IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 181: NĂM CHÍ HÒA THỨ 2 (ẤT MÙI, 1055)
Từ tháng 9 năm Chí Hòa thứ 2 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 9, ngày Bính Thìn (mùng một), xuống chiếu ngừng triều chính 7 ngày vì việc tang của Khiết Đan chủ, cấm âm nhạc ở kinh đô, Hà Bắc, Hà Đông và các vùng biên giới trong 7 ngày, đồng thời chọn ngày mặc tang phục và cử hành lễ ai, lệnh cho Lễ viện xem xét quy định rồi tâu lên.
[2] Ngày Đinh Tị (mồng 2), Tả Vũ vệ Đại tướng quân Khắc Tủng được phong làm Hữu Thiên Ngưu vệ Đại tướng quân, vì Khắc Tủng xin thi ở Viện Học sĩ nên được bổ nhiệm. (Sự việc này xảy ra vào tháng 6 năm Hoàng Hựu thứ 5).
[3] Xuống chiếu rằng từ nay các quan lại dâng gia tập sẽ được cấp thưởng tùy theo mức độ, không còn ban ân đặc biệt nữa.
[4] Xuống chiếu rằng Hà Bắc là nơi căn bản của thiên hạ, nhưng quan lại phần nhiều không xứng đáng, lo rằng khi có việc gấp sẽ hỏng việc, nên lệnh cho Tứ Lộ An phủ ty điều tra năng lực của các tri châu và chủ binh quan, rồi tâu danh sách lên.
[5] Ngày Mậu Ngọ (mồng 4), Khiết Đan cử Hữu Tuyên huy sứ, Trung Thuận Tiết độ sứ, Tả Kim Ngô vệ Thượng tướng quân Gia Luật Nguyên Hanh đến báo tang. Vua mặc tang phục ở điện Nội Đông Môn, các tể thần dẫn trăm quan đến cửa Đông Hoành dâng danh sách để bày tỏ sự chia buồn.
[6] Ngày Tân Dậu (mồng 7), Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Dĩnh Châu Phòng ngự sứ Tông Nhan qua đời, được truy tặng Chiêu Tín Tiết độ sứ, Tùy Quốc công, thụy là Chiêu Dụ, đặc cách cấp lễ nghi tang lễ, vì mẹ ông từng là nhũ mẫu của Vua.
[7] Ngày Quý Hợi (mồng 9), xuống chiếu rằng từ nay các viện Học sĩ, Xá nhân khi triệu tập thi cử, những người chưa có khoa danh phải thi lại ba đề.
[8] Ngày Đinh Mão (13), xuống chiếu: “Từ khi sông Thương Hồ vỡ đê, nước sông lớn đổ vào đê Kim Đê, dần trở thành mối lo của Hà Bắc. Con đường cũ lại thêm Hà Bắc, Kinh Đông bị đói kém, chưa thể khởi công. Nay Lý Trọng Xương, người phụ trách việc sông ngòi, muốn dẫn nước vào sông Lục Tháp, để đưa nước trở lại con sông cũ Hoành Lũng, nhằm giải quyết tình thế cấp bách trước mắt. Lệnh cho các quan từ Lưỡng chế trở lên, cùng các quan Đài gián và Hà cừ ty cùng xem xét việc khơi thông con đường cũ, tu sửa sông Lục Tháp, rồi tâu lên lợi hại.”
[9] Ngày Mậu Thìn, Vua xuống chiếu cho Viện đề cử y quan: “Từ nay khi thi y quan, đều phải hỏi về nguồn gốc bệnh, bắt dẫn chứng từ các sách y kinh bản thảo, nói rõ xuất xứ của thuốc từ châu nào, công dụng chữa bệnh, tính vị, tương khắc, cách bào chế, thứ tự quân thần tá sứ, tỷ lệ khinh trọng kỳ ngẫu. Mỗi kỳ thi 10 câu, đạt 6 câu là đỗ.”
[10] Ngày Bính Tý, Âu Dương Tu tâu rằng: “Thần thấy Học sĩ viện tập hợp bàn việc tu sửa sông ngòi, nhưng chưa có kết luận rõ ràng. Nguyên nhân là do Giả Xương Triều muốn khôi phục dòng sông cũ[1], còn Lý Trọng Xương lại đề nghị khai thông sáu tháp, hai bên đều giữ ý kiến riêng, không biết ai đúng ai sai. Thần ngu muội cho rằng cả hai đều không hợp lý. Những người nói về dòng sông cũ chưa hiểu rõ nguồn gốc lợi hại, còn những người đề cập đến sáu tháp thì gần như là lừa dối.
Nay những người cho rằng dòng sông cũ có thể khôi phục, chỉ thấy nạn lũ lụt ở Hà Bắc mà muốn đưa nước trở lại Kinh Đông. Nhưng họ không nghĩ đến nguyên nhân sông Hoàng Hà liên tục vỡ đê từ niên hiệu Thiên Hy, nên không biết rằng dòng sông cũ có tình thế không thể khôi phục. Đó là lý do thần cho rằng họ chưa hiểu rõ nguồn gốc lợi hại. Còn nếu nói về lợi ích của sáu tháp, thì không cần bàn cãi cũng tự thấy sai lầm. Hơn nữa, những người đề nghị khai thông sáu tháp nói rằng có thể giảm được thế nước lớn của sông[2], nhưng nay sáu tháp đã được khai thông, mà nạn lụt ở Ân, Ký vẫn còn báo cáo về tình trạng nước chảy xiết. Điều này cho thấy lợi ích giảm nước là hư ảo, chưa thấy được lợi ích thực sự[3].
Lại có người nói rằng khai thông sáu tháp có thể đưa toàn bộ dòng sông lớn trở lại, khôi phục dòng cũ Hoành Lũng. Nhưng hiện nay, sáu tháp chỉ là nơi phân chia giảm nước, dòng sông khác ở hạ lưu không có chỗ chảy về[4], đã gây ra nạn lụt cho Tân, Lệ, Đức, Bác. Nếu đưa toàn bộ dòng sông lớn vào sáu tháp, thì hậu quả sẽ như thế nào? Đó là lý do thần cho rằng gần như là lừa dối. Hơn nữa, thần nghe nói sông vốn là bùn cát, không thể không bị bồi lấp. Tình thế bồi lắng thường bắt đầu từ hạ lưu. Hạ lưu bị bồi cao, nước chảy không nhanh, dần dần bị tắc nghẽn, rồi vỡ đê ở những chỗ thấp của thượng lưu, đó là quy luật tự nhiên. Nhưng tránh cao tìm thấp là bản tính của nước, nên dòng sông đã bỏ đi từ xưa khó mà khôi phục được. Thần không dám dẫn chứng xa xôi từ sử sách, chỉ xin lấy dòng sông cũ mà nay muốn khôi phục, nói về nguyên nhân sông Hoàng Hà liên tục vỡ đê từ niên hiệu Thiên Hy đến nay.”
[11] Ban đầu, vào niên hiệu Thiên Hy, sông Hoàng Hà chảy về phía đông kinh thành, nước chảy theo con đường cũ mà ngày nay gọi là đạo cũ. Nước đã bị bồi lấp, nên đã vỡ đê Thiên Đài Tảo, sau đó được đắp lại và khôi phục con đường cũ. Không lâu sau, lại vỡ đê ở miếu Thiết Cẩu phía nam Hoạt Châu, tức là đê Long Môn Tảo ngày nay. Mấy năm sau đó, lại đắp đê và khôi phục con đường cũ. Rồi sau đó lại vỡ đê Vương Sở Tảo, chỗ vỡ nhỏ hơn, chia dòng với con đường cũ, nhưng nước ở con đường cũ cuối cùng vẫn bị bồi lấp, nên lại vỡ lớn ở Hoành Lũng. Điều này chứng tỏ rằng việc vỡ đê không phải là không thể đắp lại, con đường cũ không phải là không thể khôi phục, nhưng việc khôi phục không lâu dài, cuối cùng sẽ lại vỡ ở thượng nguồn, là do con đường cũ bị bồi lấp cao mà nước không thể chảy được. Khi Hoành Lũng đã vỡ[5], nước chảy xuống thấp, nên trong hơn mười năm, sông Hoàng Hà không gây tai họa. Đến năm Khánh Lịch thứ ba, thứ tư, nước ở Hoành Lũng lại bị bồi lấp trước ở cửa biển hạ lưu, tổng cộng hơn một trăm bốn mươi dặm. Sau đó, ba con sông Du, Kim, Xích lần lượt bị bồi lấp. Hạ lưu đã bị tắc, nên vỡ đê ở cửa Thương Hồ thượng nguồn[6]. Như vậy, con đường cũ của hai con sông Kinh Đông và Hoành Lũng đều là nơi hạ lưu bị bồi lấp, nước sông đã bỏ đi vùng đất cao. Con đường cũ Kinh Đông, nhiều lần khôi phục rồi lại vỡ, lý lẽ không thể khôi phục, bằng chứng rất rõ ràng. Vậy thì việc khôi phục con đường cũ ở Lục Tháp là không thể, không cần nói cũng dễ hiểu.
[12] Trước đây, những người bàn luận về việc tính toán công trình khôi phục con sông cũ ở phía đông kinh thành, chỉ nói rằng đất đai từ Đồng Thành trở lên là cao, mà không biết rằng nhìn chung phía đông đều cao, còn từ Đồng Thành trở lên lại đặc biệt cao. Phía đông so với Đồng Thành trở lên thì có vẻ thấp hơn một chút, nhưng so với Thương Hồ trở lên thì thực sự cao. Nếu nói rằng địa thế phía đông Đồng Thành đột ngột thấp xuống[7], thì lẽ ra nước ngày đó phải chảy và vỡ đê từ Đồng Thành trở lên, vì sao lại đột nhiên bồi lấp cửa Hoành Lũng, và cũng vì sao lại vỡ đê lớn? Tuy nhiên, hai con sông cũ đều không thể khôi phục được, vậy thì làm thế nào để giải quyết nạn lụt ở Hà Bắc? Thần nghe rằng người trí tuệ khi đối mặt với việc không thể chắc chắn, thì so sánh mức độ nặng nhẹ của lợi hại, chọn việc ít hại hơn mà làm, vẫn tốt hơn là việc nhiều hại mà ít lợi, huống chi là việc chỉ có hại mà không có lợi. Ba điều này có thể so sánh và lựa chọn.
[13] Lại nữa, thần thấy năm trước khi sông Thương Hồ mới vỡ, bàn định muốn tu sửa đắp đê, tính dùng 1.800 vạn bó cỏ, phân bổ cho hơn 100 châu quân thuộc sáu lộ. Nay muốn đắp đê ngăn sông Thương Hồ như năm trước, ắt phải dùng số lượng vật liệu như năm trước. Còn việc đào lại lòng sông cũ[8], Trương Khuê tính toán chi phí rất lớn, sau đó Lý Tham giảm bớt, vẫn cần 30 vạn người. Nhưng muốn dùng lòng sông hẹp 50 bước để chứa nước sông lớn, điều này thật đáng cười. Lại muốn tăng khối lượng đào đất của một người từ 3 thước vuông lên gấp đôi thành 6 thước, rộng dày 3 thước mà dài 6 thước, tức là gấp đôi công sức, đối với sức người đã là vất vả. Nếu nói 6 thước vuông, tính theo phương pháp khai phương, tức là gấp 8 lần công sức, đây há phải sức người có thể làm nổi? Như vậy thì công việc trước vừa lớn vừa khó thực hiện, công việc sau tuy nhỏ nhưng không thực tế. Đại để việc đắp đê ngăn sông Thương Hồ và đào lại lòng sông cũ, hai việc lớn này đều làm hao tổn quốc lực và vất vả cho dân. Đề xuất như vậy, mà muốn đào lại lòng sông cũ đã nhiều lần vỡ đê, khiến tốn kém vô ích, sông Thương Hồ không thể ngăn, lòng sông cũ không thể khôi phục, đây chính là cái gọi là có hại mà không có lợi vậy. Dù may mắn tạm thời ngăn được[9], để giải quyết nỗi lo trước mắt, nhưng cuối cùng thượng nguồn ắt sẽ vỡ, như Long Môn, Hoành Lũng trước kia, lại làm hao tổn quốc lực và vất vả cho dân, đây chính là cái gọi là lợi ít mà hại nhiều vậy.
[14] Nếu như đê Lục Tháp, đối với sông lớn có tiếng là giảm nước, nhưng thực tế không giảm được tai họa. Nay nước chảy xuống hạ lưu đã gây ra nhiều tai họa, nếu toàn bộ dòng sông lớn quay lại đổ vào đó, thì các châu Tân, Lệ, Đức, Bác ở phía bắc sông, vốn dựa vào sông, sẽ không chịu nổi tai họa, mà lòng sông cũ lại bị bồi lấp, thượng lưu ắt sẽ có nguy cơ vỡ đê chỗ khác, điều này thực sự chỉ có hại mà không có lợi, đó là điều mà người khôn ngoan không làm. Nay nếu dựa vào chỗ nước chảy, tăng cường sửa chữa đê điều, nạo vét hạ lưu để thông ra biển, thì có thể tránh được nguy cơ vỡ đê và nước tràn lan.
[15] Hiện nay, những vùng đất mà sông đi qua thuộc nhiều châu, thực sự là tai họa, việc sử dụng nhân công hàng năm để đắp đê, thực sự là vất vả. So với việc tiêu tốn tiền của thiên hạ một cách vô ích, huy động đông đảo dân chúng nhưng không thể thành công, cuối cùng vẫn không tránh khỏi tai họa cho các châu, hao tổn nhân công hàng năm, thì việc này được gọi là ít hại hơn, đó là điều mà người khôn ngoan nên lựa chọn.
[16] Khoảng chừng tình hình sông ngòi hiện nay, phải gánh chịu ba nguy cơ vỡ đê: Nếu khôi phục dòng cũ, thượng nguồn ắt sẽ vỡ; nếu mở cửa sông Lục Tháp, thượng nguồn cũng sẽ vỡ; hiện tại hạ lưu sông này, nếu không nạo vét để nước chảy ra biển, thì thượng nguồn cũng sẽ vỡ. Thần xin chọn người hiểu biết về thủy lợi, đến hạ lưu, tìm đường ra biển mà nạo vét. Nếu không, hạ lưu bị tắc nghẽn, thì cuối cùng vẫn lo thượng nguồn vỡ đê, họa hại vô cùng. Thần không phải người am hiểu về thủy lợi, chỉ căn cứ vào những việc hiện tại có thể kiểm chứng mà so sánh, lời nói cuồng vọng, kế hoạch sai lầm, không đủ để đáp ứng yêu cầu tìm hiểu rộng rãi của bậc thánh quân. Đây là việc lớn, kính xin hạ nghị của thần, rộng mưu với mọi người mà quyết định chọn lựa. Kính cẩn trình bày tấu văn, kính đợi mệnh lệnh[10]. Mong hạ nghị của thần, chọn lấy điều thích hợp[11]. Tô Triệt viết trong bài văn bia tu sửa đền thần rằng: Sông vỡ ở Thương Hồ, Giả Xương Triều lưu thủ Bắc Kinh, muốn mở lại dòng cũ Hoành Lũng để đưa nước sông chảy về phía đông. Có người tên là Lý Trọng Xương, muốn dẫn nước Thương Hồ vào sông Lục Tháp. Chiếu cho hai phủ và đài gián họp bàn. Trần Chấp Trung đang nắm quyền, chủ trương theo kế Hoành Lũng, Chấp Trung bị bãi chức, rồi tể tướng lại cho rằng lời của Trọng Xương là đúng. Tể tướng, chỉ là Phú Bật. Nay ghi chép thêm vào đây.
[17] Ngày Đinh Sửu, chiếu cho Viện Thẩm quan, các quan kinh triều từng phạm tội tham nhũng hoặc tội công đến mức phải đi đày, không được bổ nhiệm làm giám sát các kho, trường, khố vụ ở kinh thành.
[18] Ngày Tân Tỵ, Long đồ các trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Lý Giản Chi tâu rằng:
[19] Xưa kia, việc lập quan chức và ban tước vị là để đãi ngộ hiền tài, giúp giải quyết muôn việc, chứ không phải chỉ để cung cấp xe cộ, áo mũ, bổng lộc nhằm thỏa mãn dục vọng và đáp ứng yêu cầu của con người. Xưa kia, từ trên là công khanh đại phu, xuống dưới là những người giữ cổng, đánh mõ, đều có số lượng nhất định. Vì thế, quan chức không thể dễ dàng đạt được, con người cũng không có ý định khác. Các nhà Nho thời Hán cho rằng tước vị và bổng lộc là đá mài của thiên hạ, mà bậc thánh vương dùng để mài giũa thế gian và làm sắc bén những kẻ cùn mòn. Lại nói rằng tước vị và bổng lộc là quyền lực của bậc quân chủ. Bậc thánh vương trị thế và cai quản phong tục, đối với tước vị và bổng lộc cũng hết sức thận trọng như vậy. Quốc gia bốn đời thánh vương tiếp nối, trị an trăm năm, thanh danh và văn vật sánh ngang với ba đời Hạ, Thương, Chu.
Nhưng hiện nay, quan lại hỗn tạp, trên dưới rườm rà danh hiệu, nếu không làm trong sạch từ gốc, thêm vài năm nữa, sẽ càng khó lọc bỏ. Hiện nay, con đường tuyển cử chưa tinh tế, cửa bổ ấm quá rộng, đường ân huệ chưa bịt kín, tệ nạn nhờ vả chưa được loại bỏ. Theo chế độ nhà Đường, những người đỗ minh kinh, tiến sĩ mỗi năm không được quá năm mươi người, nhưng hiện nay trong ba bốn năm, đã phong cho bốn năm trăm người. Xét theo năm và số lần thi, không yêu cầu về văn chương, gọi là ân trạch lại thêm bốn năm trăm người. Do việc dùng binh ở Thiểm Tây, quân nổi loạn ở hai châu Bảo, Ân, giặc Nông ở Quảng Nam cướp phá, mà các lộ cử nhân đều được tuyển dụng, những kẻ hoang đường nông cạn được ban ân mệnh không thể đếm xuể. Các khoa thi tuy chuyên về ghi nhớ và tụng đọc, nhưng yêu cầu về nghĩa lý thì hoàn toàn không biết, lại thêm sinh trưởng nơi ruộng đồng, không quen thuật trị nước, khi đối mặt với dân và trị lý chúng, người hiểu việc chưa được một hai phần mười, mỗi năm cũng phong cho hơn năm trăm người. Đây chính là con đường tuyển cử chưa tinh tế vậy.
[20] Thời Tây Hán, quan lại từ hai nghìn thạch trở lên, làm việc đủ ba năm thì được phép bổ nhiệm một con trai làm Lang. Vương Cát từng nói rằng, ngày nay để cho những kẻ tục lại được phép bổ nhiệm con em, phần lớn đều kiêu căng, không thông hiểu cổ kim. Hiện nay, các quan văn võ từ chức Phó sứ Tam ty[12], Tri tạp Ngự sử, Thiếu giám, Thứ sử, Cáp môn sứ trở lên, mỗi năm được phép bổ nhiệm một con trai; các chức Viên ngoại lang kiêm nhiệm, Phó sứ các ty trở lên, ba năm được phép bổ nhiệm một con trai. Số lượng con em của quan lại văn võ được phép bổ nhiệm so với thời tổ tông, đã tăng lên gấp nhiều lần. Do đó, con em nhà quyền quý tràn ngập con đường làm quan, con cháu gặp thời đều được làm quan, trẻ nhỏ và họ ngoại cũng đều được hưởng vinh hoa áo mũ. Hơn nữa, những người từ chức Tam thừa trở lên khi về hưu cũng được phép bổ nhiệm một con trai. Huống chi, bảy mươi tuổi về hưu là chế độ thường xuyên thời xưa, người trẻ tuổi bước vào quan trường, đến già mới đạt đến chức Tam thừa, ân huệ chưa thấy đến dân, công nghiệp chưa nghe đến nước, đến khi về hưu lại còn được phép bổ nhiệm con trai. Bỏ đi một người già, đưa vào một đứa trẻ, điều này hoàn toàn không phải là đạo lý ưu đãi hiền tài và tuyển chọn nhân tài của quốc gia. Đây chính là điều được gọi là ân điển bổ nhiệm con em quá rộng rãi.
[21] Hán Tuyên Đế thân chính việc nhỏ, Vương Cát dâng sớ nói rằng người ngoài và người quen cũ có thể ban cho nhiều của cải, nhưng không nên cho giữ chức vụ. Vì chức vụ là nơi dành cho người có tài năng, không thể dùng ân tư mà được. Chức vụ dù cao hay thấp đều nên quý trọng. Người ngoài và người quen cũ còn phải như vậy, huống chi là các cung tần gần gũi, người thân bên ngoài của tông thất! Các cung tần hầu hạ, vợ của tông thất, những người có ấp phong và phẩm hàm, đều có thể tiến cử em trai, cháu trai. Hơn nữa, hoàng thân kết hôn đều có thể được phong chức quan mà không cần qua thi cử. Dùng của cải để cầu hôn, thường lấy được những kẻ phù phiếm nơi chợ búa, làm ô uế tông thất. Đến cả nhà của nội thần, nhân việc mà tiến cử rất nhiều. Đây chính là tệ nạn của thói quen cũ chưa được loại bỏ. Cửa vào quan trường hỗn tạp, đường tiến thân nhiều, sĩ đại phu đều lo lắng, người nói không ít, việc chưa thi hành mà dư luận đã nổi lên, là vì sao? Vì những kẻ may mắn được hưởng ân huệ lớn chưa bị cắt giảm, còn những người được ít ân huệ lại bị bàn đến việc giảm bớt trước, như trước đây Khổng Đạo Phụ chỉ muốn cải cách lại các quan chức nhỏ vậy.
[22] Những năm trước giảm bớt việc bổ nhiệm con cháu, nhà của cận thần tiếc nuối ân huệ lớn, cố gắng bảo toàn lợi ích của mình, chỉ đưa ra vài việc với những người thân thuộc xa. Khiến cho dư luận trong thiên hạ phần lớn không phục, đều là do việc làm chưa công bằng. Phàm lập pháp nên bắt đầu từ người quyền quý, thì dân không oán hận. Xin trước hết từ các cung tần, tông thất và đại thần hai phủ, đến các viên ngoại lang có chức, phó sứ các ty trở lên và nhà của nội thần, tất cả đều cắt giảm. Mười năm sau sẽ thấy hiệu quả. Nếu vẫn theo lối cũ, không chịu thay đổi, mà muốn khởi xướng đạo trị quốc, làm trong sạch quan trường, thì không thể được. Do đó, Trung thư xin trước hết từ hai phủ, Tuyên Huy, Tiết độ sứ, gặp lễ Nam Giao vẫn tiến cử hai người như cũ, và bãi bỏ việc bổ nhiệm con cháu mỗi năm vào tiết Càn Nguyên. Còn lại chiếu cho hai chế, quan đài gián định nghị rồi tâu lên.
[23] Ngày Nhâm Ngọ, Tam ty tâu rằng các châu quân dùng muối giải để buôn bán kiếm lợi công, xâm phạm nhiều đến thương nhân, xin cấm chỉ, được chấp thuận. Số muối của Phạm Tường trong 《Bản chí》, có thể tra cứu vào tháng 4 năm Hoàng Hựu thứ 5.
[24] Ngày Giáp Thân, Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Tôn Biện cùng các quan tâu rằng: “Vâng chiếu bàn về lợi hại của sông Hoàng Hà. Việc khơi lại dòng sông cũ thật là lợi ích lâu dài, nhưng công trình lớn không thể hoàn thành ngay được. Nếu sông Lục Tháp có thể chứa được dòng sông lớn, dẫn nước chảy về phía đông, có thể giảm bớt nạn đê vàng ở Ân, Ký, thì xin cho phép làm.” Người chủ trương khơi lại dòng sông cũ là Giả Xương Triều, Trần Chấp Trung ủng hộ ý kiến đó. Sau khi Chấp Trung bị bãi chức, Văn Ngạn Bác và Phú Bật mới ủng hộ ý kiến của Lý Trọng Xương, muốn tu sửa sông Lục Tháp, nên Biện và các quan trả lời chiếu như vậy.
[25] Điện trung thị ngự sử Triệu Biện tâu: “Thần trộm thấy những năm gần đây, triều đình thường xuyên bổ nhiệm chức Tiết độ sứ và Tuyên huy sứ một cách không theo thứ tự, số lượng khá nhiều. Thần nghĩ rằng hai chức vụ này, vào thời nhà Đường thì việc bổ nhiệm rất dễ dàng, nhưng đến thời Thánh triều ta thì việc trao nhận lại rất khó khăn. Chức vụ này cực kỳ ưu đãi, quyền lực thực sự lớn, nếu không phải là bậc công thần cũ, thì danh khí sao có thể dễ dàng trao cho? Thần cho rằng nên thận trọng trong việc ban thưởng, để có thể ngăn chặn cửa hãnh tiến, cần có quy định rõ ràng, mới có thể giúp ích cho việc trị quốc. Thần ngu muội xin đề nghị rằng, từ nay về sau, các chức Tuyên huy sứ và Tiết độ sứ đối với văn thần phải là người đã từng trải qua chức vụ ở Trung thư, Xu mật viện, có đức vọng được mọi người kính phục; còn võ thần phải là người đã từng lập công ở biên cương, mới được phép bổ nhiệm.
Hơn nữa, nguyên tắc số lượng Tuyên huy sứ chỉ có hai người, còn như chức Sứ tướng, thể diện càng quan trọng, càng phải thận trọng, không nên dễ dàng bàn luận. Thần từng nghe rằng vào thời Thái Tổ hoàng đế, khi sai Tào Bân thu phục Giang Nam, công thành trở về, tuy ban thưởng nhiều, nhưng cuối cùng vẫn không trao cho Tào Bân chức Sứ tướng. Thần cho rằng những chức vụ như thế này, nếu bình thường không có lý do mà dễ dàng bổ nhiệm, thì các quan lại cũng sẽ coi nhẹ, không xem trọng. Nếu về sau, bốn phương có việc khẩn cấp, tất sẽ có người hiền tài, anh hùng, giúp bệ hạ ứng biến, chống giặc, lập công lập nghiệp. Đến lúc đó, triều đình bàn luận việc ban tước thưởng, thì sẽ dùng chức vụ gì để ban cho họ? Chế độ lâu dài, cần phải suy nghĩ, coi trọng, tiếc nuối ngay từ hôm nay, không thể không thận trọng. Thần mong bệ hạ đặc biệt ban thánh chỉ, giao việc thần đề nghị cho hai phủ bàn bạc, quyết định và thi hành, trên là tuân theo pháp độ của tổ tông, dưới là coi trọng việc ban thưởng tước vị, như vậy thì trong ngoài đều may mắn.”
Chiếu rằng từ nay về sau, Trung thư và Xu mật viện nếu có việc bổ nhiệm như thế mà chưa thỏa đáng, thì phải xem xét kỹ và tâu lên. Theo 《Hội yếu》, việc này xảy ra vào tháng 12 năm Nguyên niên, nay theo bản tấu của Triệu Biện, ghi phụ vào ngày 28 tháng 9 năm thứ 2.
[26] Tháng 10, ngày Ất Dậu mùng một, chiếu rằng: Lộ Giang Nam Tây Lộ mới đặt chỉ huy giáo duyệt trung tiết tử đệ, sai Ty Chuyển vận chọn một viên sứ thần quen biết việc quân đến các nơi huấn luyện.
[27] Ngày Bính Tuất, ghi chép cháu đời sau của Trưởng Tôn Vô Kỵ nhà Đường là Hoành làm Trợ giáo quân Vĩnh Hưng, vì Hoành dâng gia phả và cáo sắc triều Đường.
[28] Điện trung thị ngự sử Triệu Biện tâu: “Lộ Kinh Đông, hai châu Thanh, Vận đều kiêm chức An phủ sứ, những năm gần đây sai hai chế, thần liêu phủ trước để trấn phủ. Nay Tào Dật làm Tri châu Thanh, Lý Đoan Ý làm Tri châu Vận, ngự sử nói là không tiện, xin xét lại đổi sai thần liêu có tài mưu, từng trải qua hai chế trở lên.” Chiếu gửi tráp cho Dật, Đoan Ý. Năm Chí Hòa thứ 1 tháng 6, Dật từ Thiên chuyển sang Thanh, năm Gia Hựu thứ 1 tháng 8, từ Thanh chuyển sang Hứa, năm thứ 3 tháng 6, Đoan Ý được bổ làm châu Vận, năm Gia Hựu thứ 5 tháng 2, lại từ Vận chuyển sang Thiên.
[29] Ngày Kỷ Sửu, bãi chức Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục ở Kinh kỳ, các châu Trần, Hứa, Trịnh, Tào, Hoạt vẫn thuộc về lộ như cũ, làm phụ quận. Ban đầu, theo nghị của Giả Xương Triều, đặt năm phụ quận, thuộc Kinh kỳ, gọi là củng phụ kinh sư. Nhưng có người bàn rằng hoạn quan mưu mở rộng thân sự, thân tòng binh, muốn lấy tài phú Kinh kỳ để cung cấp, nhân đó thu quyền. Ngự sử Phạm Sư Đạo hết sức tâu là không tiện, bèn khôi phục chế độ cũ.
[30] Ngày Ất Mùi, xuất 1 triệu quan tiền trong kho Nội tàng xuống Hà Bắc để mua lương thực dự trữ quân.
[31] Ngày Bính Thân, Chủ khách viên ngoại lang Ngô Trung Phục làm Điện trung thị ngự sử lý hành. Đây là theo lời Triệu Biện, vì quan đài có khuyết nên phục chức.
[32] Ngày Mậu Tuất, nội thần giám tu cung Hồng Khánh ở Nam Kinh xin ở đất trống trong cung xây điện bản mệnh của hoàng đế, Vua nói: “Xây cung quán là để cầu phúc cho dân, sao lại bắt dân khổ sở vì mình! Vào ngày đạo tràng bản mệnh, chỉ cho đặt bản vị để tế[13].”
[33] Ngày Kỷ Hợi, Khai Phong phủ phán quan, Điện trung thị ngự sử Du Hi Mạnh được bổ làm Ngôn sự ngự sử. Ngự sử trung thừa Trương Biện cùng các quan tâu rằng: “Thần nghe nói lại bổ Du Hi Mạnh làm Ngôn sự ngự sử. Thần thấy từ khi Hi Mạnh vào đài, bàn việc thường thiên tư tà vạy, phần nhiều xu nịnh. Nay xin kể một hai việc mà mọi người đều biết: Năm trước, theo lệ cũ của triều đình, hoạn quan không được thăng đến chức Thứ sử trở lên. Vương Thủ Trung muốn được tiết việt, biết rằng dư luận không đồng ý, đã làm Đô tri tiền hậu tỉnh, lại xin lương bổng của Tiết độ sứ, dần mở đường để mưu cầu tiết việt. Lúc đó, Gián quan Hàn Giáng dâng sớ can ngăn, xin từ chức để chờ tội, mong triều đình nghe theo. Hi Mạnh không nghĩ đến kỷ cương quốc gia, không lo đại thể triều đình, dám tâu rằng ân mệnh đã ban, chỉ xin đừng lấy làm lệ sau này. Bỏ lâu dài của tổ tông, lấy lòng hoạn quan.
Lại có tờ tâu của Trung thư hạ xuống Ngự sử đài cùng Hình pháp tự bàn việc các quan đi ngựa không đúng thứ tự, mọi người đều nói rằng bề tôi vào chầu từ biệt, có lỗi với Vua còn được tha thứ, không coi là khuyết điểm, huống chi là đi ngựa gần phủ của hai vị đại thần, đã nộp tiền chuộc tội, lại còn coi là phạm lỗi! Hi Mạnh nghe theo ý của đại thần, không nghĩ đến phân biệt nặng nhẹ giữa Vua tôi, không chịu cùng ký tên vào tờ tâu, lại dám đơn độc dâng sớ, xin coi là phạm lỗi. Đó đều là hành vi gian tà, rõ ràng. Sau đó, cả đài vào chầu tâu việc, bệ hạ trách mắng Hi Mạnh, chưa đầy hai tháng, từ chức Ngôn sự đài quan được bổ làm Khai Phong phủ phán quan, trong ngoài đều vui mừng, cho rằng triều đình công minh, phân biệt rõ trung tà. Nay lại từ phủ phán bổ làm Ngôn sự đài quan, sĩ nhân đều thất vọng, cho rằng triều đình cố dùng kẻ gian tà. Huống chi bản tính của người này đã định, không sửa lỗi trước, dùng mưu mẹo lừa dối, làm rối loạn triều đình, gây tổn hại không nhỏ. Triều đình đặt Ngự sử đài là để giữ phép nước, sửa thẳng thiên hạ, cần phải dùng người ngay thẳng công chính, cùng nhau giữ gìn kỷ cương, làm vững triều đình.
Lại nữa, bệ hạ chọn phụ tướng cẩn thận, mong cầu trị nước tốt nhất, cần phải trong sạch trong ngoài, hợp lòng dân. Sao lại dùng kẻ gian tà vào chức phong hiến? Lại nữa, Ngôn sự ngự sử xưa tuy có hai người, nhưng thường chỉ bổ một người, hoặc có khi khuyết cả. Nay Vô Thục đã vào Gián viện, còn có Mã Tuân một người, chưa đến mức khuyết việc, xin bổ Hi Mạnh làm chức khác.”
Việc Hi Mạnh bàn về đi ngựa xảy ra vào tháng 6 năm Hoàng Hựu thứ 5. Ngày Nhâm Dần, đổi Hi Mạnh làm Từ bộ viên ngoại lang, Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận sứ.
[34] Ngày Quý Mão, Thị ngự sử Lương Thiến tâu: “Gần đây có chế định, các đại thần ở hai phủ chỉ được phép tiếp khách vào ngày nghỉ, điều này không giúp mở rộng sự thông minh của triều đình. Xin hãy bãi bỏ lệnh cấm để họ có thể tiếp khách như trước.” Vua nghe theo. Sách 《Ngự Sử Đài Ký》 chép: Thiến muốn kết thân với Văn Ngạn Bác và Phú Bật, nên dâng lời xin khôi phục lệ cũ là đón khách theo ban, triều đình chê cười. Lại nịnh ý các quan chấp chính, dâng lời xin cấm các đại thần hai phủ tiếp khách tại tư đệ. Thiến tính nịnh hót, lời nói phần nhiều như vậy. Xét sách 《Thực Lục》 chép ngày Quý Mão tháng 10, thì Thiến xin bãi lệnh cấm tiếp khách tại tư đệ của hai phủ, khác với 《Ngự Sử Đài Ký》, e rằng Phùng Khiết Kỷ cũng có ý riêng, nay không theo. Tuy nói là nghe theo lời xin của Thiến, nhưng năm sau Giả Ảm từ chức Tri chế cáo ra làm Tri châu Hứa, vẫn còn nói về lệnh cấm tiếp khách, thì lời xin của Thiến ban đầu chưa được thực hiện. Cần xét lại.
[35] Ngày Ất Tỵ, Lễ bộ Cống viện dâng lên bộ 《San Định Cống Cử Điều Chế》 gồm 12 quyển.
[36] Ngày Đinh Mùi, Vua nghe giảng truyện 《Quy Sách》 trong 《Sử Ký》 ở điện Nhĩ Anh, hỏi: “Người xưa hành động, có nhất thiết phải theo cách này không?” Tôn Biện đáp: “Người xưa gặp việc lớn khó quyết, đã tự mình suy xét, lại hỏi ý mọi người, vẫn sợ chưa hợp ý trời, nên mới dùng mai rùa để đoán cát hung. Đó gọi là mưu tính từ trong lòng, hỏi ý khanh sĩ, hỏi ý dân chúng, hỏi ý bói toán. Thánh nhân quý ở chỗ thành thật, không chỉ dựa vào mưu người, mà còn ngầm hợp với thần linh, như vậy mới đúng.” Vua khen lời đáp.
[37] Trước đây, Lễ bộ định số lượng tiến sĩ và các khoa thi khác, mỗi loại lấy 400 người, lại xin hỏi thêm đại nghĩa, những kẻ may mắn đều cho là bất tiện, muốn bãi bỏ chiếu chỉ. Các khoa thi hỏi 10 nghĩa, kinh 《Cửu Kinh》 không bắt thuộc lòng, chiếu ngày Mậu Tý tháng 7 nhuận năm Hoàng Hựu thứ 5. Chỉ có việc Lễ bộ định số lượng 400 người, không thấy chiếu chỉ này. Sách 《Tuyển Cử Chí》 chép là năm Hoàng Hựu thứ 4, e là nhầm, xem chú thích tháng 4 năm Gia Hựu thứ 1.
[38] Ngày Kỷ Dậu, Tri chế cáo Vương Khuê tâu: “Từ thời Trinh Quán đến Khai Nguyên nhà Đường, văn chương cực thịnh, người dự thi hàng năm hơn nghìn người, nhưng số người đỗ rất ít. Vào các niên hiệu Hàm Hanh và Thượng Nguyên, từng tăng số lượng người đỗ, nhưng cũng không quá trăm người. Lúc đầu nước ta lấy người tài, phần lớn theo chế độ nhà Đường. Đến niên hiệu Hưng Quốc, mở rộng đường khoa cử, sau đó dần dần mở rộng thêm, không có số lượng cố định. Những năm gần đây, số quan lại tăng nhiều hơn mức thường, nên gần đây có chiếu hạn chế số lượng là bốn trăm người. Chiếu gần đây chưa thấy, nhưng có thể tra cứu vào ngày Bính Thìn tháng 4 năm Gia Hựu thứ nhất. Điều này thực sự nhằm ngăn chặn tệ nạn tiến cử. Việc lấy người tài chỉ có tiến sĩ, minh kinh và các khoa khác. Minh kinh trước hết thi kinh nghĩa, sau đó thi sách[14], ba kỳ thi đều thông là đỗ trung đệ, đại thể giống như tiến sĩ. Còn các khoa khác không hỏi kinh nghĩa, cũng không có hình thức thi sách, chỉ dựa vào việc đọc thuộc nhiều hay ít để quyết định đỗ hay trượt, như vậy thì chuyên cố mà không thông đạo lý, sao đủ để trị dân lo việc? Chiếu trước quy định các khoa thi cuối cùng hỏi mười câu đại nghĩa của bản kinh, chín kinh chỉ hỏi nghĩa mà không bắt thuộc lòng, đều đã ghi trong lệnh. Thần lo rằng người bàn luận cho rằng khó thay đổi ngay, mà muốn yên ổn với tệ nạn. Xin bệ hạ ra lệnh cho các cơ quan, kiên quyết giữ vững pháp này, không được thay đổi dễ dàng.”
[39] Mà Thượng thư đồn điền viên ngoại lang Chu Cảnh Dương lại tấu rằng: “Ngày thi ở Lễ bộ, dùng các quan tuần phố[15] để xét xem các sĩ tử có mang sách vở, nói chuyện riêng, giúp đỡ lẫn nhau hay không. Nhưng con em nhà quyền quý ngồi cùng chỗ với sĩ tử nghèo, cha anh nắm quyền, kẻ xu phụ đông đảo, các quan tuần phố phần nhiều là kẻ nịnh hót, ham tiến thân, che chở cho họ, không ai chịu tố giác. Các quan chủ ty ở đô đường thì buông lỏng không tra hỏi, trên dưới đều lừa dối nhau. Sĩ tử nghèo cô độc, chỉ dựa vào ý kiến riêng, ví như đánh trận, lấy sức một người mà chống lại hàng trăm người. Xin cho sĩ tử nghèo và những người thi ở toà riêng cùng thi ở một trường nhưng khác phòng, như thế thì thế lực ngang nhau, có thể tránh được sự thiên vị.” Tấu chương dâng lên nhưng không được trả lời, chỉ ban hành thêm pháp lệnh nghiêm cấm các quan tuần phố không được xét hỏi. Chu Cảnh Dương theo bản chí phụ lục, chắc có ghi rõ ngày tháng.
[40] Ngày Canh Tuất, Hàn lâm học sĩ, người san tu sách Đường thư là Âu Dương Tu nói: “Từ đời Hán trở xuống, chỉ có nhà Đường hưởng nước lâu nhất, các điển chương chế độ của họ, triều ta phần nhiều tham khảo dùng theo. Sách Đường thư đang soạn, cần phải ghi chép đầy đủ chi tiết. Nhưng từ đời Vũ Tông về sau, không có thực lục, chỉ dựa vào truyện ký, lời nói riêng để khảo chính hư thực, vẫn còn lo thiếu sót. Nghe nói ở Tây Kinh, trong các nha môn tỉnh tự, Lưu ty Ngự sử đài và các kho Loan Hòa còn lưu giữ các tấu chương, án bạ từ đời Đường đến Ngũ đại, xin sai Biên tu quan Lữ Hạ Khanh đến đó xem xét.” Vua nghe theo. Hạ Khanh là người Tấn Giang.
[41] Thủ lĩnh nước Đại Thực đến cống phương vật.
[42] Ngày Nhâm Tý, ở Nhĩ Anh các giảng sách 《Chu Lễ》 đoạn “Tế tự cắt thịt dê, đặt đầu lên trên”, Vương Chu nói: “Tế dương thì dùng đầu, vì đầu chủ về dương; tế âm thì dùng máu, vì máu chủ về âm. Thần minh khó lường, nên phải dùng loại tương tự mà cầu.” Vua nói: “Đúng vậy, trời đất đơn giản, nếu không thành tâm thì sao có thể cảm ứng được!” Lại giảng sách 《Tả Truyện》 đoạn “Người nước Trịnh đúc sách hình pháp”, Vương Chu nói: “Tử Sản đem luật pháp nước Trịnh đúc vào đỉnh, để dân biết phạm tội nào thì bị phạt nào.” Vua nói: “Để dân biết pháp, thì loạn có thể ngăn, nhưng không bằng không biết mà tự hóa.”
[43] Ngày Quý Sửu, Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận ty tâu rằng, tù trưởng Hạ Khê châu là Bành Sĩ Hi kéo quân xâm phạm, chiếu cho bản lộ phát binh đánh dẹp. Trước đó, Chuyển vận sứ Lý Túc Chi[16] cùng các quan dùng Bành Sư Bảo làm hướng đạo, đánh Sĩ Hi không thắng, nên Sĩ Hi thường quấy nhiễu biên giới.
[44] Tháng 11, ngày Bính Thìn, xuất 30 vạn tấm lụa từ kho Nội tàng để mua lương thực dự trữ cho quân ở Tịnh châu.
[45] Chiếu cho các châu quân ở Hà Bắc, ngày chôn cất của Khiết Đan không được cử nhạc.
[46] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho Thiểm Tây Chuyển vận sứ, từ nay mỏ sắt ở Đồng châu cho người thuê mua.
[47] Ban đầu, Lang trung bộ Ngu là Tiết Hướng tâu về tệ nạn trong phép mua thóc gạo ở Hà Bắc, cho rằng: “Mười bốn châu ở biên giới đều dựa vào việc cấp phát của Độ chi, mỗi năm tốn năm trăm vạn quan tiền, thu được một trăm sáu mươi vạn hộc thóc gạo, nhưng thực tế giá trị chỉ có hai trăm vạn quan mà thôi, mà hàng năm thường lãng phí ba trăm vạn quan, rơi vào tay các nhà buôn bán tích trữ. Nay đã dùng tiền mặt theo giá thực, bỏ đi cái tệ lãng phí ba trăm vạn quan[17], nhưng cần phải có biện pháp hỗ trợ thì phép ấy mới thực hiện được. Vì vậy, khi thóc gạo ở biên giới đắt, thì mua thóc gạo ở Thiền, Ngụy, chở theo sông Hoàng Hà, Ngự Hà để cung cấp cho biên giới; khi chưa giao thóc gạo mới và cũ, thì bán giảm giá để cứu giúp dân nghèo; khi quân lương có dư, thì thu mua vào kho để phòng khi thiếu hụt. Khiến cho tiền mặt được lưu thông và ba lợi ích được thực hiện, thì thóc gạo ở Hà Bắc sẽ ăn không hết.” Do đó, xuống chiếu đặt chức Đô đại đề cứ Tiện địch lương thảo ở Hà Bắc[18] và chức Thôi khiển cương vận sông Hoàng Hà, Ngự Hà. Ngày Kỷ Mùi, lấy Tiết Hướng làm chức ấy.
[48] Ngày Nhâm Tuất, xuống chiếu cho Lưu nội tuyển, Nam tào từ nay cử quan, đối với văn thần là Tri tạp Ngự sử, Thiếu khanh giám, võ thần là Các môn sứ trở lên, cùng với Giang Hoài phát vận sứ, các lộ Chuyển vận phó sứ[19], Đề điểm hình ngục triều thần sứ thần, Khai Phong phủ Suy phán quan[20], Phủ giới Đề điểm, không hạn chế về tội tham nhũng, tư lợi. Những người còn lại phạm tội tư lợi từ tội đánh trượng trở lên, không được tính là người cử, nếu phạm tội tư lợi mà bị đánh roi thì cho phép.
[49] Ngày Ất Sửu, Tuyên Huy Nam Viện Sứ, Phán Diên Châu Ngô Dục tâu rằng: “Quốc gia nắm giữ muôn việc, chỉ cần nắm được cương lĩnh, việc lớn nhỏ đều có cơ quan phụ trách. Nếu triều đình chức vụ được thiết lập và công việc được thực hiện rộng rãi, thì ngồi yên mà cai trị thiên hạ, không cần lao nhọc mà vẫn trị được. Nay Thượng Thư Tỉnh là gốc rễ của việc này. Từ cuối đời Đường đến Ngũ Đại, cứ theo lối cũ, tạm bợ, đặt thêm nhiều cơ quan khác, việc không có đầu đuôi, không hỗ trợ lẫn nhau, khiến cho cơ quan lớn của thiên hạ trở thành nơi nhàn rỗi. Phàm những việc nhỏ nhặt, đều động đến triều đình, khiến Vua tôi phải vất vả, ngày đêm không rảnh rỗi, như trăm sông cuồn cuộn mà không trị được nguồn, muôn mắt mở ra mà không nắm được mối, dù muốn hết sức, tình thế cũng không thể sửa được. Thần trước đây từng phán Thượng Thư Đô Tỉnh, thấy các cơ quan, chức vụ vẫn còn đầy đủ. Nếu có việc lớn cần bàn, nên triệu tập các quan cùng bàn, để xem ai có tài năng, nhưng lâu nay đã bỏ không làm, nay chỉ khi định thụy hiệu mới họp một lần ở Đô Đường, đó là làm việc nhỏ mà bỏ việc lớn, người bàn luận đều tiếc lắm.
Thần nghĩ rằng chức vụ bỏ lâu, đâu có thể một ngày mà làm tốt được, nên tùy nghi bàn lại dần dần khôi phục. Xin hãy chia cho các học sĩ biết việc của Lục Thượng Thư, các Xá Nhân, Đãi Chế và các quan Đại Lưỡng Tỉnh[21] thì biết việc của Tả Hữu Thừa và các Thị Lang, còn các quan Quán Chức có danh vọng trong triều thì biết việc của Lang Trung, Viên Ngoại, lại chọn một hai người trong số các tể tướng cũ và các đại thần từng giữ chức Lưỡng Phủ để phán Đô Tỉnh, sau đó cho họ xem xét điển cố, xem việc nào khả thi thì tâu lên khôi phục. Tiếp đến các Ty, Tự, Giám cũng theo đó mà thi hành. Còn việc kế hoạch tiền bạc, lương thực, hiện thuộc Tam Ty cũng không cản trở, vẫn giữ nguyên như cũ. Việc không làm kinh động thói tục, thể chế đều hợp lý, trong vài năm, chế độ này ổn định, có người chịu trách nhiệm, thì việc trị nước cao ngồi không làm gì cũng có thể dần đạt được.”
Việc đưa xuống hai chế định, nhưng người bàn luận cho rằng chức vụ của Thượng Thư Tỉnh nay đã nhập vào Tam Ty và các Ty khác phân quản, việc khó thay đổi ngay. Bèn bãi bỏ.
[50] Ngày Bính Dần, Vua nghe đọc truyện Thái Sử Công ở điện Nhĩ Anh, nói với Lý Thục rằng: “Thái Sử Công muốn thực hiện đạo của mình nhưng không thành, thân chưa thoát khỏi họa, thật đáng buồn thay. Xét ra, sự phải trái của ông không sai với thánh nhân, quả là tài năng của bậc sử gia giỏi.”
[51] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu miễn thuế gỗ cung cấp cho triều đình ở lộ Hà Đông, cùng với số lương thực còn thiếu từ trước ở châu Tịnh và tiền thuế đò ngang thứ ba ở châu Lam thuộc hợp Hà.
[52] Ngày Kỷ Tỵ, con trai của An Nam vương Lý Đức Chính là Nhật Tuân sai sứ báo tin Đức Chính qua đời, đồng thời dâng vật phẩm còn lại và hiến mười con voi thuần. Ngày Quý Dậu, truy tặng Đức Chính chức Thị trung, tước Nam Việt vương, ban tặng lễ vật hậu hĩ. Sai Quảng Tây chuyển vận sứ, Đồn điền viên ngoại lang Tô An Thế làm sứ điếu tặng. Ngày Ất Hợi, phong Nhật Tuân làm Tĩnh Hải tiết độ sứ, An Nam đô hộ, tước Giao Chỉ quận vương.
[53] Hữu ban điện trực Trương An Thế được bổ làm Cáp môn chỉ hậu, kiêm chức Tuần kiểm biên giới các châu Lân, Phủ và Phong cũ, chuyên quản lý khu vực phía tây bắc sông Khuất Dã, do tể tướng Phú Bật tâu rằng An Thế là người đất Hà Đông, có tài võ dũng, nên đặc cách bổ nhiệm.
(Sự việc người phương Tây xâm chiếm đất canh tác phía tây sông Khuất Dã được chép vào ngày Giáp Tuất tháng 2 năm Gia Hựu thứ 2, liên quan đến việc này.)
[54] Thêm một chức Huyện úy ở các huyện Khai Phong và Tường Phù.
[55] Xuống chiếu cho Viện Thẩm quan biên soạn các điều lệ sửa đổi từ năm Hoàng Hựu thứ 3 trở về sau.
(Sự việc này xảy ra vào tháng 2 năm Khánh Lịch thứ 4.)
[56] Tháng 12, ngày Ất Dậu, Tham tri chính sự Trình Kham[22] tâu: “Trước đây khi thần làm tri châu Ích Châu, nghe dân gian đồn rằng năm Giáp Ngọ sẽ có binh đao, lòng dân không yên, vì đó là năm Lý Thuận làm loạn vào niên hiệu Thuần Hóa. Xin cấm dân gian tự ý học tập bài ca Lục thập Giáp Tý.” Vua nghe theo.
[57] Ngày Đinh Hợi, Trung thư tâu: “Từ khi sông Thương Hồ bị vỡ, gây họa cho Đại Danh, Ân, Kỳ. Trước đây đã bàn việc đào kênh Đồng Thành, đắp đập ngăn sông Thương Hồ, nhưng vì công trình lớn khó hoàn thành ngay nên tạm hoãn, lo ngại đê Kim Đê sẽ tràn, không thể chống đỡ được. Xin chuẩn bị kinh phí, dựa vào thế nước Lục Tháp chảy vào Hoành Lũng. Nên lệnh cho Hà Bắc, Kinh Đông sửa chữa đê đập trước, và báo cáo ruộng đất của dân bị nước sông chiếm.” Vua nghe theo, bắt đầu dùng kế của Lý Trọng Xương.
[58] Ngày Mậu Tý, Lý Chương, Tri châu Thiền Châu, Thiên Bình Lưu hậu, được cử làm Đô bộ thự tu sửa sông ngòi; Chu Hãng, Chuyển vận sứ Hà Bắc, Lang trung Binh bộ, Đãi chế Thiên Chương các, được quyền Đồng tri châu Thiền Châu, Đô đại Quản câu ứng phó công việc tu sửa sông ngòi; Đặng Bảo Cát, Tuyên chính sứ, Đoàn luyện sứ Quả Châu, Nhập nội Phó đô tri, được cử làm Kiềm hạt tu sửa sông ngòi; Lý Trọng Xương, Điện trung Thừa, được cử làm Đô đại Đề cử Hà cừ ty; Trương Hoài Ân, Nội điện Thừa chế, được cử làm Đô giám tu sửa sông ngòi. Sau đó, Vương Tòng Thiện, Bắc tác phường sứ, Đoàn luyện sứ Quả Châu, Nội thị Áp ban, thay thế Đặng Bảo Cát. Chu Hãng có tấu trình, xem thêm tháng 6 năm sau.
[59] Ngày Canh Dần, giáng chức Bao Chửng, Tri châu Lô Châu, Long đồ các Trực học sĩ, Lang trung Hình bộ, xuống làm Viên ngoại lang Binh bộ, Tri châu Trì Châu, vì tội bảo lãnh sai lầm.
[60] Ngày Nhâm Thìn, Thi Xương Ngôn, Long đồ các Trực học sĩ, Cấp sự trung, được cử làm Đô đại Tu hà Chế trí sứ. Thái Đĩnh, Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, Viên ngoại lang Độ chi; Dương Vĩ, Đô đại Đề cử Hà cừ ty Câu đương công sự, Thái thường Bác sĩ, cùng quản lý việc tu sửa sông ngòi. Xương Ngôn từ chối, nhưng không được chấp thuận.
[61] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu rằng võ quan nào tham nhũng thì không được thăng chức Hoành hành, chỉ những người có chiến công mới được phép. Trước đây, Sài Di Phạm, Cáp môn Thông sự xá nhân, xin thăng chức Cáp môn sứ, nhưng Ngự sử đài tâu rằng ông từng bị miễn chức vì tội tham nhũng, không thể theo lệ thăng chức.
[62] Ngày Kỷ Hợi, người Man châu An Hóa, Quảng Nam đến cống phương vật. Vua xuống chiếu phong Tri châu Mông Toàn Hội làm Tam ban Phụng chức, Giám châu Diêu Toàn Khoa làm Tá chức.
[63] Cháu nội của cố Hàn lâm học sĩ Vương Vũ Xứng là Diên Kỷ dâng lên một bức thư pháp thơ của Thái Tông hoàng đế ban cho ông nội mình. Vua xuống chiếu ban thưởng một vạn tiền, và trả lại bức thư pháp cho gia đình.
[64] Ngày Canh Tý, Khiết Đan phái Hữu Tuyên huy sứ Tả Kim Ngô vệ Thượng tướng quân Tiêu Vận, Hàn lâm học sĩ Cấp sự trung Sử quán Tu soạn Sử Vận đến dâng vật phẩm lưu lại.
[65] Ngày Tân Sửu, xuống chiếu cho các quan học quan Quốc Tử Giám từ nay lấy ba năm làm một nhiệm kỳ, ai muốn ở lại thì cho phép, nhưng không tính vào thâm niên.
[66] Ngày Giáp Thìn, ban cho Tả Đồn vệ Đại tướng quân Khắc Đôn 30 vạn tiền. Khắc Đôn dâng bài văn của mình xin được thi, đến khi thi ở Học sĩ viện, lại xin chia làm hai ngày để thi thơ, phú và luận. Được chấp thuận theo lời xin, nên bãi bỏ việc ban ân mà chỉ ban tiền. Khắc Đôn là anh của Đức Quân.
[67] Thị ngự sử Lương Thiến vì bệnh xin từ chức ngôn quan, đổi làm Hình bộ Viên ngoại lang, Trực sử quán, Tri Tương châu. Thiến bị bãi chức ngôn quan, ắt có nguyên do. Lưu Chí trong bài minh trên mộ Thiến nói rằng ông tự xin từ chức ngôn quan. 《Ngự sử đài ký》 chép rằng ông được thăng làm Khởi cư xá nhân, Tri Gián viện, vì bệnh xin bổ nhiệm ngoại quận. Xét rằng Thiến chưa từng vào Gián viện, 《Ngự sử đài ký》 chép sai. Việc vì bệnh xin bổ nhiệm ngoại quận là đúng. Tuy nhiên, 《Ngự sử đài ký》 chê bai Thiến quá đáng, không thể tin hoàn toàn. Lưu Chí nói rằng ông xin cắt giảm ân điển cho con cháu quan lại, bắt đầu từ Tể tướng. Có lẽ việc Thiến ra ngoài cũng không phải do nguyên nhân này, nay không theo.
[68] Ngày Kỷ Dậu, Quốc mẫu Khiết Đan phái Lâm nha Bảo Tĩnh Tiết độ sứ Tiêu Cổn, Văn châu Quan sát sứ Tri Khách tỉnh sứ Đỗ Tông Ngạc; Khiết Đan phái Sùng Nghi Tiết độ sứ Gia Luật Đạt, Ích châu Quan sát Lưu hậu Lưu Nhật Hanh đến chúc mừng ngày Chính đán. Lại phái Lâm nha Hữu Lĩnh quân vệ Thượng tướng quân Tiêu Liêu, Quy châu Quan sát sứ Khấu Trung đến tạ ơn việc sách lập.
[69] Ngày Tân Hợi, Âu Dương Tu lại tâu rằng:
[70] Triều đình định nghị khai tu cửa sông Lục Tháp, dẫn nước trở lại dòng cũ Hoành Lũng, đây là việc lớn. Các quan trong ngoài đều biết là không tiện, nhưng chưa ai dám vì nước nhà mà nói rõ lợi hại, tại sao vậy? Bởi có ba lý do: một là sợ đại thần, hai là dùng tiểu nhân, ba là không có kế sách gì hay. Nay các đại thần chấp chính đã dốc sức lo việc sông cũng khá vất vả. Ban đầu định huy động mười vạn người để khơi lại dòng cũ, sau lại bỏ dòng cũ mà tu sửa Lục Tháp, chưa kịp khởi công đã vội bãi bỏ, rồi cuối cùng bị những kẻ nói lợi thắng thế, nay lại tiếp tục tu sửa, thế thì khó mà dừng lại được. Các đại thần chấp chính quyết tâm chủ trì việc này, lại có thế không thể dừng, nên không phải chỉ một người nói suông mà thay đổi được, đó là lý do dù biết không tiện nhưng ít ai dám nói.
Lý Trọng Xương là tiểu nhân, miệng lưỡi lợi hại, nói dối, mọi người đều ghét. Nay các đại thần chấp chính đã dùng kế của hắn, ắt phải bảo vệ hắn. Hơn nữa từ xưa chưa có con sông nào không gây tai họa, nay sông lấn vào Ân, Ký, tai họa trước mắt tuy nhỏ nhưng đã hiện rõ. Dẫn nước trở lại Lục Tháp, tai họa tương lai tuy lớn nhưng chưa đến. Kẻ tiểu nhân miệng lưỡi lợi hại được đại thần bảo vệ, muốn tranh luận về tai họa chưa hiện rõ, thế tất khó thắng. Dù có thể thay đổi được kế sách, người nói vẫn phải một mình gánh trách nhiệm về tai họa ở Ân, Ký, khiến Trọng Xương có cớ biện bạch, đại thần có thể đổ lỗi, đó là lý do dù biết không tiện nhưng ít ai dám nói. Nay các đại thần chấp chính quá dụng tâm, không nghĩ rằng từ xưa chưa có con sông nào không gây tai họa, chỉ muốn khiến sông không gây họa. Nếu có thể khiến sông không gây họa, dù hao tổn sức người cũng nên làm. Huống chi nghe Trọng Xương nói lợi hại, biện luận khéo léo, cho rằng tốn ít vật chất mà không hao nhiều công sức, không thể không tin là kế sách hay, nên quyết định dùng. Nay người nói cho rằng dòng cũ không thể khôi phục, Lục Tháp cũng không thể tu sửa, hỏi kế sách gì thì lại không có kế sách gì hay để thắng, đó là lý do dù biết không tiện nhưng ít ai dám nói.
[71] Những điều mọi người không dám nói, mà thần nay dám nói, thần cho rằng các đại thần vốn không có ý tư lợi cho Trọng Xương, chỉ muốn hưng lợi trừ hại mà thôi. Nếu thực sự biết rằng việc đó gây hại càng lớn, thì há lại không nói sao? Còn việc lo lắng về hậu họa của tiểu nhân, thì không phải là điều thần lo nghĩ. Vả lại, việc quan trọng là phải biết lợi hại, cân nhắc nặng nhẹ, khi bất đắc dĩ thì chọn việc ít hại và nhẹ họa mà làm, điều này không phải người minh trí thì không thể làm được. Huống chi, trị thủy vốn không có kế sách kỳ lạ, chỉ là xem xét địa thế, cẩn thận đê phòng, thuận theo dòng chảy của nước, dù là Đại Vũ cũng không vượt qua được điều này. Cái gọi là kế sách kỳ lạ, nếu không đại lợi thì sẽ đại hại, nếu theo kế thông thường, tuy không có đại lợi, nhưng cũng không đến mức đại hại[23], đây là việc làm của người minh trí biết chọn lợi. Nay nói việc tu sửa sáu tháp là kế sách kỳ lạ, nhưng cuối cùng không thể thành công mà còn gây hại càng lớn; nói việc thuận nước trị đê là lời nói thông thường, nhưng không có đại lợi cũng không có đại hại. Không biết người lo việc nước muốn chọn điều gì? Nếu cho rằng lợi hại không thể chắc chắn, chỉ cần tập hợp đông người, khởi xướng việc lớn, làm khổ dân, làm khốn đất nước, để thử kế sách kỳ lạ mà may mắn thành công[24], thần cho rằng dù là đại thần chấp chính cũng chưa chắc đã dám làm. Huống chi, thần trước đây đã nói rất rõ về lợi hại của sông ngòi, nhưng chưa được chọn dùng, nay lại dám trình bày đại lược, mong bệ hạ xem xét quyết định[25].
[72] Thần cho rằng sông Hoàng Hà chưa từng không gây họa. Nay thuận theo dòng chảy đã vỡ, sửa đê phòng ở Ân, Ký, thì họa thứ nhất xảy ra chậm; đắp đập ngăn sông Thương Hồ để khôi phục dòng cũ, thì họa thứ hai xảy ra nhanh; mở cửa Lục Tháp để đưa dòng sông hiện tại quay lại, thì họa thứ ba gây tai hại vô cùng. Từ khi sông Hoàng Hà vỡ đê Hoành Lũng đến nay, đê Kim Đê ở Đại Danh năm nào cũng phải tu sửa thêm, đến khi sông Thương Hồ lại vỡ, đê Kim Đê càng phải gia công nhiều hơn[26]. Chỉ riêng vùng Ân, Ký, từ sau khi sông Thương Hồ vỡ, những người bàn luận tham lam đề ra kế sách ngăn sông, chưa từng chú ý đến việc đắp đê phòng, vì thế nước sông hiện nay ngày càng tràn ngập. Nay nếu chuyên tâm dồn sức vào vùng Ân, Ký, cẩn thận sửa đê phòng, thì họa sông có thể ngăn chặn được, không đến nỗi gây tai hại lớn. Cái gọi là họa thứ nhất, trong vòng mười mấy năm khiến cho hạ lưu sông bị bồi lấp[27], thì thượng lưu ắt có chỗ vỡ, đây là họa thứ nhất xảy ra chậm.
Họa thứ hai, nay muốn đắp đập ngăn cửa Thương Hồ để nước quay về dòng cũ, sửa đê tu bổ đập, công sức và chi phí rất lớn, làm khổ người, hao tốn của, khiến công tư cùng khốn, đây là họa thứ nhất; may mà cửa Thương Hồ có thể đắp được, dòng cũ khôi phục, nhưng bùn cao khó đi, không quá một hai năm, thượng lưu ắt sẽ vỡ, đây là họa thứ hai xảy ra nhanh. Họa thứ ba, nay cửa sông Lục Tháp tuy nói đã có ước thượng hạ, nhưng đắp đập ngăn toàn bộ dòng chính của sông lớn, công sức rất lớn, lại mở cửa sông Lục Tháp, sửa hơn hai ngàn dặm đê phòng, di dời một huyện hai trấn, tính ra công sức và chi phí còn lớn hơn đắp đập ngăn cửa Thương Hồ mấy lần, khiến công tư cùng khốn, không thể tính xiết, đây là họa thứ nhất; may mà có thể đắp được, nước chảy vào Lục Tháp rồi đổ về phía đông, tràn lan khắp nơi, vùng Tân, Lệ, Đức, Bác và giáp giới với Tề Châu đều bị hại. Năm châu này vốn nổi tiếng giàu có, là nơi cung cấp tài chính cho cả vùng Hà Bắc, nay dẫn nước đổ vào, không chỉ dân năm châu bị phá hoại ruộng đất, cả vùng Hà Bắc cũng sẽ trở nên nghèo khó, đây là họa thứ hai; trong vòng ba năm năm, năm châu suy tàn, sông chảy tràn ngập, lâu ngày lại bị bồi lấp cao, dòng chảy bị tắc nghẽn, thì thượng lưu ắt sẽ vỡ, đây là họa thứ ba. Cái gọi là gây tai hại vô cùng vậy. Nay vì nước mà tính toán sai lầm, vốn muốn trừ một họa, nhưng lại rước lấy ba họa, đây là điều thần không hiểu nổi.
[73] Đến như việc đập Lục Tháp không thể chứa được sông lớn, con đường cũ Hoành Lũng vốn đã bị bồi lấp cao khó đi mà sông Thương Hồ lại vỡ, nay lại đưa nước đổ vào, ắt sẽ tràn ngang và tản ra, từ Trấn đến biển hơn hai nghìn dặm, đê đập không thể sửa chữa ngay được, dù có sửa xong cũng không thể ngăn được nước, những việc như thế rất nhiều, kẻ sĩ dù ngu dốt hay thông minh[28], đều biết rõ, không cần đợi thần nói mới hiểu. Trước khi thần chưa đi sứ Khiết Đan, đã từng tâu rõ rằng con đường cũ và đập Lục Tháp đều không thể làm. Vả lại, nước sông là thiên tai, không phải sức người có thể thay đổi, chỉ nên tu sửa đê điều, thuận theo nước mới là kế sách đúng. Khi thần đi sứ qua lại Hà Bắc, hỏi những người hiểu biết về nước, họ đều nói như vậy. Dân ở Ân, Ký nay bị nước lụt cũng đều biết việc này bất tiện, đều mong tạm thời tu sửa đê điều ở Ân, Ký là đúng. Tình hình dưới dân như thế, ai sẽ tâu lên trên? Thần đã biết rõ, há dám im lặng. Kính xin Thánh từ đặc biệt dụ các tể thần, khiến họ xem xét lợi hại, nhanh chóng bãi bỏ việc đắp đập Lục Tháp, thay thế Lý Trọng Xương và những người khác không dùng nữa, sai một hai vị đại thần tài giỏi xem xét đê điều, thì nước sông sẽ không gây họa, không cần tìm kế sách kỳ lạ, lập công khó thành, để làm cơ hội cho kẻ tiểu nhân may mắn mong được ân thưởng. Chỉ mong triều đình suy xét kỹ, nhanh chóng bãi bỏ việc đắp đập Lục Tháp.
[74] Lúc đó, tể tướng Phú Bật đặc biệt ủng hộ ý kiến của Trọng Xương, tấu chương dâng lên, cũng không được xem xét.
[75] Ngày Nhâm Tý, đền Lễ Tuyền mới tu sửa xong, tức là đền Tường Nguyên, vì hỏa hoạn nên đổi tên.
[76] Đầu niên hiệu Khánh Lịch, các châu Tư, Duy, Thanh, Tề, Nghi, Mật, Từ, Hoài Dương[29] cùng tám châu quân đã bãi bỏ lệnh cấm muối, các châu Duyễn, Vận cũng lần lượt cho phép thông thương muối biển. Từ đó, các châu không còn dự trữ muối nữa, và việc cấp muối tằm cho dân hàng năm cũng bị bãi bỏ, nhưng dân vẫn phải nộp tiền muối tằm như cũ. Năm đó, bắt đầu ban chiếu cho phép dân nộp tiền muối tằm theo tỷ lệ mười phần, được giảm ba phần. Điều này căn cứ theo 《Thực hóa chí》, nhưng chỉ ghi là niên hiệu Chí Hòa[30], không rõ thời gian cụ thể. 《Thực lục》 và 《Hội yếu》 đều không ghi chép. Nay sửa “Chí Hòa trung” thành “năm đó”, phụ lục vào cuối năm Chí Hòa thứ 2, vì đến tháng 9 năm Chí Hòa thứ 3 mới đổi niên hiệu thành Gia Hựu.
- Nguyên nhân là do Giả Xương Triều muốn khôi phục dòng sông cũ, chữ 'cái' nguyên là 'khải', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 47 'Tái tu Thiền Châu quyết hà' và 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 quyển 109 'Luận tu hà đệ nhị trạng' mà sửa. ↵
- Hơn nữa, những người đề nghị khai thông sáu tháp nói rằng có thể giảm được thế nước lớn của sông, bản các bản không có chữ 'kí', cùng với 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 giống nhau. Cùng với 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 không có chữ 'thuyết'. ↵
- Điều này cho thấy lợi ích giảm nước là hư ảo, chưa thấy được lợi ích thực sự, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử》 quyển 91 'Hà cừ chí' đều ghi là 'Điều này cho thấy giảm nước chưa thấy được lợi ích'. Cùng với 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 không có năm chữ 'chưa thấy được lợi ích'. ↵
- Sáu tháp chỉ là nơi phân chia giảm nước, dòng sông khác ở hạ lưu không có chỗ chảy về, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử》 quyển 91 'Hà cừ chí' đều ghi là 'chỉ là dòng sông khác ở hạ lưu'. Cùng với 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 không có hai chữ 'biệt hà'. ↵
- Khi Hoành Lũng đã vỡ 'Khi' nguyên bản là 'Nay', căn cứ vào các bản khác và 《Trường Biên Kỷ Sự Bổn Mạt》, 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》, 《Tống Sử》 sửa lại. ↵
- Nên vỡ đê ở cửa Thương Hồ thượng nguồn 'Vỡ' nguyên bản có chữ 'Lại', 'Ở' nguyên bản là 'Du', căn cứ vào các bản khác và 《Trường Biên Kỷ Sự Bổn Mạt》, 《Tống Sử》 sửa lại. 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 viết là 'Lại vỡ ở cửa Thương Hồ thượng nguồn'. ↵
- 'Đột ngột' nguyên bản viết là 'bằng phẳng', căn cứ theo 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 và 《Tống sử》 sửa lại, bản các có chữ 'đột' có thể chứng minh. ↵
- Chữ 'ư' trong 'Chí ư khai tạc cố đạo' vốn thiếu, căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》, 《Tống sử bổ》. ↵
- Các bản khác đều giống. 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 chép 'Tạm ngăn tạm khôi phục'. 《Trường biên kỷ sự bổn mạt》, 《Tống sử》 không có chữ 'phục', có lẽ thiếu. ↵
- Từ 'lời nói cuồng vọng' đến 'kính đợi mệnh lệnh' theo ghi chép trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Tống sử》 đều không có, chỉ có trong 《Âu Dương Văn Trung công văn tập》 ↵
- Mong hạ nghị của thần, chọn lấy điều thích hợp, trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 chữ 'thần' viết là 'quần thần', có lẽ đúng. Hai câu này với câu trên 'kính xin hạ nghị của thần, rộng mưu với mọi người mà quyết định chọn lựa' ý có phần trùng lặp ↵
- Chữ 'Phó sứ' trong 'Kim văn vũ quan tam ty phó sứ' vốn bị đảo ngược, nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42, mục Ức kiêu hãnh để sửa lại. ↵
- chỉ lệnh thiết bản vị từ chi 'lệnh' nguyên là 'mệnh', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản đổi. ↵
- 'Thi' nguyên là 'luận', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống sử》 quyển 155, 《Tuyển cử chí》 sửa lại. ↵
- tuần phố quan, chữ 'phố' nguyên là 'bộ', theo bản Tống và bản tóm tắt đời Tống sửa lại. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Chữ 'ty' trên chữ 'sứ' trong bản gốc, theo các bản khác mà bỏ. ↵
- 'Ba trăm vạn', bản Tống, bản Tống toát yếu chép là 'ba thuyết'; 'gia', Tục thông giám quyển 55 chép là 'cổ'. ↵
- 'Tiện' nguyên bản chép là 'sứ', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách Đông đô sự lược quyển 82, Tống sử quyển 328 truyện Tiết Hướng sửa lại. ↵
- Các lộ Chuyển vận phó sứ, Tống hội yếu tuyển cử 27 chép là 'các lộ Chuyển vận sứ phó sứ'. ↵
- 'Suy' nguyên bản chép là 'quyền', căn cứ theo Tống hội yếu sửa lại. ↵
- chữ 'Đại' trong 'Đại Lưỡng Tỉnh quan' vốn thiếu, theo bản Tống và Tống Toát Yếu bổ sung. ↵
- Chữ 'Kham' nguyên bản viết là 'Khám', căn cứ vào các bản khác và bản truyện trong 《Tống sử》 quyển 292 sửa lại. ↵
- Cũng không đến mức đại hại 'không đến', sách trên viết là 'không đến'. ↵
- Để thử kế sách kỳ lạ mà may mắn thành công 'mà' chữ nguyên không có, căn cứ sách trên bổ sung. ↵
- Mong bệ hạ xem xét quyết định sách trên viết là 'Mong bệ hạ chiếu cho các đại thần bàn bạc chọn lựa'. ↵
- Chữ 'đại' trong 'Kim Đê ích đại gia công' vốn có chữ 'hựu' ở dưới, theo bản các và sách trên đã bỏ. ↵
- Chữ 'lệnh' trong 'lệnh hà hạ lưu ứ tắc' vốn là chữ 'kim', theo sách trên đã sửa. ↵
- Câu 'sĩ vô ngu trí' trên nguyên bản có chữ 'thử', căn cứ theo sách trên đã bỏ. ↵
- Hoài Dương, chữ 'Dương' nguyên bản là 'Dương', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 85, 《Địa lý chí》 sửa lại. ↵
- chỉ ghi là niên hiệu Chí Hòa, hai chữ 'chỉ ghi' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác bổ sung. ↵