"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 189: NĂM GIA HỰU THỨ 4 (KỶ HỢI, 1059)

Từ tháng giêng năm Gia Hựu thứ 4 đời Nhân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Thân, mùng một, nhật thực, sai quan tế đất. Tri chế cáo Lưu Xưởng tâu: “Thần trước đây đã bàn việc tránh điện trước kỳ nhật thực là không hợp với cổ điển[1], nhưng chưa được xem xét. Nay lại nghe sai quan tế đất, tra cứu trong kinh điển, cũng chưa thấy lễ này. Bởi đất là thần của thượng công, đứng đầu các âm, nên xưa nói nhật thực thì đánh trống ở đất để trách thượng công, đẩy lui các âm. Nay trái lại cúng tế và cầu xin, là hạ thấp lễ của thiên tử, theo chế độ của chư hầu, ức chế dương, nâng đỡ âm, hạ thấp tôn quý, giảm bớt trọng lượng, đây chính là nguyên nhân khiến mặt trời thay đổi, chứ không phải là ý tiếp nhận lời cảnh báo của trời, tôn trọng triều đình. Vả lại, lễ là điều tiên vương dùng để dạy dân phụng sự Vua, không thể không thận trọng. Sai lầm trước đây, tập tục chưa lâu, nếu cứ theo thói cũ, thì hiến chương sẽ bị hủy bỏ. Mong bệ hạ xét cổ sử, sửa chính danh, xem xét việc làm, đừng để lễ bị người khác lợi dụng.”

(《Dương Điền truyện》 chép: Mùa đông năm Gia Hựu thứ 3, đất Hà Bắc động, năm sau nhật thực, ngày mùng một tháng giêng, Điền lại dâng sớ xin sớm lập người kế vị để đáp lại lời cảnh báo của trời. Tra cứu chính sử và thực lục, đất Hà Bắc động là vào tháng 2 năm thứ 2, còn mùa đông năm thứ 3 không có việc đất Hà Bắc động, nên không chép.)

Hữu chánh ngôn Ngô Cáp tâu: “Nhật thực là điềm răn của âm dương, trong việc người thì bề trên bị bề dưới lấn át, vợ lấn chồng, bốn phương xâm lấn Trung Quốc. Nay các đại thần không có chính sách khoan dung, không phải là bề trên bị bề dưới lấn át, mà lỗi ở chỗ bệ hạ trầm mặc khi lâm triều, khiến cho kẻ tiểu nhân chưa bị trừ bỏ hết. Hậu phi không có nhà quyền thế, không phải là vợ lấn chồng, mà lỗi ở chỗ tả hữu thân tín kiêu căng phóng túng không có chừng mực. Khương Nhung thuận phục, không phải là bốn phương xâm lấn Trung Quốc, mà lỗi ở chỗ tướng súy không phải người tài, bị địch khinh thường.”

Nhân đó nói Tôn Miễn ở Tịnh Châu, hà khắc bạo ngược không theo phép, yến tiệc vô độ; Bàng Tịch trước ở Tịnh Châu, khinh động ít mưu lược, tự ý xây dựng đồn trại, thua trận ở Khuất Dã, là nỗi nhục lớn của quốc gia. Miễn cuối cùng vì việc này bị bãi chức. (Tháng 5, ngày Bính Ngọ cần xét lại.)

[2] Ngày Đinh Dậu, quần thần dâng biểu xin ngự chính điện, khôi phục việc ăn uống bình thường, không cho. Ba lần xin, mới cho.

[3] Từ năm ngoái mưa tuyết không ngớt, dân đói rét, chết ngoài đường rất nhiều. Chiếu sai quan đi khắp kinh thành, xem xét những người cô cùng già bệnh, mỗi người ban cho trăm tiền, trẻ nhỏ năm mươi, các huyện phụ cận giao cho lệnh tá, chẩn cấp cháo loãng.

[4] Tri phủ Khai Phong Âu Dương Tu tâu: “Lễ thắp đèn vào dịp Tam nguyên không có trong điển lễ, chỉ là tập tục lưu truyền từ đời trước. Bệ hạ chiều theo lòng dân, muốn cùng vui với dân, cố gắng ra ngoài, không phải để vui chơi. Nếu năm được mùa, dân giàu, coi đó là việc vui cũng là lẽ thường. Nhưng từ sau tiết Lập Xuân đến nay, trời lạnh giá, mưa tuyết, dân nghèo thất nghiệp, phố chợ vắng vẻ, người chết vì lạnh không ít, giá củi và thức ăn tăng gấp đôi, dân lo chết đói chết rét, còn đâu rảnh rỗi để vui chơi?

Thần mỗi ngày xem việc công trong phủ, thấy có người nhảy xuống giếng, xuống sông mà không chết, đều nói vì nghèo khổ nên tìm đến cái chết. Hôm nay có một người đàn bà chết vì lạnh, chồng bà ấy cũng tự tử theo. Thần nghĩ trong các ngõ hẻm, người không nơi nương tựa biết bao nhiêu mà kể? Hôm qua, nhờ ơn Thánh thượng sai quan phát tiền, chính là vì việc này. Hiện nay tuyết chưa tan, dù trời có tạnh, phố chợ vẫn lầy lội, xa giá đi qua, phải chịu gió lạnh. Huống chi vừa có nhật thực, Thánh thượng đang tránh điện, giảm bớt ăn uống, lòng lo sợ, trong ngoài đều biết.

Thần xin đặc biệt bãi bỏ lễ thắp đèn; còn lễ dâng rượu hàng năm, nếu đến ngày đó trời chưa tạnh, cũng xin sai đại thần thay mặt làm lễ. Hiện nay những binh sĩ đang chuẩn bị việc tuần du và sửa đường, chịu rét mướt, cũng xin cho họ nghỉ ngơi, để trên hợp với lòng Thánh thượng lo sợ trời, thương dân.” Vua nghe theo.

[5] Ngày Tân Sửu, sứ thần nước Khiết Đan từ biệt, Vua sai Tể tướng Hàn Kỳ đãi tiệc ở dịch trạm Đô Đình, vì Vua chưa ngự điện. Bản kỷ chép ngày Tân Sửu Vua ngự chính điện, khôi phục ăn uống bình thường. Xét việc này thì chưa, nên khảo cứu.

(Xét việc khôi phục ăn uống bình thường, ngự chính điện, sử nhà Tống đều chép vào ngày Tân Sửu, ở đây nói chưa ngự điện, rõ ràng mâu thuẫn với bản kỷ. Nhưng sách này ngày Đinh Dậu đã chép việc Vua cho phép quần thần dâng biểu xin ngự điện, khôi phục ăn uống, thì một quyển sách trước sau cũng mâu thuẫn, chú thích cũng chưa xét kỹ.)

[6] Ngày Nhâm Dần, ban thưởng tiền đặc biệt cho các quân đội đóng tại kinh thành. Ban đầu, ban thưởng cho dân nghèo khổ, già yếu, dùng một nghìn vạn tiền. Có người tâu lên Vua rằng: “Nay dân chúng đã được ban thưởng, nhưng chưa đến lượt các quân đội, các quân đội sẽ thất vọng.” Vì vậy lại có lệnh ban thưởng này, tổng cộng dùng một ức năm nghìn vạn tiền.

[7] Tam ty sứ Trương Phương Bình dâng lên sách biên soạn về quy tắc cấp phát dịch khoán, được ban tên là 《Gia Hựu Dịch Lệnh》. Ban đầu, các quan văn võ trong ngoài, từ quan lại đến lính tráng, đều chưa có quy định cụ thể về dịch khoán, hoặc có sự khác biệt về số lượng. Vì vậy, xuống lệnh cho Xu mật viện, lấy các quy định cũ giao cho Tam ty Chưởng khoán ty, tổng hợp số lượng và biên soạn lại, đồng thời lấy các sắc lệnh, văn bản liên quan đến dịch khoán, bổ sung và sửa đổi thành 74 điều, chia làm ba quyển thượng, trung, hạ, ban hành khắp thiên hạ. Bắt đầu biên soạn từ tháng 3 năm thứ ba.

[8] Ngày Giáp Thìn, Hàn lâm học sĩ Hồ Túc được cử quyền chủ trì kỳ thi cống cử.

[9] Thái tử Trung doãn, Thiên Chương các Thị giảng, Quản câu Thái học Hồ Viện bị bệnh không thể vào triều. Ngày Mậu Thân, được thăng làm Thái thường Bác sĩ, rồi về hưu.

Hồ Viện trở về Hải Lăng, các học trò và quan lại tiễn đưa ở cửa Đông, đương thời cho là vinh dự. Khi ông mất, Vua ban chiếu cấp tiền tuất cho gia đình. Tập hiền Hiệu lý Tiền Công Phụ dẫn hơn một trăm học sinh Thái học đến chùa làm lễ khóc, lại tự xin nghỉ hai ngày để tang thầy.

[10] Ngày Kỷ Dậu, Từ bộ Lang trung, Sùng văn viện Kiểm thảo quan Lữ Công Trước được bổ làm Thiên Chương các Thị giảng. Lữ Công Trước lấy cớ bệnh từ chối, xin đổi cử Trực bí các Tư Mã Quang và Độ chi Phán quan Vương An Thạch. Không được chấp thuận.

[11] Quan văn điện Đại học sĩ, Tả bộc xạ Trần Chấp Trung nhiều lần xin về hưu vì bệnh, nhưng không được chấp thuận. Từ Bạc Châu chuyển đến Hà Nam, rồi lại chuyển đến Tào Châu, đều không đi, đến kinh thành, xin nghỉ bệnh, được ban cho thuốc và trà.

[12] Tháng 2, ngày Đinh Mão, phong Trần Chấp Trung làm Tư đồ, Kỳ Quốc công về hưu, khi có đại triều hội, được phép đứng vào hàng ngũ Trung thư môn hạ, ra vào theo nghi thức của nhị phủ. Có người bàn rằng Trần Chấp Trung trước kia ghét Đỗ Diễn, chỉ cần một tờ tấu là được chấp thuận, Phú Bật sửa chữa sai lầm đó, phải nhiều lần dâng biểu mới được chấp thuận.

[13] Ngày Mậu Thìn, Độ chi phó sứ, Hộ bộ viên ngoại lang Đường Giới được bổ làm Thiên Chương các đãi chế, tri Gián viện.

(Giới xin từ chức ngôn quan, xem Hoàng Hựu năm thứ 5 tháng 10. Nay lại nhận chức ngôn quan, đủ thấy Nhân Tông tha thiết nghe lời nói, nên đặc biệt ghi lại việc này, các việc khác không giống như vậy.)

[14] Ban đầu, Vua sai Hàn Giáng, Trần Húc, Lữ Cảnh Sơ đến Tam ty lập cục bàn việc bãi bỏ lệnh cấm buôn bán trà[2]. Đến tháng 10, Tam ty tâu: “Thuế trà mỗi năm phải thu 2.440.800 quan tiền, nhưng năm Gia Hựu thứ 2 chỉ thu được 1.280.000 quan. Lại chiêu mộ người nộp tiền, đều có số ảo, thực tế chỉ được 860.000 quan, trong đó 390.000 quan[3] là vốn, chỉ thu được lãi 469.000 quan. Còn chi phí vận chuyển hao tổn mất mát[4] cùng lương bổng, chi phí tạp phí cho quan lại, binh lính chưa tính đến. Đến việc các hộ trồng trà nộp thuế, bị quấy nhiễu ngày càng nặng, dân chúng vì lợi mà phạm pháp, hình phạt ngày càng nhiều, lợi thu được rất ít mà tệ hại rất lớn. Nên ước tính số thuế một năm sau niên hiệu Chí Hòa, lấy số tiền lãi thu được chia đều cho dân trồng trà, cho phép họ tự do buôn bán, nơi nào cũng thu thuế. Xin sai quan đi điều tra lợi hại rồi tâu lên.”

Vua sai Ty phong viên ngoại lang Vương Tĩnh đi sáu lộ, khi trở về đều tâu theo ý kiến của Tam ty là tiện. (Tam ty tâu số thuế trà thu hàng năm và việc sai sứ đi sáu lộ điều tra lợi hại, bản chí chép vào tháng 10 năm trước, nhưng thực lục không chép, nay phụ chép ở đây.)

[15] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu rằng: “Xưa kia, lợi từ núi rừng, sông hồ đều chia sẻ cùng dân, nên dân no đủ dưới, Vua giàu có trên, quốc gia yên ổn, hình pháp trong sạch. Từ thời Đường Kiến Trung mới bắt đầu có lệnh cấm trà[5], trên dưới đều mưu lợi, kéo dài gần hai trăm năm. Gần đây nghe nói tệ hại càng thêm nghiêm trọng, dân chịu khổ vì bị bóc lột, ngày ngày than thở; quan lại nhận của hối lộ kém chất lượng, năm nào cũng tích trữ. Kẻ tư lợi, buôn lậu, người phạm tội ngày càng nhiều, hình phạt nặng nề, lòng ta không nỡ. Đó là đặt bẫy hại dân trên vùng sông hồ rộng hàng ngàn dặm. Trẫm lòng đau xót, nghĩ đến việc này đã lâu. Gần đây sai sứ giả đi hỏi ý dân, họ đều vui vẻ muốn bãi bỏ lệnh cấm, thuế hàng năm nộp đúng hạn lên quan. Một hai cận thần trình bày rõ tình hình, Trẫm vẫn còn áy náy, lại giảm bớt thuế hàng năm, để dân được no đủ, cùng nhau sinh sống, bỏ điều cấm, thông thương lợi ích. Tệ nạn nhiều đời, một sớm được dẹp bỏ, định thành phép thường, không thay đổi nữa, bớt trên lợi dưới, để dân nghỉ ngơi. Còn lo kẻ thích gây chuyện, bè đảng gian tà, dám dâng tấu nghị, làm rối quan phủ, ắt sẽ bị trừng trị, không tha thứ.”

Ban đầu, quan được sai đi đã bàn việc bãi bỏ lệnh cấm, bèn lấy thuế hàng năm của Tam ty chia đều cho các hộ trồng trà, tổng cộng 68 vạn quan tiền, bắt nộp hàng năm lên quan. So với thời nộp trà, số tiền này gấp mấy lần. Triều đình thấy khó, bèn giảm một nửa, mỗi năm nộp 33 vạn 8 nghìn quan tiền, gọi là tiền thuế[6], cùng với vốn của các lộ đều dự trữ để mua lương thực biên giới. Từ đó chỉ còn cấm trà lạp như cũ, các loại trà khác được tự do buôn bán khắp thiên hạ. Cuối tháng 3 năm thứ 5, Âu Dương Tu, Lưu Xưởng nói.

[16] Ngày Canh Ngọ, Kinh lược sứ Quảng Nam tâu rằng giặc Giao Chỉ cướp phá động Tư Bẩm thuộc châu Khâm.

[17] Ngày Nhâm Thân, giáng chức Đề điểm Hình ngục Hà Bắc, Lang trung bộ Từ là Bàng Nhữ Bật làm Tri châu Hoa, vì tội khi làm Tri châu Toại đã bổ nhiệm họa công Trần Nghệ làm Học cứu truyền thần.

[18] Ngày Quý Dậu, xuống chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển, những người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân và các khoa đồng xuất thân năm Gia Hựu thứ hai đều được phóng tuyển.

[19] Ngày Giáp Tuất, Đô giám Quảng Tây an phủ là Tiêu Chú tâu: “Giặc Giao Chỉ cướp phá các động Tư Bẩm, Cổ Sâm, Thiếp Lãng, cướp bóc người và gia súc của mười chín thôn không kể xiết, xin hạ lệnh cho Quảng Châu chặn giữ những người tiến cống thú lạ, đợi khi đòi lại đủ số người và gia súc thì cho về. Nếu chúng không nghe lệnh, xin phát binh đánh sâu vào.”

Chiếu cho An phủ sứ bản lộ là Tiêu Cố, Chuyển vận sứ Tống Hàm, Đề điểm hình ngục Lý Sư Trung cùng với Tiêu Chú xử trí việc này.

[20] Ngày Ất Hợi, xuống chiếu cho Tam ty: “Lấy các kho Quảng Huệ trong thiên hạ thuộc về Tư nông tự, mỗi châu tuyển chọn một viên chức quan và tào quan chuyên trách giám sát. Hàng năm vào tháng mười, sai quan khác đi kiểm tra những người già yếu, bệnh tật không thể tự nuôi sống được, ghi rõ tên họ, từ ngày mùng một tháng sau cấp mỗi người một thăng gạo, trẻ nhỏ nửa thăng, ba ngày cấp một lần, đến tháng hai năm sau thì thôi; nếu còn thừa, thì tùy theo lớn nhỏ của các huyện mà chia đều cấp phát.”

[21] Kinh lược an phủ sứ Hà Đông là Tôn Miễn xin bãi bỏ các bảo trại Tây An, Tĩnh Hóa, Tuyên Uy, Thanh Tắc, Bách Thắng, Trung Hậu thuộc phủ Châu và các bảo trại Hoành Nhung, Thần Lâm, Huệ Ninh, Túc Định, Trấn Xuyên, Lâm Tắc[7] thuộc châu Lân, gồm mười hai bảo trại, binh mã lương thảo thì lệnh cho các đại trại gần đó thay phiên cử người đến bảo vệ; lại xin lập trại Tây Bùi Gia Viên thuộc châu Lân, tích trữ lương thảo để ứng tiếp cho châu Lân. Chiếu cho giữ lại các trại Trung Hậu, Bách Thắng thuộc phủ Châu[8] và trại Trấn Xuyên thuộc châu Lân, còn lại đều theo lời xin.

[22] Ngày Đinh Sửu, Đổng Miễn, Công bộ lang trung, được bổ làm Hình bộ lang trung. Miễn từng làm Chuyển vận sứ Kinh Tây, bắt được hai mươi tên giặc cướp nguy hiểm, nên được đặc cách thăng chức.

[23] Đặt chức quan biên định sách vở ở các quán các, lấy Hiệu lí Bí các là Thái Kháng, Trần Tương, Hiệu lí Tập hiền là Tô Tụng, Hiệu khám Quán các là Trần Dịch, chia nhau biên định sách ở Chiêu Văn quán, Sử quán, Tập Hiền viện và Bí các. Kháng là anh của Thái Đĩnh; Tụng là con của Tô Thân; Dịch là người Khai Phong.

Trước đó, Hữu Chánh ngôn, Hiệu lí Bí các là Ngô Cập tâu: “Tổ tông khắc phục tệ nạn của năm đời, lập văn quán để chiêu đãi kẻ sĩ bốn phương, nên các khanh tướng đều từ đây mà tiến thân[9], vì thế uy danh và phong cách không thua kém Hán, Đường. Những năm gần đây dùng hoạn quan giám sát kho sách các quán, sách cho mượn ra ngoài bị thất lạc nhiều. Lại thêm sách vở rách nát, thư lại chép bổ sung không cẩn thận, không phù hợp với ý nghĩa quốc gia tôn sùng Nho học. Xin chọn hai ba người trong quán chức, chia nhau cùng thư lại các quán biên chép sách vở. Kẻ nào tư tiện cho mượn sách và người mượn sách, đều trị tội theo pháp luật. Lại xin tìm kiếm những sách đã thất lạc.”

Bèn lệnh cho Kháng và những người khác không kiêm nhiệm việc khác, hai năm thay một lần, dùng giấy vàng in chép bản chính, để phòng mối mọt. Ngày 4 tháng 2 năm Hi Ninh thứ 8, việc biên hiệu sách ở bốn quán hoàn thành.

[24] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu rằng: “Nghe nói dân gian Thiểm Tây đúc nhiều tiền lớn một cách bừa bãi, khiến việc mua bán không thông suốt. Nay lấy tiền đồng lớn đang lưu hành đáng giá ba tiền, tiền sắt lớn đáng giá hai tiền sắt nhỏ[10]. Các quan viên trong lộ đã nhận lương tháng ba, thì tính số tiền đó để chi trả thêm[11].”

Trước đó, có người bàn muốn đổi tiền sắt lớn đáng giá một, Đề điểm hình ngục, Từ bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý Lục Sân tâu: “Dân gian vốn coi trọng tiền đồng nhỏ mà coi thường tiền sắt lớn, ngày trước lấy một đáng ba còn coi nhẹ, nay lệnh cho ngang giá với tiền nhỏ, thì tiền lớn ắt bị bỏ. Xin lấy một đáng hai, như vậy tổn thất của công tư không đáng kể, mà thương nhân có thể lưu thông, đồng thời kẻ đúc tiền giả tính toán thấy không có lợi, ắt sẽ tự ngừng. Vả lại, Thiểm Tây trước đây cất giữ tiền lớn của Nhiêu Châu, nghe nói dân gian lâu nay không dám dùng, nay đã không còn đúc tiền giả, thì cũng có thể lưu hành cùng lúc, bốn điều này đều tiện lợi.”

Lại tâu rằng đã thay đổi pháp tiền, những người dân trước đây nợ tiền quan, theo pháp nên tăng số truy thu[12], mong giảm bớt một phần ba. Chiếu đều thi hành.

(Việc này căn cứ theo truyện Lục Sân. Từ đó việc đúc tiền giả mới chấm dứt. Nhưng lệnh thay đổi nhiều lần, binh dân hao tổn tiền của, phần nhiều than oán, lâu sau mới ổn định. Việc này căn cứ theo bản chí.)

[25] Ngày Bính Tuất, giảm bỏ chức Tuần kiểm và binh sĩ trú đóng ở các châu quân Vận, Tề thuộc Kinh Đông lộ, theo lời tâu của Tri chế cáo Lưu Xưởng, và các ty An phủ, Chuyển vận của bản lộ xét thấy thuận tiện.( 《Thực lục》 chép là đặt chức Tuần kiểm, nay theo 《Hội yếu》.)

[26] Ngày Đinh Hợi, Quảng Nam Tây lộ Chuyển vận sứ, Đồn điền Lang trung Tống Hàm dâng sách chú giải 《Dương Tử》 và 《Khổng Tùng Tử》, được ban áo tam phẩm.

[27] Ngày Mậu Tý, giáng chức Lại bộ Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế, Tri Tùy châu Lưu Nguyên Du làm Lễ bộ Viên ngoại lang, Tri Tín châu, vì tội tiến cử sai người.

[28] Xuống chiếu: “Giảm bớt các chức Chỉ sử, Sứ thần ở các lộ, theo chiếu năm Hoàng Hựu thứ nhất là mười người thì nay giữ lại bảy người; chưa đủ bảy người thì giữ lại bốn người; bốn người giữ lại ba người; ba người trở xuống giữ nguyên như cũ.”

[29] Ngày Canh Dần, xuống chiếu cho Lễ bộ Cống viện báo danh những Tiến sĩ đã từng dự thi ở điện đình năm lần, các khoa sáu lần, Tiến sĩ thi ở tỉnh sáu lần, các khoa bảy lần, tuổi từ năm mươi trở lên, để tâu lên.

[30] Ngày Quý Tỵ, ngự điện Sùng Chính, thi các Tiến sĩ và các khoa Minh kinh do Lễ bộ tâu danh, cùng các Tiến sĩ và các khoa Đặc tấu danh.

[31] Tháng ba, ngày Mậu Tuất, sai Hàn lâm học sĩ Hàn Giáng, Quyền Tri Khai Phong phủ Trần Húc, Văn Chương các Đãi chế Đường Giới, cùng Tam ty giảm định các khoản thuế đánh vào dân để tâu lên.

[32] Ngày Kỷ Hợi, Tam ty sứ, Lại bộ Thị lang Trương Phương Bình được bổ nhiệm làm Đoan Minh điện học sĩ kiêm Long Đồ các học sĩ, Thượng thư Tả thừa, tri châu Trần.

Trước đó, Lưu Bảo Hoành, một người giàu có ở kinh thành, mở tiệm rượu, nợ tiền mua men của quan hơn một trăm vạn. Tam ty sai quan lại đến đòi nợ, Bảo Hoành bán tài sản để trả. Phương Bình nhân đó mua nhà của Bảo Hoành. Bảo Hoành được tiền liền nộp cho quan, không mang về nhà. Khi ấy, cô của Bảo Hoành kiện rằng Bảo Hoành không phải con của họ Lưu, là kẻ vô lại, phóng túng, làm hỏng tài sản của họ Lưu. Quan lại được cử đi tra xét, xác nhận lời tố cáo là đúng.

Ngự sử trung thừa Bao Chửng bèn tấu rằng Phương Bình đang nắm giữ việc lớn mà nhân cơ hội mua rẻ nhà của người giàu dưới quyền giám sát của mình, là kẻ không biết liêm sỉ, không thể giữ chức vụ lớn, nên bị điều đi làm quan ngoài. Sau đó, ông được đổi làm tri phủ Ứng Thiên. Đoan Minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm Thị độc học sĩ, Lại bộ Thị lang, Tập Hiền điện Tu soạn Tống Kỳ được bổ nhiệm làm Tam ty sứ.

[33] Ngày Tân Sửu, gián quan Ngô Cáp tâu: “Các quan chấp chính mỗi khi được thăng chức, thường tâu xin mang theo nhiều người, đến nỗi những người được bổ nhiệm vào hàng ngũ quan lại vẫn còn ở nhà riêng để phục dịch. Xin từ nay, các Tể tướng đến Xu mật sứ trở lên, được tâu xin mang theo năm người; Xu mật sứ trở xuống, ba người, chỉ được thăng cấp, không được vượt quá ba người.” Được chấp thuận.

[34] Ngày Đinh Mùi, Vua ngự tại điện Sùng Chính, ban cho Tiến sĩ Lưu Huy người Diên Sơn cùng 130 người khác đỗ Tiến sĩ, 32 người đỗ đồng Tiến sĩ; các khoa khác 176 người đỗ Tiến sĩ và đồng Tiến sĩ; đặc cách Tiến sĩ và các khoa khác 65 người đỗ đồng Tiến sĩ, cùng các chức Văn học, Trưởng sử ở các châu được bổ nhiệm theo chiếu thư ngày Đinh Sửu tháng 12 nhuận năm thứ ba[13]. (Bản kỷ chép: Ban cho Tiến sĩ và các khoa khác 339 người đỗ Tiến sĩ và đồng Tiến sĩ, con số không khớp.)

[35] Ngày Nhâm Tý, điều Tri Dương châu Phùng Kinh làm Tri Lư châu. Kinh trước đây giữ chức Quán chức, ở gần Lưu Bảo Hoành, từng dùng đồ đồng để vay tiền của Bảo Hoành, Bảo Hoành không có tiền, liền đem đồ bạc cầm cho người khác để thay mình trả lãi; lại từng mượn đồ dùng của Bảo Hoành để dùng trong nhà, lời khai trong vụ án có liên quan đến ông. Kinh là con rể của Tể tướng Phú Bật, nghe tin liền tự hặc tội, xin được điều đến quận nhỏ, nên có mệnh lệnh này.

(《Thực lục》 và bản truyện của Kinh đều không ghi chép việc này[14], nay theo 《Nhật ký》 của Tư Mã thị.)

[36] Ngày Mậu Ngọ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Lại bộ Lang trung Lã Trân được làm Lễ bộ Lang trung, Tri Thư châu.

Hà Bắc Chuyển vận sứ Lý Tham, Đề điểm Hình ngục Tiết Hướng hặc tội Trân trước đây giữ chức Thủ Chân Định, từng sai Chỉ sử đổi công vật lấy tư vật, tự ý lấy gạo và men quan làm rượu, cùng vi phạm pháp luật thu quá nhiều lễ vật tiễn đưa. Trân vì mẹ trước đây mất tại Thư châu, không muốn đến, nên đổi làm Tri Hòa châu.

[37] Ngày Kỷ Mùi, Tân Tam ty sứ, Lại bộ Thị lang Tống Kỳ được làm Đoan Minh điện Học sĩ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Long Đồ các Học sĩ, Tập Hiền điện Tu soạn, Tri Trịnh châu. Hữu Gián nghị đại phu, Quyền Ngự sử Trung thừa Bao Chửng được làm Xu mật Trực học sĩ, Quyền Tam ty sứ.

Trước đó, Hữu ty Gián Ngô Cập nói Kỷ ở Định châu không trị lý tốt, để gia nhân vay tiền công sứ hàng nghìn quan, và ở Thục xa xỉ quá độ; Chửng cũng nói Kỷ ở Ích bộ thường dự yến tiệc, hơn nữa anh trai ông là Tống Tường đang nắm quyền, không thể giao chức Tam ty, nhiều lần tấu luận không thôi. Tường bèn tự nói mình đang giữ chức cơ mật, em trai lại nắm đại kế, quyền nhiệm quá nặng, xin bãi chức Tam ty của Kỷ, nên ra lệnh cho Kỷ ra ngoài giữ chức và để Chửng thay thế.

Hàn lâm Học sĩ Âu Dương Tu nói:

“Thần nghe rằng, trị thiên hạ là ở chỗ dùng người biết trước sau mà thôi. Phép dùng người, mỗi việc có chỗ thích hợp. Quân lữ thì coi trọng tài năng trước, triều đình thì coi trọng danh tiết trước[15]. Quân lữ chủ yếu là thành công, chỉ sợ họ không chạy theo phần thưởng mà tranh lợi, nên coi trọng tài năng trước, danh tiết sau, cũng là do thế tình khiến vậy.

Triều đình chủ yếu là giáo hóa, phong tục dày mỏng, đạo trị thịnh suy, đều ở chỗ dùng người, mà giáo hóa thực hiện ở dưới, không thể đến từng nhà mà dạy bảo ân cần, nên thường phải tôn trọng những người có danh tiết, để lay động thiên hạ mà khích lệ kẻ hư hỏng. Những người gọi là có danh tiết[16], biết liêm sỉ, tu dưỡng lễ nhượng, không vì lợi mà làm bậy, không vì tùy tiện mà làm càn, chỉ theo nghĩa mà xử sự. Uy lưỡi gươm bén cũng không tránh, việc dễ như bẻ cành cũng không làm, chỉ giữ lấy nghĩa. Họ đứng trong triều đình, tiến thoái cử chỉ đều có thể làm khuôn mẫu cho thiên hạ, người như vậy rất khó được, rất đáng quý. Kẻ sĩ nên quý trọng danh tiết để làm nặng thân mình, mà người làm Vua cũng nên giữ gìn danh tiết để nuôi dưỡng người hiền.

Thấy rằng bệ hạ gần đây bổ nhiệm Bao Chửng làm Tam ty sứ, lệnh vừa ban ra, bên ngoài đã xôn xao bàn tán, cho rằng triều đình tham tài của Chửng[17], mà không tiếc danh tiết của Chửng. Tuy nhiên vẫn hy vọng Chửng có thể giữ vững tiết tháo, kiên quyết từ chối để tránh hiềm nghi, và tiếc thể diện cho triều đình.

Chỉ trong vài ngày, đột nhiên nghe tin Chửng đã nhận chức, thật đáng tiếc, cũng đáng than! Chửng tính tình cương trực, thiên tư ngay thẳng, nhưng vốn ít học vấn, có lẽ không suy nghĩ kỹ về thể chế triều đình, đến nỗi đuổi người kia mà thay thế vị trí của họ, dù ban đầu không có ý đó, nhưng thấy được mà không nghĩ đến nghĩa lý, điều này cũng không lạ. Nhưng dấu vết hiềm nghi, người thường đều biết có thể tránh, lẽ nào Chửng lại không nghĩ đến sao!

Trước đây nghe nói khi Chửng còn ở đài, từng tự mình đến Trung thư mắng nhiếc trách cứ tể tướng, chỉ ra lỗi lầm của Tam ty sứ trước là Trương Phương Bình, giận tể tướng không sớm cách chức ông ta. Sau đó, các thuộc hạ trong đài lần lượt dâng sớ luận tội, Phương Bình vì thế bị cách chức, và lấy Tống Kỳ thay thế. Lại nghe nói Chửng cũng từng dâng tấu chỉ trích lỗi lầm của Tống Kỳ, từ khi mệnh lệnh về Kỳ ban ra, các thuộc hạ trong đài lại liên tiếp dâng sớ phản đối, Kỳ cũng vì thế bị cách chức, và Chửng liền thay thế vị trí của ông ta.

Đây gọi là ‘giẫm lúa cướp trâu’, há có thể không có lỗi! Mà chỉnh đốn mũ áo, xỏ giày dép, nên tránh hiềm nghi. Như tài năng và uy tín của Chửng, dù được thăng chức khác, người đời há có lời dị nghị, điều không thể làm chính là chức Tam ty sứ, không chỉ tự mình vướng vào hiềm nghi, mà còn gây tổn hại không nhỏ cho triều đình. Thần xin trình bày rõ đầu đuôi sự việc:

Quốc gia từ mấy chục năm nay, các bậc sĩ quân tử đều lấy sự cung kính, cẩn thận, tĩnh lặng làm điều tốt. Đến khi tệ nạn xảy ra, họ chỉ biết im lặng, cẩu thả, lười biếng, buông lỏng, dần thành thói quen, không coi là sai trái, khiến trăm chức quan không được tu sửa, kỷ cương đổ nát. Khi ấy chưa có việc gì lớn, nên chưa thấy hại. Một khi giặc khôn ngoan xâm phạm biên giới, quân đội xuất chinh không thành công, tài chính hao tổn, công tư đều khốn đốn, giặc cướp nổi lên khắp nơi, thiên hạ rối loạn, bệ hạ cảm ngộ, muốn cải cách tệ nạn, tiến dụng vài ba đại thần, quyết tâm đổi mới.

Lúc ấy, mới bắt đầu tăng thêm số lượng quan gián, trọng dụng những người dám nói thẳng, khiến họ thi hành chức trách, từ đó tu sửa kỷ cương, sửa chữa những điều đổ nát, muốn phân biệt người hiền với kẻ bất tài, tiến cử người tài, loại bỏ kẻ vô dụng.

Nhưng thói quen lâu đời của tệ nạn, khiến người ta thấy mà kinh hãi, cùng nhau chỉ trích những người dám nói thẳng, hoặc cho rằng họ thích vạch trần chuyện riêng tư, hoặc cho rằng họ công khai hãm hại nhau, hoặc nói họ mưu cầu danh tiếng, hoặc cho rằng họ tự mưu cầu tiến thân. Lời bàn tán trăm đường, gần như làm mê hoặc thánh thính.

Nhờ bệ hạ sáng suốt, thấy rõ các bề tôi vốn quên mình vì nước, không vì lợi riêng, lời gièm pha không thể xâm nhập, nên được bảo toàn, mà người trong ngoài lâu dần cũng tin tưởng. Từ đó đến nay hai mươi năm, việc tuyển chọn quan đài gián, nhiều lần được người dám nói thẳng, trong đó đã loại bỏ kẻ gian tà, dẹp bỏ kẻ quyền thế, sửa chữa sai lầm, không thể kể xiết. Đó là điều tốt của việc tiếp nhận lời can gián từ xưa đến nay khó có, từ khi bệ hạ lên ngôi, thực là đức lớn, đối với sự giúp đỡ của triều đình, không phải là không có công.

Nay trong ngoài yên ổn, trên dưới đã tin tưởng, kẻ tiểu nhân mỗi khi hành động, đều sợ những người dám nói thẳng, việc chính sự lớn nhỏ, cũng chỉ nghe theo quan gián. Xét từ lúc mở đường cho lời nói, đến nay đạt được thành quả, há dễ dàng sao, sao có thể không tiếc!

Nói về lỗi lầm của người khác thì giống như chê bai, đuổi người khác khỏi chức vụ thì giống như hãm hại, nhưng các quan gián quan có thể tự minh oan, chỉ vì họ không có lợi ích gì trong việc đó, và thiên hạ tin tưởng họ cũng vì họ không có lợi ích gì.

Nay Chửng đuổi hai quan, tự mình chiếm lấy chức vụ, khiến cho những kẻ gian nịnh sau này có cớ để nói, làm rối loạn tai mắt của Vua; từ nay về sau, những người nói việc sẽ không được người ta tin, và không thể tự minh oan. Như vậy, công lao dùng lời can gián của triều đình thánh minh, một sớm một chiều bị Chửng làm hỏng.

Không lấy những gì không nên lấy gọi là liêm, không làm những gì không nên làm gọi là sỉ, hành động của các quan cận thần là khuôn mẫu cho người đời, nếu Chửng lúc này không lấy những gì không nên lấy và không làm những gì không nên làm, có thể làm gương cho thiên hạ về tiết tháo liêm sỉ. Nhưng Chửng lại lấy những gì không nên lấy, làm những gì không nên làm, không chỉ tự hạ thấp bản thân, mà còn mở đường cho các quan gián quan sau này hãm hại người khác để mong may mắn, dần dần thành thói quen, mối họa này, đâu phải nhỏ!

Tuy nhiên, điều Chửng dựa vào chỉ là vốn không có ác tâm. Tâm thì giấu kín bên trong, người đời không thấy, nhưng hành động thì biểu lộ ra ngoài, thiên hạ đều nhìn thấy. Nay Chửng muốn tự tin vào cái tâm không thấy được của mình, mà bên ngoài che giấu hành động của thiên hạ, giống như tay đang lấy đồ vật, miệng lại nói không muốn, dù muốn tự tin, nhưng ai tin được? Đây chính là điều thần gọi là hiềm nghi không thể không tránh.

Huống chi như Chửng, từ nhỏ đã có hiếu hạnh, nổi tiếng trong làng xóm, về sau có tiết tháo ngay thẳng, được ghi nhận trong triều đình. Chỉ vì học vấn không sâu, suy nghĩ chưa chín chắn, nên xử lý không đúng, thật đáng tiếc cho người ấy!

Thần mong bệ hạ chọn người tài khác làm Tam ty sứ, còn Chửng thì bố trí chức vụ khác, đặt ở kinh sư, để Chửng tránh được hiềm nghi, giải tỏa sự nghi ngờ của thiên hạ, và giữ trọn danh tiết của Chửng, thật là may mắn biết bao!

Thần được ở gần bệ hạ, chức vụ là bàn luận suy nghĩ, trước đây từng chứng kiến lúc đầu triều đình dùng lời can gián rất khó khăn, nay lại thấy hiệu quả dùng lời can gián của bệ hạ đã rõ ràng, thực không muốn vì Chửng mà làm hỏng, đó là vì tiếc cho triều đình.”

Tấu chương dâng lên, Chửng liền về nhà tránh mệnh, không được chấp thuận, một thời gian sau mới nhận chức.

[38] Ban đầu, Vương Vũ Xứng tấu: “Số lượng tăng ni trong thiên hạ ngày càng tăng, không thể dẹp bỏ ngay được. Nên ban chiếu cho các châu quân trong thiên hạ, cứ 100 tăng ni thì được độ một đệ tử mỗi năm[18], lâu dần sẽ tự tiêu giảm.” Chiếu theo lời tấu.

Đến đầu niên hiệu Chí Hòa, Trần Chấp Trung nắm quyền, nhân dịp lễ Càn Nguyên, cho phép cứ 50 tăng ni được độ một đệ tử. Sau đó, có người cho rằng không nên, nên lại áp dụng chế độ cũ. Giả Xương Triều ở Bắc Kinh tấu: “Các chùa ở kinh sư thường chiêu nạp những kẻ vô lại, du dân làm đệ tử, hoặc chứa chấp những kẻ gian ác trốn tránh. Từ nay xin yêu cầu phải có người bảo lãnh từ quê quán, mới được phép thu nhận.” Chiếu theo lời tấu, các tăng ni ở kinh sư rất lo lắng.

Đến lúc này, có chỉ dụ từ trong cung lại cho phép cứ 50 tăng ni được độ một đệ tử, và các đệ tử ở chùa kinh sư không cần phải có người bảo lãnh nữa[19]. Các tăng đồ rất vui mừng, tranh nhau làm đạo trường để đáp lại ân đức của Vua.

(Việc này căn cứ theo nhật ký, xảy ra vào tháng 3 ngày Đinh Tỵ, nhưng trong thực lục không ghi chép. Xét lời tấu của Vương Vũ Xứng cũng không thấy trong quốc sử, cần tra cứu thêm. Nhật ký chép rằng Trần Chấp Trung nhân dịp đại xá Nam Giao, cho phép cứ 50 tăng ni được độ một đệ tử. Xét vào tháng 2 năm Chí Hòa thứ nhất, ngày Mậu Ngọ có chỉ dụ này, không liên quan đến Nam Giao, và trong hai năm Chí Hòa cũng không có việc Nam Giao hay đại xá, nhật ký đã nhầm, nay sửa lại.)

[39] Có người dâng thư lên triều đình, bàn về việc Nghĩa dũng làm quân phục binh ở Hà Bắc. Cho rằng xưa kia binh và nông là một thể, có việc thì tập hợp ra trận, không có việc thì giải tán về làng, thỉnh thoảng tập luyện, không cần dự trữ lương thực, Nghĩa dũng Hà Bắc ngày nay cũng như vậy. Tiếc rằng họ bị ràng buộc ở các quận, bỏ phí tác dụng lớn, mà những người bàn luận chỉ coi họ là lực lượng phòng thủ thành trì. Nếu thực sự có thể chia Hà Bắc thành hai đường đông tây ở hai châu Hình, Ký, lệnh cho hai viên quan thủ quận chia nhau thống lĩnh Nghĩa dũng, bố trí hai viên quan võ làm Kiềm hạt, Đô giám, hàng năm vào mùa đông đi tuần tra kiểm tra vũ khí[20], duyệt binh tập trận. Nếu chẳng may giặc ngang ngược xâm phạm, thì hai đạo quân Nghĩa dũng lập tức tiến lên ứng cứu, đánh úp từ bên cạnh, khiến chúng bị đánh cả trước lẫn sau, làm sao chống đỡ nổi. Như vậy thì ở Hà Bắc sẽ thường xuyên có hơn mười đạo quân tinh nhuệ phục sẵn[21], quân địch nhìn thấy ta thì còn dựa vào đâu mà không sợ hãi!

Triều đình hạ lệnh đưa tờ tấu này cho các quan lộ Hà Bắc bàn bạc.

Lúc đó, Lý Chiêu Lượng ở Đại Danh phủ, Bàng Tịch ở Định châu, Tiền Minh Dật ở Chân Định phủ, Vương Chí ở Cao Dương quan cùng dâng tấu rằng: “Theo chế độ đời trước, xe ngựa, giáp binh đều lấy từ dân[22], bốn mùa săn bắn, lúc nông nhàn thì tập luyện, khi xuất quân đối địch, chỉnh đốn quân ngũ, khen thưởng công lao, đều ghi chép rõ ràng. Việc này đã lâu, lấy thời Đường mà nói: Lý Bão Chân, Lưu hậu ở Trạch Lộ, lấy sổ đinh nam, ba người chọn một, lúc nông nhàn thì chia đội thi bắn, cuối năm tập trung thi đấu, để thưởng phạt. Ba năm đều giỏi bắn, trong bộ có được hai vạn quân tinh nhuệ. Không tốn lương thực, kho tàng ngày càng đầy, rồi sửa sang vũ khí, chuẩn bị chiến cụ, từ đó hùng mạnh ở Sơn Đông. Lúc đó thiên hạ khen quân bộ binh Chiêu Nghĩa đứng đầu các quân, đó là hiệu quả rõ ràng của thời cận đại.

Có người lại nói dân binh chỉ có thể giữ thành, khó dùng để đánh trận, thật không phải là lý lẽ thông thường. Nhưng lúc không có việc, nên chia nghĩa dũng làm hai lộ, đặt quan thống lĩnh, để tăng thế dùng binh, bên ngoài khiến địch nghi ngờ mà sinh mưu kế, bên trong cũng làm dao động lòng người, e rằng không phải là cách ngụ binh. Hãy tạm lệnh cho các nơi điểm tập huấn luyện, trong hai ba năm, võ nghệ hơi tinh, dần quen hàng ngũ; gặp lúc có biến, được tướng thần như Bão Chân thống lĩnh, chỉnh đốn đội ngũ, rõ thưởng phạt, thì có trận nào không thể đánh được!

Đến như việc phân bố bố trí, lượng địch ứng biến, việc sử dụng tùy theo tình thế, cũng khó mà dự liệu trước. Huống chi Hà Bắc, Hà Đông đều là vùng biên giới với Hồ, từ khi đặt nghĩa dũng, châu huyện thường xuyên kiểm tra, tai mắt đã quen, hành động chắc chắn không nghi ngờ.”

Chiếu theo lời tấu, hàng năm tập luyện, lấy sổ mới cũ và số thiếu báo lên.

(Điều này căn cứ theo bản chí, không rõ thời gian. Tra lại, Lý Chiêu Lượng vào tháng 11 năm Gia Hựu thứ nhất nhậm chức Đại Danh, tháng 2 năm thứ 5 đổi sang Định châu, Bàng Tịch vào tháng 10 năm Gia Hựu thứ 3 nhậm chức Định châu, Tiền Minh Dật cũng vào tháng 10 năm Gia Hựu thứ 3 nhậm chức Định châu, chỉ có Vương Chí nhậm chức Doanh châu vào tháng 2 năm Gia Hựu thứ 4, nay phụ vào cuối xuân năm thứ 4.)

[40] Mùa hạ, tháng tư, ngày Đinh Mão, ban chiếu định vào tháng mạnh đông (tháng 10) đến Thái miếu làm lễ hợp hưởng, các ân tứ đều theo lệ như khi tế giao.

[41] Ngày Mậu Thìn, phong Long nữ ở đền An Độc, châu Thiền làm Thiện Lợi phu nhân.

[42] Ban chiếu cho các quan đề điểm hình ngục là triều thần, sứ thần đều kiêm chức đề cử hà cừ công sự, theo lời thỉnh cầu của Phán đô thủy giám Ngô Trung Phục.

[43] Ngày Nhâm Thân, phủ Hà Trung tâu rằng Đoan minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ, Long đồ các học sĩ, Hộ bộ thị lang, Tập hiền điện tu soạn Lý Thục mất. Được tặng chức Thượng thư hữu thừa, đặc biệt tặng trăm lạng vàng.

Thục thông minh hơn người, học rộng các sách, hiểu rõ điển cố triều đình, mỗi khi có việc thay đổi, Vua đều hỏi ý kiến. Ông soạn các cáo mệnh trong và ngoài triều, được người đời khen ngợi. Các bài thơ, phú, bia ký khác, phần nhiều dùng lời cổ, chú trọng sự kỳ lạ, hiểm hóc, người giỏi văn không thích. Ông lại thích xu nịnh, nên thường bị người đời chỉ trích, cuối cùng không đạt được chí hướng, uất ức mà chết.

[44] Ban đầu, Trứ tác tá lang Hà Cách, vì hoàng tự chưa được lập, dâng sớ xin tìm kiếm hậu duệ nhà Đường, nhà Chu, để làm hậu duệ của hai vương triều này, giao xuống Lễ viện bàn bạc.

Lễ viện tâu rằng: “Xưa kia lập hậu duệ của hai vương triều, không chỉ để nối dõi tuyệt tự, mà còn chọn lấy những người có danh đức đáng noi theo. Thời Ngũ đại mới dựng nước, thời gian trị vì không lâu, văn chương chế độ đều không có gì đáng tham khảo. Nếu chọn nhà Đường thì đời số đã xa, không hợp với kinh điển. Chỉ có nhà Chu là nơi chúng ta nhận thiền vị, nghĩa không thể bỏ. Nên tìm kiếm con cháu như hậu duệ Khổng Tử được phong Diễn Thánh công, ban cho một chức quan kinh, tước hiệu công, để chuyên lo việc thờ cúng, hàng năm thăm hỏi, ban cho lụa là, đồ tế lễ, áo tế, mỗi khi có lễ tế đều do quan cấp, miếu đường cũng được tu sửa nghiêm trang. Như vậy thì trên không mất đi ý nghĩa tôn kính đức độ của tiên vương, nối dõi tuyệt tự, xét trong hiện tại thì đơn giản mà dễ thực hiện.”

Ngày Quý Dậu, xuống chiếu cho các quan: “Lấy gia phả họ Sài, trong các chi tìm người lớn tuổi nhất, lệnh cho hàng năm thân hành lo việc tế tự nhà Chu. Nếu là người chưa có chức tước, thì ban cho chức Kinh chủ bạ; nếu đã có chức tước, thì so sánh loại mà đổi sang văn chức. Lại phong làm Sùng Nghĩa công, cùng với Hà Nam phủ, Trịnh Châu hợp vào việc sai phái. Cấp cho 10 khoảnh ruộng công, chuyên lo việc quản lý lăng miếu, những thứ cần thiết cho việc tế lễ đều do quan cấp. Nếu đến bậc Tri châu, thì sẽ bổ nhiệm việc khác, lại lấy người thân thích gần kế tiếp tập tước và bổ nhiệm chức quan, làm thành định lệ vĩnh viễn.”

(《Thực lục》 chép sớ của Hà Cách và nghị bàn của Lễ viện, văn rất dài, theo bản chí chỉ ghi như vậy, chép trong 《Đông Đô Sự Lược》 của Vương Xưng, chiếu viết: “Tiên vương suy xét thứ tự kế thừa trời, tôn trọng đạo hiền, khen ngợi hậu duệ, đãi bằng lễ đặc biệt, há chẳng phải là đại điển của thánh nhân xét xưa báo công sao! Quốc gia nhận mệnh trời, kế tục nhà Chu mà làm vương, tuy dân chúng vui mừng ủng hộ, vận số đã tập hợp, nhưng Ngu Tân sắp nhường ngôi, đức mỹ chưa rõ ràng. Gần đây, suy xét nguồn gốc, khen ngợi cả chi thứ, ân thì dày, nhưng nghĩa chưa xứng. Sẽ lấy theo cổ lệ của Diêu, Tự[23], noi theo điển chế của Chu, Hán, xét kỹ người thừa kế chính thống, ưu đãi tước công, tạo con đường tiến thân riêng, ban cho ruộng đất, để miếu đường có người phụng thờ, gần với ý nghĩa thông tam thống trong 《Xuân Thu》, làm dày thêm chế độ của tiên đại vậy. Lấy người lớn tuổi nhất họ Sài phong làm Sùng Nghĩa công, cùng với Hà Nam, Trịnh Châu sai phái, cấp 10 khoảnh ruộng công, để phụng thờ nhà Chu. Đến bậc Tri châu, thì sẽ bổ nhiệm việc khác, lại lấy người thân thích gần kế tiếp tập tước, làm thành định lệ vĩnh viễn.”)

[45] Ngày Ất Hợi, quốc mẫu nước Khiết Đan phái Hữu Giám môn vệ Thượng tướng quân Gia Luật Duyễn, Khởi cư lang, Tri chế cáo Vương Quan; nước Khiết Đan phái Chương Thánh quân Tiết độ sứ Tiêu Củng, Sùng lộc khanh Mã Nghiêu Tư đến chúc mừng tiết Càn Nguyên. Ngày Bính Tý, Lại bộ Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế Hà Đàm được bổ nhiệm làm Đồng tri Thông tiến Ngân đài ty kiêm Môn hạ Phong bác sự.

Lúc đó, chức Phong bác đã bị bỏ lâu ngày, Đàm dâng tâu rằng: “Triều đình ta thiết lập ty này, thực chất là thay thế chức Phong bác của Cấp sự trung[24], xin theo lệ cũ của Vương Tằng, Vương Tự Tông, mọi chiếu sắc đều phải qua Ngân đài ty.” Được chấp thuận.

[46] Ngày Quý Mùi, Tư đồ trí sĩ Trần Chấp Trung mất. Vua đến nhà ông để viếng, truy tặng Thái sư, kiêm Thị trung. Chấp Trung ở chức Trung thư 8 năm, không ai dám nhờ vả việc riêng, các nơi gửi lễ vật đều không đến cửa.

Lễ quan Hàn Duy bàn về thụy hiệu của ông rằng: “Chấp Trung may mắn là con của công khanh, gặp thời thái bình, nhờ lời nói nhất thời mà được quý hiển. Cuối năm Hoàng Hựu, thiên tử vì tang lễ trong hậu cung, hỏi về lễ táng tế, Chấp Trung giữ chức Thượng tướng, không thể chỉ huy các quan, xem xét chính sửa điển lễ để đáp lời Vua. Như việc táng lễ theo nghi thức hoàng gia, không phải lễ của phi tần; truy phong tước hiệu, có điều đáng ngờ trong cung cấm; xây miếu dùng nhạc, vượt quá chế độ cũ của tổ tông, đều tự ý làm. Khiến đại điển của thánh triều thành việc phi lễ, đó là điều bất trung lớn nhất.

Trong nhà, lễ phép không rõ, phu nhân chính thất bị xa lánh, thiếp thất tiện nhân ngang ngược không kiềm chế, đó lại là việc trị gia không đáng nói. Tể tướng phải giữ đạo dẫn lễ để giúp thiên tử, sửa mình tề gia để làm gương cho trăm quan. Chấp Trung không chú trọng điều này, lại đóng cửa ở ẩn, từ chối khách khứa, nói rằng ta không tư, ta không đảng, há chẳng thô bỉ sao!

Xét theo phép đặt thụy: ‘Được sủng lộc rạng rỡ gọi là Vinh, không chăm chỉ mà thành danh gọi là Linh.’ Chấp Trung ra vào chức tướng, lấy nhất phẩm về hưu, có thể gọi là sủng lộc rạng rỡ; được ngôi hành chính, không phải không gặp thời, mà hiền sĩ đại phu không khen ngợi, có thể gọi là không chăm chỉ mà thành danh. Xin đặt thụy là Vinh Linh.”

Phán Thái thường tự Tôn Biện bàn rằng: “Chấp Trung lúc còn làm quan nhỏ dưới triều trước, vì đại bổn chưa lập, đã một mình dâng sớ trước mọi người. Chương Thánh hoàng đế xem sớ khen ngợi, bèn thăng lên chức gián quan, vừa hợp ý Vua, cuối cùng được hưởng bổng lộc lớn. Đến lúc nay Vua mới nghe chính sự, nhớ lại ơn tri ngộ của Chương Thánh, chí thiết muốn giao trọng trách, đãi ngộ như bậc khanh phụ. Chiếu thư có câu: ‘Một lời nói là phúc muôn đời, đạo thẳng thắn xuyên suốt ba đời.’ Lại nói: ‘Dâng lòng trung với tiên đế, có công với Trẫm.’

Từ khi lên làm tể tướng, kiêm nắm quyền tướng quân, tính cương trực ngay thẳng, có phong độ đại thần. Đến khi giữ chức ở Y Lạc, sợ sức yếu không thể phụng sự lăng tẩm, xin đổi về quận nhỏ. Đến tuổi già, vừa bảy mươi tuổi đã xin từ quan về hưu, có thể nói là trọn đời không thay đổi. Cẩn xét theo phép đặt thụy: ‘Không lơ là chức vụ gọi là Cung.’ Chấp Trung thường lấy công tâm xử sự, ít tư lợi, tuy ân sủng ngày càng nhiều mà vẫn lo sợ sớm tối, há chẳng phải là không lơ là chức vụ sao? Xin đổi tên thụy là Cung.”

Phán Thượng thư Khảo công Dương Nam Trọng phúc nghị rằng: “Tổ tông có thiên hạ, truyền cho em rồi lại truyền cho con đã hai lần. Nay bệ hạ thánh đức sớm thành, thiên mệnh đã định, quần thần muốn sớm định vị phận, nhưng tiên đế lúc tuổi già, các đại thần nhiều lần trái ý trên, không ai dám nói. Chấp Trung lúc ấy tuổi trẻ, địa vị thấp, trung nghĩa cảm phát, một lời mà định ngôi Đông cung, đặt sinh linh vào cảnh thái bình bốn mươi năm, phúc tộ nhà Tống há có cùng sao! Vì thế việc thăng chức của ông thường được ghi trong sách tán, để tỏ rõ sự sáng suốt biết người của tiên đế, và ý nghĩa không lời nào không được đền đáp. Từ khi Cảnh Đức ngừng binh, trong nước vô sự, các bề tôi phụ tá chỉ lo thuận theo đức trên, trong ngoài chỉ dâng lời ca tụng.

Triều đình cầu lời nói thẳng, trách các quan giữ im lặng, chiếu thư nhiều lần ban xuống, nhưng không có ai. Chỉ có Chấp Trung, tuy làm quan nhỏ, không chìm đắm theo thời tục, không kiêng dè các đại thần đương quyền, chuyên lo việc nước, bàn kế lớn tông miếu để được trên biết đến. Ông làm quan đến chức Lưỡng phủ hai kỷ, hai lần làm Tể tướng trong tám năm, người ông chọn dùng không ít, nhưng khi ông mất không ai cảm khái về ân riêng, ông một lòng vì việc công, không để sĩ đại phu biết mình xuất thân từ cửa ông như vậy, nên thụy hiệu là Cung là hợp lý. Còn việc giúp yên xã tắc, Thái thường đã bàn đầu tiên, vậy sao không đổi tên thụy luôn? Xin xét theo 《Thụy pháp》: ‘Nhân việc mà có công gọi là Tương.’ Xin đặt thụy là Cung Tương.” Chiếu ban thụy hiệu là Cung.

[Hàn] Duy nhiều lần dâng sớ bàn luận, cho rằng “Lấy điều khó khăn trách Vua gọi là Cung, thần bàn về Chấp Trung, chính vì ông ấy không Cung”, bèn xin từ chức quan Lễ. Không được trả lời.

Sau đó, Vua lại viết chữ triện trên bia mộ của Chấp Trung là “Bao Trung”.

Chấp Trung có người thiếp yêu là Trương thị kiêu căng ngang ngược, thường xúc phạm vợ cả là Tạ thị. Năm ngày sau khi Chấp Trung chết, Tạ thị dâng tấu xin xuất gia làm ni, chiếu cho phép, liền cạo tóc bên linh cữu rồi đưa đến chùa Tư Thánh ở phía nam thành, ban tên là Cần Tỉnh, ai nấy đều khen là thỏa đáng.

(Việc này căn cứ theo 《Tạp chí》 của Giang thị và 《Ký văn》 của Tư Mã Quang.)

[47] Ngày Kỷ Sửu, cung phi họ Đổng sinh con gái thứ chín cho hoàng đế. Đổng thị người Khai Phong, bốn tuổi vào cung, lớn lên làm ngự thị, tính tình hiền hậu, thích đọc sử sách, hiểu rõ điển cố triều đình, hầu hạ bên cạnh hoàng đế chưa từng có lỗi lầm, thời Hoàng Hựu được phong làm Văn Hỉ huyện quân. Hoàng đế từng bị bệnh nặng, đêm cầm bảo đao tự vẫn, Đổng thị bên cạnh vội vàng ngăn lại, suýt bị đứt ngón tay.

(Việc cầm bảo đao tự vẫn, theo chính sử, không rõ thời gian, có lẽ là vào đầu niên hiệu Gia Hựu.)

[48] Hàn lâm học sĩ Hồ Túc tâu: “Năm Khai Bảo thứ 6, Thái Tông phong làm Tấn vương, năm Thuần Hóa thứ 5, Chân Tông phong làm Thọ vương, rồi nâng Thọ lên làm đại quốc, đứng dưới Tấn quốc. Năm Cảnh Đức thứ 3 có chiếu thư, Thọ, Tống, Lương, Triệu bốn nước từ nay không được phong nữa, nhưng Tấn lại không nằm trong danh sách cấm phong[25]. Thời Chí Đạo, nhân lễ giao tế ban ân, Ngụy Nhân Phố được truy phong làm Tấn vương, Khấu Chuẩn từng nói: ‘Tấn là tước phong cũ của bệ hạ khi còn ở phủ đệ, nay dùng làm tước tặng, không thích hợp.’ Năm Càn Hưng nguyên niên, phong Đinh Vị làm Tấn công, đó là lỗi của quan lại. Trước đây bệ hạ lập nước ở Thăng, vẫn xếp vào hàng thứ quốc, không phải là cách coi trọng nơi bắt đầu phong tước, nên nâng Thăng lên làm đại quốc, và cùng với Tấn đều không được phong nữa.” Hoàng đế nghe theo.

[49] Ngày Tân Mão, ban chiếu rằng: “Nhà ở, đồ dùng, mũ áo, thiếp thất đều có quy chế, để phân biệt sang hèn, ngăn chặn xa xỉ lộng quyền. Gần đây phong tục suy đồi, không còn tôn ti trật tự, vi phạm pháp luật, ít nghe bị xử phạt. Từ nay, quan lại dân chúng trong ngoài ai vi phạm, phải xét xử, nhất định phạt nặng không tha!” Theo lời tâu của Giám sát ngự sử lý hành Trầm Khởi. Vương Xưng trong 《Đông Đô Sự Lược》 chép: Lệnh cho trong ngoài tuân theo các chiếu chỉ trước sau, ai vi phạm, Ngự sử đài và Khai Phong phủ xét tâu lên, các lộ giao cho Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục và trưởng lại thi hành theo chiếu.

[50] Ngày Nhâm Thìn, Vua ngự tại điện Sùng Chính, xét lại các tù nhân đang bị giam giữ, giảm tội chết xuống một bậc đối với những người phạm tội nhẹ, còn những người bị tội đồ trở xuống thì được tha.

Tri chế cáo Lưu Xưởng tâu rằng: “Việc xét xử và tha tù nhân ở kinh thành, tuy là ân điển nhất thời, nhưng ngoài kinh thành, dân chúng đều cho rằng ý của bệ hạ là vì hoàng nữ mới sinh nên ban ân điển này, e rằng không phải là điển lệnh của bậc vương giả. Năm ngoái vào tháng nhuận, đã từng giảm tội, chưa đầy nửa năm lại ban ân điển này. Sách truyền có câu: ‘Dân nhiều may mắn thì quốc gia bất hạnh’. Một năm hai lần xá tội, người tốt sẽ im lặng. Các bậc minh quân hiền thần đời trước đã bàn luận kỹ về việc này. Tuy việc đã qua không nên nói lại, nhưng thần mong triều đình lưu ý.

Lại nghe nói làm nhiều tiền bằng vàng, bạc, ngà voi, ngọc, hổ phách, mai rùa, đàn hương, và đúc vàng bạc thành hoa quả để ban thưởng cho bề tôi, từ tể tướng đến đài gián đều nhận được ban thưởng này. Thần cho rằng chi phí vô ích, ban thưởng vô danh, không gì hơn việc này. Nếu muốn khoe khoang sự xa hoa lộng lẫy để làm vui mắt thế tục thì được, nhưng không phải là cách để răn dạy sự tiết kiệm. Tể tướng, đài gián lấy đạo đức phò Vua làm nhiệm vụ, sao lại nhận ban thưởng này mà không nói gì? Tuy việc đã qua không nên can gián, nhưng thần mong triều đình lưu ý.

Thần nghĩ rằng trời cao phù hộ đức lớn của bệ hạ, nên hậu cung mới có điềm lành sinh nhiều con. Bệ hạ nên xem xét kỹ chính lệnh, giữ vững sự cung kiệm để đáp lại ân điển của trời, xây dựng nền tảng vững chắc. Không nên ban ân điển khoan dung quá mức để tổn hại chính thể, chi tiêu phung phí để làm mất đức tiết kiệm. Thần tuy thấp hèn, nhưng riêng lòng tiếc việc này, nên dám mạo muội tâu lên, mong bệ hạ xét cho.”

Tháng 5, ngày Mậu Ngọ, Chu thị lại sinh con gái.

(Sách 《Giang Hưu Phục tạp chí》 chép: Ba ngày sau lễ mừng công chúa ra đời, từ tể tướng trở xuống đều được ban thưởng bao tử có tiền vàng, bạc, mai rùa, ngà voi, đàn hương. Ba xá nhân chỉ có hai người được quyền tu chú nhận được, bốn đãi chế chỉ có ba người ở giảng diên nhận được, Lưu Xưởng, Hà Đàm không được, Thị lang Hướng cũng không được. Trong đài, từ độc tọa đến giám sát đều được ban thưởng một bậc, trong quán chỉ có Ngô và chánh ngôn được. Có lẽ là vì nội quan sợ đài gián.)

[51] Tháng 5, ngày Ất Mùi, phong ngự thị là huyện quân họ Đỗng ở huyện Văn Hỉ làm Quý nhân, cha bà là Đỗng An vốn thuộc quân Cấm vệ, liền được bổ làm Nội điện sùng ban.

[52] Ngày Mậu Tuất, ban chiếu rằng: “Vua tôi cùng một lòng, để hoàn thành việc thiên hạ, mà đặt ra quá nhiều điều cấm, nghi ngờ vì tư lợi, không phải ý Trẫm. Theo chế độ cũ, các quan hai chế không được đến nhà riêng của chấp chính, người từng được chấp chính tiến cử thì không được làm Ngự sử, nay đều bãi bỏ.” Đây là bắt đầu dùng ý kiến của Bao Chửng.

[53] Ngày Kỷ Hợi, Lý Chiêu Cấu, chức Công bộ lang trung, Thiên Chương các đãi chế qua đời. Vua thấy mẹ ông đã già, đặc biệt ban cho 100 tấm lụa.

[54] Ngày Canh Tý, ban chiếu rằng: “Số lượng nội thần trong cơ quan Nhập nội nội thị tỉnh[26] quá nhiều, tạm thời dừng việc tiến cử con nuôi vào nội đình.” Đây là bắt đầu dùng ý kiến của Ngô Cập. Tống hội yếu cho rằng là theo tấu của Hàn lâm học sĩ Hàn Giáng, cần xem xét kỹ hơn. Ngày 17 tháng 11 năm Trị Bình nguyên niên mới có chỉ, cho phép tiến cử vào dịp lễ Thánh tiết và Nam giao.

[55] Thẩm Khang, chức Tri Thường châu, Độ chi viên ngoại lang, Tập Hiền hiệu lý, được quyền quản lý Nam Kinh lưu ty Ngự sử đài. Lúc đó có người nói Khang là kẻ bất tài, Khang bèn xin về quê lo việc tang lễ, nên được cho phép.

[56] Ngày Tân Sửu, An Bảo Hoành, chức Đồn điền viên ngoại lang, Thông phán An châu, bị giáng làm Chiêu Hóa quân tiết độ phó sứ, giám quản thuế rượu ở quân Cao Bưu. Do Thị ngự sử tri tạp sự Ngô Trung Phục tâu rằng, Bảo Hoành tố cáo cha mình lấy người tạp hộ là Nhậm thị xin phong tước hiệu, lúc cha mất, Bảo Hoành còn nhỏ, đến nay đã 30 năm, lẽ nào không có ân dưỡng dục, việc này trái với tình người, xin phế truất.

[57] Ngày Bính Ngọ, điều Tri Tịnh châu, Quan văn điện học sĩ, Lễ bộ Thị lang Tôn Miễn làm Tri Thọ châu. Khi ấy, Ngự sử Trung thừa Hàn Giáng và Giám sát ngự sử Trầm Khởi tâu rằng Tôn Miễn khi giữ chức ở Hàng châu và Tịnh châu đã làm nhiều việc trái phép. Các gián quan Khang Giới và Ngô Cập tiếp tục dâng tấu. Triều đình hạ chiếu cho hai lộ Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục ty điều tra, nhưng chưa có báo cáo, nên trước tiên điều ông đi.

Trước đó, Tham tri chính sự Vương Nghiêu Thần qua đời, Vua hỏi Tôn Miễn đang ở đâu, muốn triệu về sử dụng nhưng chưa kịp. Khi Xu mật sứ Điền Huống bị bệnh, Vua lại có ý dùng Tôn Miễn, nhưng các quan tấu chương kịch liệt phản đối nên ông bị bãi chức.

(Việc này căn cứ theo bia ký do Vương Khuê và Tất Trọng Du soạn.)

[58] Ngày Tân Hợi, hạ chiếu: “Các lộ Đồng đề điểm hình ngục và phủ giới Đồng đề điểm hình ngục đều phải chọn người từng trải qua nhiệm vụ không tham nhũng, không từng xử án oan sai, có năm người tiến cử, và đã trải qua ba nhiệm kỳ gần dân[27]. Những người đã từng làm Tri quân châu, trải qua một nhiệm kỳ trở lên ở lộ Đô giám thì không được bổ nhiệm. Những người được bổ nhiệm, trước tiên phải làm Tri quân ở nơi nhỏ.”

[59] Ngày Nhâm Tý, sai Đô quan viên ngoại lang Cao Phỏng đi xác định đất chăn ngựa ở Hà Bắc, phần còn lại cho dân thuê cày cấy.

[60] Độ chi phán quan, Từ bộ Viên ngoại lang Vương An Thạch nhiều lần được bổ nhiệm chức vụ trong quán các nhưng đều từ chối không nhận. Trung thư môn hạ tâu lên, Vua hạ chiếu cho ông làm Trực tập hiền viện, nhưng Vương An Thạch vẫn nhiều lần từ chối rồi mới nhận.

[61] Xu mật sứ, Lễ bộ Thị lang Điền Huống đột nhiên bị trúng phong câm, lâu ngày xin nghỉ bệnh, mười lần dâng sớ xin từ chức. Ngày Bính Thìn, bãi chức, giáng làm Thượng thư Hữu thừa, Quan văn điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ, Đề cử Cảnh linh cung. Theo lệ cũ, Xu mật sứ khi thăng giáng đều phải có chiếu thư, từ năm Hoàng Hựu thứ 5 khi Cao Nhược Nột bị bãi chức, bắt đầu do Xá nhân viện hạ chiếu, nay lại bỏ qua lệ này.

[62] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu rằng: “Các châu Dương thuộc lộ Đông Hoài Nam, châu Lư thuộc lộ Tây Hoài Nam, phủ Giang Ninh thuộc lộ Đông Giang Nam, châu Hồng thuộc lộ Tây Giang Nam, châu Đàm thuộc lộ Hồ Nam, châu Việt thuộc lộ Chiết Đông, châu Phúc thuộc lộ Phúc Kiến đều kiêm thêm chức Binh mã kiềm hạt của lộ mình, đặt thêm ba chỉ huy cấm quân và trú bạc cấm quân, riêng châu Việt và châu Phúc đặt hai chỉ huy cấm quân. Cấm quân mới chiêu mộ lấy tên hiệu là Uy Quả, lương bổng theo lệ của Tuyên Nghị, mỗi chỉ huy không được quá bốn trăm người.

Mỗi lộ chọn hai viên võ thần từng trải làm Binh mã đô giám, riêng lộ Chiết Đông và Phúc Kiến chọn một viên, đều đặt công sở tại châu mình để chuyên việc huấn luyện, không được sai đi nơi khác. Nếu chiêu mộ không đủ, cho phép chọn sương quân trong lộ bổ sung vào.”

(Tri châu Phúc Châu là Yến Độ tâu rằng đất Mân vốn nhiều trộm cướp, xin được tạm giao quyền hành để kinh lý cả lộ, bèn gia chức Binh mã kiềm hạt, việc này căn cứ theo bản truyện của Độ. E rằng do Độ kiến nghị nên mới áp dụng rộng ra các lộ khác, cần xem xét thêm.)

[63] Ngày Mậu Ngọ, cung nhân họ Chu ở hậu cung sinh ra Hoàng nữ thứ mười. Trước đó, bà Đổng và bà Chu đều có thai, trong ngoài đều mong sinh hoàng tử, Nội thị tỉnh chuẩn bị rất nhiều vàng lụa[28], đồ dùng[29] và các vật phẩm khác để ban thưởng, chi phí không kể xiết. Lại tu sửa cung Tiềm Long, cung Tiềm Long vốn là nơi ở của Chân Tông khi còn làm Khai Phong phủ doãn. Sau đó cả hai đều sinh hoàng nữ, số lượng ban thưởng vẫn gấp mấy lần so với khi công chúa Duyễn Quốc xuất giá.

[64] Giám sát ngự sử lý hành Trầm Khởi tâu, xin từ nay về sau tại các nơi như Hà Bắc, Thiểm Tây chọn người giữ chức Tẩu mã thừa thụ, để tránh làm phiền nhiễu châu quận. Chiếu lệnh cho các ty Đô tổng quản, Kinh lược, Quân mã tuần kiểm ở các lộ, từ nay Tẩu mã thừa thụ khi mãn nhiệm, phải được các châu quận xác nhận không có việc gì sai trái mới được báo lên, rồi mới được thưởng. (Việc này ghi trong Hội yếu ngày 25 tháng 5, nay phụ lục vào cuối tháng.)

[65] Lại bộ Lang trung Lữ Công Nhụ từ chức Hộ bộ Phán quan được bổ làm Kinh Tây Chuyển vận sứ. Ngự sử Trung thừa Hàn Giáng tâu: “Cha của Công Nhụ là Di Giản khi còn tại chức, anh trai của Công Nhụ là Công Xước nhận hối lộ từ khắp nơi, thường bị Công Nhụ đe dọa cướp đoạt, lại còn thông dâm với con gái nhỏ của Công Xước, không thể giao chức Giám ty.”

Tháng 6, ngày Quý Hợi mùng một, giáng Công Nhụ làm Tri châu An Châu[30]. Công Nhụ[31] tự biện minh bị Giáng vu cáo, xin mở án điều tra, nhưng chiếu chỉ không cho phép, bắt phải nhận chức ngay.

[66] Tháng 6[32]. (Từ ngày Ất Mùi đến Ất Sửu tháng 5 đã là 31 ngày, nên đây phải là tháng 6, đoạn sau tiếp ngay tháng 7, rõ ràng là thiếu sót, nay bổ sung.)

[67] Ngày Ất Sửu, chiếu chỉ rằng những người xin tên hiệu chùa mộ, nếu không phải là Thân vương, Trưởng công chúa hoặc đương chức Trung thư, Xu mật viện cùng Nhập nội Nội thị tỉnh Đô tri, Áp ban, thì không được thi hành.

[68] Ngày Đinh Mão, phong Ngự thị An Định quận quân Chu thị làm Mỹ nhân. Từ khi Ôn Thành mất, trong hậu cung có mười người được sủng ái, gọi là Thập Các, Chu thị, Đổng thị và em gái của Ôn Thành đều ở trong số đó. Chu thị và Đổng thị vì sinh hoàng nữ được thăng chức, các Các khác đều xin thăng chức, chiếu chỉ Trung thư ban sắc cáo, nhưng Trung thư cho rằng không có danh nghĩa, tâu xin bãi bỏ. Người xin không ngừng, nên đều ban thủ chiếu. Riêng em gái của Ôn Thành kiên quyết từ chối.

Ban đầu, phong Tài nhân, thưởng thêm 5.000 lạng bạc, 500 lạng vàng, nhưng vẫn kiên quyết từ chối. Vua nói: “Trước đây ngươi lương tháng 27.000[33], nay là 200.000, sao lại từ chối?” Đáp: “27.000 thiếp dùng đã dư, cần gì 200.000?” Cuối cùng vẫn từ chối.

[69] Đồng tri Gián viện Phạm Sư Đạo dâng sớ nói: “Lễ để chế ngự tình cảm, nghĩa để đoạt bỏ tình yêu, điều mà người thường khó làm được, chỉ có bậc minh quân thông tuệ mới có thể làm được. Gần đây vì số cung nhân quá nhiều nên cho ra ngoài, đó là việc đức lớn. Tuy nhiên, có những việc liên quan đến phong hóa, trị loạn lớn mà chưa được lưu tâm, thần xin mạnh dạn trình bày với bệ hạ.

Thần nghe nói các cung nữ trong cung vì nuôi dưỡng Công chúa Chu, Đổng, được ban chế chỉ từ ngự bảo, đều phong làm Tài nhân, không do Trung thư ban cáo, mà trong cung đình nhiều người mong được thăng chức. Việc thăng chức cho Chu, Đổng là đúng, nhưng các cung nữ có danh gì mà được thăng? Phẩm trật của Tài nhân vốn đã cao, xưa có định số, thời Đường chỉ có bảy người, triều đại tổ tiên cung nữ hầu hạ không quá hai ba trăm người, người ở hàng ngũ phẩm rất ít. Nếu các cung nữ đều được thăng, thì sẽ không còn giới hạn số lượng nữa, người ngoài không biết rõ, chỉ cho rằng bệ hạ quá sủng ái, ban ơn không tiết chế. Phụ nữ và tiểu nhân tính tình giống nhau, được sủng ái quá mức thì sinh lòng kiêu ngạo, ban ơn không tiết chế thì sinh lòng tham không đáy, không thể không dùng đạo lý để quản lý.

Hơn nữa, chi tiêu quá nhiều, yêu cầu quá rộng, bổng lộc của một Tài nhân bằng thuế của trăm hộ trung lưu trong một tháng, chưa kể ban thưởng trong năm. Huống chi cáo mệnh ban ra không qua các cơ quan, đâu phải là việc của thời thịnh trị! E rằng việc phong chức tùy tiện sẽ lại xuất hiện ngày nay.”

(Sớ của Sư Đạo kèm theo đây, nên là sau ngày Kỷ Mão cho cung nhân ra ngoài.)

[70] Ngày Mậu Thìn, Quang lộc khanh, Trực bí các, Đồng phán Tông chính tự Triệu Lương Quy tâu rằng: “Cha ‘Chiêu’ con ‘Mục’, là điều trọng yếu trong điển lễ tế tự; đức của tông, công của tổ, là gốc của nghiệp vương. Quốc gia kế thừa vận mệnh trăm năm, tôn sùng linh khí bảy đời, việc truy hiếu không thể không nghiêm, phụng thờ tiên tổ không thể không chu toàn. Tuy nhiên, việc tế tự thường do các công khanh đảm nhiệm, dù thần chủ có danh hiệu hợp thực, nhưng Thái Tổ vẫn để trống vị trí hướng đông. Hơn nữa, đại tế là để quy tụ thần linh của các miếu, cốt yếu là công bằng, sao có thể làm mờ đi chính thống? Xin ban chiếu rộng rãi cho các bậc sĩ đại phu, bàn bạc để định ra nghi thức[34], làm thành phép tắc bất hủ cho một đời.”

Bèn hạ lệnh cho Thái thường lễ viện bàn bạc, rồi tâu rằng: “Xét các điển cố qua các đời, từ Hán trở về sau, việc lập miếu và chế độ tế tự đều khác với thời Tam đại. Đến việc tôn vị trí hướng đông, các bậc tiên nho bàn luận không thống nhất, vì việc tông miếu là trọng đại, không phải là việc mà các quan có thể tự quyết định.” Bèn ban chiếu cho các quan đãi chế trở lên cùng các quan đài gián, lễ quan cùng bàn bạc[35].

Quan Văn điện học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Vương Cử Chính cùng các quan bàn rằng: “Đại tế là để hợp chiêu mục tôn ty, tất phải để vị trí hướng đông cho vị tổ thụ mệnh. Thái Tổ của triều ta thực là vị quân vương thụ mệnh, nhưng từ Hi Tổ trở xuống, bốn miếu ở trên, nên mỗi khi đại tế, chỉ xếp chiêu mục mà để trống vị trí hướng đông. Từ thời Ngụy, Tấn trở về sau, cũng dùng lễ này. Nay việc thân hưởng long trọng, nên giữ như cũ là tiện.” Chiếu tuân theo.

[71] Ngày Kỷ Tỵ, các tể thần Phú Bật và đồng liêu xin thêm tôn hiệu cho Vua là “Đại Nhân Chí Trị”, nhưng chiếu chỉ không chấp thuận. Theo lệ cũ, cứ ba năm một lần, sau khi hoàn thành đại lễ, Vua thường nhận tôn hiệu do quần thần dâng lên. Từ niên hiệu Khang Định trở đi, việc này đã bị bãi bỏ, đến nay các quan chấp chính lại xin khôi phục lệ cũ. Tri gián viện Phạm Sư Đạo tâu rằng: “Gần đây thiên tai dịch bệnh xảy ra nhiều mà lại đề cao hư văn, không phải là cách đáp lại lời răn của trời.”

(Lời tâu của Phạm Sư Đạo dựa theo sách 《Ký Văn》 của Tư Mã Quang.)

Tri chế cáo Lưu Xưởng tâu rằng: “Tôn hiệu không phải là cổ lễ. Tôn hiệu của bệ hạ đã là ‘Thể Thiên Pháp Đạo Khâm Văn Thông Vũ Thánh Thần Hiếu Đức’, đã là tột bậc tốt đẹp rồi, lại thêm ‘Đại Nhân’ cũng không làm tăng thêm vinh quang, mà nói ‘Chí Trị’ thì có vẻ như tự khoe khoang, hơn nữa hiện nay thiên hạ chưa thể gọi là chí trị được. Bệ hạ đã không nhận huy hiệu hai mươi năm[36], sao lại đột nhiên tăng thêm hư danh mà tổn hại thực đức!”

Vua nói: “Ý Trẫm cũng cho là nên như vậy[37].” Vì vậy, Phú Bật và đồng liêu dâng biểu năm lần[38], nhưng cuối cùng vẫn không được chấp thuận. Lưu Xưởng lúc đó kiêm nhiệm Lễ bộ danh biểu, phải soạn biểu từ, trước đó đã khuyên Phú Bật không nên làm thế, Phú Bật ngậm ngùi nói: “Vừa rồi đã tâu lên, đó là ý của bệ hạ muốn như vậy, không thể ngăn được.” Lưu Xưởng đành phải soạn năm biểu, nhưng vẫn bí mật dâng ba tờ sớ xin bãi bỏ việc này.

[72] Sai Tư phong viên ngoại lang Chu Xử Ước đốc suất quân Giang Nam Tây lộ đi đánh giặc muối ở Quân Châu[39], vì Đái Tiểu Bát[40] cùng đồng đảng cướp bóc, giết tri huyện Quân Hóa là Triệu Xu.

[73] Thái tử Trung doãn Vương Đào, Đại Lý bình sự Triệu Ngạn Nhược, Quốc tử bác học Phó Biện, huyện lệnh huyện Ư Tiềm Tôn Chu đều được bổ nhiệm làm quan biên hiệu sách ở Quán các. Việc biên hiệu sách ở Quán các bắt đầu từ đây. Ba quán và Bí các tổng cộng có tám chức vụ, chiếu chỉ quy định rằng những người đã làm việc được hai năm, nếu là tuyển nhân[41]hoặc kinh quan thì được bổ làm Hiệu khám ở Quán các, triều quan thì được bổ làm Hiệu lý. Vương Đào là người huyện Vạn Niên; Phó Biện là người huyện Cử; Tôn Chu là người quận Quảng Lăng.

(Triệu Ngạn Nhược đã từng được nhắc đến trong kỳ thi ứng chế, lúc đó mỗi quán có hai chức vụ, điều này căn cứ theo 《Hội yếu》, trong 《Hội yếu》 có tên của Thái thường bác sĩ Trần Chu, nhưng trong 《Thực lục》 lại không có. Xét theo 《Bản chí》 ghi: lại tuyển bốn người là kinh triều quan và châu huyện quan để biên hiệu sách, bốn người được nhắc đến chính là Vương, Triệu, Phó, Tôn, nay căn cứ theo 《Thực lục》, không ghi tên Trần Chu. Trong 《Hội yếu》 ghi Phó Biện được bổ làm biên hiệu vào ngày 18 tháng 8.)

[74] Ngày Quý Dậu, ban chiếu cho các lộ An phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, mỗi nơi cử ba người hiện đang giữ chức văn quan, có phẩm hạnh đôn hậu và tài năng chính sự, có thể được thăng chức; các quan viên từng giữ chức ở hai phủ trước đây được phép tiến cử quan lại trong và ngoài triều, nhưng những người đã giữ chức hoặc đang giữ chức ở hai phủ cùng thân thích của mình thì không được tiến cử.

[75] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu cho các lộ chuyển vận sứ rằng, nếu có lộ hoặc châu lân cận gặp thiên tai mà dám đóng cửa không bán thóc, thì sẽ bị xử tội vi phạm chế độ.

Trước đó, gián quan Ngô Cáp tâu rằng: “Thời Xuân Thu, các chư hầu tranh giành nhau, chiếm đất riêng, vốn không lo nghĩ đến dân chúng thiên hạ, nhưng các nước đồng minh vẫn có nghĩa cứu giúp nhau khi gặp hoạn nạn. Phàm thiên tai ở nước ngoài thì không ghi chép, nhưng năm thứ 11 đời Trang Công ghi nước Tống bị lụt lớn, năm thứ 18 đời Chiêu Công ghi nước Tống, Vệ, Trần, Trịnh gặp thiên tai, đều là thiên tai ở nước ngoài, sở dĩ ghi chép là vì nhận được tin báo, và cũng là để nói lên tình nghĩa giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn.

Lại như năm thứ 28 đời Trang Công, Tang Tôn Thần sang nước Tề xin mua thóc, trong văn tự nước Lỗ có ghi, dùng ngọc khuê và ngọc khánh sang Tề xin mua thóc rằng: ‘Xin dâng những vật dụng cũ của tiên quân, mong được mua thóc dự trữ, để giúp đỡ công việc.’ Người Tề trả lại ngọc và bán thóc cho. Năm thứ 15 đời Hi Công, Tấn hầu và Tần bá đánh nhau ở Hàn, bắt được Tấn hầu. Truyện chép: ‘Nước Tấn đói, nước Tần chở thóc đến cứu, nước Tần đói, nước Tấn đóng cửa không bán thóc, nên Tần bá đánh Tấn.’ Các chư hầu không có lệ ghi chép việc bắt được, nhưng kinh ghi là bắt được Tấn hầu, là để chê trách.

Thời Chiến Quốc, đạo vương suy yếu nhưng chưa dứt, chỉ cần có việc đóng cửa không bán thóc là bị Xuân Thu lên án. Bệ hạ ban ân huệ khắp muôn loài, xem dân như con đau, nhưng giữa các châu quận, quan lại chỉ lo cho dân mình, tự ý ra lệnh đóng cửa không bán thóc, một lộ đói thì lộ lân cận đóng cửa, một quận đói thì quận lân cận đóng cửa. Những người từ hai nghìn thạch trở lên, lẽ ra phải cùng vui buồn với nước, ban bố ân đức của chủ, nhưng lại ngồi nhìn dân chúng lưu lạc, còn tệ hơn thời Xuân Thu, há phải là ý của thánh triều nuôi dưỡng muôn dân sao!”

Vì thế mới có chiếu này.

[76] Ngày Mậu Dần, ban thưởng tiền cho binh lính tham gia xây dựng kinh thành mới và cũ.

[77] Đêm đó, nguyệt thực gần như toàn phần.

[78] Ngày Kỷ Mão, thả 214 cung nhân, tu sửa âm giáo để ứng phó với thiên biến. Theo 《Nhật ký》 của Tư Mã thị ghi: Tháng 6 ngày Kỷ Mão, do đêm trước xảy ra nguyệt thực, đã cho ra khỏi cung hơn 100 cung nữ[42] để ứng phó với thiên biến và tu sửa âm giáo. (Nhưng 《Thực lục》 lại ghi việc này vào ngày Tân Mão, e là sai, nay theo 《Nhật ký》.)

[79] Ngày Giáp Thân, ban tặng áo quần cho các binh lính làm việc tại các đê dọc sông Hoàng Hà, nếu ai muốn nhận tiền thì mỗi người được 500 đồng.

[80] Ngày Ất Dậu, ra chiếu chỉ cho Nội thị tỉnh, từ nay chọn những nội thần trên 50 tuổi không có lỗi lầm để quản lý các công việc trong cung.

[81] Ngày Kỷ Sửu, bãi bỏ 4 chức quan quản lý chuồng trại phía tây bắc của Ty Ngưu Dương. Việc này có thể tra cứu vào tháng 6 năm Thiên Hi thứ 4.

[82] Văn Tư phó sứ, Nội thị áp ban Cam Chiêu Cát được bổ nhiệm làm Nội thị hữu phó đô tri. Chiêu Cát là người Khai Phong, ban đầu giữ chức Nội điện sùng ban làm Đô tuần kiểm Kinh Đông lộ. Tiểu hiệu Vũ vệ châu Tề là Phùng Thản, dẫn hơn 100 binh lính đột nhập vào sảnh đường châu, định làm loạn. Chiêu Cát một mình cưỡi ngựa đến, dặn các tướng sĩ đi theo cầm vũ khí đợi bên ngoài, trước tiên một mình gặp bọn lính loạn, khuyên bảo họa phúc, bảo họ chỉ ra kẻ cầm đầu để chuộc tội, bọn chúng do dự không dám động. Sau đó, những người cầm vũ khí đều vào, cùng bắt hơn 10 người, báo rằng: “Đây là những kẻ xúi giục chúng tôi.”

Chiêu Cát lập tức giết họ, tha cho những người còn lại, châu nhờ đó mà yên ổn. Đặc cách thăng làm Cung bị khố phó sứ, mang theo khí giới của Vua. Sau đó, khi chức Nội thị áp ban khuyết, nhà Vua nhớ đến công lao trước đây của ông, đặc cách bổ nhiệm, rồi lại thăng làm Phó đô tri.

(Chiêu Cát lúc đầu làm Áp ban, không ghi rõ ngày tháng, nay phụ chép vào đây.)


  1. Chữ 'cổ' trong 'bất trúng cổ điển' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Biên niên cương mục》 quyển 16 bổ sung.
  2. Bắt đầu sai Hàn Giáng, Trần Húc, Lữ Cảnh Sơ đến Tam ty lập cục bàn việc bãi bỏ lệnh cấm buôn bán trà, xem: 《Biên niên cương mục》 quyển 16, 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-9, 《Tống sử》 quyển 184 Thực hóa chí, đều chép việc Hàn Giáng nhận lệnh lập cục bàn việc cấm trà vào tháng 9 năm Gia Hựu thứ 3.
  3. 390.000 quan, chữ 'thập' nguyên bản viết là 'thiên', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa.
  4. Chi phí vận chuyển hao tổn mất mát, chữ 'mĩ' nguyên bản viết là 'chi', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 184 Thực hóa chí sửa.
  5. Từ thời Đường Kiến Trung mới bắt đầu có lệnh cấm trà, chữ 'Trà' nguyên bản là 'Sát', căn cứ theo hai bản trên, các bản khác và sách trên, cùng với 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 30, mục 9 sửa lại.
  6. Gọi là tiền thuế: Theo chế độ nhà Tống, thuế trà, muối, rượu các nơi đều có định mức, gọi là 'Tổ ngạch'. Như 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 30, mục 7 chép lời Phạm Ung: 'Mười ba trường ở Hoài Nam và sáu cục mua bán trà đều có định mức thuế trà.' 《Thông khảo》 quyển 16, thiên Chinh giác khảo dẫn lời Trần thị ở Chỉ Trai: 'Ngày 4 tháng 5 năm Hàm Bình thứ 4, sắc lệnh các châu về việc nấu rượu, từ nay về sau lấy số tiền thu được trong một năm, rồi lấy số tiền trung bình trong ba năm từ Đoan Củng đến Thuần Hóa nguyên niên, định làm tổ ngạch, so sánh để xử phạt.' Nghi ngờ chỗ này 'Tô tiền' nên là 'Tổ tiền', nghĩa giống 'Tổ ngạch'.
  7. Lâm Tắc nguyên bản chép là 'Lâm Trại', theo 《Tống hội yếu》phương vực 20/16 và 《Vũ kinh tổng yếu》tiền tập quyển 17 sửa lại.
  8. Chiếu giữ lại các trại Trung Hậu, Bách Thắng thuộc phủ Châu, chữ 'trại' trên nguyên bản thừa chữ 'thanh', theo 《Tống hội yếu》 đã dẫn mà bỏ đi.
  9. các khanh tướng đều từ đây mà tiến thân, chữ 'Khanh' nguyên bản là 'Tức', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác sửa lại.
  10. Nguyên văn: 'Kì dĩ kiến hành đương tam đại đồng tiền, đại thiết tiền tịnh đương tiểu thiết tiền chi nhị'. Bản Tống và bản Tóm tắt của Tống không có ba chữ 'đại đồng tiền', có lẽ đúng là như vậy.
  11. Nguyên văn: 'Tức kế kì số thiếp chi'. Hai bản trên có thêm bốn chữ 'Thử cứ thật lục' ở cuối câu.
  12. Nguyên văn: 'Pháp ứng gia số truy nạp'. Chữ 'gia' nguyên là 'như', theo hai bản trên sửa lại.
  13. Chiếu thư ngày Đinh Sửu tháng 12 nhuận năm thứ ba, hai chữ 'Đinh Sửu' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào hai bản trên và quyển 188 năm Gia Hựu thứ ba tháng 12 nhuận ngày Đinh Sửu để bổ sung.
  14. 《Thực lục》 và bản truyện của Kinh đều không ghi chép việc này, chữ 'Vân' dưới 'Thực lục' vốn là thừa, theo bản các mà bỏ.
  15. Triều đình thì coi trọng danh tiết trước, chữ 'sĩ' nguyên bản là 'thượng', theo bản Tống toát yếu, các bản khác và sách 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 111, bài 'Luận Bao Chửng trừ Tam ty sứ thượng thư' mà sửa
  16. Để lay động thiên hạ mà khích lệ kẻ hư hỏng, những người gọi là có danh tiết, 18 chữ trên chữ 'giả' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách trên mà bổ sung
  17. cho rằng triều đình tham tài của Chửng 'cho' chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo hai bản trên và sách trên bổ sung.
  18. Cứ 100 tăng ni thì được độ một đệ tử mỗi năm, hai chữ 'đệ tử' ban đầu bị đảo ngược, căn cứ theo hai bản trên, các bản khác và văn dưới sửa lại cho đúng.
  19. Và các đệ tử ở chùa kinh sư không cần phải có người bảo lãnh nữa, chữ 'tăng' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu bổ sung.
  20. 'Đông' nguyên bản là 'Các', căn cứ theo hai bản trên mà sửa.
  21. 'Nhất' trong hai bản trên, các bản khác và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 hạ đều chép là 'Nhị', 《Tống sử》 quyển 190 Binh chí chép là 'Tam'.
  22. Xe ngựa, giáp binh đều lấy từ dân, 'Xe' nguyên bản là 'Quân', căn cứ theo ba bản khác sửa lại
  23. 'Sẽ' nguyên là 'thời', theo 《Đông Đô Sự Lược》 quyển 6 và 《Tống Sử》 quyển 119 Lễ chí sửa.
  24. thực đại cấp sự trung phong bác chi chức 'Phong bác' Nhị tự nguyên thoát, cứ biên niên cương mục quyển nhất lục bổ.
  25. chữ 'phản' nguyên bản là 'hựu', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa
  26. Nguyên bản thiếu một chữ 'nội', căn cứ theo bản Tống toát yếu và Tống hội yếu chức quan 36-11, Tống sử quyển 166 chức quan chí bổ sung.
  27. Câu 'trải qua ba nhiệm kỳ gần dân' khó hiểu, nghi ngờ chữ 'dân' bị thiếu sau chữ 'thân'.
  28. Nội thị tỉnh chuẩn bị rất nhiều vàng lụa, chữ 'nhiều' nguyên bản là 'tự', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại.
  29. Đồ dùng, chữ 'dụng' nguyên bản là 'huyết', theo ba bản trên sửa lại.
  30. Chữ 'giáng' bị thiếu, theo bản khác bổ sung
  31. Chữ 'Công' bị thiếu, theo bản khác bổ sung
  32. Đoạn trước đã ghi 'Tháng 6, ngày Quý Hợi mùng một', đoạn này và chú thích rõ ràng là thừa
  33. 27.000, bản Tống và bản tóm tắt Tống ghi là 17.000
  34. 'Nghi' nguyên là 'Nghị', căn cứ theo ba bản trên và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 hạ mà sửa.
  35. 'Lễ quan' hai chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản mà bổ sung.
  36. Bệ hạ đã không nhận huy hiệu hai mươi năm: chữ 'đã' nguyên bản thiếu, theo hai bản khác và 《Biên Niên Cương Mục》 quyển 16, 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 9 hạ bổ sung.
  37. Ý Trẫm cũng cho là nên như vậy: chữ 'nên' nguyên bản thiếu, theo hai bản khác và hai sách trên bổ sung.
  38. Phú Bật và đồng liêu dâng biểu năm lần: chữ 'và' nguyên bản thiếu, theo hai bản khác và 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 9 hạ bổ sung.
  39. Đánh giặc muốn ở Quân Châu: chữ 'Quân' trên nguyên bản thừa chữ 'xử', theo các bản khác và 《Tống Hội Yếu》 binh 11-26 bỏ.
  40. Đái Tiểu Bát: chữ 'bát' nguyên bản viết là 'nhân', theo 《Tống Hội Yếu》 binh 11-26 sửa.
  41. tuyển nhân, chữ 'nhân' nguyên bản là 'nhập', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác sửa lại
  42. 'nữ' nguyên bản viết là 'nhân', căn cứ theo ba bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.