IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 182: NĂM GIA HỰU THỨ NHẤT (BÍNH THÂN, 1056)
Từ tháng giêng năm Gia Hựu thứ nhất đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Giáp Dần, mùng một, Vua ngự ở điện Đại Khánh để nhận lễ chầu. Đêm hôm trước, tuyết rơi lớn, đến nỗi đè gãy giàn giáo trong cung. Vua ở trong cung, đi chân đất cầu trời. Đến sáng thì trời quang. Các quan vào chầu, khi vén rèm lên, Vua bỗng cảm thấy chóng mặt, mũ miên nghiêng ngả, tả hữu lại buông rèm xuống. Có người dùng tay móc miệng Vua cho ra nước dãi, Vua mới đỡ hơn một chút, lại vén rèm lên, vội vàng làm lễ rồi thôi.
[2] Ngày Mậu Ngọ, Vua mở tiệc đãi sứ giả nước Khiết Đan ở điện Tử Thần. Tể tướng Văn Ngạn Bác dâng chén rượu lên chúc thọ Vua, Vua quay lại hỏi: “Không vui sao?” Ngạn Bác biết Vua có bệnh, lúng túng không biết trả lời thế nào, nhưng vẫn có thể kết thúc buổi tiệc.
[3] Ngày Kỷ Mùi, sứ giả nước Khiết Đan vào từ biệt, Vua đặt tiệc ở điện Tử Thần. Khi sứ giả vào đến sân, Vua kêu lớn: “Vội triệu sứ giả lên điện, Trẫm suýt nữa không gặp được.” Lời nói lộn xộn. Tả hữu biết Vua phát bệnh, vội vàng đỡ vào trong cung. Ngạn Bác theo ý Vua bảo sứ giả Khiết Đan rằng đêm qua trong cung uống rượu hơi nhiều, nay không thể thân hành dự tiệc, sai đại thần đến dịch trạm ban tiệc, và trao quốc thư.
[4] Ngạn Bác cùng hai phủ đợi ở cửa điện, một lúc lâu, triệu vào hỏi Phó đô tri nội thị Sử Chí Thông, Đặng Bảo Cát về tình hình Vua trong cung. Chí Thông đáp rằng việc trong cung rất bí mật, không dám tiết lộ. Ngạn Bác nổi giận, quát: “Chúa thượng bỗng nhiên mắc bệnh, liên quan đến sự an nguy của xã tắc, chỉ có các ngươi là được ra vào cung cấm, sao lại không cho tể tướng biết tình hình của thiên tử, muốn làm gì vậy? Từ nay, nếu bệnh tình có chút thay đổi, phải báo cáo ngay.” Rồi sai dẫn đến Trung thư lấy quân lệnh trạng. Chí Thông vốn cẩn thận, đều nghe theo. Đến tối, các cửa hoàng thành báo rằng đã đến giờ khoá cửa, Chí Thông nói: “Các ngươi tự báo với tể tướng, ta không nhận quân lệnh của họ.” Từ đó, việc trong cung, tể tướng không gì là không biết.
[5] Ngày Canh Thân, (Vua) đến điện nhỏ ở cửa Đông trong cung hỏi thăm sức khỏe[1]. Vua từ trong cung lớn tiếng gào lên rồi bước ra, nói: “Hoàng hậu cùng Trương Mậu Tắc mưu phản nghịch lớn.” Lời nói rất lộn xộn. Các cung nữ hầu hạ đều theo Vua ra ngoài, nói với Văn Ngạn Bác rằng: “Xin tướng công vì thiên tử mà ban ân xá để tiêu trừ tai họa.” Văn Ngạn Bác lui ra, bắt đầu bàn việc ban ân xá. Mậu Tắc là hoạn quan, Vua vốn không ưa, nghe lời Vua liền tự thắt cổ, tả hữu cứu thoát[2], không chết. Văn Ngạn Bác gọi Mậu Tắc đến trách rằng: “Thiên tử có bệnh, nói nhảm thôi, sao ngươi vội vàng như vậy! Nếu ngươi chết, khiến hoàng hậu biết nương tựa vào đâu?” Răn dạy phải thường hầu hạ bên cạnh Vua, không được rời xa. Hoàng hậu vì thế cũng không dám đến gần Vua. Các công chúa đều còn nhỏ, chỉ có Phúc Khang công chúa hơi lớn, lúc ấy đã mắc bệnh tâm thần, ban đầu không biết Vua có bệnh. Người hầu hạ bên cạnh Vua, chỉ có mười cung nữ mà thôi.
[6] Vua không thể xem xét công việc, hai phủ chỉ cùng nhau bàn bạc quyết định, rồi xưng chiếu thi hành. Hai phủ bàn rằng Vua đang không khỏe, muốn ở lại trong cung nhưng không có danh nghĩa. Ngày Tân Dậu, Văn Ngạn Bác và Phú Bật đề nghị làm lễ cầu phúc ở điện Đại Khánh, hai phủ giám sát, ngày đêm đốt hương, dựng trại ở dãy phía tây điện. Sử Chí Thông nói rằng theo lệ cũ, hai phủ không được ở lại trong điện. Văn Ngạn Bác nói: “Hôm nay còn bàn gì đến lệ cũ.” Sai cận thần cầu đảo ở các chùa quán trong kinh, các quan địa phương cầu đảo ở các đền miếu núi sông.
[7] Ngày Nhâm Tuất, bệnh Vua đỡ hơn, tạm ra ngự ở điện Sùng Chính để yên lòng mọi người.
[8] Ngày Quý Hợi, ban tiền đặc biệt cho các quân trong kinh.
[9] Hôm đó, hai phủ xin vào điện tẩm yết kiến Vua, Sử Chí Thông ngăn lại. Phú Bật trách rằng: “Tể tướng sao có thể một ngày không gặp thiên tử.” Chí Thông không dám trái lệnh. Hai phủ bắt đầu vào điện Phúc Ninh tâu việc trong nội điện, hai chế và cận thần hằng ngày đến cửa Đông Nội hỏi thăm, trăm quan năm ngày vào một lần.
[10] Ngày Giáp Tý, đại xá, miễn thuế ruộng bị thiên tai và thuế còn nợ.
[11] Ngày Mậu Thìn, bãi bỏ việc thắp đèn ngày Thượng Nguyên, từ đó tinh thần Vua dần thanh thản, nhưng vẫn không nói, các phụ thần tâu việc, đại để chỉ gật đầu mà thôi.
[12] Ngày Kỷ Tỵ, lệnh các phụ thần cầu đảo trời đất, tông miếu, xã tắc.
[13] Ngày Nhâm Thân, bãi bỏ việc tế lễ, hai phủ bắt đầu chia phiên về nhà, ai không về thì ở lại tại phủ của mình.
[14] Tri Khai Phong phủ Vương Tố từng đêm gõ cửa cung cầu gặp chấp chính để trình bày việc, Văn Ngạn Bác nói: “Lúc này cửa cung sao có thể mở ban đêm!” Sáng hôm sau, Vương Tố vào trình báo có một tên lính cấm vệ tố cáo đô ngu hậu muốn làm phản, chấp chính muốn bắt giữ để tra xét. Văn Ngạn Bác nói: “Như vậy sẽ gây hoang mang cho mọi người.” Bèn triệu Điện tiền đô chỉ huy sứ Hứa Hoài Đức đến hỏi: “Đô ngu hậu kia là người thế nào?” Hoài Đức trả lời: “Trong các chức vụ quân sự, ông ta là người lương thiện và cẩn thận nhất.” Văn Ngạn Bác hỏi: “Có thể bảo đảm không?” Hoài Đức đáp: “Đúng vậy.” Văn Ngạn Bác nói: “Tên lính này chắc chắn có oán hận với ông ta, nên vu cáo mà thôi, nên lập tức xử tử để yên lòng mọi người[3].” Mọi người đều cho là phải. Lúc đó Phú Bật vì bệnh xin nghỉ[4], Văn Ngạn Bác mời Lưu Hãng phê vào cuối tờ trình, rồi chém đầu tên lính ở cổng quân. Ban đầu Văn Ngạn Bác định tự phê, nhưng Vương Nghiêu Thần bóp đầu gối ông, Văn Ngạn Bác hiểu ý, bèn mời Lưu Hãng phê. Khi Vua khỏi bệnh, Lưu Hãng gièm pha Văn Ngạn Bác với Vua rằng: “Khi bệ hạ không khỏe, Văn Ngạn Bác đã chém người tố cáo làm phản.” Văn Ngạn Bác đưa tờ trình có chữ ký của Lưu Hãng lên, Vua mới hiểu ra.
Tô Tụng viết trong 《Tôn Biện hành trạng》 rằng: Cửa cấm không mở gần mười ngày, dù các đại thần chấp chính cũng không được vào yết kiến, chỉ thông danh ở cửa Đông Nội để hỏi thăm sức khỏe. Tôn Biện dẫn các đồng liêu nói rằng tể tướng không nên ngồi chờ, tể tướng nghe lời Biện, bèn gõ cửa vào cấm cung. Xét rằng Vua không khỏe từ ngày mùng một, đến ngày mùng bảy tể tướng đã vào cấm cung, còn nói cửa cấm gần mười ngày không mở là sai. Nay không chép. Phú Bật trách Sử Chí Thông, việc này căn cứ vào 《Phạm Thuần Nhân hành trạng》. Phú Bật vì bệnh xin nghỉ, Vương Nghiêu Thần bóp đầu gối Văn Ngạn Bác, đều theo 《Tư Mã Quang ký văn》. Phú Bật trách Chí Thông, 《Ký văn》 cũng có chép. 《Ký văn》 còn chép rằng Xu mật sứ Vương Đức Dùng mở cửa phụ vào Trung thư, Văn Ngạn Bác bắt giữ viên quan coi cửa đưa đến Khai Phong phủ đánh đòn, hôm sau nói với đồng liêu rằng hối hận không chém người coi cửa, khi thiên tử không khỏe, cửa cấm cung sao có thể tùy tiện mở! E rằng việc này chưa chắc đã đúng, nếu đúng thì hai phủ sao không có hiềm khích, nay không chép.
[15] Ngày Nhâm Ngọ, mưa tuyết lớn, cây cối đóng băng.
[16] Thủ lĩnh Tây Phiên Ma Chiên Giác đến cống nạp sản vật địa phương.
[17] Tháng 2, ngày Giáp Ngọ, xuống chiếu cho các quan từ chế trở lên mỗi ngày đến hỏi thăm ở cửa Đông trong cung, còn lại đều bãi bỏ. Sách 《Thực lục》 ghi là từ chế trở lên, sách 《Ký văn》 ghi là hai phủ và cận thần. Nay theo 《Thực lục》.
[18] Ngày Bính Thân, Ty An phủ Quảng Tây tâu rằng người Man ở các châu Quế, Dung là Dương Khắc Đoan cùng 103 người xin quy phụ.
[19] Ngày Giáp Thìn, Vua ngự điện Diên Hòa, sức khỏe hồi phục.
[20] Ngày Bính Ngọ, các tể tướng dẫn trăm quan dâng biểu chúc mừng.
[21] Ngày Tân Hợi, Lại bộ Lưu nội tuyển xin cho những người được tuyển vào chức lệnh, lục, nếu người tiến cử không phạm tội tham nhũng và không phải là quan đã về hưu hoặc phân ty, thì được dùng, tấu được chấp thuận.
[22] Tháng 3, ngày Quý Sửu, Diêm thiết phó sứ, Tư huân lang trung Lý Tham và Văn tư phó sứ Đậu Thuấn Khanh được cử làm An phủ sứ Kinh Hồ Bắc lộ. Ban đầu, triều đình cử Chuyển vận sứ bản lộ là Lý Túc Chi và Tri châu Thần là Tống Thủ Tín đi đánh người Man là Bành Sĩ Hi, nhưng Tri Kinh Nam là Vương Quỳ lại bất hòa với Túc Chi trong việc bàn bạc, hai bên đều dâng tấu tố cáo lẫn nhau, nên triều đình phái Tham đi xem xét sự việc. Tri gián viện Phạm Trần tâu: “Thần nghe nói Bành Sĩ Hi cha con đánh nhau, quan biên thần không tâu lên, triều đình lại tự ý xuất quân giúp con đánh cha, điều này rất không phù hợp với thể chế vương sư hỏi tội. Xin truy xét người gây ra sự việc từ đầu, trước hết trị tội họ, sau đó sai Lý Tham một mặt chiêu phủ, để tránh cho Kinh Hồ bị quấy nhiễu vô cớ.” Túc Chi và Quỳ bất hòa, truyện của Túc Chi không ghi rõ, còn Quỳ thì không có truyện, căn cứ vào bài chí minh của Tăng Củng cũng thiếu phần này.
[23] Ngày Đinh Tỵ, xuống chiếu cho Lễ bộ tổ chức thi cử nhân.
[24] Ty An phủ Quảng Tây tâu rằng việc tu sửa thành Ung Châu đã hoàn thành.
[25] Ngày Mậu Ngọ, Lại bộ lang trung, Thiên Chương các đãi chế Trương Trạch Hành được thăng làm Hộ bộ lang trung, Tập hiền điện tu soạn, đề cử cung Cảnh Linh và quán Thái Cực ở huyện Tiên Nguyên. Ban đầu, Trạch Hành làm Tri gián viện, tâu rằng Trần Chấp Trung bắt thiếp đánh tỳ nữ, theo luật không đáng tội, nhưng ngự sử cứ ép buộc, Trạch Hành vì thế bị trúng phong không nói được, nên bị giáng chức.
[26] Ngày Canh Thân, Tiền Diên Niên, Binh bộ lang trung, trực Long Đồ các, tri Thiểm Châu, được bổ nhiệm làm Tập Hiền điện tu soạn. Trương Trạch Hành vừa bị giáng chức, triều đình lệnh cho Diên Niên làm đãi chế Thiên Chương các để bù vào chỗ khuyết của Trạch Hành. Ngự sử Phạm Sư Đạo và Triệu Biện tâu: “Chức đãi chế ban đầu chỉ đặt hai người, nay trong và ngoài triều đã có đến mười lăm người, chức đãi chế không thiếu người, dù bãi chức Trạch Hành, chỗ khuyết cần gì phải bù? Diên Niên tầm thường vô dụng, mọi người đều biết, nếu nói là đã có chỉ dụ trước, thì điển lệ rất rõ ràng, không nên áp dụng.” Tri chế cáo Giả Ám cũng tâu rằng Diên Niên bất tài, không thể làm thị tòng, bèn trả lại tờ chiếu, nên đổi mệnh lệnh.
[27] Ngày Kỷ Tỵ, Thị ngự sử Lương Thiến tâu: “Thần nghe điều chế năm Thiên Thánh quy định: Phó sứ an phủ, đô giám và các sứ thần cùng quản lý công việc an phủ ty ở Hà Bắc, Hà Đông khi đến kinh tâu việc chỉ được ở lại mười ngày. Những năm gần đây nhiều người không tuân thủ, mỗi khi vào tâu, thường lấy danh nghĩa khác để ở lại, thậm chí dám xin thánh chỉ kéo dài thời hạn, ở lại kinh thành để lo việc riêng, tìm kiếm cơ hội, mong được ân trạch, không chỉ cản trở công việc tại nhiệm sở, mà còn làm phiền triều đình[5], xin hãy làm rõ lại điều chế trước.” Triều đình nghe theo. Việc này ghi trong 《Hội yếu》 ngày 17 tháng 2.
[28] Ngày Tân Mùi, Ty thiên giám tâu: “Từ tháng 5 năm Chí Hòa nguyên niên, sao khách xuất hiện ở phương đông, giữ ở Thiên Quan[6], đến nay đã biến mất.”
[29] Ngày Nhâm Thân, thánh thể khỏe mạnh, lệnh cho tể tướng tạ ơn trời đất, xã tắc, tông miếu và các đền chùa.
[30] Ngày Quý Dậu, Khiết Đan cử Tiêu Tín, Thuận Nghĩa tiết độ sứ, Hữu giám môn vệ thượng tướng quân, và Vương Hành Kỷ, Hữu gián nghị đại phu, đến tạ ơn. Khiết Đan chủ vì triều đình nhiều lần cử sứ thần đến viếng tang, nên gọi Tín và Hành Kỷ là Đô tạ sứ.
[31] Tháng 3 nhuận, ngày Quý Mùi mùng một, Xu mật phó sứ, Cấp sự trung Vương Nghiêu Thần được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang, Tham tri chính sự; Cấp sự trung, Tham tri chính sự Trình Kham được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang, Xu mật phó sứ[7], do Trình Kham là thông gia với Văn Ngạn Bác.
[32] Chiếu chỉ cho Cáp môn, từ nay trở đi, các điện tiền và điện hậu sẽ luân phiên làm việc cách ngày.
[33] Ngày Kỷ Sửu, Điện trung Thị ngự sử Triệu Biện tâu: “Thần trước đây thấy thánh chỉ, vì việc giảm bớt tấu tiến con cháu, thân thích hưởng ân trạch, đã giao cho hai chế và các quan Đài gián bàn định. Sau đó đã trình bày đầy đủ điều kiện lên tấu. Thần nghe nói lại giao xuống Trung thư, Mật viện xem xét kỹ lưỡng, đến nay đã nhiều ngày mà chưa có chỉ thị. Vì lễ Thánh tiết sắp đến, các quan trong ngoài chưa biết quy định mới, chắc chắn sẽ theo lệ cũ tấu tiến, thực là sự may mắn không đáng có. Huống chi việc này là cội nguồn của việc thanh lọc quan lại tham nhũng. Ở thời thánh minh mà không thể quyết đoán thực hiện, thì tệ nạn trì trệ sẽ ngày càng sâu nặng, kỷ cương triều đình ngày càng suy đồi. Xin sớm ban hành, để có thể cải cách bộ máy quan lại cồng kềnh, bắt đầu từ năm nay.” Được chấp thuận. Việc này căn cứ theo bản tấu của Triệu Biện.
[34] Ngày Tân Mão, Hàn lâm Học sĩ Vương Chu được bổ nhiệm làm Hàn lâm Thị độc Học sĩ, kiêm Thị giảng Học sĩ; Tri chế cáo Lưu Xưởng được bổ nhiệm làm Tri châu Dương Châu. Xưởng là cháu của Vương Nghiêu Thần; Chu là chú của Nghiêu Thần. Vì Nghiêu Thần nắm quyền, cả hai đều tránh thân. Chu bị bãi một chức Học sĩ, đổi lấy hai chức Học sĩ, lại kiêm cả Giảng độc[8], điều này triều đình chưa từng có. Tri gián viện Phạm Trấn xin thu hồi ân điển quá mức, và lệnh cho Chu theo lệ của Xưởng ra ngoài nhậm chức, lại nói rằng Chu khi ở Thái thường đã làm hỏng lễ nhạc của bệ hạ, khi làm Học sĩ thì tiến cử không đúng đạo, tính tình gian trá, e rằng cuối cùng sẽ liên lụy đến Nghiêu Thần. Dâng sớ sáu lần, cuối cùng không được trả lời.
[35] Trấn An tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Trình Lâm sau khi trở về trấn, dâng thư nói: “Thần tuy già, nhưng vẫn có thể giữ biên cương cho nước.” Chưa được trả lời thì bệnh nặng rồi mất. Ngày Đinh Dậu, truy tặng Trung thư lệnh, thụy là Văn Giản. Trình Lâm là người nhanh nhẹn, nghiêm khắc, giỏi việc chính sự. Thời Chương Hiến, từng dâng bức tranh Vũ hậu lâm triều, người ngoài không biết. Sau này, Vua ở Nhĩ Anh giảng đọc, nói với cận thần: “Tâm hạnh của Trình Lâm không tốt.” Chính là chỉ việc này. Tuy nhiên, Trình Lâm vẫn được trọng dụng, người bàn luận cho rằng Vua tính khoan hậu, không giận lâu.
[36] Ngày Kỷ Hợi, nước Chiêm Thành sai sứ cống phương vật. 《Thực lục》 ngày Tân Sửu lại chép chiếu thư răn những kẻ dám bàn kế sách giúp biên giới, ý từ không khác chiếu thư ban ra tháng 2 năm Hoàng Hựu thứ 3, nay không chép lại.
[37] Ngày Quý Mão, xuống chiếu rằng thương nhân vùng biên giới phía bắc Hà Bắc thường buôn bán vật cấm với khách phương bắc, lệnh cho An phủ ty đặt thưởng lớn để cấm tuyệt.
[38] Ngày Bính Ngọ, cho Tiến sĩ Thiệu Vũ quân Ngô Ngạn Phương làm Giao Xã Trai lang. Trước đó, Quảng Tây An phủ ty tâu rằng Ngạn Phương từng ứng mộ đánh giặc, tự tay bắt được thủ cấp, lại từng theo Tiêu Chú vào động chiêu dụ người Man quy phụ, nên cho làm quan.
[39] Điện tiền ty tâu: “Vạn Thắng hai mươi chỉ huy vốn quản năm trăm người, sau này tuyển phối và bỏ trốn, số lượng giảm nhiều. Xin gộp thành mười chỉ huy, mười chỉ huy dưới nhập vào mười chỉ huy trên. Hiện quản Quân đầu, Thập tướng, Tiết cấp số lượng nhiều, xin chọn một trăm năm mươi lăm người cao tuổi có công đưa về Quân đầu ty quản lý, chỉ chờ sai phái.” Theo lời tâu.
[40] Mùa hạ, tháng 4, ngày Nhâm Tý mùng một, Lý Trọng Xương và những người khác đắp đê ngăn dòng chảy phía bắc Thương Hồ vào sông Lục Tháp, nhưng sông hẹp không chứa nổi[9], đêm đó lại vỡ, chết đuối binh lính và trôi cỏ khô không kể xiết.
[41] Ngày Bính Thìn, Hàn lâm học sĩ, kiêm Đoan minh điện học sĩ, Hàn lâm thị độc học sĩ Lý Thục kiêm Long đồ các học sĩ, bị cách chức Hàn lâm học sĩ. Thục được triệu vào Hàn lâm, chưa đầy một tháng, Ngự sử trung thừa Trương Biện cùng các quan tâu rằng Thục gian tà, lại từng giấu tang phục. Vì thế, ông bị cách chức ngay.
[42] Viện Tri gián Phạm Trấn tâu rằng: “Thần thấy Ngự sử nói Lý Thục gian tà, không nên làm Hàn lâm học sĩ. Thần nghĩ Lý Thục nhiều lần làm Hàn lâm học sĩ, đều vì gian tà mà bị cách chức, không cần đợi đến khi bị đàn hặc rồi mới có thể bãi chức. Ngự sử đã tâu lên, triều đình không lập tức thi hành, lại giao tờ chiếu cho Lý Thục, khiến Thục từ chức Ngự sử trung thừa trở xuống lần lượt bị chỉ trích. Lại có Gián quan nói Vương Chu từng làm Hàn lâm học sĩ ở viên ngoại, lại làm Thị độc học sĩ kiêm Thị giảng học sĩ, đều là phá hoại điển chế[10], dùng cách may rủi để tiến thân, sự việc rất rõ ràng. Triều đình cũng không lập tức thi hành, lại giao tờ chiếu cho Vương Chu, khiến Chu vu cáo rằng có hiềm khích với thần, cố tìm cách tự thoát. Đây là do đại thần không chịu trách nhiệm, khiến phiền nhiễu đến thánh thính, làm tổn hại quốc thể. Thần nghĩ rằng bệ hạ đặt ra Ngự sử, Gián quan là để họ nói lên phải trái của triều đình. Đặt ra chấp chính đại thần là để họ giúp bệ hạ phân biệt phải trái, xử quyết việc triều đình và thiên hạ. Nay Ngự sử, Gián quan vì bệ hạ mà tâu lên, nhưng đại thần không vì bệ hạ mà phân biệt, lại đem tờ tấu đàn hặc cho Chu, Thục xem, khiến họ tranh cãi lẫn nhau[11], điều này khác gì quan châu huyện không phân xử phải trái cho dân, lại bảo dân tự đấu tranh với nhau. Ngự sử, Gián quan nói lên, chỉ là đúng hay sai mà thôi. Nếu sai, nên lập tức xử tội để răn đe kẻ nói bậy. Nếu đúng, cũng nên lập tức thi hành. Nay không lập tức thi hành, lại đem tờ tấu cho người bị đàn hặc xem, khiến việc rối ren như vậy, thần e rằng việc triều đình càng thêm nhiều, mà bệ hạ càng khó nghe được điều giản dị, thánh lự ngày càng phiền nhiễu.”
[43] Đoan Minh điện học sĩ, Tả ty lang trung, Tập Hiền điện tu soạn, Tri Trịnh Châu Tăng Công Lượng được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ, kiêm Thị độc học sĩ. Công Lượng trị quận nổi tiếng tài năng, bọn trộm cướp đều chạy sang quận khác[12], đến nỗi cửa ngoài không cần đóng, dân chúng gọi ông là “Tăng Khai Môn”.
[44] Trước đó, Long Đồ các trực học sĩ Lý Giản Chi xin sửa đổi pháp chế về tuyển cử và bổ ấm. Tri gián viện Phạm Trấn xin rằng các quan đương nhiệm ở nhị phủ chỉ được phép bổ ấm cho anh em ruột của mình, anh em ruột của cha, và con của anh em cha[13]; các chức Chính nhiệm Đoàn luyện sứ trở lên được bổ ấm cháu chắt, Tri tạp Ngự sử trở lên được bổ ấm cháu, các chức Đái chức Viên ngoại lang, Chư ty Phó sứ chỉ được bổ ấm con[14]; những người mỗi năm được tiến cử một người[15] thì ba năm mới được tiến cử một lần. Thị ngự sử Vô Thục xin rằng các quan đương nhiệm ở nhị phủ, Tiết độ sứ trở lên, qua hai lần lễ Càn Nguyên tiết, được bổ ấm một người thân thuộc; Tri tạp Ngự sử, Cáp môn sứ trở lên, gặp lễ giao tế được tiến cử một lần, còn lại phải qua hai lễ giao tế. Khoa trường lấy sĩ, các ty nhập lưu, đều giảm một nửa. Bãi bỏ việc nội thần bổ ấm con cháu và việc nộp tiền lương thực để được bổ nhiệm làm quan.
[45] Hạ lệnh cho hai chế nghị. Các quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ là Tôn Biện tâu rằng: “Hiện nay hai phủ và các chức sứ tướng, tuyên huy, tiết độ sứ ba năm được ấm bổ hai người, đã giảm một nửa ân điển cũ. Các quan văn võ còn lại xin cho những người được bổ nhiệm trong một năm và ba năm[16] đều tăng gấp đôi, nội thần không được quá hai người[17], các tần ngự và hoàng tộc cũng theo quy định này. Bãi bỏ việc đặc tấu danh ở Nam tỉnh. Các cơ quan nhập lưu theo quy định của Lại bộ, không được nghe theo việc giảm năm hoặc đổi sang võ chức.” Vua bèn hạ lệnh cho Trung thư, Xu mật viện xem xét quyết định.
[46] Bấy giờ, Vua ban chiếu rằng: “Các quan đương nhiệm ở hai phủ, sứ tướng, tuyên huy, tiết độ sứ, ngự sử tri tạp đều bãi bỏ ân ấm vào dịp lễ Càn Nguyên. Từ học sĩ trở xuống, khi gặp lễ giao, cho phép ấm thân thuộc đại công; gặp lễ giao lần thứ hai, cho phép ấm thân thuộc tiểu công. Các quan lang trung, viên ngoại lang kiêm chức, khi gặp lễ giao lần đầu, cho phép ấm con hoặc cháu; gặp lễ giao lần thứ hai, cho phép ấm thân thuộc {kỳ nguyệt}; gặp lễ giao lần thứ tư, cho phép ấm thân thuộc đại công trở xuống. Người lần đầu được ấm mà đã 60 tuổi không có con[18], cho phép ấm thân thuộc {kỳ nguyệt}. Vợ của hoàng tộc từ đại công trở lên[19], vợ của hoàng tộc từ đại công trở lên, 《Hội yếu》 ghi là vợ của hoàng thân từ đại tướng quân trở lên. Gặp lễ giao lần thứ hai cũng cho phép ấm thân thuộc {kỳ nguyệt}. Chuyển vận sứ, đề điểm hình ngục các lộ Quảng Nam Đông Tây được tấu phong một người con cháu hoặc anh em ruột. Các tri châu Ích, Tử, Tần, Diên, Tịnh, Quảng, cùng các tri châu kiêm an phủ sứ các lộ Thiểm Tây, Hà Đông, Hà Bắc, Quảng Tây, và chuyển vận sứ, đề điểm hình ngục các lộ Ích, Tử, Lợi, Quỳ, cho phép tấu phong một người thân thuộc đã có chức vào nơi thuận lợi; nếu là con cháu thì được thăng một bậc, quan kinh triều được thăng một nhiệm. Các viên ngoại lang làm tri châu mà có tư cách giám ty trước đây được ấm thì bãi bỏ. Người từng làm quan ở hai phủ, khi về hưu gặp lễ giao, tấu xin theo chỉ. Các quan phân ty từ đại lưỡng tỉnh trở lên giảm một bậc, con cháu của lang trung trở lên chưa có chức thì cho phép ấm một người[20]. Phàm ân ấm khi về hưu, từ đại lưỡng tỉnh trở lên giảm một bậc.”
Lang trung, viên ngoại lang được phép tâu tiến một người con cháu hoặc em cháu, không được tiến cử người cùng họ nhưng không có quan hệ thân thích. Các chức từ Tam thừa trở lên, chỉ được tiến cử người thân thuộc vào chức quan nhàn hạ thuận tiện[21]. Khoa trường lấy sĩ tử, lấy số tiến sĩ năm Hoàng Hựu thứ tư làm hạn định là 400 người, các khoa khác không được vượt quá số này. Năm Hoàng Hựu thứ tư không thấy có chỉ dụ này, đến ngày Kỷ Dậu tháng 10 năm Chí Hòa thứ hai, Vương Khuê dâng tấu sớ cũng chỉ nói là chiếu gần đây, không nói là năm Hoàng Hựu thứ tư. Xét năm Hoàng Hựu thứ năm tháng 3, ban cho Trịnh Giải và những người khác đỗ tiến sĩ và xuất thân, tổng cộng 520 người, hạn định 400 người chắc chắn là sau tháng 3 năm thứ năm, chữ “tứ” có lẽ là sai. Phần trên của chí không ghi niên hiệu, phần dưới lại ghi, nên xem xét lại.
Bãi bỏ việc đặc cách tiến cử ở Nam tỉnh. Các cơ quan khi bổ nhiệm quan chức, phải theo quy định của Lại bộ, không được dựa vào công lao để giảm năm thâm niên hoặc đổi sang võ chức. Tháng 3 năm sau, ban cho Chương Hoành và 262 người khác đỗ tiến sĩ, 126 người đỗ đồng xuất thân. Lại ban cho 389 người đỗ các khoa khác, và 214 người đỗ đặc cách tiến sĩ và các khoa khác được đồng xuất thân. Đoạn này nói bãi bỏ việc đặc cách tiến cử ở Nam tỉnh, nên xem xét lại.
Các võ thần từ chức Cáp môn sứ trở lên, đến Tiết độ quan sát lưu hậu, Thống quân Thượng tướng quân, Xu mật đô thừa chỉ và Quản quân Tiết độ quan sát lưu hậu, Long Thần vệ Tứ sương Đô chỉ huy sứ, Phủng Nhật Thiên Vũ Long Thần vệ Tả Hữu sương chủ kiêm Dao quận Đoàn luyện sứ trở lên, gặp lễ giao tế thì được ấm phong cho người thân thuộc đại công, gặp lần thứ hai thì được ấm phong cho người thân thuộc tiểu công. Các chức từ Chư vệ Đại tướng quân, Chư ty sứ, Xu mật phó đô thừa chỉ, Phó thừa chỉ, Chư phòng phó đô thừa chỉ[22] trở lên, gặp lễ giao tế lần thứ hai mới được ấm phong cho con hoặc cháu và người thân thuộc {kỳ nguyệt}. Người mới được ấm phong gặp lễ giao tế thì được phép, hoặc đã được ấm phong nhưng con cháu hiện chưa có chức quan cũng theo quy định này, từ sau phải gặp lễ giao tế lần thứ hai mới được phép.
Các chức từ Chư vệ Tướng quân, Chư ty phó sứ, Xu mật viện các phòng phó thừa chỉ trở lên, gặp lễ giao tế lần thứ hai mới được ấm phong cho con hoặc cháu. Các chức Bộ thự ở biên giới Thiểm Tây, Hà Đông, Hà Bắc, được phép tiến cử một người thân thuộc có chức quan vào nơi thuận tiện, nếu là con cháu thì được giảm năm thâm niên. Các chức Kiềm hạt ở các lộ, trừ Quảng Đông, Quảng Tây và các châu Ung, Nghi được phép ấm phong cho con cháu và người thân thuộc {kỳ nguyệt}, còn các lộ Ích, Tử, Lợi, Quỳ chỉ được phép tiến cử người thân thuộc có chức quan vào nơi thuận tiện, con cháu được giảm năm thâm niên. Các chức Chư ty sứ, trừ Chư vệ Đại tướng quân về hưu được phép ấm phong cho một người con hoặc cháu, nếu không có con cháu thì giáng cấp ấm phong cho người thân thuộc {kỳ nguyệt}, hoặc con cháu đã có chức quan, muốn thăng cấp cũng được phép. Các quy định khác đều theo các điều ước đã ban hành trước đây.”
Đoạn này căn cứ vào sách biên lục điều quán của Thành Đô bổ sung, Quốc sử sau đó đã bỏ đi phần về võ thần, vì so sánh với văn thần là có thể biết được[23], nhưng vẫn chưa đầy đủ. Từ đó mỗi năm giảm được khoảng 300 người được bổ nhiệm. Đoạn này căn cứ vào bài văn bia của Văn Đồng viết cho Mộ Thục, nên xem xét lại.
Mộ chí: Triều đình có lệnh cho con cháu được nhậm chức[24], so với các đời trước là điển chế ưu đãi nhất. Phàm những người được đề tên mỗi năm lên đến hàng trăm người, số người nhập lưu đã nhiều, đường làm quan càng thêm phức tạp. Thục dâng sớ nêu rõ tệ đoan ấy, tờ tâu được giao cho các quan cận thần bàn bạc, đa phần đều lo nghĩ cho mình, cho rằng lệnh cũ đã lâu, đột ngột thay đổi là không nên. Thục càng kiên trì ý kiến, trình bày lợi hại trước mặt Vua, cuối cùng được chấp thuận, ước tính mỗi năm giảm được ba trăm chức vụ. Nguồn gốc của việc này được thanh lọc bớt, những người cô hàn được tiến cử. 《Phạm Trấn Tấu Nghị》, quốc sử chép rất sơ lược, nay lấy bản thảo tấu chương chú thích chi tiết.
Trấn nói: Thần xét theo chế độ nhà Đường, quan ngũ phẩm trở lên được ấm phong cho cháu, tam phẩm trở lên được ấm phong cho chắt, nhưng không có quy định ấm phong cho anh em, chú bác, cháu chú bác. Nay quan văn từ chức Tri tạp Ngự sử trở lên mỗi năm được tiến cử một người, từ chức Viên ngoại lang đương chức trở lên ba năm được tiến cử một người; quan võ từ chức Hoành hành trở lên mỗi năm được tiến cử một người, từ chức Phó sứ các ty trở lên ba năm được tiến cử một người. Lại không có quy định về phẩm cấp cho anh em, chú bác, cháu chú bác, chắt, mà còn mở rộng đến họ hàng xa, nên số người nhập lưu ngày càng nhiều, đường làm quan càng thêm phức tạp.
Thần xin đề nghị: quan đương chức Lưỡng phủ được ấm phong cho anh em, chú bác, cháu chú bác; quan đương chức Học sĩ, Chính Đoàn luyện sứ trở lên được so với tam phẩm nhà Đường mà ấm phong cho chắt; như chức Tạp Ngự sử, Chính Thứ sử trở lên được so với ngũ phẩm nhà Đường mà ấm phong cho cháu; chức Viên ngoại lang đương chức, Phó sứ các ty trở lên chỉ được ấm phong cho con. Anh em, chú bác, cháu chú bác giảm một bậc so với chắt, chắt giảm một bậc so với cháu, cháu giảm một bậc so với con. Lại có sự khác biệt giữa việc mỗi năm tiến cử một người và ba năm tiến cử một người, tự có sự phân biệt giữa chức Kinh quan, Thí hàm, Trai lang. Quan võ cũng nên như vậy. Xin đề nghị: người được tiến cử mỗi năm một lần cũng cho tiến cử ba năm một lần, đối với chức vụ được nhận thì tăng thêm một hoặc hai bậc để ưu đãi. Nếu được chức Phụng lễ lang, Thái chúc, thì so với chức Đại Lý bình sự, Thừa các tự giám. Có người bàn rằng: nay từ chức Học sĩ trở xuống bỏ việc ấm phong cho anh em, chú bác, cháu chú bác mà chỉ ấm phong cho con cháu, như thế không phải là cách để mở rộng đạo yêu thương thân thích. Thần trộm nghĩ không phải vậy. Anh em, chú bác, cháu chú bác, về mặt công thì hình phạt không liên quan đến nhau, về mặt tư thì tài sản không liên quan đến nhau. Pháp lệnh quy định tài sản do làm quan mà có, không liên quan đến anh em, chú bác, cháu chú bác, nhưng đối với tước thưởng của triều đình lại dễ dàng ban cho[25], là điều không nên.
Thần xin đề nghị: ngoài việc theo phẩm lệnh được ấm phong[26], nếu triều đình nhất định muốn chiều theo tình riêng, ban ơn cho họ hàng bên ngoài, thì chỉ cho phép tiến cử, không cho nhập lưu. Nếu có tài năng, tự theo khoa mục thi cử, trong kỳ thi đỗ khoa mục, thì so với người bạch thân mà ưu đãi ban ân; người không có con cháu, đặc biệt cho phép tiến cử một người thân thích bên ngoài nhập lưu[27]. Như thế, thì dưới không mất tình yêu thương thân thích, trên không có tệ nạn quan lại thừa thãi, ban thưởng bừa bãi. Trấn lại nói: Chế độ nhà Đường đều không có quy định ấm phong cho anh em, chú bác, cháu chú bác, cũng không có sự khác biệt giữa một năm, hai năm, ba năm, chỉ lấy phẩm cấp làm hạn định. Nay chức Phó sứ các ty chỉ so với chức Cấp sự, Trung xá[28], mà lại được cùng với chức Viên ngoại lang đương chức nhậm chức cho con, là quá ưu đãi. Xin đề nghị: chức Phó sứ các ty phải trải qua chức sai khiển Lộ phân Kiềm hạt trở lên, mới được tiến cử, để so với chức Viên ngoại lang đương chức.
Quy chế điển chương của triều đình ta, phần lớn đều noi theo quy chế cũ của nhà Đường, vì gần gũi và có thể áp dụng được. Duy chỉ có phép tấu bổ, chưa hoàn toàn tuân theo. Bởi lẽ lúc đầu khi thiên hạ mới định, người ta chưa muốn ra làm quan, thậm chí có trường hợp phải thúc giục người giàu để họ làm quan, nên chưa kịp bàn đến chế độ cho anh em, chú bác. Nay thái bình đã lâu, số người vào làm quan đông, nếu không noi theo quy chế nhà Đường thì không thể sửa đổi điều lệ được. Kính xin xem xét lại lời tấu trước của thần, giao cho các đại thần chấp chính cùng bàn bạc rồi thi hành. Lại tâu: Thần nghe nói có người bàn định rằng từ chức lưỡng chế trở lên, hai năm được tấu cử một người, từ chức lang quan trở lên sáu năm được tấu cử một người. Nhưng chức lang quan, nếu không làm quan đến ba mươi năm thì không thể đạt được, đó là những người đã cống hiến sức lực. Nay đã có số lượng phẩm cấp, lại hạn chế về năm tháng, thần e rằng sẽ không công bằng, không công bằng thì kẻ dưới tất oán giận, kẻ dưới oán giận thì phép ấy không thể thực hiện lâu dài được.
[47] Các quan Cáp môn tâu rằng: “Lễ thượng thọ ở điện Thùy Cung, các hoàng thân quận vương, sứ tướng, xu mật sứ phó, tuyên huy sứ, tam ty sứ đến quản quân, phò mã, tổng cộng sáu ban, nay xin tạm hợp làm bốn ban, và giảm bớt lễ bái.” Vua đồng ý.
[48] Ngày Mậu Thìn, bãi bỏ yến tiệc lớn, vì thánh thể vừa mới khỏe lại.
[49] Ngày Nhâm Thân, Điện trung thị ngự sử Triệu Biện tâu: “Thần trộm thấy mùa xuân năm nay triều đình chỉ thị đóng cửa sông Thương Hồ phía bắc vào mùa thu đông. Nhưng Tu hà ty Lý Trọng Xương, Trương Hoài Ân hoàn toàn không tuân theo chỉ thị, tự tiện nói rằng nước tự nhiên sẽ chảy qua sông Lục Tháp mới, đến đầu mùa hạ liền đóng cửa sông, chỉ trong một ngày đã bị nước xô mở, làm hư hỏng vật liệu trị giá một hai trăm vạn, chết đuối nhiều binh lính và dân phu. Sức dân kiệt quệ, đường sá kinh hoàng. Há chẳng phải vì muốn lập công nhanh, mong được ban thưởng, nên mới thất kế hỏng việc, tội ấy thuộc về ai? Xin bệ hạ đặc biệt xét đoán, giáng chức Lý Trọng Xương, Trương Hoài Ân cùng các quan lại có trách nhiệm, để chính phép nước, tạ lỗi với sinh linh phương ấy, răn đe những kẻ làm bậy sau này.” Việc này căn cứ theo bản tấu của Triệu Biện, dâng lên ngày 11 tháng 4.
[50] Ngày Quý Dậu, quyền Diêm thiết phán quan, Đồn điền lang trung Trầm Lập đi khảo sát lợi hại của sông Lục Tháp và cửa sông phía bắc rồi tâu lên. Trầm Lập là người Lịch Dương.
[51] Ngày Giáp Tuất, Vua ngự điện Sùng Chính xét tù, giảm tội chết xuống một bậc đối với các tội nhẹ, tha tù tội nhẹ hơn.
[52] Nội phó đô tri Thạch Toàn Bân được lĩnh chức Ninh Viễn lưu hậu, Nhậm Thủ Trung lĩnh chức Dương Châu quan sát sứ, Đặng Bảo Cát lĩnh chức Vinh Châu phòng ngự sứ, Sử Chí Thông lĩnh chức Gia Châu phòng ngự sứ, đều vì có công chăm sóc khi thánh thể khỏe lại.
[53] Ngày Kỷ Mão, Hữu ty gián, Tri chế cáo Giả Ám được bổ nhiệm làm Tri châu Trần, do cha ông bị bệnh nên ông tự xin về. Sau đó đổi sang làm Tri châu Hứa. Trước đó, có chiếu chỉ rằng các quan Lưỡng chế, Lưỡng tỉnh chỉ được đến Trung thư, Xu mật viện gặp các chấp chính vì công việc. Giả Ám biết điều này là không đúng nhưng ngại tự mình nói ra. Đến lúc này, ông mới tấu rằng: “Các quan khác đều được gặp chấp chính, còn các thị tòng, cận thần lại bị xa lánh, nghi ngờ như vậy. Từng nghe rằng triều trước theo lời thỉnh cầu của Vương Vũ Xứng, các quan đều phải đến Chính sự đường chầu tể tướng, Xu mật sứ cũng phải ngồi cùng tiếp kiến để phòng ngừa việc nhờ vả. Khi lệnh ban xuống, Tả chánh ngôn Tạ Bí tấu rằng điều này không phải là cách nhà Vua đối đãi chân thành với đại thần, cũng không phải là cách đại thần dốc sức báo đáp nhà Vua.” Ngay lập tức, chiếu chỉ trước đó bị thu hồi. Việc này căn cứ theo chính truyền của Giả Ám, còn Lưu Ban viết hành trạng của Giả Ám lại không ghi chép việc này[29], không rõ vì sao. Cũng không rõ chiếu chỉ bị thu hồi là chiếu chỉ của triều trước hay chiếu chỉ tháng 7 năm Chí Hòa thứ 2.
[54] Tháng 5, ngày Giáp Thân, có chiếu chỉ định vào tháng 9 sẽ tổ chức lễ Cung Tạ tại Đại Khánh điện, và chi tiền thưởng theo lệ Nam Giao. 《Tống triều yếu lục》 ghi: Tạm bãi bỏ việc nhà Vua thân hành tế lễ Nam Giao vào ngày Đông chí, tiền thưởng vẫn chi theo lệ Nam Giao.
[55] Tả Thiên Ngưu Vệ Đại tướng quân Tông Thực, từ nhỏ được nuôi dưỡng trong cung, Vua và hoàng hậu chăm sóc như con mình. Sau khi ra khỏi cung, trở về phủ đệ, Vua thường xuyên hỏi thăm, ban thưởng không ngớt, các tông thất khác không ai sánh bằng. Khi Vua bắt đầu lâm bệnh, không thể thiết triều, trong ngoài đều lo sợ. Các tể tướng Văn Ngạn Bác, Lưu Hãng, Phú Bật khuyên Vua sớm lập người kế vị, Vua đồng ý. Em trai của Tham tri chính sự Vương Nghiêu Thần là Thuần Thần làm quan trong phủ, nhiều lần nói với Nghiêu Thần về tài đức của Tông Thực, Nghiêu Thần báo lại với Ngạn Bác. Ngạn Bác cũng biết Tông Thực là người Vua muốn chọn, bèn quyết định xin lập Tông Thực làm người kế vị. Đã soạn xong bản thảo, nhưng chưa kịp dâng lên thì Vua khỏi bệnh, việc này tạm dừng. Đến khi bàn việc lập người kế vị, các nhà đều có ghi chép riêng, nhưng cần lấy 《Long Xuyên Biệt Chí》 làm chuẩn. Vì Ngạn Bác và các quan bàn riêng việc lập Anh Tông, đã từng soạn sẵn tấu chương, nhưng chưa kịp dâng lên. Chiếu thảo cũng không phải là giả. Lúc đó, quần thần chuẩn bị trước, tấu lên là có thể ban chiếu ngay, việc không thể chậm trễ, tình thế cũng phải như vậy. Nay quốc sử và ghi chép riêng của họ Văn đều nói đã dâng chiếu thảo, e rằng chưa chắc. Nay theo 《Biệt Chí》, chỉ ghi là tấu nghị, không chép chiếu thảo. Đợi thêm tài liệu khảo cứu. 《Biệt Chí》 lại nói việc này xảy ra vào năm Gia Hựu thứ hai, và cho rằng Hàn Kỳ cùng Ngạn Bác, Bật đều làm tể tướng, thì sai. Nay không theo.
[56] Hôm đó, Tri gián viện Phạm Trấn dâng sớ nói: “Bệ hạ đặt ra chức gián quan là vì mưu đồ cho tông miếu xã tắc. Gián quan mà không lấy việc tông miếu xã tắc để phụng sự Bệ hạ thì đó là không hiểu nhiệm vụ của gián quan. Bệ hạ không vì thần ngu muội mà giao cho chức gián quan. Thần đâu dám không lấy việc tông miếu xã tắc để dâng lên Bệ hạ? Giữa tháng hai, thần đi sứ Khiết Đan, trên đường về qua Hà Bắc, người dân Hà Bắc xôn xao bàn tán, đều nói rằng khi Bệ hạ đang không khỏe, có lời rằng: ‘Ta chỉ lo việc tông miếu xã tắc, vì lo lắng mệt nhọc mà sinh bệnh.’ Việc Bệ hạ gọi là lo lắng mệt nhọc vì tông miếu xã tắc[30], chẳng phải là vì hoàng tự chưa được lập sao? Lúc đó, trong ngoài đều hoang mang, không biết phải làm gì, mà Bệ hạ lại đang nghĩ đến việc tông miếu xã tắc, đó là sự lo lắng của Bệ hạ rất sâu sắc và sáng suốt. Nay Bệ hạ đã bình phục, ngự điện nghe chính sự, mong suy xét lại lời nói trước đây mà thực hiện đến cùng. Phương pháp thực hiện, không sáng suốt thì không xem xét kỹ, không quyết đoán thì không quyết định. Chỉ có xem xét kỹ và quyết đoán, thì kế hoạch tông miếu xã tắc mới định được.
Nay con cháu của tổ tông đông đúc hưng thịnh, trung hậu chân thật[31], kính mong Bệ hạ chọn người hiền tài nhất, ưu đãi lễ số, thử việc chính sự, cùng bàn việc thiên hạ, để kết nối lòng dân. Đến khi sinh được hoàng tự, lại cho về phủ, đó là việc thời Chân Tông hoàng đế. Trước đây, Chu vương mất, Chân Tông hoàng đế nuôi con của tông thất trong cung, đó là mối lo lớn của thiên hạ[32]. Thái Tổ hoàng đế bỏ con mình mà lập Thái Tông hoàng đế, đó là việc công bằng lớn của thiên hạ, là kế sách tối cao của tông miếu xã tắc. Kính mong Bệ hạ xem xét tấm lòng công bằng của Thái Tổ hoàng đế, xem xét việc thời Chân Tông hoàng đế, quyết định trong lòng thánh, để ban phúc cho thiên hạ, thần vô cùng mong mỏi.
Thần xem xét việc xưa, tham khảo việc nay, suy nghĩ trong lòng, viết thành sớ. Sớ viết xong mà mấy tháng không dâng lên, vì sợ rằng không có ích gì cho việc, chết trong đời này, làm tổn hại đến sự sáng suốt của Bệ hạ. Kính mong Bệ hạ tha tội chết cho thần, xem xét quyết định, để định kế sách tối cao của tông miếu xã tắc, không chỉ thần được hưởng ơn tái sinh, mà cũng là lòng dân thiên hạ vậy.” [33]
Ngày mùng 3 tháng 5 dâng lên. Sớ tấu của Phạm Trấn không được chép vào thực lục, vì thực lục do Trấn biên soạn[34], không muốn tự biểu hiện ra thôi[35], nay đều ghi lại theo ngày tháng. Chu vương mất, Chân Tông nuôi con tông thất, cần xem xét. Sớ tấu lên, Văn Ngạn Bác sai Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện công sự Thái Đĩnh hỏi Trấn nói gì, Trấn trả lời thật. Hôm sau, Đĩnh nói với Trấn: “Nói việc như vậy, sao không bàn với chấp chính?” Trấn nói: “Trấn tự biết chắc sẽ chết, mới dám nói. Nếu bàn với chấp chính, hoặc cho là không được, thì cũng không thể dừng lại.”
[57] Quan Văn điện Đại học sĩ, Binh bộ Thượng thư Tống Tường từ Hứa Châu dời đến Hà Dương. Ngày Mậu Tý, vào triều, chiếu cho tham dự ban Trung thư môn hạ, ra vào được hưởng nghi lễ vật phẩm.
[58] Ngày Kỷ Sửu, Ngự sử Trung thừa Trương Biện cùng các quan tâu: “Gần đây nghe Tri Gián viện Phạm Trấn xin lên điện tâu việc, chưa được chấp thuận. Thần trộm nghĩ, chức vụ của đài gián là tai mắt của triều đình, những việc tâu trình đều liên quan đến cơ mật. Từ khi bệ hạ dùng thuốc điều dưỡng, đã gần nửa năm, đến nay vẫn chưa được lên điện. Gần đây nghe thánh thể dần khỏe, huống chi trong ngoài có vạn việc cơ mật, trong phận sự của thần có nhiều việc cần tâu trình, nếu chỉ dâng chương sớ, khó mà trình bày hết, cần phải được tâu trình trực tiếp. Kính xin đặc biệt ban chỉ, theo thể lệ trước đây, cho các quan đài gián được lên điện.” Việc này căn cứ theo bản tấu của Triệu Biện, ngày 8 tháng 5 toàn đài cùng tâu, ngày 8 tháng 5 là ngày Kỷ Sửu.
[59] Ngày Giáp Thìn, Văn Tư phó sứ Đậu Thuấn Khanh được bổ làm Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ, quyền Kinh Hồ Bắc lộ Kiềm hạt, kiêm Tri Thần Châu, thay cho Tống Thủ Tín.
[60] Ngày Ất Tỵ, Công bộ Thị lang, Tập Hiền viện Học sĩ Ngụy Quán được bổ làm Long Đồ các Trực học sĩ, Tri Kinh Nam, thay cho Vương Quỳ.
[61] Dời Đề cử Giang Nam Tây lộ Hình ngục, Độ chi Viên ngoại lang Vương Xước làm Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ, lĩnh binh mã sự, thay cho Lý Túc Chi. Túc Chi vừa tranh tụng với Quỳ, lại cùng Thủ Tín vào động đánh giặc Man không thắng, nên đều bị thay đổi chức vụ.
[62] Ngày Bính Ngọ, Chương Đức Tiết độ sứ, kiêm Thị trung Vương Di Vĩnh mất, được tặng Thái sư, Trung thư lệnh, thụy là Khang Tĩnh. Lúc đó Vua mới khỏi bệnh, không kịp đến viếng, chiếu cho Nhị phủ và tông thất đến viếng.
[63] Long Đồ các Trực học sĩ, Hữu Gián nghị Đại phu Hạ An Kỳ làm Tri Diên Châu. Phía đông bắc châu có núi chắn, không có thành, quân địch thường cưỡi ngựa xâm nhập. An Kỳ đến, liền lệnh xây thành lớn. Đang mùa nóng, các tướng báo rằng binh sĩ có lời oán, An Kỳ càng mở rộng kế hoạch thêm mấy trăm bước, ra lệnh: “Kẻ nào dám nói một lời kích động quân chúng sẽ bị chém!” Ông tự mình đốc thúc công việc, chưa đầy một tháng đã xong, thành dài sáu dặm.
[64] Ngày Đinh Mùi, sai quan cầu tạnh. Vì mưa lớn suốt ngày đêm, tạm thời tăng cường tuần tra trong và ngoài kinh thành.
[65] Tháng 6, ngày mùng một Tân Hợi, xuống chiếu rằng ngày chẵn không thiết triều, đến khi hết nóng thì trở lại như cũ.
[66] Tướng quân Hữu giám môn vệ Trọng Kha cùng 9 người khác đều bị phạt một tháng lương. Ban đầu, cha của Trọng Kha là Tông Thuyết phạm tội loạn luân với con dâu, được tha chết nhưng bị tước danh hiệu, đày ra ở biệt đệ. Em của Trọng Kha đến kêu oan với tể tướng, và Đại tông chính ty xin trừng phạt. Tông Thuyết là con của Phụng Hóa hầu Doãn Ngôn, việc này đã được ghi vào tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 4. Năm Hoàng Hựu, Tông Thuyết phạm pháp được tha chết nhưng bị tước danh hiệu, liên quan đến sự việc tháng 3 năm Trị Bình thứ nhất.
[67] Ngày Đinh Tỵ, Cung bị khố sứ, Kiềm hạt Tịnh Đại là Tô An Tĩnh được lĩnh chức Thứ sử Trung Châu, lưu lại nhiệm kỳ tiếp. An Tĩnh tranh chấp địa giới miếu Thiên Trì ở Ninh Hóa quân với Khiết Đan, sau khi việc định đoạt, được đặc cách thăng chức. Sự việc này đã được ghi vào tháng giêng năm Hoàng Hựu thứ 5.
[68] Ngày Mậu Ngọ, Long đồ các trực học sĩ, Cấp sự trung Thi Xương Ngôn được làm Xu mật trực học sĩ, tri châu Thiền. Lúc đó, sông Lục Tháp vừa sửa xong lại vỡ, triều đình vẫn muốn hoàn thành, nên giao Thiền Châu cho Xương Ngôn, hy vọng thuận tiện cho việc thi công. Việc giao Xương Ngôn tri châu Thiền để thuận tiện thi công, theo bản truyện của Xương Ngôn. Ngày mùng một tháng 4 Nhâm Tý[36], sông Lục Tháp đã vỡ, không rõ vì sao Xương Ngôn lại được thăng chức. Ba ngày sau, Lý Chương và những người khác đều bị trách phạt[37], riêng Xương Ngôn được miễn. Đến ngày Giáp Thìn tháng 11, Xương Ngôn mới bị trách phạt, việc này rất khó hiểu. Nay theo 《Triệu Biện tấu nghị》 bổ sung.
[69] Ngày Kỷ Mùi, Trấn Hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán châu Bạc là Trần Chấp Trung được bổ nhiệm làm Tả bộc xạ, Quan Văn điện đại học sĩ, vẫn giữ chức tri châu Bạc như cũ. Trần Chấp Trung vì bệnh nên tự xin nhận chức này.
[70] Điện trung thị ngự sử Triệu Biện dâng sớ nói: “Thần nghe rằng thánh nhân chế định biến cố, không thể không có quyền nghi, việc lớn của thiên hạ, không thể đánh mất cơ hội. Đến như trừ họa để về phúc, dẹp loạn để đạt trị, cứu nguy để giữ yên, chuyển nguy thành an, chính là dùng quyền nghi để nắm lấy cơ hội. Trước đây, thần từng thấy bệ hạ thánh thể có lúc không được khỏe, lòng người trong ngoài đều dao động. Nhờ linh khí của tông miếu xã tắc, sự phù hộ của trời đất thần minh, bốn biển được hưởng phúc, thánh thể dần khỏe mạnh. Tuy nhiên, trên trời vẫn có những điềm xấu xuất hiện, không tháng nào là không có, dưới dân gian lại có tục đồn đại lời yêu ngôn, đến mức hai ba lần. Trời có lẽ nào chẳng phải vì bệ hạ chưa lập hoàng tự[38], lòng người chưa có chỗ nương tựa, nên giáng xuống những điềm lành dữ, rõ ràng nhắc nhở, cảnh tỉnh bệ hạ, ý muốn bệ hạ suy nghĩ sâu xa, lập kế hoạch lâu dài, nhanh chóng hành động. Quyền nghi, cơ hội, nay chính là lúc này.
《Thư》 nói: ‘Một người tốt, muôn nước đều yên.’ 《Dịch》 nói: ‘Bậc đại nhân dùng ánh sáng tiếp nối để chiếu khắp bốn phương.’ Thúc Tôn Thông cho rằng gốc của thiên hạ, sao có thể coi thiên hạ là trò đùa! Hàn Dũ cũng nói, định trước thì có thể giữ được pháp độ, không định trước thì sẽ tranh giành và loạn lạc. Thần vô cùng mong mỏi, mong bệ hạ suy nghĩ cách đáp lại lời cảnh tỉnh của điềm xấu và sao yêu, suy nghĩ cách củng cố cơ nghiệp trăm năm của ba bậc thánh, suy nghĩ cách làm yên lòng lo lắng của bề tôi trong ngoài, suy nghĩ cách phá tan âm mưu của kẻ gian hùng ác tặc[39], quyết đoán từ trong lòng, phát ra ý trời, chọn dùng con cháu hiền tài trong hoàng tộc, hoặc giáo dục trong cung, hoặc phong tước và giao việc, bên cạnh có người hiền, phụ đạo bằng người chính trực, như đá tảng vững chắc, gốc rễ sâu bền, có hai điều này, xin bệ hạ tỏ ra công bằng với thiên hạ mà quyết định.
Hơn nữa, bệ hạ tuổi xuân đang độ sung mãn, phúc thọ dài lâu, một ngày kia hoàng tử ra đời, ngôi thái tử được chính thức lập, việc thể của ngôi trữ quân, có gì tổn hại đến quyền nghi. Việc làm hiện nay, chính là nắm lấy cơ hội, chuyển họa loạn nguy vong sắp xảy ra, thành phúc trị an tồn vô cùng, há chẳng phải là việc lớn sao, há chẳng phải là việc tốt sao! Thần có trách nhiệm can gián, không tính đến việc nhà. Mang ơn bệ hạ, nặng như Thái Sơn, xem mạng thần, nhẹ như lông hồng. Nếu một chút nào có ích cho triều đình, thì dù chết vạn lần cũng cam lòng.” Việc này theo tấu chương của Triệu Biện, dâng lên vào ngày 9 tháng 6.
[71] Ngày Tân Dậu, giáng chức Tri châu Thiền Châu, Tu hà đô bộ thự, Thiên Bình lưu hậu Lý Chương làm Tri châu Tào Châu; Hà Bắc chuyển vận phó sứ, Đồng quản câu tu hà, Tư phong viên ngoại lang Yến Độ làm Tri châu Thái Châu; Đề cử Khai Phong phủ giới huyện trấn công sự, Đồng quản câu tu hà, Độ chi viên ngoại lang Thái Đĩnh làm Tri châu Trừ Châu; Tu hà đô kiềm hạt, Bắc tác phường sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ, Nội thị áp ban Vương Tòng Thiện làm Bộc Châu đô giám; Cung bị khố phó sứ Trương Hoài Ân làm Nội điện thừa chế; Đề cử Hoàng Hà tảo ngạn, Điện trung thừa Lý Trọng Xương làm Đại Lý tự thừa.
[72] Ngày Quý Hợi, Ngự sử trung thừa Trương Biện cùng các quan tâu rằng: “Chúng thần từ ngày mồng 8 tháng 5 trở đi, nhiều lần dâng tấu xin cho các quan đài gián được lên điện tâu việc theo lệ. Nghe nói đã có thánh chỉ, đem các chương sớ của thần đẳng giao xuống Trung thư. Đó là do bệ hạ thánh tâm xét đến lòng trung ngu muội của thần đẳng, có ý mở lối cho. Nhưng đến nay đã hơn một tháng, vẫn chưa được thi hành, ấy là do các đại thần chấp chính không muốn thần đẳng vào chầu, nên cố tình ngăn trở. Chúng thần bèn vào ngày 13 tháng này cùng đến Trung thư, hỏi trực tiếp lý do không cho lên điện. Xem lời lẽ của các tể thần trở xuống, không có ý giúp thần đẳng tâu bày. Vì triều đình đặt ra chức quan đài gián, là để làm tai mắt, nên phải thường xuyên được gần gũi long nhan, bổ khuyết sự thông minh của bệ hạ. Nay đã hơn nửa năm, chưa có một viên quan nào được vào chầu. Dù có việc cấp bách trong ngoài, việc hệ trọng đến an nguy, bệ hạ ở sâu trong chín tầng cung, làm sao biết được? Chúng thần thiết nghĩ, đường lối tâu bày bị ngăn trở, chưa bao giờ nghiêm trọng như hiện nay. Kính mong bệ hạ sớm ban chỉ dụ, sai Trung thư cho phép các quan đài gián được lên điện tâu việc theo lệ. Chúng thần tất không dám đem việc vụn vặt làm phiền thánh thính.” Sau đó có chiếu cho phép Trung thừa được lên điện. Việc này căn cứ theo bản tấu của Triệu Biện, không rõ dâng vào ngày nào, bản tấu được biên chép trước ngày 19 tháng 6, sau ngày 12, nay phụ vào ngày 14. Vì bản tấu này nói ngày 13 cùng đến Trung thư hỏi lý do, ắt ngày hôm sau mới dâng tấu. Đến ngày mùng một tháng 7 mới có chiếu cho quần thần được lên điện tâu việc trở lại.
[73] Ngày Kỷ Tỵ, Điện trung thị ngự sử Triệu Biện tâu: “Thần trước đây đã dâng tấu hặc tội Lý Trọng Xương và những người khác không tuân theo chỉ dụ của triều đình, không quan tâm đến ý kiến của dân chúng, liều lĩnh vào đầu mùa hè, sửa chữa và đóng cửa sông Lục Tháp, làm hư hỏng vật liệu, gây khốn khổ cho binh lính và dân chúng. Thần mong rằng sẽ xử phạt nghiêm khắc, giáng chức và cách chức họ ngay lập tức. Triều đình tạm thời trách phạt để xem hiệu quả sau này, nhưng đê điều lại bị vỡ. Việc bắt dân phu gấp rút và thu thuế nặng nề đã khiến dân chúng Hà Bắc gần như không còn đường sống; nước lũ tràn lan, Bác Châu là nơi đầu tiên bị ảnh hưởng. Gần đây, thấy Lý Trọng Xương và Trương Hoài Ân bị giáng chức làm giám đương, Lý Chương và Thái Đĩnh đều bị điều đi làm tri châu, còn chuyển vận sứ Yến Độ và những người khác vẫn chưa bị xử phạt. Trong và ngoài triều đình đều xôn xao, lòng người bất bình, đều cho rằng giống như mấy năm trước Vương Kiến Trung ở Hà Âm, chỉ vì tiến hành đóng đê quá mức[40], khiến hạ lưu bị cạn, lập tức bị truy quan và cách chức, lại thêm các quan viên và sứ thần ở những nơi đê điều sông Hoàng Hà bị vỡ, dù đã thôi chức cũng đều bị thay thế. Nay Lý Trọng Xương và những người khác dùng lời lẽ gian trá để mê hoặc triều đình, vì lợi ích cá nhân mà gấp rút làm việc, huy động sức dân, gây hại không nhỏ, làm hỏng nhiều việc, đáng lẽ phải bị xử phạt nghiêm khắc, sao lại được hưởng ân xá? Thần mong rằng triều đình sẽ đặc biệt chỉ đạo, xử phạt Lý Trọng Xương, Trương Hoài Ân, Lý Chương, Thái Đĩnh, Yến Độ và những người khác theo ý kiến chung, áp dụng hình phạt nghiêm khắc. Để xoa dịu nỗi oán hận của dân chúng các thành, thể hiện sự công bằng trong hình phạt của triều đình, biến tai họa thành hòa khí, chính là ở hành động này.”
[74] Ngày Canh Ngọ, Điện trung thừa, Tập hiền hiệu lý, Thông phán Tịnh Châu Tư Mã Quang dâng sớ nói:
[75] “Bề tôi dâng lời tâu, nếu bỏ qua việc cấp bách mà bàn luận những việc không quan trọng, thì lời nói càng nhiều mà việc làm càng ít. Bậc quân Vua nghe lời tâu, nếu xem nhẹ việc lớn mà chú trọng việc nhỏ, thì tâm trí càng mệt mỏi mà công lao càng ít. Vì vậy, bậc minh chủ không ghét những lời trái tai, để thấu hiểu nguồn gốc của trị loạn; bề tôi trung thành không tránh những tai họa diệt thân, để bàn luận về cái gốc của an nguy. Nhờ đó, trên dưới hòa hợp, sự nghiệp rạng rỡ và tốt đẹp.”
[76] Từ đầu mùa xuân đến nay, thánh thể của Bệ hạ có chút không được khỏe. Người trong thiên hạ đứng nghiêng chân, thở dồn dập, lo lắng sợ hãi như đạp trên băng lửa. Dù đã khỏe lại, nhưng trong dân gian vẫn còn những lời đồn đại gây kinh động. Dù các cơ quan có dùng hình phạt nghiêm khắc để ngăn chặn, miệng họ không dám nói, nhưng trong lòng vẫn hoang mang, lo lắng đủ điều. Bệ hạ sao không thử nghĩ xem nguyên nhân là gì? Há chẳng phải vì việc lập người kế vị là gốc rễ của thiên hạ, gốc rễ chưa định thì lòng người chưa yên[41]. Giả Nghị từng nói: “Ôm lửa đặt dưới đống củi mà nằm trên đó, lửa chưa cháy đến, bảo là yên ổn, được chăng?” Thời Giả Nghị, Hán Hiếu Văn Đế đang độ tuổi tráng niên, có Hiếu Cảnh làm thái tử, trong ngoài yên ổn, công tư giàu có, Giả Nghị vẫn nói như vậy. Nếu Giả Nghị sống ở thời nay, sẽ nói gì đây? Bệ hạ ham học hiểu biết rộng, lại lấy sự tích cổ xưa để suy xét[42], cơ hội trị loạn an nguy, há chẳng phải đều do việc kế tự sao? Được người thì trị, không được người thì loạn; phân định trước thì yên, không phân định trước thì nguy. Cơ hội được mất, chỉ trong khoảnh khắc. Việc lớn và gấp nhất của triều đình, có gì quan trọng hơn việc này? Thế mà Bệ hạ vẫn thản nhiên không lo nghĩ, quần thần chỉ lo giữ mình, không ai dám nói. Đó là lý do thần ngày đêm đau lòng nhức óc, quên thân phận thấp hèn, không sợ tội đỉnh vạc.
[77] Ngày nay, nhà của dân thường, nếu có của báu trị giá trăm lượng vàng, còn biết chọn người thân thích đáng tin cậy để giao giữ gìn cẩn thận, huống chi là thiên hạ rộng lớn? Các Vua thời Tam Đại cho đến nhà Hán, sở dĩ có thể hưởng phúc lộc của thiên hạ lâu dài như vậy, há chẳng phải đều là do thân nhiệm cửu tộc để làm phiên phụ sao? Nếu người thân còn không thể tin cậy, thì người xa lẻo đâu đáng dựa vào? Thần trộm nghĩ, bệ hạ có tính trời thuần hiếu, từ xưa đến nay không ai sánh bằng, việc lớn nhỏ liên quan đến tổ tông, chưa từng không chịu khó nhọc thân thể để phụng thừa. Huống chi cơ nghiệp rực rỡ to lớn của tổ tông, há chẳng nên suy nghĩ sâu xa, đặt vào nơi an bình kiên cố[43], để bảo vệ phúc lành vô cùng cho muôn đời sao?
[78] Hiếu của thiên tử không giống như dân thường chỉ dừng ở việc phụng dưỡng cha mẹ. Mà là phải cẩn thận giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân, truyền lại vô cùng rồi mới là hiếu. Theo lễ, nếu đại tông không có con, thì lấy người cùng tông làm người kế thừa. Người làm kế thừa, tức là làm con. Vì vậy, người làm kế thừa, phụng sự người mình kế thừa, lễ nghi đều như cha, để tôn kính người tôn kính và thân thiết người thân thiết. Thần trộm nghĩ, tổ tông nhận mệnh sáng của trời, công đức ở nơi người, gốc ngọn trăm đời, con cháu ngàn vạn, mà bệ hạ chưa có hoàng tự, lòng người lo lắng nguy hiểm. Thần mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa về cơ nghiệp gian nan của tổ tông, quyết đoán từ chí thánh, rõ ràng không nghi ngờ, chọn lựa trong tông thất người thông minh cương chính, hiếu hữu nhân từ[44], cho tạm giữ ngôi vị thái tử, để chờ hoàng tự sinh ra, rồi lui về làm phiên vương. Nếu chưa muốn như vậy, hoặc cho họ phụ chính, hoặc coi giữ cấm vệ, hoặc làm doãn kinh ấp, cũng đủ để yên lòng thiên hạ. Như thế, thiên thần địa kỳ, tông miếu xã tắc thực sự nhờ vào đức thánh minh của bệ hạ, huống chi quần thần và muôn dân, ai mà không vui mừng hô hào?
[79] Xưa, cô gái nhà họ Tất ở nước Lỗ lo lắng vì Vua Lỗ già yếu mà thái tử còn nhỏ. Người phụ nữ tầm thường ấy còn biết lo lắng cho nạn nước[45]. Bởi vì nước Lỗ gặp nạn, thì thân tâm đều nguy hiểm. Huống chi thần hưởng bổng lộc của bệ hạ, đứng trong triều đình của bệ hạ, lại được đảm nhiệm chức vụ ở phủ điển sách, không giống như cô gái nhà họ Tất, thực không nỡ ngồi nhìn đất nước gặp nạn lớn và cấp bách mà im lặng không nói. Thần thực biết rằng trách nhiệm nói ra không thuộc về thần, nói ra chỉ chuốc lấy họa vào thân. Nhưng thần nhất định phải nói, hy vọng bệ hạ sẽ nghe theo. Thần không kìm nổi lòng phẫn uất. Bệ hạ tại vị đã lâu, ngôi thái tử chưa được lập, đến khi bệ hạ không khỏe, thiên hạ lo lắng nhưng không ai dám nói, chỉ có quan gián quan Phạm Trấn là người đầu tiên dâng tấu, Tư Mã Quang nghe tin liền tiếp tục, lại viết thư cho Phạm Trấn, nói rằng đây là việc lớn, không nói thì thôi, đã nói ra thì không thể rút lại, mong ông dốc sức tranh đấu. Do đó, Phạm Trấn càng dâng tấu mạnh mẽ hơn.
[80] Ngày Tân Mùi, chiếu cho Khai Phong phủ và các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc chuyển vận ty[46], vì lụt lội làm hại ruộng dân, hãy chọn quan lại để miễn giảm thuế má.
[81] Ngày Ất Hợi, mưa làm hư hỏng đàn Thái Xã và Thái Tắc.
[82] Ngày Mậu Dần, Binh bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo Hàn Giáng được cử làm Hà Bắc thể lượng an phủ sứ, Tây thượng các môn phó sứ Vương Đạo Cung làm phó. Lúc đó, tể tướng Văn Ngạn Bác và Phú Bật chủ trì việc đắp đê Lục Tháp Hà của Lý Trọng Xương. Khi việc thất bại, không ai dám nói thẳng. Hàn Giáng đến Hà Bắc, nắm rõ tình hình, bèn xin mở án điều tra, Lý Trọng Xương và những người khác đều bị cách chức và lưu đày. Việc này căn cứ theo 《Hàn Giáng hành trạng》 do Lưu Ban soạn.
[83] Lúc đầu, bàn việc đắp đập Lục Tháp, Chuyển vận sứ Hà Bắc là Chu Hãng một mình tâu rằng: “Gần đây tính toán việc đắp đập Thương Hồ, dùng củi khô 1.645 vạn, công sức 583 vạn. Nay Lý Trọng Xương tính toán việc đắp đập Lục Tháp, dùng củi khô 300 vạn, công sức 1 vạn. Cùng là một con sông, mà chi phí tài lực lại khác nhau đến thế. Đó là vì Lý Trọng Xương cố ý làm kế hoạch nhỏ để mong được khởi công mà thôi. Hơn nữa, hiện nay sông rộng hơn 200 bước, còn kênh Lục Tháp chỉ rộng hơn 40 bước, ắt không thể chứa được. Vả lại, từ khi sông Hoành Lũng đổi dòng, dòng chảy phía dưới bị bồi lấp thành đất cao, đê phía tây còn tương đối nguyên vẹn[47], đê phía đông thì chỗ còn chỗ mất. Trước đây, nước Lục Tháp thông chút ít, chia nước sông lớn không quá ba phần mười, dân ven sông mất kế sinh nhai đã đến ba vạn hộ. Nếu quả như Lý Trọng Xương nói, toàn bộ sông đổ về phía đông, ắt sẽ vỡ đê tràn ngập, dân năm châu Tề, Bác, Đức, Lệ, Tân đều thành mồi cho cá rùa[48]. Nay từ Lục Tháp đến biển hơn nghìn dặm[49], nếu thực sự muốn ngăn sông cho chảy về phía đông, nên sửa chữa trước hai bờ đê mà nước chảy qua, làm cho cao và dày, lại bố trí quan lại và binh lính, chia nhau giữ các nơi, tích trữ nhiều củi khô để phòng ngừa vỡ đê, mới có thể làm được. Nhưng công sức và chi phí rất lớn, e rằng không dễ thực hiện. Theo thần nghĩ, Lục Tháp thực sự không thể đắp đập.” Không nghe theo.
[84] Khi Lý Trọng Xương thất bại, Chu Hãng lại tâu: “Dân gặp nạn lụt, đều dựng lều trên đê mộ, lương thực thiếu thốn đáng thương, thần muốn lập tức phát lương từ kho gần đó để cứu tế, nhưng ân điển lớn nên xuất phát từ trên, mong vội sai sứ giả đến xem xét và cứu giúp.” Vua nghe theo.
(Điều này căn cứ theo bản truyện của Chu Hãng, không rõ Chu Hãng dâng sớ phản đối ý kiến của Lý Trọng Xương vào lúc nào. Đến tháng 12 năm Chí Hòa thứ nhất, sai sứ cùng quan coi việc vận chuyển ở Hà Bắc, Kinh Đông đến trấn Đồng Thành xem xét tình hình sông ngòi, có lẽ Chu Hãng nhân đó dâng sớ. Nhưng tháng 12 năm thứ hai, Chu Hãng vẫn được lệnh cùng quyền tri châu Thiền lo việc tu sửa sông Lục Tháp. Nếu đã phản đối ý kiến của Trọng Xương, thì không nên nhận mệnh này. Hoặc triều đình tuy có mệnh này, nhưng Chu Hãng từ chối, nên khi sông vỡ, ông được miễn trách nhiệm. Nay phụ chép việc của Chu Hãng sau khi triều đình sai Hàn Giáng đi xem xét tình hình Hà Bắc.)
[85] Lúc đó, kinh thành từ tháng 5 mưa lớn không ngớt, nước tràn vào cửa An Thượng, cửa bị gãy[50], làm hư hại hàng vạn nhà cửa công tư, trong thành phải dùng bè chở người qua lại, lệnh các quan phụ chính chia nhau đi các cửa; các lộ cũng tâu sông ngòi vỡ bờ, Hà Bắc đặc biệt nghiêm trọng, dân chúng phần nhiều lưu vong, lệnh các nơi cứu tế. Khi nước mới dâng, Mã quân đô chỉ huy sứ Phạm Khác nhận chiếu lấp cửa Chu Tước, Tri Khai Phong phủ Vương Tố vi phạm chiếu chỉ, nói: “Hiện nay bệ hạ không khỏe, nhà cửa quân dân nhiều nơi bị đổ nát, sao lại lấp cửa để gây hoang mang, và khiến người sau không vào được nữa?”
[86] Tri Gián viện Phạm Trấn tâu: “Thần trộm thấy các châu quận Hà Đông, Hà Bắc, Kinh Đông Tây, Thiểm Tây, Hồ Bắc, Lưỡng Xuyên đều tâu báo về lũ lụt, kinh thành mưa dầm, đàn Xã Tắc bị hư hỏng, đồng bằng ngập nước, nước lũ phá vỡ cửa thành, đến nỗi các tể thần phải đốc suất dân phu tu sửa đê điều. Tai biến này thật lớn lao vậy. Tuy nhiên, tai biến xảy ra ắt có nguyên nhân, tiêu trừ tai biến cũng cần có phương pháp. Kính xin bệ hạ hỏi các đại thần về nguyên nhân gây ra tai biến và phương pháp tiêu trừ. Lại ban chiếu cho các quan Lưỡng chế, Đài các và thường tham triều chính thẳng thắn nói lên được mất, bệ hạ thân chính xem xét lựa chọn, để ngăn chặn thiên tai. Mong rằng có thể chiêu mời điềm lành, ban phúc cho thiên hạ.”
[87] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu cho quần thần dâng thư kín nói về những thiếu sót trong chính sự. 《Vương Xưng Đông Đô Sự Lược》 chép: Chiếu viết: “Gần đây mưa dầm gây tai họa, lũ lớn gây hại, giữa hai con sông, nước vỡ đê gây loạn, đều là do Trẫm không có đức, trời quở trách, nên hạ lệnh cho trong ngoài dâng thư kín nói về những thiếu sót trong chính sự, không được giấu giếm.”
[88] Phạm Trấn lại tâu: “Thần thấy trong thiên hạ có nhiều nơi tâu về thủy tai, mỗi ngày có đến mười mấy bản tấu. Kinh đô bị lụt lớn, mưa không ngớt, đó chính là điều gọi là ‘nước không thấm xuống’. Kinh truyền nói: ‘Bỏ bê tông miếu, không cầu đảo, bãi bỏ tế tự, trái thời tiết, thì nước không thấm xuống.’ Bệ hạ kính thờ trời đất thần linh, tôn kính tổ tiên, tế tự núi sông, không gì là không chu toàn, đến cả mệnh lệnh cũng đều thuận theo thời tiết, không trái thời tiết, không bỏ tế tự, không không cầu đảo[51]. Thế nhưng trời cao lại xuất hiện tai biến này là để cảnh tỉnh bệ hạ rằng đang bỏ bê tông miếu. Tông miếu lấy việc kế thừa làm trọng, nên các đế vương thời xưa khi mới lên ngôi đều lập người kế vị để coi trọng tông miếu. Bệ hạ lên ngôi đến nay đã để trống ngôi kế vị suốt 35 năm. Thần gần đây đã tâu xin chọn người hiền trong hoàng tộc, ưu đãi lễ nghi, thử nghiệm việc chính sự, để kết nối lòng người trong thiên hạ, đợi khi có thánh tự thì lại cho trở về phủ đệ. Đến nay đã hơn hai tháng mà chưa quyết định, đó chính là bỏ bê tông miếu, nên trời mới xuất hiện tai biến. Thần mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa về tầm quan trọng của tông miếu, phải có người kế vị, xin đem tờ tấu trước của thần giao cho các đại thần chấp chính nhanh chóng quyết định, để ngăn chặn tai biến của trời.” Phạm Trấn đã dâng sớ lần đầu vào ngày mùng 3 tháng 5, ở đây nói hơn hai tháng, thì phải là trước ngày 10 tháng 7, ngày Canh Dần, chưa tạnh mưa, hoặc chữ “hơn hai tháng” có sai, cần xem xét kỹ hơn.
- Đến điện nhỏ ở cửa Đông trong cung hỏi thăm sức khỏe, chữ 'hỏi' nguyên bản là 'cửa', theo bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 52 chép việc Văn Ngạn Bác quở trách Sử Chí Thông, 《Biên niên cương mục》 quyển 15 sửa lại ↵
- Chữ 'cứu giải' nguyên bản là 'giải cứu', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại ↵
- Chữ 'tĩnh' trong 'tĩnh chúng' nguyên bản là 'thanh', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Biên niên cương mục》 quyển 15 sửa lại. ↵
- Chữ 'tật' trong 'dĩ tật yết cáo' nguyên bản là 'bệnh', theo các bản trên và sách trên sửa lại. Sau đây cũng vậy. ↵
- 'Cũng' nguyên là 'dĩ', theo bản trong các sách sửa lại. ↵
- 'Thiên Quan' nguyên là 'Thiên Khuyết', theo 《Tống hội yếu》 phần Thụy dịch 1-2, 《Tống sử》 quyển 12 phần Nhân Tông kỷ 4 và quyển 56 phần Thiên văn chí về sao khách sửa lại. ↵
- Chữ 'phó' trong 'Xu mật phó sứ' bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Biên niên lục》 quyển 5, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9, 《Tống sử》 quyển 12 Nhân Tông kỷ 4, quyển 292 bản truyện bổ sung. ↵
- Nguyên bản là 'Thị độc', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 294 truyện Vương Chu sửa lại. ↵
- 《Biên niên cương mục》 quyển 15 chữ 'hẹp' trên có chữ 'sông', có lẽ đúng. ↵
- Đều là phá hoại điển chế 'Đều' nguyên tác 'Dĩ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các bản sửa. ↵
- Khiến họ tranh cãi lẫn nhau 'Khiến' nguyên tác 'Tiện', theo các bản trên sửa. ↵
- 'Đều' nguyên bản là 'vì', theo các bản khác và 《Uyển Diễm Tập Trung Biên》 quyển 52 《Tăng Thái Sư Công Lượng Hành Trạng》, 《Tống Sử》 quyển 312 bản truyện sửa lại. ↵
- 'Con của anh em cha' nguyên bản là 'nếu thân', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 42 《Ức Kiểu Hãnh》 sửa lại. ↵
- 'Chỉ được bổ ấm con' nguyên bản có chữ 'kỳ', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 bỏ. ↵
- 'Những người' nguyên bản là 'một', theo các bản khác và sách trên sửa lại. ↵
- xin cho những người được bổ nhiệm trong một năm và ba năm 'và ba năm' ba chữ nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42 bổ sung. ↵
- không được quá hai người 'được' chữ nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung. ↵
- Chữ 'cai' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác và sách trên bổ sung. ↵
- Theo 《Tống sử》 quyển 159, chế độ ấm bổ, điều này ghi là 'vợ của hoàng thân từ đại tướng quân trở lên', giống với 《Hội yếu》. ↵
- Chữ 'chỉ' nguyên bản thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42 bổ sung. ↵
- 'tỉ ưu tiện quan' nguyên văn là 'thân ưu tiện quan', căn cứ theo các bản khác và sách trên sửa lại ↵
- 'phó thừa chỉ chư phòng phó đô thừa chỉ' ba chữ 'phó thừa chỉ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản khác và sách trên bổ sung. Xét Xu mật viện các phòng chỉ có phó thừa chỉ, chữ 'đô' có lẽ là thừa ↵
- 'so sánh với văn thần' nguyên văn là 'thử loại văn thần', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 42 'Ức kiêu hãnh' sửa lại ↵
- Hai chữ 'Mộ chí' vốn thiếu. Xét đoạn văn từ 'Quốc triều' trở xuống đến 'tự tiến', thấy trong 《Văn Đồng Đan Uyên Tập》 quyển 39, bài 'Vô Công Mộ Chí Minh'. Nay căn cứ vào bản Tống, bản Tống Toát Yếu bổ sung. ↵
- Hai chữ 'chí', 'tắc' vốn thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống Toát Yếu và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 42, mục 'Ức Kiểu Hãnh' bổ sung. ↵
- Chữ 'lệnh' vốn là 'hợp', căn cứ vào bản Tống, bản Tống Toát Yếu, các bản khác sửa. ↵
- Dưới chữ 'thân' vốn có chữ 'giả', căn cứ vào các bản trên và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 42, mục 'Ức Kiểu Hãnh' bỏ. ↵
- So với chức Cấp sự, Trung xá, các bản đều giống nhau. Bản Tống, bản Tống Toát Yếu và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 đều chép là 'Thái tử Trung xá', có lẽ đúng. ↵
- 'Thư' nguyên bản là 'ngôn', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại. ↵
- Bệ hạ sở vị tông miếu xã tắc kế nhi ưu thả lao giả, chữ 'vị' nguyên bản là 'vi', căn cứ theo các bản khác và sách trên sửa lại. ↵
- Nay con cháu của tổ tông đông đúc hưng thịnh, trung hậu chân thật, nguyên bản là 'Nay tổ tông đông đúc hưng thịnh, trung hậu chân thật, con cháu', căn cứ theo các bản khác và sách trên, 《Tống văn giám》 quyển 48, 'Thỉnh kiến trữ ất chính' sửa lại và bỏ chữ 'chi'. ↵
- Đó là mối lo lớn của thiên hạ, chữ 'dã' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản khác và hai sách trên bổ sung. ↵
- Mà cũng là lòng dân thiên hạ vậy, chữ 'chi nhân' nguyên bản là 'nhân nhân', căn cứ theo các bản khác và hai sách trên sửa lại. ↵
- Vì thực lục do Trấn biên soạn, ba chữ 'cái thật lục' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51 'Anh Tông sách lập thủy mạt' bổ sung. ↵
- Không muốn tự biểu hiện ra thôi, chữ 'nhĩ' nguyên bản là 'nhi', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và sách trên sửa lại. ↵
- 'Tứ' nguyên bản là 'Lục'. Trên văn nói sông Lục Tháp vỡ vào ngày mùng một tháng 4 Nhâm Tý, đây không nên nói là tháng 6, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 47 chép việc sửa lại sông Lục Tháp ở Thiền Châu cũng ghi là 'ngày mùng một tháng 4 Nhâm Tý', nay theo đó sửa. ↵
- 'Đẳng' nguyên bản không có, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung, trong sách này quyển tháng 6 ngày Tân Dậu, ngoài Lý Chương, Yến Độ, Thái Đĩnh và những người khác đều bị giáng chức, có thể chứng minh. ↵
- 'chẳng phải' hai chữ nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung. ↵
- 'khuy du' nguyên bản là 'khuy ký', theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 quyển 11 'Gia Hựu kiến trữ chi nghị' sửa. ↵
- Chỉ vì tiến hành đóng đê quá mức, chữ 'quá' nguyên là 'cố', theo bản khác sửa lại. ↵
- Lòng người chưa yên, chữ 'tâm' dưới nguyên có chữ 'chi', chữ 'dã' nguyên thiếu, theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51, 《Anh Tông sách lập thủy mạt》 sửa bổ. 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 16, 《Thỉnh kiến trữ phó hoặc tiến dụng tông thất đệ nhất trạng》 viết 'lòng người không yên'. ↵
- Lấy sự tích cổ xưa để suy xét, chữ 'tích' dưới nguyên có chữ 'quan', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa. 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 chữ 'tích' viết là 'chất'. ↵
- 'an bình' nguyên tác là 'bình an', căn cứ theo các bản khác và sách trên sửa lại. ↵
- 'chính' nguyên tác là 'trực', căn cứ theo các bản khác và sách trên sửa lại. ↵
- Lo lắng cho nạn nước, chữ 'gia' nguyên bản thiếu, dưới chữ 'chi' nguyên có chữ 'hữu', căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51 'Anh Tông sách lập thủy mạt', 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 16 'Thỉnh kiến trữ phó hoặc tiến dụng tông thất đệ nhất trạng' bổ sung và sửa chữa. ↵
- Chuyển vận ty, chữ 'ty' nguyên là 'sứ', căn cứ theo các bản khác sửa lại. ↵
- Nguyên văn là 'Sơ hoàn', căn cứ vào bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 47 sửa. ↵
- Nguyên văn là 'Ngư quy', căn cứ vào bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa. ↵
- Nguyên văn là 'Hà', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa. ↵
- Chữ 'môn' trong 'môn quan chiết' nguyên bản không có, căn cứ theo 《Biên niên cương mục》 quyển 15, 《Tống sử》 quyển 12, kỷ Nhân Tông 4, quyển 61, chí Ngũ hành bổ sung. ↵
- Chữ 'từ' nguyên là chữ 'tự', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51 'Anh Tông sách lập thủy mạt' và 《Tống Thục văn tập tồn lục danh thần tấu nghị》 quyển 73 mà sửa ↵