý nghĩa thì được xếp loại trên; hoặc không chỉ rõ nghĩa lý mà chỉ dẫn chú sớ đầy đủ thì xếp loại kế tiếp, đều được coi là thông; nếu dẫn chú sớ được sáu phần thì xếp loại thô; ai không hiểu nghĩa gốc hoặc dẫn kinh khác mà văn ý sai lệch, câu văn đứt đoạn thì xếp loại dưới[5]. Đều lấy bốn câu thông làm đạt. Kinh Cửu kinh[6] chỉ hỏi đại nghĩa, không cần chú sớ đầy đủ, số trường thi Cửu kinh đều giảm hai trường, và không hỏi kinh kiêm.”
[37] Lại chiếu cho Khai Phong phủ, Quốc tử giám tiến sĩ, từ nay cứ một trăm người thì chọn mười lăm người, nếu quan coi thi có người thân quen, thì cho phủ và giám đổi chỗ cho nhau, nếu cả hai nơi đều có người thân quen, thì gửi đi thi biệt đầu.
[38] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho quân tu thành ở trại Cổ Vị tạm cấp lương theo bậc Bảo Tiệp, và cho quan người Hồ là Tả Ban Điện trực Nột Phác Lận Chiên làm Tuần kiểm địa phương, lương tháng năm ngàn tiền, đợi một năm nếu có thể đàn áp được các bộ người Hồ, thì sẽ bổ làm Thứ sử Thuận Châu.
[39] Lận Chiên đời đời ở Cổ Vị Châu, gần kề đất Hạ. Người Hạ chăn nuôi trâu bò ở biên giới, Lận Chiên cướp lấy, người Hạ tức giận, muốn đánh, Lận Chiên sợ lực lượng không địch nổi, bèn dâng đất, hy vọng được quân đồn trú để chống lại người Hạ. Phạm Tường muốn lập công lớn, vội vàng đến xây thành. Tổ tiên Lận Chiên từng chiếm giữ chín thung lũng, sau dần suy yếu, chỉ giữ được ba thung lũng, còn lại đều bị các tộc khác chiếm. Tộc Thanh Đường mạnh nhất, chiếm giữ giếng muối, mỗi ngày thu lợi có thể mua được tám con ngựa[7]. Lận Chiên báo với Tường: “Đất này vốn là của tôi, cũng xin nhà Hán lấy lại.” Tường lại chiếm nhiều đất của các tộc khác để chiêu mộ cung thủ, nên Thanh Đường và các tộc đều tức giận, nổi dậy làm phản.
[40] Tường bị cách chức, Trương Biện xin bỏ Cổ Vị, không xây thành nữa. Người Hạ lại đến nói: “Cổ Vị Châu vốn là đất của ta, nay triều đình đặt châu ở đó, vi phạm lời thề.” Sai Phó Cầu lo việc lương thảo, chuyên xem xét lợi hại. Cầu nói: “Nay bỏ không xây thành, người Hạ tất chiếm đất đó, lại thành mối lo cho Tần Châu. Hơn nữa, đã lấy được rồi lại bỏ, không phải cách làm mạnh uy quốc gia. Xét cha ông Lận Chiên đều nhận chức quan nhà Hán, đất đó rõ ràng không phải của người Hạ, chỉ nên đổi tên thành Cổ Vị Trại, không làm châu, để ứng với lời thề.” Bèn triệu tập thủ lĩnh các tộc Thanh Đường, nói rõ: “Triều đình nay xây thành, thực là để bảo vệ các ngươi, sao các ngươi lại làm phản?” Đều nói: “Quan lại cướp giếng muối và đất của chúng tôi, chúng tôi không có gì để sống.” Cầu nói: “Nay không lấy giếng muối và đất của các ngươi nữa, thì sao?” Mọi người đều vui vẻ, nghe theo, bèn rút quân. Cầu bèn cắt ba phần tư đất đó cho các tộc Thanh Đường, cuối cùng xây thành Cổ Vị, bắt đầu phong tước cho Lận Chiên. Đoạn này trong thực lục, chính sử ghi rất sơ sài, nay đều dùng theo ghi chép của Tư Mã Quang, hơi sửa chữa.
[41] Ngày Tân Mão, lấy Thượng thư Lễ bộ Thị lang, Tập Hiền viện Học sĩ, phán Tây Kinh Lưu ty Ngự sử đài Ngô Dục làm Tri Thiểm Châu.
[42] Ngày Nhâm Thìn, giáng chức Hàn lâm Thị độc học sĩ, Hình bộ Lang trung Lữ Công Xước làm Long đồ các học sĩ, tri châu Từ Châu; Ngự sử đài Ngô Bí làm tri châu Hào Châu; Đề điểm Hình ngục lộ Hoài Nam, Độ chi Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý Tôn Tích làm tri châu Thái Bình Châu; Độ chi Viên ngoại lang Vương Lệ làm tri châu Tín Châu.
[43] Ban đầu, các Gián quan và Ngự sử tâu rằng Lữ Công Xước trước đây khi làm tri phủ Khai Phong đã nhận chỉ của Bàng Tịch, xử án Triệu Thanh Huống bằng hình phạt đánh gần cột sống, khiến Thanh Huống không đến nơi lưu đày mà chết. Công Xước bị kết tội, còn Tôn Tích vì trước đây làm Thôi quan, Vương Lệ làm Phán quan, Ngô Bí cũng không hề tấu trình, nên đều bị trách phạt. Sau đó, Công Xước dâng sớ tự biện, triều đình bèn hạ chiếu cho tri phủ Khai Phong Dương Sát tra xét việc này. Sát tâu rằng việc đánh Thanh Huống thực sự diễn ra tại sảnh Phán quan, không phải do Công Xước trực tiếp chỉ đạo. Tuy nhiên, mệnh lệnh đã ban ra, chỉ còn cách gửi văn thư thông báo cho Công Xước mà thôi.
[44] Ngày Quý Tỵ, hạ chiếu rằng những người từng giữ chức ở Nhị phủ rồi ra làm tri châu, không được tiến cử Thông phán, chỉ được phép tăng thêm một viên Mạc chức quan. Đây là theo đề nghị của Ngự sử Trung thừa Tôn Biện. Nếu trước đây tri châu đã tiến cử đủ số người trong năm, thì cho phép tiến cử thêm trong năm. Số người tiến cử hàng năm của tri châu chưa rõ, cần xem xét thêm.
[45] Ngày mùng 1 tháng 8, ngày Đinh Dậu, hạ chiếu rằng dân bị thiên tai nếu kiện lên Chuyển vận ty mà không được chấp nhận, thì cho phép các châu quân nộp đơn lên triều đình.
[46] Ngày Nhâm Dần, truy phong nhũ mẫu của Hoàng hậu là Vinh quốc phu nhân Chu thị làm Lỗ quốc phu nhân.
[47] Binh bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế kiêm thị giảng Triệu Sư Dân nhiều lần xin bổ nhiệm làm quan ở quận. Ngày Quý Mão, được bổ làm Long Đồ các trực học sĩ, tri châu Diệu Châu. Sư Dân từng giảng sách 《Luận Ngữ》, Vua hỏi về việc tu dưỡng văn đức, ông đáp: “Văn là tên gọi chung của việc kinh thiên vĩ địa. Đạo trị người, lấy nhân mà vỗ về, lấy nghĩa mà chế ngự, lấy lễ mà tiếp đãi, lấy tín mà giảng dạy, đều là như vậy.” Vua nói: “Nhưng điều quan trọng nhất, không gì bằng chữ tín.” Ông nói: “Tín là gốc lớn của thiên hạ, nhân, nghĩa, lễ, nhạc đều phải xuất phát từ đó, đây thực là yếu lĩnh của vương đạo.” Vua lại hỏi về việc đổi lửa bằng cách khoan gỗ, ông nói: “Thánh vương thời xưa, mọi hành động đều thuận theo thời tiết biến đổi, lửa theo tính chất của gỗ. Thời cận đại dần dần chuộng sự cẩu thả giản lược, cho rằng không phải là công cụ trị nước nên bỏ đi, khiến cho vạn sự đều không bằng thời xưa.” Vua lại hỏi lời nói của Tử Hạ và Tử Trương về đạo giao tiếp, ai hơn, ông nói: “Đạo của thánh triết, bao trùm rộng lớn, cùng với trời đất. Người thiện thì có thể tiến đức, kẻ ác thì khiến họ sửa đổi hành vi. Lời của Tử Trương là hơn.”
[48] Một hôm đọc 《Hán kỷ》, hỏi về thành Trường An, mọi người đều không biết, cùng nhau suy cử Sư Dân. Ông bèn trình bày về các triều đại đóng đô ở Ung Châu từ xưa, vị trí cũ ở đâu, như vẽ trong lòng bàn tay. Hoàng đế nói: “Sao ghi chép của ông lại chính xác đến vậy[8]!” Sư Dân ở chức kinh diên hơn mười năm, rất được trọng dụng. Giữa mùa hè, ông bị bệnh ở nhà, Hoàng đế viết chữ “Hòa bình” trên chiếc quạt giấy trắng để ban cho, gửi gắm ý nghĩa. Khi ông sắp ra đi, Hoàng đế tự tay viết thơ tiễn, xưng ông là “bậc đức cao trong Nho lâm”.
[49] Sư Dân tính tình rất nhân từ, khoan dung. Dân châu có người buôn bán muối sắt trái phép, ông đều không hỏi tội, thường than thở với con là Ngạn Nhược rằng: “Đây là điều Giả Nghị nói ‘người tốt sợ hãi mà làm việc gian tà, dân lành sa vào hình phạt’, sao có thể không khoan dung?”
[50] Ngày Giáp Thìn, ban chiếu năm nay tế Nam Giao, ba vị thánh cùng thờ, từ nay về sau sẽ theo lễ cũ.
[51] Chiếu rằng Lê Châu, Nhã Châu là nơi kiểm soát man tộc, là bình phong của Tây Châu, từ nay nên chọn võ quan chức Phó sứ trở lên làm Tri châu Lê Châu, thêm 300 quân Thiểm Tây, 200 quân Nhã Châu, đặt một viên Đô giám trú bạc.
[52] Ngày Đinh Mùi, Chủ khách Viên ngoại lang, Thông phán Đàm Châu Đường Giới làm Điện trung Thị ngự sử Lý hành, Tri Phục Châu.
[53] Ngày Mậu Thân, Quan văn điện Đại học sĩ, Lại bộ Thượng thư, Tân Tri Tần Châu Văn Ngạn Bác làm Trung Vũ Tiết độ sứ, Tri Vĩnh Hưng quân kiêm Tần Phượng lộ Binh mã sự, bắt đầu theo lời của Tôn Biện.
[54] Phái Diêm thiết Phán quan, Đô quan Viên ngoại lang Yến Độ đến Lăng Châu, Cừ Châu, xem xét lợi hại của giếng muối rồi tâu lên. Lúc đó có người nói trước sau năm Giáp Ngọ, Thục hai lần loạn, lo năm sau lại có biến. Vì thế đặc biệt phái Yến Độ đến trị lý việc muối, nhằm phòng ngừa trước. Yến Độ đến Thục, xem xét dân tình, về tâu rằng: “Năm Giáp Ngọ này, chắc chắn không có việc gì.” Quả nhiên đúng như vậy.
[55] Phó Cầu tâu rằng: “Trại Cổ Vị vừa phát binh đi phòng thủ, không nên thay đổi chủ tướng.” Ngày Kỷ Dậu, sai Tân Thanh Châu là Trương Biện lại làm Tri Tần Châu. Truyện Trương Biện chép: “Sau khi xây thành Cổ Vị, người Khương chiếm giữ Quảng Ngô Lĩnh, chặn đường vận lương. Phó tướng Lưu Hoán dẫn quân không kịp thời tiến đánh[9], Biện cử Quách Ân thay thế, giặc mới tan chạy. Hoán cho rằng công chiếm thành không thuộc về mình, bèn dối tấu rằng những người bị Ân giết đều là già yếu và trẻ con, vì thế Biện bị điều đến Thanh Châu.” Xét việc điều đến Thanh Châu là ngày mồng 4 tháng 7 nhuận, 13 ngày sau, Kinh lược ty mới dâng danh sách những người bị chém, Hoán và Ân đều có tên trong đó. Việc Biện bị điều đi chắc là do bất đồng ý kiến, không phải vì cử Ân thay Hoán. Hơn nữa, Hoán và Ân đều có chém giết, Hoán ít hơn Ân, Ân thực sự chưa từng thay Hoán, bản truyện chắc chắn sai.
[56] Ngày Tân Hợi, Độ chi phó sứ, Công bộ Lang trung Chu Hãng làm sứ sang chúc mừng sinh thần mẹ Vua Khiết Đan, Tả Tàng khố Phó sứ Tiền Bính làm phó; Khởi cư Xá nhân, Tri Gián viện Hàn Chí làm sứ sang chúc mừng sinh thần Vua Khiết Đan, Cung bị khố Phó sứ Bành Tái Thăng làm phó; Hộ bộ Phán quan, Hình bộ Viên ngoại lang Trương Khứ Hoặc làm sứ sang chúc mừng ngày Chánh đán của mẹ Vua Khiết Đan, Nội điện Sùng ban Hạ Hi làm phó; Hữu Chánh ngôn, Trực Tập hiền viện Giả Ảm làm sứ sang chúc mừng ngày Chánh đán của Vua Khiết Đan, Tả Thị cấm, Cáp môn Chi hậu Vương Hàm Nghi làm phó.
[57] Ngày Nhâm Tý, Thái tử Thái phó trí sĩ Đỗ Diễn làm Thái tử Thái sư, Tư chính điện Đại học sĩ; Lễ bộ Thị lang, Tri Hà Dương Phú Bật làm Hộ bộ Thị lang, Quan văn điện Học sĩ; Tư chính điện Học sĩ, kiêm Hàn lâm Thị độc Học sĩ, Lễ bộ Thị lang, Tri Thiểm Châu Ngô Dục làm Hộ bộ Thị lang, Tư chính điện Đại học sĩ, đều là những cựu thần của nhị phủ được đặc cách thăng chức.
[58] Hàn lâm Thị độc học sĩ Lữ Công Xước tâu rằng em là Đô quan viên ngoại lang, Tri đơn châu Lữ Công Trước, trước đây nhờ ân điển của tiên thần về việc từ chức mà xin được thử việc, được chờ khi thay người mới sẽ lấy chỉ dụ, sau đó trải qua ba nhiệm kỳ mười năm, chưa từng có lời thỉnh cầu gì. Chiếu cho Lữ Công Trước sung chức Kiểm thảo ở Sùng Văn viện. (Việc này ghi trong 《Hội yếu》 ngày 16 tháng 8 năm Hoàng Hựu thứ 5, nhưng 《Thực lục》 không chép).
[59] Ngày Quý Sửu, chiếu rằng các quan Tri châu có thứ bậc như Chuyển vận sứ, từ nay chỉ cấp thêm lương bổng như Tri châu. Trước đây, Tri gián viện Lý Đoái tâu: “Chuyển vận sứ quản lý binh lương, thuế má, kinh phí tài chính của cả một lộ, nên được hưởng lương bổng ưu đãi. Nay có người vì bị đàn hặc mà bãi chức, hoặc vì tuổi cao xin về quận nhàn, phần nhiều được giữ thứ bậc như Chuyển vận sứ mà hưởng bổng lộc hậu, không phải là ý khuyến khích hay ngăn cản của triều đình.” Vì thế mới có sự điều chỉnh này.
[60] Cấm người man di ngoài biên giới vượt qua núi phía bắc.
[61] Ngày Giáp Dần, chiếu rằng lễ Nam Giao tạm dùng nhạc cũ, còn nhạc mới định là Đại An, ngoài việc tế tự thường lệ, sẽ dùng trong các buổi triều hội. Hàn lâm học sĩ Hồ Túc tâu: “Từ xưa không có lý nào dùng hai thứ nhạc cùng lúc, nay nhạc cũ cao, nhạc mới thấp, cách nhau một cung, khó mà dùng chung. Hơn nữa, nhạc mới chưa dùng ở Giao Miếu, đã dùng trước trong triều hội, không phải là ý của tiên vương khi dâng lên Thượng đế và phối hưởng với tổ tiên.” Vua cho là phải.
[62] Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho Ty Chuyển vận sứ lộ Ích, Tử[10] dần dần tu sửa thành trì các châu quân, không được làm động dân. Người tâu cho rằng thành trì ở Thục đã lâu không tu sửa, loạn Giáp Ngọ lại xảy ra, không thể không lo phòng bị trước.
[63] Ngày Canh Thân, Đường Giới, người mới được bổ nhiệm làm Tri châu Phục Châu, Chủ khách viên ngoại lang, Điện trung thị ngự sử lí hành, được thăng làm Điện trung thị ngự sử, sung chức Ngôn sự ngự sử, sai nội thị mang sắc cáo ban cho. Đường Giới bị biếm trích chưa đầy hai năm lại được triệu về, người bàn luận cho rằng thiên tử khoan dung với bề tôi dám nói thẳng, điều này gần như chưa từng có từ xưa đến nay.
[64] Ngày Tân Dậu, Vua ngự điện Sùng Chính, ra đề thi sách vấn hiền lương phương chính, năng trực ngôn cực gián cho Thái thường tự Thái chúc Triệu Ngạn Nhược. Triệu Ngạn Nhược đối đáp sơ sài, giao cho Hữu ty xét, không đạt yêu cầu nên bị bãi chức. Trước đó, trong kỳ thi chế khoa ở Bí các có 18 người dự thi, Hữu ty chỉ chọn Triệu Ngạn Nhược. Đến nay lại bị truất bỏ, người bàn luận cho rằng tể tướng Trần Chấp Trung không phải xuất thân khoa bảng nên ngầm chỉ đạo Hữu ty đặc biệt hạn chế nho sĩ, không phải do Triệu Ngạn Nhược thực sự không có năng lực. Việc Trần Chấp Trung chỉ đạo Hữu ty, căn cứ theo 《Chính yếu》.
[65] Xuống chiếu cho Tần Phượng bộ thự Lưu Hoán, mỗi nửa năm một lần tuần tra trại Cổ Vị, để vỗ về các bộ tộc phiên.
[66] Ngày Nhâm Tuất, xuống chiếu từ nay về sau, khi tế Nam Giao, ba vị thánh đều được phối hưởng.
[67] Trước đó, Thái thường lễ viện tâu: “Kính vâng chiếu chỉ, xin xét lại việc ba vị thánh cùng được phối hưởng. Chúng thần cho rằng phép tắc phối hưởng, các đời trước không giống nhau, xưa thì một chủ, sau có khi kiêm phối, đều là biến đổi lễ nghi để tỏ rõ lòng thành kính. Triều ta năm Cảnh Hựu thứ hai từng ban chiếu: Lần tế Giao này, ba vị thánh cùng được phối hưởng. Sau đó lấy Thái Tổ làm chủ phối, hai tông luân phiên phối hưởng, đại lễ Minh đường cũng ba vị thánh cùng phối hưởng. Nay bệ hạ phát lời đức âm, kính sáng đại hiếu, huống chi đây là lễ cũ của triều ta, đã từng thực hiện, về nghĩa không có gì sai trái.” Vì thế có chiếu này.
[68] An phủ ty Hồ Nam tâu rằng Dã Quang Ngân ở động Khê, châu Thiệu có công đánh giặc, xin đặt châu Trung Thắng tại động này, Vua đồng ý.
[69] Ngày Ất Sửu, 51 người đỗ võ cử được bổ nhiệm làm quan với các chức vụ khác nhau. Trước đây có chiếu bãi bỏ khoa võ cử, những người được chọn lần này đều là những người đã từng thi qua kỳ thi ở Bí các.
[70] Thiệu Tất, nguyên là Tri châu Thường Châu, Viên ngoại lang Từ bộ, Hiệu lý Tập hiền, bị cách chức và giáng làm Giám tửu quân Thiệu Vũ, vì khi còn tại chức đã xử sai vụ án người buôn muối phạm tội là Cao Khánh phải chịu hình phạt đồ. Trần Hợp, Tri huyện Giang Âm, Điện trung thừa, khi xét lại vụ án công sai đã thu nhận Cao Khánh, nhưng lời khai không đúng sự thật, nên bị phạt trượng lần nữa, và Trần Hợp bị cách chức. Tô Thuấn Nguyên, nguyên là Đề điểm hình ngục, Viên ngoại lang Độ chi; Thường Đỉnh, cùng chức Đề điểm hình ngục, Nội điện Sùng ban, Các môn Chi hậu; Miêu Chấn, Đề điểm hình ngục, Lang trung Đồn điền, đều được miễn tra xét, mỗi người bị phạt 10 cân đồng. Cao Khánh được đặc cách chi 10 ngàn tiền ở Thường Châu. Việc này theo 《Hội yếu》, là sự việc ngày 29 tháng 8 năm Hoàng Hựu thứ 5, nhưng 《Thực lục》 không ghi chép. Sau đó, Phạm Trấn và Triệu Biện đều có dâng sớ bàn luận, nay ghi chép thêm vào đây.
[71] Tháng 9, ngày Đinh Mão mùng một, chiếu cho Viện Thẩm quan rằng, phàm các quan kinh triều đã được bổ nhiệm chức vụ mà nửa năm chưa nhậm chức, thì không được dùng người được bổ nhiệm ở đường triều để thay đổi. Đây là theo lời tấu xin của Ngự sử trung thừa Tôn Biện.
[72] Ngày Kỷ Tỵ, Hoàng Chí, Đồn điền Viên ngoại lang, có anh là Hoàng Tân được làm Quốc tử Tứ môn Trợ giáo, nhưng không tính vào hạn tuyển chọn, vì Hoàng Chí nguyện nhường chức quan của mình để nuôi anh, nên được chấp thuận.
[73] Chiếu rằng, những người giữ chức Nội điện Thừa chế, Sùng ban nếu bị điều tra, hoặc già yếu, hoặc bệnh tật không thể làm việc, bị thay thế và xin nghỉ hưu, thì con cháu không được bổ nhiệm làm quan nữa, còn các chức Phó sứ ở các ty thì được giảm một bậc ân điển so với trước.
[74] Ngày Canh Ngọ, Tiền Hối, Đông thượng Cáp môn sứ, Trung châu Đoàn luyện sứ, được bổ nhiệm làm Tri phủ Hà Trung. Vua hỏi về tấm thiết khoán truyền lại trong nhà Tiền Hối, muốn xem, Tiền Hối liền dâng cả ba bức thư ngự bút của ba triều. Vua đều tự tay ghi chú ở cuối, rồi trả lại, lại ban cho bức thư phi bạch chữ “An dân”, nhân đó dặn rằng: “Quân đội Thiểm Tây vừa giải giáp, dân chúng đã khổ cực lâu rồi, khanh hãy vì Trẫm yêu thương dân chúng, đừng buông thả rượu chè vui chơi, khiến người ta cho là con em quý tộc.” Tiền Hối lạy tạ.
[75] Ngày Nhâm Thân, giáng chức Thị ngự sử, Tri châu Hào là Ngô Bí xuống làm Đồn điền viên ngoại lang, vì tội tiến cử sai người. Sau đó, Trung thư xét thấy việc tiến cử không phải do Ngô Bí dâng sớ đề nghị thay đổi, nên khôi phục lại chức vụ cho ông. Ngô Bí được phục chức vào ngày Mậu Dần, nay ghi chung lại.
[76] Chiếu chỉ rằng các quan lại không được dùng ân huệ của con cháu để xin cho em cháu nhận chức quan ở những nơi có ruộng chức tại Tứ Xuyên.
[77] Ngày Nhâm Ngọ, Quyền Tam ty sứ, Hàn lâm học sĩ, kiêm Long đồ các học sĩ, Cấp sự trung Điền Huống được thăng làm Lễ bộ Thị lang, Tam ty sứ.
[78] Ngày Quý Mùi, ghi nhận cử nhân Kinh Đông là Chu Đoan làm Giao xã trai lang. An phủ ty của bản lộ tâu rằng Chu Đoan bắt được 14 tên cướp, trong đó tự tay bắt được 7 tên, nên đặc cách ghi nhận.
[79] Ngày Ất Dậu, Vua ngự tại điện Sùng Chính[11], triệu tập các cận thần, tông thất, đài gián quan, cùng các quan suy phán của tỉnh phủ đến xem nhạc mới.
[80] Trước đó, âm thanh của chuông khánh[12]chưa phù hợp với phép tắc cổ xưa, Vua ban chiếu cho Trung thư môn hạ tập hợp hai chế cùng các quan Lễ bộ Thái thường và những người am hiểu về chuông luật để khảo cứu và định ra quy chuẩn. Các nhà bàn luận đều bám theo thói quen của mình, tranh cãi lâu ngày không ngã ngũ, Vua bèn ra lệnh cho các nhà tự chế tác chuông luật để dâng lên, rồi thân hành đến xem xét. Tuy nhiên, thời xưa, Hoàng chung là căn bản của vạn sự, nên thước đo, cân lượng đều bắt nguồn từ Hoàng chung. Đến thời Tùy, dùng thước đo bằng hạt thóc để chế định luật, nhưng dung lượng và âm thanh cuối cùng vẫn không phù hợp; đến khi bình định nhà Trần, thu được nhạc cổ, bèn dùng theo. Khi nhà Đường dựng nghiệp, dựa vào âm thanh đó để chế nhạc, nhạc cụ không theo quy tắc, nhưng âm thanh vẫn không mất đi vẻ cổ kính. Thời loạn Ngũ đại, nhạc lễ đại phạm bị tản mát, Vương Phác bắt đầu dùng thước để định luật, nhưng âm thanh và nhạc cụ đều sai lệch, nên Thái Tổ lo ngại âm thanh quá cao, đặc biệt giảm một luật, đến lúc này lại giảm thêm một nửa. Tuy nhiên, nhạc Thái thường so với âm nhạc thời Đường vẫn cao hơn năm luật, so với nhạc yến hiện nay thì cao hơn ba luật. Vua tuy chăm chỉ chế tác, nhưng vẫn chưa thể đạt được sự phù hợp, là do các cơ quan có trách nhiệm đã sai lầm trong việc dùng thước để sinh ra luật. Từ đoạn “Trước đó, âm thanh của chuông khánh” đến “dùng thước để sinh ra luật”, đều là luận điểm của Phạm Trấn, bản chí đã lược bỏ, nay tạm ghi lại. Tuy nhiên, luận điểm của Phạm Trấn cũng đã được đề cập sơ lược trong bản tấu tháng 6 năm thứ 4. Cần xem xét thêm.
[81] Lại xem việc làm mới trống Tấn, đỉnh Tam sinh, đao Loan, để bổ sung vào chỗ thiếu của lễ khí. Ban đầu, Giả Xương Triều hầu giảng ở kinh diên, Vua hỏi: “Quẻ Đỉnh nói ‘Thánh nhân nấu để tế Thượng đế’, nay tế giao sao không có đỉnh?” Xương Triều không trả lời được, nói: “Xin cho thần lui về tìm hiểu.” Do đó Vua xuống chiếu cho các quan Lễ bàn. Cho rằng tế giao có việc nấu sinh và dâng chín, bèn sai Nguyễn Dật, Hồ Viện đúc đỉnh đồng, chế đao Loan. Vua tự tay viết tên đỉnh, gọi là Ngưu đỉnh, Dương đỉnh, Thỉ đỉnh, đều đề tên và khắc lên. Ngưu đỉnh chứa được một hộc, Dương đỉnh năm đấu, Thỉ đỉnh ba đấu. Đao Loan cũng do Vua tự tay viết tên và đề lên, các quan có trách nhiệm đều khắc triện ở dưới.
(Đến năm Nguyên Phong thứ nhất, sở Nghị định lễ văn tế tự ở giao miếu bàn rằng đàn Viên Khâu dùng bê, không đặt Dương đỉnh, Thỉ đỉnh và mâm. Tâu xin bãi bỏ. Từ Giả Xương Triều trở xuống, căn cứ vào 《Đế học》, phụ chép ở đây. Sử quan Bồ Tông Mạnh, Lý Thanh Thần nói[13]: Đời gọi nhạc Thái thường là nhã nhạc, nhưng chưa từng dùng trong yến tiệc, há phải vì chính âm không đẹp tai sao?
Nhạc là để vui, đạo của nó tuy vi diệu khó biết, nhưng đến khi tấu lên khiến người ta vui vẻ hòa bình, điều này không cần phải biết âm nhạc mới làm được. Từng lén xem nhạc Thái thường, các nhạc khí như chuông, khánh, huân, trì, bác phụ, cùng với các điệu múa như vũ xuyết, vũ, thược, can, thích, đều là bắt chước cổ nhân. Đến khi tấu lên, người nghe không biết là nhạc, mà người xem chán ngán, há phải cổ nhạc thanh âm thật như vậy sao[14]. Khổng Tử ghét nhạc Trịnh, sợ nó làm loạn thanh nhã nhạc, là vì nó giống mà không phải. Mạnh Tử cũng nói “Nhạc nay cũng như nhạc xưa”. Nhưng nay nhạc Thái thường riêng khác hẳn với nhạc giáo phường, tại sao vậy?
Xưa kia Lý Chiếu, Hồ Viện, Nguyễn Dật đổi đúc chuông khánh, xử sĩ Từ Phục cười mà nói: “Thánh nhân gửi thanh vào khí, không tìm thanh trước mà đổi khí, có dùng được không?” Chiếu, Viện[15], Dật chế tác lâu ngày, cuối cùng không thành.
Người Thục là Phòng Thứ cũng kịch liệt phản đối việc này, bèn viết sách bàn về cổ nhạc và kim nhạc, đầu cuối không xa, đại lược cho rằng: “Thời thượng cổ chất phác, khí và thanh đều mộc mạc, đời sau dần thay đổi. Kim thạch là chuông khánh, đời sau đổi thành phương hưởng; ti trúc là đàn sáo, đời sau biến thành tranh địch; bầu là sáo, gom lại thành đấu; huân là đất, biến thành âu; da là vải gai, đánh thành trống; gỗ là chúc ngữ, xâu thành bản. Tám loại nhạc khí này, đối với đời rất tiện, nhưng người không thông hiểu lại chỉ cho nhạc miếu là bác chung, bác khánh, cung hiên là chính âm, mà cho rằng nhạc Hồ bộ, Lỗ bộ là dâm thanh. Há chẳng biết xe lớn khởi từ bánh gỗ, thuyền rồng sinh từ lá rụng, sự biến đổi là như vậy. Xưa dùng mâm đậu để ăn, đời sau đổi thành chén bát; xưa dùng chiếu tre để nằm, đời sau đổi thành giường bàn. Dù thánh nhân sống lại, cũng không thể bỏ chén bát, giường bàn mà trở về với mâm đậu, chiếu tre chất phác được. Vậy thì tám loại nhạc khí, há khác gì chuyện này. Khổng Tử nói ‘bỏ nhạc Trịnh, nhạc Trịnh dâm đãng’, há phải vì khí không bằng xưa sao? Cũng chỉ ghét thanh của nó đã biến đổi mà thôi. Thử bảo người biết nhạc dùng khí nay, gửi thanh xưa, bỏ đi sự uỷ mị mà trở về trung hòa, nhã chính, thì cảm lòng người, dẫn khí hòa, chẳng phải là âm nhạc thời trị sao! Vậy thì cái gọi là nhã nhạc của đời, chưa hẳn đã như xưa, mà nhạc giáo phường tấu lên, há phải đều là dâm thanh sao.”
Mấy người này rối rít cải chế chuông luật, mà lời bàn của Từ Phục, Phòng Thứ[16], ý chỉ riêng như vậy, nên chép lại lời của họ để đợi người biết âm nhạc vậy[17].)
[82] Ngày Canh Dần, Quang lộc tự thừa, Quốc tử giám trực giảng Hồ Viện được làm Đại Lý tự thừa, Nguyễn Dật bị cách chức được phục chức làm Hộ bộ viên ngoại lang, Nội thị áp ban, Tả Kỳ Kỵ sứ, Anh Châu đoàn luyện sứ Đặng Bảo Tín làm Vinh Châu phòng ngự sứ, Nội cung phụng quan Giả Tuyên Cát làm Nội điện thừa chế, đều vì hoàn thành việc chế tạo chuông luật, nên được đặc cách thăng chức.
[83] Ngày Nhâm Thìn, Nhập nội đô đô tri, Diên Phúc cung sứ, Vũ Tín quân lưu hậu Vương Thủ Trung được làm Nhập nội nội thị tỉnh, Nội thị tỉnh đô đô tri. Gián quan Hàn Giáng tâu rằng việc hoạn quan kiêm quản hai tỉnh là điều chưa từng có trong triều đình, nhưng không được trả lời. Ngự sử Du Hi Mạnh xin từ nay không bổ nhiệm chức đô đô tri ở hai tỉnh nữa, được chấp thuận. Truyện của Hàn Giáng chép rằng bãi chức phán sự nội tỉnh của Thủ Trung, là dựa vào thần đạo bi, nhưng thực tế Thủ Trung vẫn làm đô đô tri hai tỉnh như cũ.
[84] Chiếu rằng từ nay, các nội thần tự kể công lao xin thăng chức, đều giao cho Nhập nội nội thị tỉnh xét định có hợp lý hay không, rồi báo lên Xu mật viện tâu xin chỉ dụ. Những ai đủ tiêu chuẩn thưởng, sẽ được thi hành ngay.
[85] Bãi bỏ chức Câu đương công sự quan của Tam ty đề cử ty, theo lời tâu của Tể thần Trần Chấp Trung. Chức này được đặt từ tháng 12 năm Khang Định nguyên niên.
[86] Tháng này, Nhập nội đô tri Trương Duy Cát tâu rằng, những người làm việc ở Trung tỉnh và Cáp môn có danh vọng tương đương, nhưng ân điển tấu tử chỉ theo lệ của các ty sứ. Xin được theo lệ của Cáp môn sứ, mỗi khi gặp Thánh tiết, Nam giao, được tấu tử một người làm Hữu ban điện trực, anh em cháu chắt làm Phụng chức, anh em cháu chắt họ hàng làm Tá chức. Chiếu rằng khi gặp Nam giao, được tấu tử một người làm Hữu ban điện trực, còn lại không cho phép. Việc này căn cứ vào 《Hội yếu》 và sách biên lục của Thành Đô phủ.
[87] Long Đồ các học sĩ, phán Lưu nội tuyển Trương Phương Bình tâu: “Trước đây nghe nói việc định lại thứ bậc của Đô tri, Áp ban hai tỉnh, đặt vị trí của họ trên các chức Cáp môn sứ, dư luận xôn xao, cho là không đúng. Lúc ấy các cơ quan hữu trách không ai bàn bạc, tùy tiện theo lời thỉnh cầu, đã là sai lầm. Nay lại nghe hai tỉnh xin cho con cháu được hưởng ân trạch, thăng thêm một bậc so với chức vụ hiện tại[18]. Việc này nếu được thực hiện, không chỉ vi phạm pháp độ của tổ tông, làm rối loạn điển chương triều đình, mà còn khiến bệ hạ mang tiếng thiên vị thân cận, đại thần mang tiếng nịnh hót, nội thị bị cho là lộng quyền, gián quan ngự sử bị chê trách là im lặng. Hơn nữa, Đô tri, Áp ban là chức vụ thân cận, nên vì triều đình mà yêu quý thể thống, hành động theo khuôn phép, hết lòng vì công việc. Nay lại xin ân huệ như vậy, làm sao để làm gương cho thiên hạ? Kinh Dịch nói: ‘Giẫm lên sương thì biết băng giá sắp đến’, ý nói phải cảnh giác từ những việc nhỏ. Những chuyện thời Hán, Đường, thần đã từng tâu với bệ hạ, kính mong bệ hạ suy xét kỹ. Việc Đô tri, Áp ban xin ân trạch cho con cháu, xin vẫn theo chế độ cũ.” Việc định lại thứ bậc của Đô tri, Áp ban hai tỉnh, xảy ra vào ngày Nhâm Tuất tháng 5 năm Khánh Lịch nguyên niên. Lời tâu của Phương Bình không rõ thời gian, nay phụ chép sau việc Trương Duy Cát xin ân trạch. Xét rằng Phương Bình vào ngày Nhâm Tuất tháng 7 nhuận năm Hoàng Hựu thứ 5, giữ chức Long Đồ các học sĩ, phán Lưu nội tuyển, đến ngày Giáp Dần tháng 10 thì phán Thái thường tự. Nay đã chép lời tâu của ông vào đây, nên lấy chức Long Đồ các học sĩ, phán Lưu nội tuyển làm chức vụ lúc ông dâng tâu. Cần xem xét thêm. Việc này được chấp thuận hay không, cũng không rõ kết quả ra sao.
[88] Điện tiền đô ngu hầu, Lũng Châu phòng ngự sứ, quyền quản câu Bộ quân ty sự Vương Khải[19], xin được hưởng lương theo quy định lớn. Chiếu cho Khải tạm quản Bộ quân, đặc cách chấp thuận.
[89] Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Thân, mùng một, nhật thực. Tri châu Diệu là Triệu Sư Dân dâng sớ nói: “Mặt trời bị che khuất vào ngày mùng một, việc này tuy là chuyện âm dương, nhưng cũng lo là ý trời muốn cảm động lòng thánh. Thần không phải là quan chuyên xem thiên văn, không biết đạo trời, chỉ xin nói theo ý kiến ngu muội của mình. Tháng đó ở Hợi, Hợi thuộc Thủy, Thủy là chính âm. Ngày đó ở Bính, Bính thuộc Hỏa, Hỏa là chính dương. Mặt trăng che mặt trời, âm lấn dương, là tượng dưới che lấp trên. Kinh Thi nói: ‘Tháng 10 giao hội, ngày mùng một Tân Mão[20].’ Lại nói: ‘Mặt trăng kia mờ, mặt trời này mờ.’ Ý nói âm lấn dương, mất trật tự. Lại nói: ‘Trăm sông sôi sục, núi đồi sụp đổ, bờ cao thành thung lũng, thung lũng sâu thành gò.’ Ý nói dưới lấn trên, xâm phạm quyền lực. Lại nói: ‘Hoàng phụ là khanh sĩ, Phiên làm Tư đồ. Gia Bá làm Tể[21], Trọng Doãn làm Thiện phu. Trâu Tử làm Nội sử, Quệ làm Thú mã, Vũ làm Sư thị.’ Ý nói các bậc đại thần, tiểu thần, có người không xứng đáng. Thời kỳ nhà Chu, Vua đương thời mất đức, nay dẫn dụ, là việc có điều để so sánh, nên không cần kiêng kỵ. Phàm trời hiện tượng, là do Vua có lỗi, nếu không, thì dưới che lấp trên. Lỗi của Vua xưa, không quá bạo ngược lười biếng, xa xỉ buông thả, không theo cổ nhân, ngoài ra, còn lỗi gì nữa? Nay lòng thánh từ nhân cung kính siêng năng, tiết kiệm tự kiểm, mọi việc đều theo điển lễ như vậy, nếu không phải dưới che lấp trên, tà lấn chính, khiến ân chủ không thấu đến dưới, thì lỗi tại ai? Mong bệ hạ ngày đêm hỏi ý các bề tôi tâm phúc, cùng các quan cận thần tai mắt. Người trung thành thuần hậu, thì cùng họ chọn lựa các chức vụ trong ngoài[22] và các quan châu huyện, khiến ân chủ thấu đến dưới, không bị bọn tà che lấp, thì là phúc của muôn dân vậy.”
[90] Chiếu cho Tam ty sứ Điền Huống dự ban nội triều theo thứ tự thạch vị[23], như ngoài cửa thì xếp hàng, tức là ở dưới Quan văn điện học sĩ. Theo chế độ cũ, Tam ty sứ dự ban nội triều xếp bên phải học sĩ, đứng riêng thạch vị, ngoài cửa điện cũng xếp hàng trên. Đến đây, Huống cho rằng Quan văn điện học sĩ Vương Cử Chính là người cũ của nhị phủ, nên cố nhường.
[91] Ngày Mậu Tuất, Lục sự tham quân châu Từ là Lộ Thịnh bị tước một chức quan và bị cách chức. Thịnh vì ngựa chết, tức giận người chăn nuôi không cho ăn đúng giờ, bèn đánh trượng, bắt ôm tảng đá lớn đứng năm ngày đêm, rồi lại đánh trượng. Đại Lý tự xử đánh 80 trượng, tội tư. Vua cho rằng việc làm của Thịnh quá tàn bạo, coi trọng gia súc mà khinh rẻ con người, nên đặc biệt giáng chức.
[92] Ban thóc lụa cho Nguỵ Tường, người ẩn dật ở châu Gia. Tường hơn 70 tuổi, châu này dâng biểu khen ngợi đức hạnh của ông, nên ban thưởng.
[93] Ngày Kỷ Hợi, Hộ bộ thị lang, Tri châu Vận là Bàng Tịch được làm Quan văn điện đại học sĩ; Long đồ các học sĩ, Hình bộ lang trung, Tập hiền điện tu soạn, Tri châu Từ là Lữ Công Xước được phục chức Thị độc học sĩ. 《Tống yếu lục》: Ban đầu, Gián quan và Ngự sử nói rằng Công Xước trước đây làm Tri phủ Khai Phong, nhận chỉ của Tịch xử tử đạo sĩ Triệu Thanh Huống, đánh trượng gần xương sống nên không đến nơi lưu đày đã chết, Công Xước vì thế bị cách chức. Thực ra, đánh trượng Thanh Huống ở sảnh Phán quan, không phải do Công Xước trực tiếp. Công Xước dùng việc Triệu Thanh Huống chết để tự biện minh trước triều đình, Vua xét rõ tình hình, nên cả Tịch đều được phục chức. Khi ấy, Tri gián viện Hàn Giáng ra sức tranh luận, nhưng không được trả lời. Giáng ở nhà chờ tội, Vua sai sứ đến an ủi. Sau đó thăng làm Lễ bộ viên ngoại lang, bãi chức Gián viện. Giáng làm Lễ bộ viên ngoại lang vào ngày Giáp Thân tháng 11, nay phụ chép.
[94] Phán đại tông chính ty Doãn Nhượng tâu rằng con nuôi trong tông thất phải đủ 5 tuổi mới được ban tên và nhận chức quan, không được theo lệ con trưởng mà không hạn tuổi, Vua đồng ý. Việc này xảy ra ngày Đinh Tỵ tháng 7 năm Bảo Nguyên thứ 2, cần xem xét kỹ hơn.
[95] Ngày Đinh Mùi, rước thần vị của các hoàng hậu Minh Đức, Nguyên Đức, Chương Mục vào thờ tại hai điện Trọng Huy và Long Phúc ở chùa Phổ An.
[96] Ngày Nhâm Tý, xuống chiếu cho Tam ty từ nay các kho Bách Vạn ở kinh sư, kho Tả Tàng, ty Đô Thương Thuế, ty Giác Hóa, ty Đông Tây Bát Tác, viện Văn Tư, trường Sự Tài, phường Nam Bắc Tác, trạm Điếm, viện Khúc, kho Nội Hương Dược, viện Tài Tạo, kho Liệu Vật Tác Phường, viện Tây Nhiễm, ty Chiết Bác ở Thiểm Tây, ruộng muối ở Giải Châu, việc mua lương thảo ở vùng biên, các trường trà, ty Giác Hóa, kho Chuyển Ban, kho Mễ, trường khai thác bạc đồng, giám Diêm Tỉnh, vẫn cử quan giám đương như cũ, còn các trường vụ khác có lợi tức không đạt bảy vạn quan thì đều bãi bỏ, giao cho Hữu ty tuyển chọn người thay thế. Đây là theo lời tâu của Tể thần Trần Chấp Trung.
[97] Ngày Quý Sửu, bãi bỏ các chức Đề cử Thôi cương và Bát phát quan ở các lộ.
[98] Ngày Bính Thìn, Vua ngự điện Diên Hòa, triệu tập các phụ thần đến xem xe chỉ nam.
[99] Ngày Đinh Tỵ, Điện trung Thị ngự sử Đường Giới được bổ làm Công bộ Viên ngoại lang, trực tập hiền viện.
[100] Khi Giới vào yết kiến, không nói gì đến việc bị giáng chức, Vua nói: “Trẫm nghe nói từ khi khanh bị giáng chức đến nay, chưa từng có thư riêng gửi về kinh sư, có thể nói là không thay đổi chí hướng.” Giới cúi đầu tạ ơn. Sau đó, Giới nhiều lần bàn luận về được mất, nhân đó tâu với Vua: “Thần từ nay nếu lời nói không được thi hành, tất sẽ cố tranh luận, tranh luận gấp, có thể lại bị cách chức, như vậy là thần làm phiền bệ hạ, xin được giải chức ngôn quan.” Vua đồng ý. Ngự sử Trung thừa Tôn Biện tâu xin lưu Giới lại, hoặc bổ vào chức gián quan, nhưng không được trả lời. Sau đó, Giới được bổ làm Khai Phong phủ Phán quan. Việc Giới làm Phán quan là vào tháng 3 năm sau. Giới sau đó được bổ làm Tri gián viện theo chế độ chương tấu, được ghi rõ vào ngày Mậu Thìn tháng 2 năm Gia Hựu thứ 4.
[101] Xuống chiếu rằng từ mùa xuân đến mùa hạ, nạn châu chấu và hạn hán gây tai họa, hãy lệnh cho các Giám ty khuyên các quan thân dân tìm hiểu lợi hại trong dân gian rồi tâu lên.
[102] Ngày Mậu Ngọ, Trần Thăng Chi, Hà Bắc Chuyển vận sứ, Lễ bộ Lang trung, Tập hiền điện Tu soạn, được bổ làm Thiên Chương các[24] Đãi chế, Đô Chuyển vận sứ.
[103] Ngày Quý Hợi, Tả Vệ Đại tướng quân, Giáng Châu phòng ngự sứ Tông Lễ được phong làm Thành Quốc công, Hữu Đồn Vệ Đại tướng quân, Quang Châu đoàn luyện sứ Thế Vĩnh được phong làm Hòa Quốc công. Tông Lễ là con trưởng của Doãn Thăng; Thế Vĩnh là con trưởng của Thủ Tiết.
[104] Ngày Giáp Tý, để tránh tên húy của thần, đổi tên Trấn Quốc quân thành Trấn Đồng quân.
[105] Tháng 11, ngày Đinh Mão, triều đình làm lễ tế tại Cảnh Linh cung.
[106] Ngày Mậu Thìn, làm lễ tế tại Thái Miếu và Phụng Từ miếu.
[107] Ngày Kỷ Tỵ, hợp tế trời đất tại Viên Khâu, ban lệnh đại xá.
[108] Trước đó, Đoan Minh điện học sĩ kiêm Long Đồ các học sĩ Trương Phương Bình tâu rằng thuế má ở vùng kinh kỳ quá nặng, vì thế triều đình ban chiếu giảm thuế hai loại (lưỡng thuế) của các huyện thuộc Khai Phong phủ, giảm ba phần so với mức cũ, và lấy đó làm định lệ mãi mãi.
[109] Ngày Đinh Sửu, ban ơn cho trăm quan.
[110] Ngày Mậu Dần, ban chiếu cho Tần Phượng kinh lược ty, nói rằng hơn 700 quan chức người phiên được bổ nhiệm ở địa phương này phần nhiều yếu đuối, không thể thống lĩnh bộ tộc, từ nay nên chọn người trẻ tuổi, khỏe mạnh và có dũng lực để đảm nhận chức vụ này.
[111] Trấn Đông lưu hậu Lý Đoan Nguyện trước đây nhận mệnh làm Tri châu Việt Châu, chưa kịp nhậm chức thì người đi theo đánh chết người, Ngự sử Du Hi Mạnh hặc tội, ngày Đinh Hợi, đổi làm Tri châu Tương Châu.
[112] Ban thưởng tiền đặc biệt cho binh lính tham gia xây thành ở Tứ Xuyên Hạp Tây lộ[25].
[113] Ngày Mậu Tý, Hàn Lâm học sĩ Tăng Công Lượng và Ngự sử trung thừa Tôn Biện được lệnh xóa bỏ các khoản nợ còn thiếu trong năm nay của cả nước.
[114] Ngày Kỷ Sửu, Hàn Lâm học sĩ Tiền Minh Dật và Long Đồ các trực học sĩ Trương Quỹ được giao xem xét và biên soạn danh sách tội nhân bị lưu đày.
[115] Ngày Canh Dần, bãi bỏ chức vụ chuyển vận phán quan của Kinh Hồ Nam lộ, Giang Nam Tây lộ và Quảng Nam Đông Tây lộ.
[116] Ngày Tân Mão, Quyền quản câu Ty Thiên giám sự Chu Tông dâng lên ba quyển sách về chiêm tinh trong quân đội, triều đình ban chiếu gửi vào Bí các.
[117] Tháng mười hai, ngày Đinh Dậu, ty An phủ Quảng Tây tâu rằng bắt được mẹ của Nùng Trí Cao là A Nùng cùng em Trí Cao là Trí Quang và các con là Kế Tông, Kế Phong. Triều đình ra chiếu đưa họ về kinh sư. A Nùng có mưu trí, Trí Cao đánh chiếm các thành ấp đều dùng kế của bà, tự xưng là Hoàng thái hậu. Bà tính tình độc ác, thích ăn thịt trẻ con, mỗi bữa ăn đều giết trẻ con. Trí Cao thua chạy, A Nùng vào giữ Đặc Ma, nương nhờ chồng là Nùng Hạ Khanh, thu tàn quân khoảng hơn ba nghìn người, luyện tập kỵ chiến, định lại xâm lấn. Dư Tĩnh đốc thúc các quan lại là Hoàng Phần, Hoàng Hiến Khuê, Thạch Giám và tiến sĩ Ngô Thuấn Cử phát động binh lính động đánh úp vào Đặc Ma, bắt được cả em và con của Trí Cao.
[118] Ngày Canh Tý, Đoan minh điện học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ, Cấp sự trung Trương Phương Bình được gia chức Hàn lâm thị độc học sĩ, nhận chức Tri Tần châu, thay thế Trương Biện.
[119] Trước đó, Trương Biện ra lệnh cho Bộ thự Lưu Hoán đánh dẹp người Khương nổi loạn, nhưng Hoán chần chừ không tiến quân. Biện tâu xin dùng Quách Ân thay thế. Ân đã giết được nhiều quân địch, Hoán ghen tức vì Ân lập công hơn mình, bèn dối tâu rằng Ân chỉ giết toàn người già và trẻ con. Triều đình nghi ngờ, nên cách chức Biện và cử Phương Bình đến thay, đồng thời điều Hoán về Kinh Nguyên. Phương Bình cố từ chối, nói: “Hoán và Biện có thứ bậc, nay cả hai đều bị cách chức, việc chỉ huy không thể làm được.” Nhờ đó, Biện không bị cách chức. Sau đó, Phương Bình được bổ nhiệm làm Tri Hoạt châu. Truyện của Biện chép rằng Hoán vì công chiếm thành không thuộc về mình nên dối tâu Ân giết nhiều người già trẻ. Xét ra, Hoán và Ân cùng tiến quân, nhưng Ân bắt được nhiều thủ cấp nhất. Trong trận này, Hoán thực sự được thưởng, sao có thể nói công không thuộc về mình? Có lẽ Biện ban đầu thấy Hoán không tiến quân kịp thời nên tâu xin dùng Ân thay Hoán, nhưng chưa được phê chuẩn thì Hoán đã cùng Ân đánh bại giặc. Hoán oán Biện định dùng Ân thay mình, lại ghen tức vì Ân lập công nhiều, bèn vu cáo Ân và cả Biện, nên triều đình muốn cách chức cả hai. Việc Biện được điều về Thanh Châu xảy ra trước đó, thực ra là hai việc khác nhau, nhưng bản truyện gộp làm một, khó mà khảo cứu. Nay tham khảo mộ chí của Phương Bình để sửa lại.
[120] Ngày Ất Tỵ, ghi nhận con trai của Chỉ huy sứ Trung hiệu Chu Trung là Trần Lưu làm Điện thị ban Trà tửu, Sai sứ Tam ban, vì Chu Trung tử trận khi đánh giặc Man.
[121] Ngày Mậu Thân, ra chiếu rằng quân sĩ đào ngũ, bắt được chưa xét xử mà lại đào ngũ lần nữa, chỉ xử tội một lần; nếu đã xét xử nhưng chưa quyết án mà lại đào ngũ thì xử tội tích lũy.
[122] Ngày Canh Tuất, ra chiếu cho các lộ Chuyển vận sứ phó, Đề điểm hình ngục không được giam giữ tội nhân lâu ngày.
[123] Lại ra chiếu rằng trong sách xá tội Nam Giao, các hộ thuộc đẳng thứ tư và thứ năm còn thiếu thuế đều được miễn trừ. Từ nay phải nộp đủ bảy phần trở lên mới được coi là thiếu thuế, và lấy đó làm định lệ.
[124] Ngày Quý Sửu, ra chiếu rằng các chức Đô tri, Áp ban của Nội thị tỉnh, nếu chưa đủ 50 tuổi và trong quá trình làm quan có phạm tội tham nhũng, tư lợi thì không được bổ nhiệm.
[125] Ngày Bính Thìn, ra chiếu rằng những người ở Xuyên Hạp bị thích chữ và phối làm lính ở nội địa, nếu gặp lúc tuyển chọn dừng lại, từ nay không được thả về, và lệnh cho các cửa ải thường xuyên kiểm soát.
[126] Ngày Đinh Tỵ, ra chiếu cho An phủ ty Quảng Tây, lấy châu Liêm thuộc về châu Dung, châu Cung để đề cử.
[127] Ngày Mậu Ngọ, ra chiếu rằng: “Chức vụ Chuyển vận vốn là để làm trong sạch quan lại, vỗ yên dân chúng, há chỉ chuyên việc đòi hỏi để bóc lột dân sao? Ai có thể hoàn thành thu nhập hàng năm để tăng thêm lợi nhuận[26], thì để lại dùng cho bản lộ, không được tiến dâng phần thừa. Phải làm nhẹ sức dân, để xứng với lòng Trẫm.”
[128] Ngày Kỷ Mùi, Tham tri chính sự Lưu Hãng đề cử biên soạn sách lệ tục biên của Ngũ phòng Trung thư. Người biên soạn trước đây là Tống Thụ, đã nói là tục biên thì ắt có sơ biên, 《Hội yếu》 cũng chỉ ghi đến đây. Việc của Thụ ở tháng 9 năm Cảnh Hựu thứ 2.
[129] Ngày Canh Thân, Thái thường bác sĩ Ngô Trung Phục được bổ nhiệm làm Giám sát Ngự sử Lí hành, do Trung thừa Tôn Biện tiến cử. Trung Phục là người Hưng Quốc quân, từng làm Tri huyện Kiền Vi, có chính sách tốt. Biện chưa từng gặp mặt ông, liền tâu xin bổ nhiệm làm thuộc quan trong đài. Có người hỏi, Biện nói: “Người xưa lấy làm xấu hổ khi làm Ngự sử trình thân, nay há lại tiến cử quan đài đã quen mặt sao[27]!” Xét 《Chính yếu》 của Trương Đường Anh cho rằng Nhân Tông tự hỏi, nhưng 《Chính yếu》 nhiều chỗ sai, nay không theo.
[130] Ngày Tân Dậu, Quốc mẫu nước Khiết Đan sai Lâm nha Lâm Hải Tiết độ sứ, Tả vệ Đại tướng quân Gia Luật Thứ Trung, Hạ Châu Quan sát sứ kiêm Đông thượng các môn sứ Lý Trọng Hi; Khiết Đan sai Thủy Bình Tiết độ sứ Gia Luật Kỳ, Sùng lộc khanh Chu Bạch đến chúc mừng ngày Chính đán. Sứ giả Khiết Đan đến, thỉnh cầu rằng: “Xin được xem nhạc tông miếu rồi về.” Vua hỏi, Tể tướng Trần Chấp Trung nói: “Nhạc không phải tế tự thì không diễn, xin lấy lẽ đó mà từ chối.” Xu mật phó sứ Tôn Miễn nói: “Điều này có thể nói nhưng chưa đủ để ngăn họ, xin nói rằng: ‘Nhạc tông miếu diễn ra là để ca ngợi công đức của tổ tiên. Nếu sứ giả có thể ở lại cùng chúng tôi tế lễ, thì có thể xem.'” Vua sai người nói lại, sứ giả bèn rút lui.
[131] Có người từng làm quan ngoài, dẫn các võ thần khác dâng sớ xin thăng chức, Vua nói: “Pháp luật không cho phép.” Họ vẫn không thôi, Vua bảo với Miễn, Miễn nói: “Xin cho thần lui ra hỏi họ.” Rồi triệu đến hỏi: “Trước đây ngươi ở biên giới, có quân đội đáng lẽ được cấp lụa, ngươi không cấp kịp thời, tại sao?” Đáp: “Lụa là của quan, không dám tùy tiện cho người.” Lại hỏi: “Có người đánh trận đáng lẽ được tâu công, ngươi không tâu kịp thời, tại sao?” Đáp: “Đó là may mắn được thưởng, nên không tâu.” Miễn nói: “Ngươi biết thế mà lại tự làm, tại sao?” Tất cả đều sợ hãi lạy hai lần rồi vội vàng ra về. Việc này căn cứ theo bia mộ và thần đạo bi của Tôn Miễn.
[132] Trước đó, Giả Xương Triều kiến nghị: “Nhà Hán, Đô đô Ung, đặt các quận phụ, bên trong hỗ trợ kinh sư. Triều đình ta đô ở Biện, mà các quận gần kinh đều thuộc các đạo khác, chế độ không xứng với vương kỳ. Xin chia các châu Tào ở phía đông kinh, các châu Trần, Hứa, Trịnh, Hoạt ở phía tây kinh cùng phủ Khai Phong, tổng cộng 42 huyện làm kinh kỳ.” Vua nghe theo. Ngày Nhâm Tuất, ra chiếu lấy năm châu Tào, Trần, Hứa, Trịnh, Hoạt làm quận phụ, thuộc vào kinh kỳ, đặt chức Kinh kỳ chuyển vận sứ. Năm châu mỗi nơi thêm một viên Kiềm hạt, châu Tào thêm một viên Đô giám, để lại 3000 quân đồn trú, thường xuyên luyện tập. Nếu đi đóng quân, thì điều quân từ các huyện gần phủ Khai Phong hoặc các châu lân cận để bổ sung.
[133] Thiên Chương các trực học sĩ, Lại bộ lang trung Vương Chí làm Xu mật trực học sĩ[28], Kinh kỳ thủy lục kế độ chuyển vận sứ.
[134] Năm đó, thiên hạ nộp số hộ khẩu lên Hộ bộ, chủ hộ 6.937.380, khẩu 15.597.450; khách hộ 3.855.325, khẩu 6.695.411.
[135] Tả ty gián Giả Ám dâng lời tâu: “Thiên hạ không có việc gì, năm được mùa, thì dân chúng an vui, cha con bảo bọc nhau. Một khi gặp hạn hán, lũ lụt, thì lưu lạc chết chóc, bỏ rơi ngoài đường. Mở kho lương cứu tế thì không đủ, bắt người giàu đóng góp thì sức không kham, chuyển vận từ xa thì không kịp việc, di dân đến nơi có lương thực thì gần xa đều khốn đốn. Quan lại triều đình, quận huyện, vội vàng không biết làm sao, thì dân đói chết đã quá nửa. Tai họa hạn hán, lũ lụt, dù Nghiêu, Thang cũng không tránh khỏi, nay không nghĩ cách phòng bị tai họa, mà hàng năm mong được mùa, thì là cầu điều mà Nghiêu, Thang cũng không chắc được. Thần từng đọc sử nhà Tùy, thấy việc lập dân xã nghĩa thương, thu vào đúng lúc mà cất giữ trong dân, dưới đủ để phòng tai họa, trên thực không có lợi gì. Xin noi theo chế độ nhà Tùy, hạ chiếu cho các châu quân trong thiên hạ, gặp năm được mùa, lập pháp khuyến khích tích trữ để phòng tai họa. Đó là điều Mạnh Tử nói ‘Năm được mùa thóc gạo đầy tràn, thu nhiều cũng không phải là tàn bạo’, huống chi thu về để giúp dân!” Triều đình giao việc này cho Tư nông tự, lại sai Lý Đoái cùng Giả Ám bàn bạc rồi tâu lên. Sau đó hạ lệnh cho các lộ xem xét khả thi hay không, nhưng chỉ có bốn lộ cho là khả thi, còn lại hoặc nói ngoài thuế má còn phải cung nạp hai lần, hoặc sợ sinh trộm cướp[29], hoặc nói đã có thường bình thương đủ cung cấp, hoặc nói lập kho phiền nhiễu.
[136] Hàn Ốc lại dâng tấu nói: “Thần từng xử lý việc ở Thượng thư Hình bộ, thấy mỗi năm trong thiên hạ xử tội chết có đến hơn bốn nghìn người, trong đó phần lớn là trộm cướp. Xét nguyên nhân, là do dân ngu bị đói rét bức bách, lại gặp thiên tai hạn hán, nên bị oan uổng vào tội nặng. Vì vậy, thần xin lập kho nghĩa thương ở các xã để phòng khi mất mùa. Nay các lộ trình bày đều là bàn luận sai lầm. Nếu nói rằng ngoài thuế má còn phải nộp thêm hai lần, thì ý nghĩa của kho nghĩa thương là dạy dân tích trữ để phòng hạn hán, quan phủ đặt ra pháp luật, không phải vì lợi riêng, thực hiện lâu ngày, dân chắc sẽ vui vẻ nộp.
Nếu nói sợ sinh ra trộm cướp, thì trộm cướp thích của nhẹ, không thích lúa mạch, nay các nhà giàu ở thôn quê có chứa đến mấy vạn hộc lúa, cũng chưa nghe có nỗi lo bị cướp bóc. Hơn nữa, trộm cướp nổi lên vốn do nghèo khổ. Thần đề nghị việc này là muốn dân có tích trữ, dù gặp hạn hán cũng không lo thiếu thốn, thì mọi người sẽ tự yêu quý bản thân và coi trọng pháp luật, đó chính là cái gốc để tiêu trừ trộm cướp. Nếu nói đã có kho thường bình đủ để cấp phát, thì việc lập kho thường bình là để điều hòa giá lúa, không để quá đắt quá rẻ gây thiệt hại. Nếu gặp năm đói kém, phát ra để cứu tế, thì đã mất đi ý nghĩa ban đầu, mà chi phí của kho thường bình lại lấy từ công khố, hiện nay quốc dụng đang thiếu thốn, tích trữ không nhiều.
Những năm gần đây không phải không có kho thường bình, nhưng chỉ cần hạn hán nhỏ là dân đã phải lưu lạc chết đói, nổi lên làm giặc, như vậy kho thường bình quả thật không đủ để trông cậy vào việc cứu tế. Nếu nói rằng xây dựng kho tàng, thu gỗ gây phiền nhiễu, thì thần nghe nói ‘Dùng đạo nghỉ ngơi để sai khiến dân, dù vất vả cũng không oán’. Việc lập kho nghĩa thương vốn là vì dân, nếu giải thích rõ ràng, quy định nghiêm ngặt, thì dân dù ngu cũng không nên sợ hãi. Huống chi hiện nay các châu huyện sửa chữa trạm dịch, đều thu góp từ dân, lẽ nào riêng kho nghĩa thương lại sợ phiền nhiễu? Lòng người có thể cùng vui khi thành công, nhưng không thể cùng bàn khi bắt đầu, nếu lời thần có thể dùng được, xin triều đình quyết định rồi thi hành.”
Nhưng lúc đó bị các ý kiến khác chi phối, cuối cùng không thực hiện được.
- 'biết mà nói' nguyên văn là 'không nói', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản, Các bản sửa. 《Tống Đại Chiếu Lệnh Tập》 quyển 166 viết 'biết không thể mà nói là lừa dối', cũng có thể chứng minh. ↵
- Triều đình trước đây xây thành ở ngoài biên giới, chữ 'giả' nguyên là 'nhật', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 quyển 9 về việc Nhân Tông xây dựng thành Cổ Vị trại mà sửa. ↵
- Hạng Thành, các bản đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 300, bản truyện chép là 'Tu Thành'. ↵
- Đây là vì đói quá, các bản đều giống nhau. Bản Tống, 《Tống toát yếu》 và 《Tống sử》 đều chép là 'Đây là để thoát chết'. ↵
- Câu văn đứt đoạn xếp loại dưới, các bản đều giống nhau. 'Dưới', bản Tống, bản Tống toát yếu chép là 'không thông', Tống hội yếu tuyển cử 12-31 chép là 'phủ'. ↵
- Cửu kinh, các bản đều giống nhau. Cùng trên, Tống hội yếu chép là 'Cửu kinh, Ngũ kinh', Trị tích thống loại quyển 28 Tổ tông khoa cử thủ nhân chép là 'phàm kinh', nghi là 'phàm kinh' đúng. ↵
- Tám con 'con' trên nguyên bản có chữ 'trăm', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 quyển 9, 《Nhân Tông trúc Cổ Vị Trại》 xóa. ↵
- Sao ghi chép của ông lại chính xác đến vậy, các bản đều giống nhau. Trong 《Tống sử》 viết là 'Sao ghi chép của ông lại như vậy', có lẽ đúng là thế. ↵
- Chữ 'thời' nguyên bản là 'đắc', căn cứ vào bản trong các sách và chú thích của Lý Đào ở đoạn dưới ngày Canh Tý tháng 12 mà sửa lại. Sách 《Tống sử》 cũng chép là 'đậu nạo bất thì tiến', có thể chứng minh. ↵
- Chiếu cho Ty Chuyển vận sứ lộ Ích, Tử, các bản đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 phương vực 8/3 chép là 'Chiếu cho Ty Chuyển vận sứ lộ Ích, Tử, Quỳ', nghi ngờ chữ 'Châu' trong 《Hội yếu》 là sai, chữ 'Lợi' mới đúng, sách này chép 'Lộ Ích Tử Châu' cũng nên là 'Lộ Ích Tử Lợi Quỳ'. ↵
- chữ 'ngự' trong 'ngự Sùng Chính điện' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 quyển 2 phần 2 mục 8 và 《Tống sử》 quyển 127 phần Nhạc chí bổ sung. ↵
- Chữ 'khánh' nguyên bản là 'luật', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt của Tống và chú thích của Lý Đào trong điều này, cùng với 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Sử quan Bồ Tông Mạnh, Lý Thanh Thần nói: Theo câu này trở xuống, chữ nhỏ trong bản Tống và quyển 7 《Trị tích thống loại》 về việc bàn luận khác nhau về nhạc năm Hoàng Hựu đều là chữ lớn trong phần chính văn. ↵
- Thật như vậy sao, chữ 'thật' nguyên là 'trực', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- Viện nguyên là 'Nguyễn', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31 về việc định lại nhạc năm Hoàng Hựu, cùng 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- Luận nguyên là 'Dụ', theo các bản trên và 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- Để đợi người biết âm nhạc vậy, chữ 'đợi' nguyên là 'hậu', theo các bản trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 31 về việc định lại nhạc năm Hoàng Hựu, cùng 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- so với chức vụ hiện tại thăng thêm một bậc, chữ 'kiến' nguyên là 'thị', căn cứ theo 《Lạc Toàn tập》 quyển 25, bài 'Luận nội thần tấu ấm tử đệ' sửa lại. ↵
- Vương Khải, chữ 'Vương' nguyên là 'Ngọc', căn cứ theo các bản khác sửa lại. 《Tống sử》 quyển 255 có truyện Vương Khải. ↵
- Ngày mùng một Tân Mão, chữ 'nguyệt' nguyên bản là 'nhật', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 《Thập Tam Kinh Chú Sớ - Mao Thi Chính Nghĩa》 sửa lại. ↵
- Gia Bá làm Tể, chữ 'Duy' nguyên bản là 'Trủng', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và sách 《Thập Tam Kinh Chú Sớ - Mao Thi Chính Nghĩa》, 《Tống Sử》 quyển 294, truyện Triệu Sư Dân sửa lại. ↵
- Các chức vụ trong ngoài, chữ 'chức', bản Tống, bản Các làm 'chấp', 《Tống Sử》 làm 'chấp sự'. ↵
- 'thạch' nguyên là 'hữu', căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 nghi chế 3-23 sửa lại. Dưới đây 'độc lập thạch vị' cũng tương tự. ↵
- Chữ 'các' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Tứ Xuyên Hạp Tây lộ: Theo sách 《Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên》 quyển 48, năm Hàm Bình thứ 4, tháng 3, ngày Tân Tỵ có ghi 'chia Tứ Xuyên Hạp chuyển vận sứ thành bốn lộ: Ích, Tử, Lợi, Quỳ', 《Cửu Vực Chí》 quyển 7 cũng ghi 'năm Hàm Bình thứ 4 chia thành bốn lộ: Ích, Tử, Lợi, Quỳ', nghi ngờ 'Tây lộ' là sai sót của 'Tứ lộ'. ↵
- Chữ 'doanh' nguyên là chữ 'ích', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống đại chiếu lệnh tập》 quyển 193, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 sửa lại. ↵
- há lại tiến cử quan đài đã quen mặt sao 'Quan' nguyên là 'Lang', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Uyển diễm tập》 hạ biên quyển 15, 《Đông đô sự lược》 quyển 75, 《Tống sử》 quyển 322 Ngô Trung Phục truyện, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 trên sửa lại. ↵
- Chữ 'mật' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống, bản các bổ sung. ↵
- Hai chữ 'trộm cướp' nguyên bản đảo lộn, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 44 nghĩa thương sửa lại. ↵