"

IV. TỐNG NHÂN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 192: NĂM GIA HỰU THỨ 5 (CANH TÝ, 1060)

Từ tháng 7 năm Gia Hựu thứ 5 đời Vua Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Mậu Tý, phong Mỹ nhân họ Chu làm Tiệp dư. Hoàng nữ thứ 12 là con của Tiệp dư.

[2] Ngày Canh Dần, xuống chiếu rằng những người cung nộp từ hai vùng đất Hà Bắc mà vượt qua sông Hoàng Hà về phía nam sẽ bị xử tội vi phạm chế độ. Trước đây, các quan biên thần tâu rằng, theo điều luật cũ, những người cung nộp từ hai vùng đất nếu tự ý ra khỏi địa giới châu mình sẽ bị xử tội đồ, sau đó đổi thành xử trượng, nhưng lo ngại họ sẽ dần dần thâm nhập vào các châu quân phía nam để do thám, khó phân biệt được gian trá. Vì vậy, lại ban hành điều luật này.

[3] Ngày Tân Mão, xuống chiếu cho Tri Hứa Châu kiêm chức Kinh Tây Bắc Lộ An phủ sứ, Tri Đặng Châu kiêm chức Kinh Tây Nam Lộ An phủ sứ, lấy các châu quân Hứa, Trần, Trịnh, Hoạt, Mạnh, Thái, Nhữ, Dĩnh, Tín Dương thuộc Bắc Lộ, các châu quân Đặng, Tương, Tùy, Phòng, Kim, Đường, Quân, Dĩnh, Quang Hóa thuộc Nam Lộ, còn phủ Hà Nam thì không thuộc vào các bộ đó.

[4] Trước đây, tướng động Tây Bình Châu là Vi Huệ Chính che giấu và thu nạp những hộ dân chạy trốn từ Giao Chỉ, người man ở Giáp Động là Thân Chiếu Thái[1] dẫn quân đánh đuổi những kẻ chạy trốn, Đô Tuần kiểm Tống Sĩ Nghiêu cùng các tướng đem quân chống lại, tự ý tiến vào địa giới Giao Chỉ, chém giết và bắt sống nhiều người. Ngày hôm sau[2], Giao Chỉ cùng người man ở Giáp Động lại hợp binh đến xâm lấn, Sĩ Nghiêu và các tướng đều tử trận. Ngày Quý Tỵ, châu Ung tâu lên, xuống chiếu cho Tri Quảng Châu Tiêu Cố đến châu Ung điều động quân các quận, cùng với Chuyển vận sứ Tống Hàm, Đề điểm hình ngục Lý Sư Trung bàn bạc kế hoạch đánh úp.

[5] Ngày Giáp Ngọ, Hộ bộ Viên ngoại lang, Thiên Chương các Đãi chế, Tri Gián viện Đường Giới được bổ nhiệm làm Tri Kinh Nam, theo lời thỉnh cầu của Giới. Chiếu chỉ qua cửa Môn hạ, Tri Phong bác sự Hà Đàm phản đối, tâu rằng: “Giới là quan Gián, có công giúp triều đình, không nên điều ra ngoài.” Xuống chiếu cho Giới tiếp tục giữ chức Tri Gián viện như cũ.

[6] Ngày Bính Thân, ban chiếu rằng: “Các quan văn từ chức đãi chế trở lên và các quan đài gián, các quan võ từ chức thứ sử trở lên, mỗi người tiến cử ba người từ chức chư ty sứ đến tam ban sứ thần có tài năng chỉ huy và chiến đấu nơi trận mạc. Sau này dù có phạm lỗi khác, sẽ không bị liên đới trách nhiệm, nhưng nếu khi ra trận không đúng như lời tiến cử, sẽ bị trị tội.”

[7] Ngày Đinh Dậu, Ngô Kinh, người giữ chức Tri Tấn châu, Đô quan viên ngoại lang, bị truất ba chức, đày đến Thọ châu quản thúc; Bàng Nhữ Bật, người trước giữ chức Đề điểm Hà Đông hình ngục, Từ bộ lang trung, bị cách chức đặc biệt; Khấu Lợi Nhất, người cùng giữ chức Đề điểm hình ngục, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ, và Đoạn Ẩn, người trước cùng giữ chức Đề điểm hình ngục, Lễ tân phó sứ, đều bị thay thế. Trước đó, Ngô Kinh phạm tội tham ô của công, còn Bàng Nhữ Bật thường lấy nhiều lương thực từ nhà bếp của châu[3]; hơn nữa, Khấu Lợi Nhất thường tụ hội với Ngô Kinh, cũng từng nhận lụa bạc dùng cho công, nên đều bị trị tội. Ngô Kinh là em của Ngô Dục.

[8] Ngày Mậu Tuất, Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu cùng các quan dâng lên bộ 《Đường thư》 gồm 250 quyển đã biên soạn, các quan san tu và biên tu đều được thăng chức hoặc thêm chức vụ, lại được ban thưởng khí vật và tiền tệ khác nhau.

[9] Trứ tác tá lang Lưu Hi Tẩu làm chức Kiểm thảo ở Sùng Văn viện[4], chưa kịp vào tạ ơn thì bị ung nhọt ở lưng mà chết. Hi Tẩu có trí nhớ tốt, hiểu biết rộng, đặc biệt giỏi về thiên văn lịch pháp và thuật số. Năm Hoàng Hựu thứ 5, nhật thực ở sao Tâm, lúc đó Hồ Viện đúc chuông nhỏ mà thẳng, tiếng không vang; lại ở Thiểm Tây đúc tiền lớn, Hi Tẩu nói: “Đây gọi là hại kim tái hưng, cùng chiếm với Chu Cảnh Vương, bệ hạ sẽ mắc bệnh ở tim và bụng.” Năm sau quả nhiên Vua không khỏe. Lại có sao vào cung Thái Vi, ông nói: “Hậu cung sẽ có tang.” Sau đó Trương Quý phi qua đời. Năm Chí Hòa thứ nhất, nhật thực ở phương chính dương, sao khách xuất hiện ở sao Mão, ông nói: “Khiết Đan Tông Chân chắc chết chăng?” Những việc này đều ứng nghiệm. Hi Tẩu khi chưa bệnh, từng nói: “Ta đến mùa thu ắt chết.” Tự chọn đất bên cạnh mộ cha, chọn huyệt Canh, nói với vợ, sau đó chôn theo lời ông. “Bệnh tim”[5]đã thấy ở tháng 8 năm Gia Hựu thứ nhất, nhưng điều này không ngăn việc nhắc lại. Tông Chân đến tháng 8 năm Chí Hòa thứ hai mới chết, “sao khách xuất hiện ở sao Mão”[6]theo bản chí là việc năm Hoàng Hựu thứ 5.

[10] Ngày Tân Sửu, Kinh lược ty Quảng Tây tâu rằng, Giao Chỉ cùng người Di ở Giáp Động lại cướp phá trại Vĩnh Bình, xin triều đình phái 3000 quân giỏi dùng khiên ở Kinh Hồ Bắc lộ đến bản lộ. Triều đình đồng ý.

[11] Ngày Nhâm Dần, xuống chiếu cho các lộ Quảng Nam Đông, Tây cùng các chức An phủ, Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục xem xét các quan tri châu quân, đô giám, giám áp, trại chủ, tuần kiểm sứ thần trong bộ phận mình, ai già yếu không làm được việc thì lập tức chọn người thay thế rồi tâu lên.

[12] Điện trung thị ngự sử Lã Hối tâu: “Bốn lộ Thiểm Tây quản lý dân thục hộ, không dưới mười mấy vạn người. Từ khi dùng binh năm Bảo Nguyên đến nay, bị chết mất, mười người không còn bốn năm, sổ binh do đó bỏ không sửa chữa. Xin giao cho các quan suý thần của các lộ, chọn quan đi khắp tìm kiếm các bộ tộc phiên chưa quy phụ, thêm vào sổ cũ, thủ lĩnh của họ nên được thăng bổ, bộ tộc lớn thì thêm ruộng nhàn chia đều cấp cho.” Lại tâu: “Trước đây, quan phiên ở quân Bảo An là Hồ Thủ Trung làm phản bỏ trốn, tuy đã bắt từ biên giới phía tây về xử tử, nhưng có thể thấy tình hình bộ tộc phiên có lòng bất phục. Xin hạ lệnh cho các lộ lân cận xem xét các quan quân không làm tốt việc chiêu phủ, giáng chức trách phạt nặng.” Đều theo lời tâu.

[13] Ban đầu, trong thiên hạ còn nhiều ruộng bỏ hoang, dân ít ở cố định, hoặc bỏ ruộng đi lưu lạc làm dân nhàn. Từ đầu niên hiệu Thiên Thánh ban chiếu xá, liền ra chiếu cho dân lưu lạc tích tụ mười năm, ruộng của họ cho người khác cày, ba năm sau mới thu thuế, giảm một nửa mức cũ. Lại ra chiếu cho dân lưu lạc tự trở về, thuế cũng như vậy. Sau đó lại hẹn với dân lưu lạc, trong trăm ngày trở về làm ruộng, miễn thuế dịch năm năm, giảm thuế cũ tám phần mười; hết hạn không về, cho người khác được cày. Từ đó, mỗi khi ban chiếu xá, đều nói về việc chiêu tập dân lưu vong, chiêu mộ người khai khẩn. Dân bị thiên tai mà lưu lạc, lại ưu đãi miễn thuế, kéo dài thời hạn chiêu tập. Lại từng ra chiếu: “Các quan trưởng lại, lệnh tá ở châu huyện, nếu khuyên được dân sửa chữa lại ao hồ, kênh mương đã bỏ lâu, và khai khẩn ruộng hoang, tăng thuế được hai mươi vạn trở lên, bàn thưởng. Các giám ty nếu đốc thúc được quan lại trong bộ vạch kế hoạch, thưởng cũng như vậy.”

[14] Lâu ngày, dân số trong thiên hạ ngày càng đông, ruộng đất được khai khẩn thêm, chỉ có vùng đất hoang ở phía tây kinh thành thuộc các châu Đường, Đặng vẫn còn nhiều. Đặc biệt ở châu Đường, ruộng đất bỏ hoang rất nhiều, có đến tám chín phần mười là cỏ dại mọc um tùm. Có người xin di dân đến khai khẩn, có người xin đưa quân lính đến khẩn hoang, lại có người xin bãi bỏ châu này. Tri châu sự, Tỷ bộ Viên ngoại lang Triệu Thượng Khoan nói: “Đất Hoài An xưa nay vốn nổi tiếng là màu mỡ, nay ruộng đất lại hoang vu như vậy, ắt phải có lợi ích bị bỏ sót. Hơn nữa, đất hoang có thể khai khẩn thêm, dân ít có thể chiêu mộ thêm, sao phải bãi bỏ châu?” Ông bèn tra cứu sách vở, tìm được dấu tích cũ của Triệu Tín Thần, liền huy động thêm quân lính khôi phục ba hồ lớn và một con kênh lớn, đều có thể tưới tiêu cho hơn một vạn khoảnh ruộng. Lại dạy dân tự đào thêm mấy chục con kênh nhỏ, nối tiếp nhau tưới tiêu[7]. Dân chúng từ khắp nơi kéo đến đông như mây tụ, Thượng Khoan lại xin cấp đất hoang theo đầu người, và cho dân vay tiền quan để mua trâu. Qua ba năm, ruộng đất bỏ hoang đều trở nên màu mỡ, tăng thêm hơn một vạn hộ. Giám ty dâng tấu trình lên, Tam ty sứ Bao Chửng cũng tâu việc này. Ngày Bính Ngọ, Vua hạ chiếu cho Thượng Khoan lưu nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa. Thượng Khoan là con của An Nhân. 《Nhân Tông thực lục》 chép: Bao Chửng tâu rằng Thượng Khoan chiêu mộ được hơn một vạn hộ dân từ Hoài, Hồ, Hà Bắc. 《Bản chí》 chỉ chép hơn hai nghìn hộ, 《Anh Tông thực lục》 cũng giống 《Bản chí》. Nay theo 《Nhân Tông thực lục》 và bản truyện. Tháng giêng năm Trị Bình nguyên niên, Thượng Khoan được lưu nhiệm thêm.

[15] Ngày Canh Tuất, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm vui cùng với các bậc sĩ đại phu giữ gìn đức hạnh, làm sáng tỏ đạo nghĩa để dẫn dắt thiên hạ. Nhưng những người đang tại chức lại có những hành vi khác lạ, không tuân theo ý chỉ của Trẫm, hoặc có những lời nói nguy hiểm, hành động quỷ quyệt, cốt để làm kinh động mọi người, mưu cầu danh tiếng, lừa dối trên để cầu lấy ân sủng. Các quan bàn việc thì moi móc những điều kín đáo, không có phong cách trung hậu, khoan dung; bề ngoài làm việc công nhưng xét đến bản tâm thì thực chất là kết bè kết đảng để mưu lợi riêng, thật đáng ghét. Khiến cho phong tục của ta dần dần sa vào sự bạc bẽo, mà mong giáo hóa thành công, trị đạo vững vàng, há có được chăng! Sách 《Thư》 chẳng nói rằng: ‘Hãy diệt trừ những lời gièm pha, hành vi tàn ác, làm chấn động lòng người.’ Trung thư môn hạ hãy chọn lấy những người có đức tính ngay thẳng, chân thật, tiến cử lên triều đình; xét những kẻ dùng lời lẽ kích động, xảo trá thì đuổi bỏ đi. Hãy làm sáng tỏ lời Trẫm, để khuyến khích các bậc sĩ phu.”

Lúc đó, Ngự sử trung thừa Triệu Khải tâu rằng: “Những năm gần đây, giới sĩ phu phần nhiều có thói xảo quyệt, ganh đua hư danh, nên ban bố lời răn dạy.” Vì thế mới có chiếu này. Vương Xưng trong 《Đông Đô Sự Lược》 viết: “Chính sách hòa bình, thuần nhất được thi hành thì dân chúng sẽ có khí tượng tốt đẹp; con đường xảo quyệt, bạc bẽo mở ra thì dân chúng sẽ sinh ra những biến cố đau thương. Bởi vì phong hóa cảm động thiên hạ, giống như bóng với hình đi liền với nhau vậy. Ngự sử chấp pháp từng nói với Trẫm, nên ban chiếu sâu sắc cho các quan chấp sự[8], để ngăn chặn thói ganh đua hư danh. Nay lệnh cho Trung thư môn hạ, hãy chọn lấy những người ngay thẳng, trung thực, có thể làm gương mẫu cho phong tục, cùng tiến cử lên triều đình, để khai sáng tâm trí của Trẫm. Những kẻ dùng lời lẽ kích động, xảo trá, dám dính líu đến việc kết bè kết đảng, tất phải bị trừng phạt đuổi bỏ, mong rằng triều đình được trong sạch, mọi điều xấu xa tiêu tan, để đạt đến cảnh thái bình. Hỡi các quan có trách nhiệm, hãy tuân theo mệnh lệnh của Trẫm.”

[16] Ngày Nhâm Tý, sai Hàn lâm học sĩ Ngô Khuê, Hộ bộ phó sứ Ngô Trung Phục, Phán độ chi phán quan Vương An Thạch, Hữu chánh ngôn Vương Đào cùng bàn bạc về lợi hại của việc chăn nuôi ngựa rồi tâu lên. Lúc đó, chính sách về ngựa của quốc gia bị bỏ bê không thi hành, người bàn luận cho rằng cần phải có sự cải cách.

[17] Ngày Ất Mão, Quyền Ty thiên giám Chu Tông tâu: “Đêm mùng một tháng giêng năm nay, thấy sao băng xuất hiện ở phương Mão, Tất, sắc đỏ như lửa, nên đề phòng quân địch. Gần đây nghe nói Giao Chỉ cướp phá Quảng Nam, đó là ứng nghiệm của lời dự đoán.” Chiếu rằng: “Chu Tông vốn nói quân địch có biến, nay giặc nổi lên ở phương Nam, không ứng với lời ông ta, đặc biệt miễn tra xét. Từ nay không được tùy tiện dẫn chuyện tai ương, phúc lành để cầu ân huệ.”

[18] Từ khi Lý Trọng Xương bị giáng chức, các quan bàn luận đã lâu không bàn đến việc sông nữa, mà dòng sông chia nhánh ở đê thứ sáu của Ngụy, gọi là sông Nhị Cổ, rộng hai trăm thước. Từ sông Nhị Cổ chảy một trăm ba mươi dặm, đến địa phận Ngụy, Ân, Đức, Bác, gọi là Tứ Giới Thủ. Hà Bắc đô chuyển vận sứ Hàn Chí tâu: “Tứ Giới Thủ là nơi xưa kia sông lớn chảy qua, tức là chỗ sách 《Câu Dật Chí》 gọi là ‘vỡ đê Bình Nguyên, Kim Đê, thông sông lớn, chảy vào sông Đốc Mã[9], ra biển dài hơn năm trăm dặm’. Từ mùa xuân năm nay, dùng ba nghìn dân đinh đào vét, một tháng thì xong, dẫn nước nhánh sông chảy vào sông Kim, Xích Hà, sâu sáu thước. Sông Thương Hồ vỡ từ phía bắc Ngụy, chảy đến Ân, Ký, Can Ninh rồi ra biển. Nay sông Nhị Cổ từ Ngụy, Ân chảy về phía đông đến Đức, Thương rồi ra biển, chia làm hai nhánh, thì thượng lưu không bị tắc, có thể giảm bớt nạn vỡ đê.” Bèn dâng lên bản đồ sông Nhị Cổ ở Tứ Giới Thủ. Căn cứ vào bản chí, lúc này Hàn Chí chỉ vẽ hình thế sông Nhị Cổ, ban đầu không nói đến việc khởi công. 《Thực Lục》 lại chép: Từ mùa xuân năm nay, huy động ba nghìn dân phu, một tháng thì hoàn thành, giảm dòng chảy của sông lớn vào sông Kim, Xích Hà, sâu khoảng hơn sáu thước. Như 《Thực Lục》 chép, thì công trình đã hoàn thành, khác với bản chí. Lại tra 《Kê Cổ Lục》, mùa xuân năm nay Hàn Chí đào kênh Nhị Cổ, chia dòng sông chảy vào sông Kim, Xích Hà, giống với 《Thực Lục》. Nay văn bản theo bản chí, hơi sửa chữa, sự việc theo 《Thực Lục》.

Bản truyện của Hàn Chí chép: Sông Thương Hồ vỡ đê chảy về phía bắc đã hơn mười năm, các quan bàn muốn đắp đê cho chảy về phía đông trở lại. Sắp khởi công, Hàn Chí tâu: “Dòng chảy phía bắc đã ổn định, chi phí đã nhiều, nay đột ngột thay đổi, chưa chắc đã thành công. Chi bằng ở phía đông Đại Danh mở đê Kim Đê[10], để chia dòng chảy vào sông cũ, chia làm hai nhánh, có thể giảm bớt đại họa.” Triều đình sai sứ đi xem xét, xin làm theo kế sách đó. Huy động ba nghìn người, mấy tháng thì xong. 《Lã Hối Tập》 có bài “Tương Độ Hoàng Hà Trạng” chép việc này rất chi tiết, nay tham khảo thêm.

[19] Tháng 8, ngày Đinh Tị, mùng 1, Quan văn điện học sĩ, Lại bộ Thị lang Trình Kham được bổ nhiệm làm Tuyên huy Nam viện sứ, phán quản Diên Châu.

[20] Điện trung Thị ngự sử Lã Hối tâu rằng: “Kham tài năng kém cỏi, nhận thức mờ mịt, bề ngoài tỏ ra đôn hậu nhưng bên trong hiểm độc, kết giao với quyền quý, nhờ thế mà được thăng tiến, vì tư lợi mà lừa dối bề trên, ỷ thế làm oai. Huống chi tuổi đã quá 70, đáng lẽ phải về hưu. Gần đây bị cách chức ở Xu phủ, vì không có năng lực, nay lại giao quyền cai quản quân đội, sao có thể đảm đương được? Hơn nữa, theo lệ cũ của triều đình, chức Tuyên huy sứ không phải người có công lao hoặc thân thích thì không được bổ nhiệm. Xin thu hồi mệnh lệnh bổ nhiệm Kham.” Tri tạp Ngự sử Phạm Sư Đạo và các quan khác liên tiếp dâng sớ can ngăn, nhưng cuối cùng không được chấp thuận.

[21] Độ chi phán quan, Kim bộ Viên ngoại lang Tiết Hướng được cử làm quyền Thiểm Tây Chuyển vận Phó sứ kiêm Chế trí Giải diêm sứ[11]. Phạm Tường qua đời, nên lấy Hướng thay thế. Lúc đó, muối xanh của Tây Hạ bị buôn lậu rất nhiều, giá rẻ, trong khi muối giải do quan bán giá cao, nên muối không bán được. Đến khi Hướng nhậm chức, mới giảm giá để đẩy mạnh tiêu thụ. Hàng năm, ruộng muối phải điều động hàng nghìn phu để trồng muối, nhưng muối tích trữ đến 10 năm vẫn chưa bán hết. Hướng tâu xin giảm bớt số lượng, từ đó về sau việc này được thuận tiện. Bản chí chép: Tường qua đời, lấy Hướng kế nhiệm. Xét theo hành trạng của Tường, ông mất ngày 19 tháng 7 năm nay. Thực lục chép việc con cháu Tường vào tháng 11.

[22] Ngày Giáp Tí, Tiến sĩ Tô Tuân ở Mi Châu được bổ làm Thí Hiệu thư lang. Tuân năm 27 tuổi mới phát phẫn học hành, hơn một năm sau dự thi Tiến sĩ, lại dự thi Mậu tài dị đẳng, đều không đỗ, bèn đốt hết những bài văn thường làm, đóng cửa đọc sách, thông hiểu sáu kinh và các học thuyết của trăm nhà, viết văn nhanh chóng được hàng nghìn chữ. Năm Gia Hựu đầu, cùng hai con là Thức, Triệt đến kinh sư, Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu dâng lên 22 thiên sách 《Quyền thư》, 《Hoành luận》, 《Cơ sách》 do ông soạn, Tể tướng Hàn Kỳ khen ngợi. Vua triệu ông đến thi ở Xá nhân viện, ông lại lấy cớ bệnh từ chối. Chuyển vận sứ bản lộ là Triệu Biện đều tiến cử ông vì đức hạnh được suy tôn trong làng, Tu lại nói Tuân không chịu dự thi, xin ban cho một chức quan, nên có mệnh lệnh này.

[23] Ngày Ất Sửu, Lại bộ Lưu nội tuyển tâu: “Các châu thường thiếu 80-90 viên Mạc chức quan, không có người đủ tư cách bổ nhiệm. Xin hạ lệnh cho Tri tạp Ngự sử, Tam ty Phó sứ, Đãi chế trở lên, mỗi người tiến cử 2 người làm Lệnh, Lục, Phán, Ty, Chủ bạ, Úy, người có xuất thân qua 4 kỳ khảo xét, người không có xuất thân qua 5 kỳ khảo xét, không phạm tội tham nhũng, có 3 vị quan kinh tiến cử thì bổ nhiệm.” Chiếu chuẩn y. Tháng 4 năm Trị Bình thứ 3, bèn định thành lệnh.

[24] Châu Thiền tâu Lưu hậu Trấn Đồng quân Lý Đoan Ý mất. Vua đang yến tiệc trong cung, bèn ngừng nhạc, cấp cho nhà ông 300 lạng vàng, tặng chức Cảm Đức Tiết độ sứ, thụy là Lương Định. Em ông là Đoan Nguyện viện dẫn lệnh của Ngô Thủ Lễ con Thái quốc công chúa, xin tặng thêm chức Kiêm Thị trung.

[25] Ngày Nhâm Thân, chiếu rằng: “Buổi đầu quốc gia kế thừa sau thời Ngũ đại, sách vở tản mát, ba quán chỉ có vạn quyển sách. Sau đó bình định các nước, trước hết thu thập đồ thư, cũng từng sai sứ đi các nơi, nhiều lần hạ chiếu lệnh, tìm mua bản lạ, hiệu đính thiên mục, lúc rảnh việc chính sự không bỏ xem sách. Nhưng so với thời Khai Nguyên, sách vở thất lạc còn nhiều, nên tăng thưởng để khuyến khích dâng sách. Sĩ thứ trong ngoài đều được dâng sách còn thiếu ở các quán các, mỗi quyển được một tấm lụa, 500 quyển thì được bổ làm quan văn.”

[26] Ngày Quý Dậu, giáng chức Tri Hồng Châu, Quang lộc thiếu khanh Lưu Vĩ làm Tri Dĩnh Châu, vì Chuyển vận sứ Phùng Hạo và các quan khác tâu rằng gia nhân của Vĩ nhận hối lộ, lại để con trai buôn bán với dân. Trương Đường Anh cho rằng đây là lời tâu của quan đài, nay theo thực lục.

[27] Ngày Ất Hợi, Lại bộ thị lang, Tập hiền viện học sĩ Dư Tĩnh được cử làm Quảng Nam Tây lộ Thể lượng an phủ sứ, Như kinh sứ Giả Sư Hùng làm phó. Tĩnh đến Quảng Tây, gửi hịch sang Giao Chỉ, triệu tập bề tôi có quyền thế là Phí Gia Hựu đến trách hỏi. Gia Hựu đáp rằng do các bộ lạc gần biên giới xâm phạm lẫn nhau, vô tình xâm phạm quân triều đình, xin được xử lý nghiêm, trả lại những gì đã cướp và giao nộp tội nhân để chuộc tội. Tĩnh tin lời gian dối của hắn, hậu đãi rồi cho về. Gia Hựu về rồi, không xuất hiện nữa. Thần đạo bi chép rằng “liền giao năm người đến Khâm Châu, xử tử tại biên giới”, đây là lời nói khoa trương. Nay theo bản truyện.

[28] Ngày Canh Thìn, Hình bộ lang trung, Thiên chương các đãi chế kiêm Thị độc Tiền Tượng Tiên được cử làm Khiết Đan quốc mẫu sinh thần sứ, Tây nhiễm viện phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Hạ Vĩ làm phó; Thị ngự sử Trần Kinh làm Khiết Đan chủ sinh thần sứ, Đông đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Quách Ái làm phó; Diêm thiết phán quan, Hình bộ lang trung Diêm Tuân làm Khiết Đan quốc mẫu chánh đán sứ, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Lưu Hi làm phó; Độ chi phán quan, Từ bộ viên ngoại lang, Trực tập hiền viện Vương An Thạch làm Khiết Đan chánh đán sứ, Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Triệu Nguyên Trung làm phó. Sau đó, An Thạch từ chối đi sứ, nên đổi cử Hộ bộ phán quan, Binh bộ lang trung, Bí các hiệu lý Vương Dịch thay thế.

[29] Cơ quan khảo sát lợi hại về việc chăn nuôi ngựa do Ngô Khuê đứng đầu dâng tấu rằng: “Từ xưa đến nay, sự thịnh suy của ngựa quốc gia đều do việc bổ nhiệm người tài hay mất người tài mà thôi. Vùng Khiên, Vị xưa không phải không có chăn nuôi, nhưng chỉ có Phi Tử là người duy nhất có thể làm ngựa sinh sôi nảy nở dưới thời Chu; vùng Khiên, Lũng xưa không phải không có chăn nuôi, nhưng chỉ có Trương Vạn Tuế là người duy nhất có thể làm ngựa sinh sôi nảy nở dưới thời Đường. Đó là hiệu quả của việc dùng người tài đời trước. Tuy nhiên, dùng được người tài mà không để họ tại chức lâu dài, để họ tại chức lâu dài mà không giao quyền chuyên trách, giao quyền chuyên trách mà không áp dụng thưởng phạt, thì cũng không thể có thành tích.

Hiện nay, giá ngựa ở Thiểm Tây phần lớn do muối Giải cung cấp, số bạc và lụa mà Tam ty chi trả được phép đổi thành tiền tại Ty chuyển vận Thiểm Tây. Quyền Phó sứ Ty chuyển vận Tiết Hướng vừa nắm quyền quản lý muối Giải, lại kiêm quản tài chính Thiểm Tây, có thể giao phó toàn quyền sử dụng, lại cho phép chọn đất trống để lập trại nuôi ngựa. Được ngựa phương Tây mà không làm mất bản tính của chúng, đó là lợi ích thứ nhất; sử dụng đất chưa từng canh tác, không làm hại dân, đó là lợi ích thứ hai; dựa vào tài năng của Tiết Hướng, để ông tại chức lâu dài mà quản lý, đó là lợi ích thứ ba. Lại nữa, Hà Bắc có nạn đê điều và đầm lầy, đất đai phần lớn là đất mặn, nơi đóng quân của ngựa chiến, địa lợi không đủ, các trại nuôi ngựa phần lớn ở vùng này, ngựa cũng chưa từng sinh sôi. Nếu dựa vào Thiểm Tây để phát triển việc nuôi ngựa, thì các trại nuôi ngựa ở Hà Bắc có thể giữ lại, đổi ngựa xấu bằng ngựa tốt phương Tây; những trại có thể bãi bỏ, thì giao đất màu mỡ cho dân. Ở những nơi đất không đủ và không thích hợp cho ngựa, giao đất màu mỡ cho dân, thu thuế để hỗ trợ chi phí nuôi ngựa chiến; ở những nơi đất dư và thích hợp cho ngựa, dùng đất chưa canh tác để nuôi ngựa mà không làm hại dân, đó lại là lợi ích lớn hơn nữa. Nếu dùng Tiết Hướng, phàm việc bổ nhiệm quan lại hay cải cách tệ cũ, có công thì không tiếc thưởng, thất bại thì không ngại phạt, nhất định phải thực hiện.” Vua chấp thuận tấu chương.

[30] Ngày Giáp Thân, lệnh cho Hướng Chuyên phụ trách việc giám sát chăn nuôi và mua ngựa trong khu vực, đồng thời quy hoạch việc đặt trại chăn nuôi tại Nguyên Châu, Vị Châu[12]và quân Đức Thuận. Các chức sứ thần phụ trách việc chăn nuôi tại Sa Uyển Giám thuộc Đồng Châu và đất chăn nuôi tại phủ Phượng Tường đều được ủy thác cho Hướng Chuyên bảo cử và tâu lên.

[31] Mục sứ Âu Dương Tu tâu rằng:

[32] “Chế độ nuôi ngựa quốc gia được thiết lập từ thời tổ tông, trải qua nhiều năm tháng, quan lại đã không còn giữ được quy củ, tích tụ thành tệ nạn, không chỉ một thời. Thần trộm thấy chiếu thư, lệnh cho Khuê cùng các quan bàn bạc về lợi hại, sẽ có sự thay đổi. Thần cho rằng việc thiết lập các trại chăn nuôi, pháp chế vẫn còn đầy đủ, nhưng điều khoản quá nhiều, tệ nạn cũng không ít. Nếu chỉ ngồi xem xét sổ sách, rồi tăng giảm tùy tiện, e rằng không thể cải cách triệt để nguồn gốc của tệ nạn. Nếu muốn thay đổi lớn, thiết lập chế độ mới, thì mọi việc liên quan đến lợi hại đều khó mà đoán định từ xa. Bởi vì nếu kế hoạch ban đầu không tinh tế, thì việc thực hiện sau này cũng khó lâu bền. Xin hãy lệnh cho một quan chức phụ trách việc khảo sát, cùng thần trực tiếp kiểm tra các trại chăn nuôi ở hai bên tả hữu. Xem xét đất đai rộng hẹp, nguồn nước và cỏ tốt xấu, việc chăn nuôi theo mùa, sự cần cù hay lười biếng của quan lại và binh lính, đến cả giống đực cái, mỗi loại phù hợp với điều kiện nào, chuồng trại và giếng nước ấm lạnh ra sao, cái gì thuận lợi, cái gì không, trước đây vì sao mà ngựa hao hụt, nay làm thế nào để ngựa sinh sôi, cần nghiên cứu kỹ càng nguồn gốc, tham khảo ý kiến của mọi người. Sau đó, căn cứ vào những lời tâu xin gần đây của các quan[13], tham khảo và xử lý cẩn thận. So với việc ngồi đoán định từ xa rồi thay đổi vội vàng,

[33] Thần lại nghĩ rằng, chính sách về ngựa hiện nay đều theo chế độ nhà Đường, nhưng số lượng ngựa hiện nay nhiều ít khác với thời Đường, những lợi hại rất nhiều, không thể kể hết. Đến như đất chăn nuôi ngựa thời Đường, đều hợp với tính ngựa, phía tây bắt đầu từ Lũng Hữu, Kim Thành, Bình Lương, Thiên Thủy, ngoài đến vùng đồng bằng Hà Khúc, trong thì Kỳ, Bân[14], Kinh, Ninh, phía đông tiếp giáp Ngân, Hạ, lại phía đông đến Lâu Phiền, đó là đất nuôi ngựa thời Đường. Xét hiện nay, hoặc bị rơi vào tay rợ Di, hoặc đã thành ruộng dân, đều không thể lấy lại được. Chỉ nghe nói hiện nay ở vùng giữa Lam, Thạch thuộc Hà Đông lộ, núi hoang rất nhiều, và bên cạnh sông Phần, đồng cỏ cũng rộng, trong đó cỏ tốt nước ngọt, rất thích hợp nuôi ngựa, đó là đất Giám Lâu Phiền thời Đường, có thể lập một giám. Thần cho rằng theo dấu vết mà tìm, thì đất của ba giám Lâu Phiền, Nguyên Trì[15], Thiên Trì, hy vọng vẫn có thể tìm được.

[34] Lại nữa, thần năm trước phụng mệnh đi sứ Hà Đông, từng đi qua phía đông Uy Thắng đến Liêu Châu, Bình Định quân, thấy đất không cày cấy rất nhiều, mà Hà Đông một lộ, núi sâu sông hiểm, cỏ nước rất tốt, đất cao lạnh, ắt hợp với tính ngựa. Và ở vùng giữa Đường, Nhữ thuộc Kinh Tây lộ, đất hoang lâu ngày, số lượng rất lớn. Xin hạ lệnh cho Ty Chuyển Vận Sứ Hà Đông, Kinh Tây, cử quan đi tìm đồng cỏ có thể lập giám chăn nuôi, thì các giám ở Hà Bắc có đất không hợp với ngựa[16] có thể bãi bỏ.

[35] Đến như việc quản lý ngựa mua bán, lợi hại dễ thấy. Nếu nhà nước bỏ ra nhiều tiền của, thì ngựa được mua với giá cao, người đem ngựa đến sẽ nhiều; nếu các cơ quan tiết kiệm chi phí, thì các bộ tộc phiên thu được lợi ít, ngựa đến sẽ ngày càng ít. Tuy nhiên, phương pháp chiêu dụ không phải chỉ có một cách, xin cử một quan chức từ Quần mục ty hoặc Lễ tân viện đến biên giới để tìm hiểu lợi hại của việc mua ngựa từ các bộ tộc phiên, dựa vào ba điều này để tham khảo và bàn bạc, tránh vội vàng thay đổi.

[36] Triều đình hạ chiếu cho các quan xem xét việc chăn nuôi ngựa, Khuê và các quan xin làm theo lời tấu của Tu.

[37] Sau đó, triều đình ra chiếu chọn quan chức đi đến các giám ở Hà Bắc, Hà Nam, kiểm tra diện tích và chất lượng đất chăn nuôi, đợi khi có số liệu chính xác, sẽ cử một quan chức đi kiểm tra[17]. Còn việc ở Cổ mã ty Thiểm Tây, vẫn giao cho Hướng quy hoạch và báo cáo. Hướng bèn tâu: “Ngựa mua từ Tần châu đưa về kinh đô, tính cả giá trị và chi phí vận chuyển[18], mỗi con ngựa tốn hàng vạn tiền, nhưng ngựa nhập chỉ là loại trung bình, không thể có được ngựa tốt hạng nhất. Xin đặt trường mua bán ở Nguyên Châu, Vị Châu và Đức Thuận quân, dùng giải diêm giao dẫn để chiêu mộ thương nhân phiên bán rộng rãi tám nghìn con ngựa tốt, trong đó ba nghìn cấp cho quân kỵ binh biên giới, năm nghìn nhập vào Quần mục ty.” Triều đình đồng ý và ra chiếu theo đó.

[38] Năm sau, Hướng lại tâu: “Nguyên là châu Vị, quân Đức Thuận, thành Thủy Lạc và trại ngoài châu Tần, là nơi ngựa của các bộ tộc phiên qua lại. Nếu muốn xem xét kỹ lợi hại, nên để các quan chức hai lộ Kinh Nguyên, Tần Phượng cùng bàn bạc, để các bộ tộc tuân theo.” Năm sau nữa, Khuê và những người khác lại dâng lên bàn về lợi hại việc mua ngựa của Hướng: “Châu Tần, trại Cổ Vị, Vĩnh Ninh cùng châu Nguyên, quân Đức Thuận, nay đều đã đặt trường mua bán. Xin từ kinh sư mỗi năm cấp bốn vạn lạng bạc, bảy vạn năm nghìn tấm lụa để làm tiền mua ngựa. Bạc hai vạn lạng cùng lụa đều sung vào kho tiền biên giới, còn thiếu một vạn quan, xin dùng tiền giải diêm sao và các khoản chi tiêu khác để bù vào.” Chiếu đều thi hành. Hướng lại tâu và Khuê cùng những người khác dâng lên bàn luận của Hướng, bản chí cho là việc năm thứ sáu, thứ bảy, nay đều phụ vào đây.

[39] Ngày Ất Dậu, bãi bỏ chức Đồng đề điểm hình ngục sứ thần ở các lộ, đặt chức Chuyển vận phán quan ở các lộ Giang Nam Đông Tây, Kinh Hồ Nam Bắc, Quảng Nam Đông Tây, Phúc Kiến, Thành Đô, Tử, Lợi, Quỳ. Trước đây, các Đồng đề điểm hình ngục sứ thần có người lấy trộm đồ dùng bằng bạc của công và đồ trang sức của ca kỹ, người bàn luận cho rằng sứ thần phần nhiều không quen luật pháp, việc dân, không thể làm giám ty, nên bãi bỏ. Mười một lộ trước đây chỉ có một Chuyển vận sứ, đến nay mỗi lộ đều thêm chức Phán quan, lấy ba năm làm một nhiệm kỳ. Người làm Tri châu nhiệm kỳ thứ hai làm Phán quan đủ một nhiệm kỳ, thì cho làm Đề điểm hình ngục. Người làm Tri châu nhiệm kỳ đầu hoặc làm Thông phán nhiệm kỳ thứ hai làm Phán quan đủ hai nhiệm kỳ, cũng như vậy. Thực lục còn chép tên các Đồng đề hình ngục ở các lộ, cuối cùng nói: Phó sứ Văn Tư lộ Kinh Tây là Tào Hoảng đã mất, Phó sứ Tả Tàng Khố lộ Hà Đông là Khấu Lợi Nhất, Phó sứ Lễ Tân lộ Thiểm Tây là Đoàn Ẩn đều trước đây vì phạm tội bị bãi chức. Lợi Nhất và Ẩn bị bãi chức vì lý do gì, Tư Mã Quang trong《Ký văn》có ghi chép, nay theo《Ký văn》.

[40] Tháng 9, ngày Đinh Hợi mùng một, Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu kiêm Thị độc học sĩ, Khởi cư xá nhân, Tri chế cáo Lưu Xưởng được bổ nhiệm làm Hàn lâm Thị độc học sĩ, Tri Vĩnh Hưng quân. Trước đây, các quan ngự sử và gián quan đã hặc tội Lưu Xưởng vì việc soạn chiếu chỉ cách chức Lã Trân không công bằng, lại từng bàn về việc thờ phụng Quách hậu trong tông miếu, nói rằng: “Việc bãi truất hoàng hậu của bệ hạ là vì lo cho tông miếu xã tắc, không thể không làm như vậy”, điều này có ý khuyên Vua phế bỏ hoàng hậu. Tấu chương dâng lên nhiều lần, Lưu Xưởng không yên lòng. Nhân lúc Vĩnh Hưng thiếu người đứng đầu, ông xin đi nhậm chức, triều đình chấp thuận.

[41] Ngày Bính Thân, Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Lữ Công Bật được cử cùng xem xét việc định thuế đều.

[42] Ngày Mậu Tuất, ban chiếu cho Lộ Tử Châu: “Mùa xuân năm nay đói kém, mùa hè và mùa thu mưa dầm, những hộ dân nào kêu khổ vì thiên tai, lệnh cho Chuyển vận sứ nhanh chóng cử quan viên đi xem xét, miễn giảm thuế má, không cần kiểm tra lại.”

[43] Ngày Canh Tý, sai Trung sứ mang chiếu đến phủ dụ Tri phủ châu, Như kinh sứ, Khang Châu thứ sử Chiết Kế Tổ. Trước đây, Kế Tổ muốn từ chức, triều đình giao cho Hà Đông Kinh lược an phủ sứ Lương Thích xem xét. Thích tâu rằng: “Họ Chiết nhiều đời kế tập làm Tri phủ châu, bản tộc chỉ có hơn 300 người, nhưng quản lý rất nhiều bộ tộc phiên dọc biên giới. Mọi chi phí khao thưởng đều lấy từ bổng lộc, nhưng không đủ dùng, thường phải mượn trâu của các bộ tộc phiên để cày cấy ruộng hoang, lấy lợi tức thu hoạch hàng năm để trang trải chi phí công. Hơn nữa, triều đình cho họ kế tập, nên khác với các Tri châu trong nội địa. Những năm gần đây, các cơ quan giám sát cứng nhắc áp dụng điều lệ, khiến Kế Tổ không yên lòng, nên muốn từ chức. Xin triều đình an ủi và giữ lại.” Vì vậy, triều đình ban chiếu này.

[44] Ngày Tân Sửu, ban chiếu: “Các châu Tề, Đăng, Mật, Hoa, Bân, Diệu, Phu, Ráng, Nhuận, Vụ, Hải, Túc, Nhiêu, Hấp, Cát, Kiến, Đinh, Triều, tổng cộng 18 châu, đều là những nơi nhiều việc, từ nay lệnh cho Trung thư tuyển người làm Tri châu. Riêng Tri châu Triều Châu, giao cho Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục ty của bản lộ cùng tiến cử.”

[45] Hàn lâm Thị độc học sĩ, Cấp sự trung Dương An Quốc mất, được tặng chức Lễ bộ Thị lang. An Quốc giảng giải chủ yếu dựa vào chú sớ, không có phát minh gì khác, dẫn luận thô tục, đời sau có người truyền tụng để làm trò cười. Ông đặc biệt không thích sách vĩ, nhưng đối với sách vĩ được dẫn trong chú sớ thì lại tôn trọng ngang với kinh điển. Ông ở chức Kinh diên 27 năm, Vua khen ngợi ông có hành nghĩa thuần chất, so sánh với Thôi Tuân Độ đời trước.

[46] Ngày Nhâm Dần, Xu mật phó sứ Trương Biện được cử làm người biên tập văn tự cơ mật của viện.

[47] Ngày Canh Tuất, giáng Phụ mã đô uý, An Châu Quan sát sứ Lý Vĩ xuống làm Hòa Châu Phòng ngự sứ, vẫn cho giữ chức vụ bên ngoài. Vĩ không hòa hợp với công chúa, mẹ đẻ của Vĩ lại làm trái ý công chúa, công chúa ban đêm mở cửa Hoàng thành vào cung tố cáo, Vĩ hoảng sợ tự hặc tội, nên có mệnh lệnh này. Ngày hôm sau, miễn giáng chức, chỉ phạt 30 cân đồng[19], được ở lại kinh sư. Truyện của Ngô Cập chép: Cập làm Gián quan, bàn việc Nhập nội đô tri Nhậm Thủ Trung ức hiếp Phụ mã đô uý Lý Vĩ và can thiệp vào việc trong cung. Cần xem xét việc ức hiếp để bổ sung thêm.

[48] Ngày Quý Sửu, Hữu chánh ngôn Vương Đào[20] tâu: “Theo 《Chu Lễ》, Hôn nhân coi việc cấm cửa cung, quản lý việc đóng mở; Tự nhân coi việc lệnh trong cung nữ, kiểm soát việc ra vào, để giữ gìn nghiêm ngặt, ngăn chặn việc bất thường. Vì thế, Hán Quang Vũ đi săn đêm trở về, Thượng Đông Môn hầu Chí Uẩn đóng cửa không cho vào, Quang Vũ phải đi vào từ Trung Đông Môn, ngày hôm sau khen thưởng Chí Uẩn và giáng chức Trung Đông Môn hầu. Con của Ngụy Vũ là Lâm Truy hầu Thực mở cửa Tư Mã Môn ban ngày ra ngoài, Ngụy Vũ nổi giận, Công xa lệnh bị xử tử. Như vậy, công chúa về đêm, chưa phân biệt được thật giả, liền tâu lên, mở cửa cho vào, thẳng vào cấm trung, không hề kiểm soát, những Giám môn sứ thần trải qua Hoàng thành, cung điện nội ngoại, xin đều đưa đến Khai Phong phủ xét hỏi.” Tri gián viện Đường Giới, Điện trung Thị ngự sử Lã Hối cũng tâu như vậy, đều không được trả lời.

[49] Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Thìn, mùng một, ban chiếu rằng: “Từ nay, những người được tiến cử do ân điển để cải quan hoặc thăng chức sai khiển, nếu người được tiến cử phạm tội tham nhũng, trộm cắp mà được ân xá nhưng không được tha, thì người tiến cử cũng không được dùng ân xá để bàn luận.”

[50] Ngày Canh Thân, các quan Đô giám phủ đệ của Duyễn Quốc công chúa, gồm Lương Toàn Nhất và 8 người khác, đều bị điều đến những nơi xa xôi, nhỏ bé để giám sát công việc; Lương Hoài Cát, người phụ trách hầu hạ trong phủ, bị đày đến Tây Kinh làm việc quét dọn. Từ nay, không được đặt chức Đô giám, mà chọn 2 người trong số thái giám trên 40 tuổi và quan viên Tam ban viện trên 50 tuổi không có tội tư, để quản lý phủ đệ; chọn 2 thái giám dưới 50 tuổi làm người hầu hạ trong phủ, và không được ngồi cùng với Phò mã đô úy. Lúc này, các quan Ngự sử đài và Gián quan đều tâu rằng trong phủ đệ của công chúa có quá nhiều thái giám, và có người không giữ mình, nhưng Vua không muốn điều tra sâu tội lỗi của họ, chỉ giáng chức và đuổi đi, rồi giảm bớt số lượng và thay đổi quy chế. Đến ngày Quý Mão, tháng 2 năm thứ 7, Lương Hoài Cát lại bị bắt trở về cơ quan cũ, không rõ lúc nào được triệu hồi lại.

[51] Ngày Tân Dậu, các quan Tây Phiên là Mãng Bố và Trại Hương Bố, đều giữ chức Hữu Lĩnh quân.

[52] Ngày Giáp Tý, Điện trung thị ngự sử Lã Hối tâu: “Nhũ mẫu của Duyễn Quốc công chúa là Hàn thị, tước Xương Lê quận quân, thường ra vào cung cấm, nhờ công chúa tâu xin cho cháu rể là Vu Nhuận làm Hữu ban điện trực, quản lý đồ dùng và vật phẩm trong phủ đệ, nhưng lại đem trộm về nhà riêng. Xin giao cho Hữu ty điều tra.” Vua hạ chiếu giáng Vu Nhuận làm Hạ ban điện thị, tước bỏ tước quận quân của Hàn thị.

[53] Ngày Kỷ Tỵ, Dương Nghi, Từ bộ viên ngoại lang, Tri Kiến Xương quân, được miễn truy cứu chức vụ, chỉ điều đi làm việc giám sát. Trước đó, ở Kiến Xương, một người giàu có là Tăng Quân đánh chết người, vụ án chưa xét xử xong, Chuyển vận sứ Phùng Hạo giao cho quan địa phương là Thạch Lân điều tra, khiến hơn 10 người bị bắt và chết trong ngục. Dương Nghi bàn về việc này, bị kết tội khai báo không đúng sự thật, theo luật phải truất một chức, nhưng Vua đặc cách khoan hồng.

[54] Ngày Canh Thìn, Tri châu Đàm Châu là Vương Hãn tâu: “Khi ở Quảng Tây, thấy người man động Hỏa ở Ung Châu là Nùng Tông Đán tụ tập rất đông, lại nhiều lần ra cướp bóc, e rằng cuối cùng sẽ thành mối lo nơi biên giới. Xin hạ lệnh cho bản lộ thiết lập kế sách chiêu an.” Vua nghe theo. Xét theo 《Hội Yếu》 và chính sử, Tông Đán đã theo Tiêu Cố đầu hàng, việc này xảy ra năm thứ hai. Nay Vương Hãn lại nói việc này, cần xem xét lại. Lại xét theo truyện Vương Hãn, Hãn trước làm chức Tào Quảng Tây, thực sự đích thân chiêu hàng cha con Tông Đán, tháng 10 năm thứ ba mới từ Quảng Tây đổi làm Tri châu Đàm Châu, không rõ nay vì sao lại nói như vậy? Ắt có một chỗ sai. Hoặc là Hãn trước đã chiêu hàng, nay lại muốn dời vào trong, mà thực lục không ghi rõ chăng? Cần xem xét thêm.

[55] Tháng đó, châu Thâm Châu tâu rằng tằm dã kết kén, phủ khắp cánh đồng.

[56] Tháng 11, ngày Bính Tuất mùng một, Tri châu Quế Châu, Hình bộ lang trung, Tu soạn điện Tập Hiền là Tiêu Cố bị cách chức, giáng làm Tri châu Giang Châu. Tri châu Ung Châu, Tây thượng các môn sứ là Tiêu Chú bị giáng làm Dẫn tiến phó sứ, Kiềm hạt lộ Kinh Hồ Nam. Trước đó, các quan Đài gián đều tâu rằng Tiêu Cố và những người khác ở Quảng Tây làm nhiều việc phi pháp. Đến nay, do không xét việc sứ thần ở động Khê thuộc châu Tây Bình dưới quyền quản lý của trại ẩn giấu nhân khẩu từ ngoài giới, dẫn đến việc dẫn người đến giết hại quan binh, nên bị trách phạt và giáng chức.

[57] Ngày Đinh Hợi, Phòng ngự sứ châu Quân là Lý Tuân được làm Quan sát sứ châu Tương, Đoàn luyện sứ châu Đơn là Lưu Vĩnh Niên được làm Phòng ngự sứ châu Tề.

[58] Tri chế cáo Dương Điền phong hoàn tờ từ đầu của Tuân, Vĩnh Niên, bèn tâu rằng: “Theo chuyện cũ của tổ tông, Quách Tiến trấn giữ Tây Sơn, Đổng Tuân Hối, Diêu Nội Bân giữ Hoàn, Khánh, đối mặt với giặc mạnh hơn mười năm, chưa từng được ban ân chuyển chức hay dời trấn, đó là vì cẩn trọng với danh khí, phải đợi dẹp xong giặc, yên ổn biên cương, sau đó mới cho thăng chuyển. Nay Tuân chẳng có công lao gì, chỉ vì là ngoại thích mà được bổ nhiệm. Thần e rằng thiên hạ sẽ cho rằng bệ hạ coi thường lời dạy cẩn trọng danh khí của tổ tông, mở ra cánh cửa may mắn cho thân thích, vì tình riêng mà tùy tiện ban tước vương. Sau này nếu có công dẹp giặc, thì lấy chức gì để thưởng nữa? Vì thế thần không dám soạn chiếu.” Sau đó Vua hạ chiếu cho người khác soạn chiếu, nhưng Phạm Trấn tâu: “Nếu triều đình cho lời Dương Điền là đúng, nên bãi chức của Tuân; nếu cho là sai, xin cho người soạn chiếu ban đầu soạn lại.” Nội phê không cho. Sau đó Trấn lại tâu nữa, bèn bãi bỏ.

[59] Ngày Mậu Tý, cho cháu của Phạm Tường, nguyên là chế trí giải diêm sứ Thiểm Tây, Độ chi viên ngoại lang, là Cảnh làm Giao xã trai lang; con là Bảo, Thái miếu thất trưởng, đợi khi mãn tang sẽ được bổ nhiệm. Quyền Tam ty sứ Bao Chửng tâu rằng Tường có công kiến nghị thông suốt phép muối Thiểm Tây, thực hiện được mười năm, mỗi năm giảm được bốn trăm vạn tiền cho Giác hóa vụ, công lao đáng được ghi nhận.

[60] Như kinh sứ Giả Sư Hùng được lĩnh chức Khâm châu thứ sử, Tri Ung châu kiêm Quảng Nam Tây lộ An phủ đô giám. Sư Hùng từ chối, theo tấu nghị của Lã Hối, cần xem xét.

[61] Chiếu cho Khách tỉnh đông thượng các môn sứ, Anh châu đoàn luyện sứ Tào Giai dâng ngựa, không ban chiếu thư. Trước đó, Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu tâu: “Theo lệ cũ, dâng lễ vật ngày Càn Nguyên đều được ban chiếu khen ngợi, triều đình không quý vật phẩm, mà là để khen ngợi sự chăm chỉ của bề tôi. Nay Giai năm năm dâng biểu trống mà không có ngựa, tuy chưa trị tội, nhưng không nên ban chiếu nữa.” Vì thế bãi bỏ.

[62] Ngày Kỷ Sửu, Dương Quang Sai, người Man ở Khê Động, Thiệu Châu, được làm Tri châu Huy Châu. Quang Sai là con của Dương Thông Hán. Thông Hán từng vào triều cống vào đầu niên hiệu Khánh Lịch, sau khi chết, Quang Sai kế vị. Theo chế độ cũ, khi Tri châu Khê Động chết, người kế vị được phép tiến cống, làm việc châu, vỗ về người Man trong năm năm, An phủ ty sẽ tâu xin ban sắc cáo. Đến lúc này, Quang Sai đã làm việc châu được bảy năm, không có lỗi lầm gì, nên được bổ nhiệm.

[63] Ngày Tân Mão, ban chiếu rằng: “Các nội thần làm việc ở Câu đương Ngự dược viện, nếu đáng lẽ phải chuyển ra ngoài mà được đặc cách lưu lại, thì khi ra ngoài, tính số năm tháng lưu lại để thăng chức ưu đãi, không được tích lũy thứ tự thăng chức đã được chuyển[21]. Những người không phải làm việc ở Câu đương Ngự dược viện mà được lưu lại, khi ra ngoài cũng không được ban ân.” Trước đó, Ngự sử trung thừa Triệu Khải tâu rằng: “Có người làm việc ở Câu đương Ngự dược viện được thăng chức đến chức Dao lĩnh Đoàn luyện sứ, gọi là ám chuyển. Nếu không đặt ra quy chế riêng, e rằng việc lạm dụng ân trạch sẽ ngày càng không thể kiểm soát. Xin hạn chế số năm và rõ ràng trong việc thay đổi chức vụ.” Vì thế ban hành điều ước này.

[64] Điện trung Thị ngự sử Lã Hối từng tâu: “Gần đây bổ nhiệm Quản câu Ngự dược viện, Nhập nội Cung phụng quan Vương Bảo Tín, Vương Bảo Ninh, Đặng Bảo Thọ, Vương Thế Ninh bốn người làm Dao quận Đoàn luyện, Thứ sử, tin đồn lan truyền trong ngoài, khiến người nghe kinh hãi. Thần xin lấy chuyện cũ của triều đình mà nói, các hoạn quan cao phẩm ba mươi năm, Cung phụng quan mười năm mới được thăng chuyển một lần, là để không cho những kẻ này ngồi không hưởng lộc. Như năm Hàm Bình, Lạc Uyển sứ[22], Nhập nội Đô tri Tần Hàn cùng Lôi Hữu Chung dẹp loạn Vương Quân, nhờ công được thụ chức Nội viên sứ, Thứ sử châu Ân. Không biết Vương Bảo Tín lập được công lao gì mà được ban thưởng như Tần Hàn, chỉ là dựa vào lệ chuyển chức ngầm không tên tuổi. Thần khẩn thiết xin thu hồi mệnh lệnh đã ban, đặc cách cho họ thăng chuyển bình thường. Hiện biên cương đang nhiều việc, e rằng vì thế mà các nội thần không có công lại được thăng chức, những người cầm quân sẽ không chịu dốc sức. Dùng hạc để kéo xe, người nước Vệ không còn ý chí chiến đấu, đó là lời răn sâu sắc cho người trị quốc. Mong bệ hạ đừng vì tình riêng mà làm hại đến sự công bằng lớn nhất của thiên hạ, đó là nguyện vọng thiết tha của thần.” Tấu chương được giữ lại trong cung, không ban ra.

[65] Hối lại tâu: “Thần từng nghe trước đây, các cung các viên nội phẩm chỉ có khoảng một hai mươi người. Gần đây tăng lên gấp bội, ngoài lương bổng theo thân phận, còn xin thêm tiền lương từ các cung các, quần áo bốn mùa, lại chiếm dụng tiền lương từ Tam ty, lãng phí rất nhiều. Từ đó, các nơi như Thiên Chương các, Hậu uyển, Nội Đông môn, Ngự dược viện được ưu đãi nhất, hoặc do giám sát, đốc thúc công việc, chỉ cần có chút công lao nhỏ, liền được xem là có thành tích, được ban chỉ dụ, thăng chức vượt cấp, gọi là “ám chuyển“. Từ nội phẩm cung phụng, chỉ trong vài năm, được bổ làm chư ty sứ, kiêm nhiệm thứ sử, phòng ngự, đoàn luyện. Trước đây, những người như Thạch Toàn Dục, Hà Thừa Dụng, Lư Chiêu Tự, Trương Mậu Tắc, Phùng Thừa Dụng, tên tuổi rất nhiều, không thể kể hết. Đã được “ám chuyển“, lương bổng cũng tăng theo, việc thăng tiến bừa bãi như vậy không chỉ làm rối loạn điển chế triều trước, so với cổ nhân cũng chưa từng nghe.

Khi Bệ hạ mới lên ngôi, Thái hậu nhiếp chính, mệnh lệnh từ trong cung ra, uy quyền giao cho hoạn quan, ban sắc chỉ bất chính, trao chức cho kẻ không xứng đáng, nên triều đình bên ngoài ít được biết. Nghi ngờ rằng lệ “ám chuyển” bắt đầu từ đó. Đến sau niên hiệu Minh Đạo, Bệ hạ tự mình xử lý vạn cơ, nhưng tệ nạn của Bắc ty vẫn chưa được cải cách, sao nay lại để nó càng thịnh hơn trước? Tuy nhiên, mệnh lệnh ban ra từ nội tỉnh, việc thăng chức cũng liên quan đến Lưỡng phủ, từ trước đến nay, trên dưới đều giữ im lặng, lấy tước lộc của Bệ hạ làm ân huệ riêng, kết giao với quyền quý, nhờ đó mà leo lên địa vị cao, không ít người như vậy. Tệ nạn tích tụ lâu ngày, Bệ hạ không thể biết, làm hại công việc triều chính, không gì nghiêm trọng hơn. Dưới kinh thành, nhà cao cửa rộng, của cải chất đầy, giàu sang tột bậc, đều là của bọn nịnh thần. Lấy hết của cải trong kho, vắt kiệt mồ hôi xương máu của dân, để nuôi bọn vô công, có ích gì? Thần e rằng trời đất oán giận, không phải là phúc của triều đình.

Nếu như Bảo Tín và những người khác ra ngoài nhậm chức, lập được chút công lao, Bệ hạ sẽ ban cho họ chức vụ gì? Thần cho rằng việc tiên đế ban thưởng công lao dẹp giặc của Tần Hàn nên được giữ làm tiền lệ, thì lòng tham của tiểu nhân sẽ tự tiêu tan. Xin Bệ hạ ra lệnh cho Nội thị tỉnh kiểm tra số lượng người trong các cung các trước niên hiệu Bảo Nguyên, so sánh với hiện nay, nếu số lượng quá nhiều, thì giảm bớt. Và quy định số lượng người quản lý Thiên Chương các, Hậu uyển, Nội Đông môn, Ngự dược viện, hoặc cho họ thay đổi ba năm một lần. Đồng thời, lệnh cho Nội thị tỉnh ghi chép công tội trên sổ ấn chỉ, nếu có công lao được ban thưởng, cũng phải ghi ngay lập tức. Khi đến kỳ thăng chức, đem sổ giao cho Xu mật viện kiểm tra, nếu đủ tiêu chuẩn thưởng, thì lập tức thăng chức, giao Trung thư xuất cáo sắc. Như vậy, Nội thị tỉnh sẽ liên hệ với Xu mật viện và Trung thư, không dám che giấu, làm việc công bằng. Các khoản lương bổng “ám chuyển” và những gì không theo quy định, xin đều bãi bỏ, đồng thời thu hồi mệnh lệnh trước đây của Bảo Tín và những người khác, chỉ cho thăng chức bình thường. Để quan lại trong ngoài được thăng tiến đồng đều, thưởng phạt rõ ràng, thì thiên hạ sẽ được hưởng phúc lớn.”

Hối bàn việc Vương Thế Ninh cùng ba người khác được bí mật thuyên chuyển, không rõ thời gian. Bốn người này đều là ngự dược, 《Thực lục》 và 《Hội yếu》 đều không chép, nhân vì Triệu Khái có lời nói, nên chép phụ vào. Hối từng nói Vương Thế Ninh kết giao với Trần Thăng Chi, vậy việc Thế Ninh quản câu Ngự dược viện hẳn là trước khi Thăng Chi vào Xu mật viện. Khái nói “dao lĩnh đoàn luyện”, Hối nói “dao quận đoàn luyện, thứ sử”, ắt là cùng một việc, chép phụ sau Khái, hẳn không sai. Chỉ không rõ lời Hối nói có được nghe theo hay không, cần xét thêm. Lưu Bảo Tín cùng ba người khác xin được bổ nhiệm làm quan ngoài, vào trước ngày Ất Mão tháng 5 năm Gia Hựu thứ 8[23], có thể tham khảo.

[66] Ngày Tân Sửu, Tư mật sứ, Binh bộ Thượng thư, Đồng bình chương sự Tống Hạng bị cách chức, giáng làm Hà Dương Tam Thành Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, phán Trịnh Châu. Điện trung Thị ngự sử Lã Hối và các quan tâu rằng: “Tống Hạng già yếu, bệnh tật, đầu óc mê muội, lười biếng, khi tuyển dụng võ tướng thường làm rối loạn phép cũ. Thêm vào đó, bề ngoài tỏ ra khoan dung nhưng bên trong đố kỵ, gần đây trong việc nhà Lý Vỹ, đã tâu lên một cách tùy tiện về lệ sai ở Quân Châu, muốn hãm hại Lý Vỹ vào tội nặng, xu nịnh ý của công chúa. May nhờ hoàng thượng sáng suốt, không nghe theo lời ấy. Hơn nữa, ông ta còn kết giao với nội thần Vương Bảo Ninh, âm thầm tìm kiếm sự giúp đỡ. Gần đây, khi bổ nhiệm bốn người làm cung phụng ở Ngự dược viện kiêm nhiệm chức Đoàn luyện sứ, Thứ sử từ xa, Bảo Ninh là một trong số đó. Các quan lại ở Tam Ban viện được bổ nhiệm chức vụ vượt quá thời hạn quy định, nhưng ông ta không hề trừng phạt hay cảnh cáo. Những người trung tá ở Ngự tiền đáng lẽ phải bị loại bỏ, nhưng ông ta lại dung túng. Ông ta thường xuyên vì tư lợi mà bỏ qua công lý như vậy.” Tấu chương dâng lên bốn lần, Hữu ty Gián Triệu Biện cũng tâu rằng Tống Hạng bất tài, chiếu chỉ theo lễ ưu đãi mà cách chức ông ta. Trong thần đạo bi của Triệu Biện có ghi: “Tống Hạng tuyển dụng võ tướng phần lớn không theo phép cũ, đến nỗi có người kiện lên trước mặt hoàng thượng, Biện đã tâu rằng việc đó không thể chấp nhận được.”

[67] Lễ bộ Thị lang, Tham tri chính sự Tăng Công Lượng giữ nguyên chức vụ cũ, sung chức Tư mật sứ. Tư mật phó sứ, Hữu gián nghị đại phu Trương Biện, Lễ bộ Thị lang Tôn Biện cùng được bổ nhiệm làm Tham tri chính sự. Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc học sĩ, Lễ bộ Thị lang, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn Âu Dương Tu, Tư mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Trần Húc, Ngự sử trung thừa Triệu Khải cùng được bổ nhiệm làm Tư mật phó sứ, đồng thời phong Triệu Khải làm Lễ bộ Thị lang.

[68] Chiếu chỉ: “Từ nay về sau, nhà của các bề tôi không được phép xin chữ ngự bút để khắc trên bia thần đạo.”

[69] Kinh lược ty của Phu Diên lộ tâu: “Dọc biên giới, mười trại Đức Tĩnh và các nơi khác thường xuyên có ngựa giặc xâm nhập, khai khẩn đất hoang và cướp bóc gia súc. Mặc dù đã bố trí quân đồn trú để phòng thủ, nhưng họ vừa quen thuộc địa hình đường sá thì lại bị thay thế. Xin được chiêu mộ hai chỉ huy thổ binh ở mười trại này, dạy họ phương pháp cưỡi ngựa bắn cung, mỗi nơi để lại một trăm người đồn trú.” Triều đình đồng ý.

[70] Ngày Tân Hợi, Độ chi viên ngoại lang, Trực bí các, Phán độ chi câu viện Tư Mã Quang, cùng Độ chi phán quan, Từ bộ viên ngoại lang, Trực tập hiền viện Vương An Thạch cùng được cử làm Tu khởi cư chú. Tư Mã Quang từ chối năm lần rồi mới nhận, còn Vương An Thạch kiên quyết từ chối. Cuối cùng có chỉ dụ, sai quan lại Cáp môn mang sắc chỉ đến Tam ty trao cho, nhưng Vương An Thạch không nhận. Quan lại theo đó lạy, Vương An Thạch tránh vào trong. Quan lại đặt sắc chỉ lên bàn rồi đi, Vương An Thạch sai người đuổi theo trả lại, triều đình cuối cùng không thể ép được.

[71] Ty Kiềm hạt Giang Nam Tây lộ xin dời một viên Đô giám của bản lộ đến trú đóng tại Kiền Châu, đồng thời xin như các nơi Thăng, Hồng, Kinh, Đàm, chiêu mộ một chỉ huy Uy Quả để thuộc vào quân Cấm. Triều đình đồng ý.

[72] Ngày Nhâm Tý, Cung bị khố phó sứ Tang Thục được làm Lục trạch phó sứ, em trai là Tang Trạm được làm Tam ban tá chức. Trước đó, Tể tướng Hàn Kỳ tâu: “Tang Thục là con trưởng của Tang Dịch, vốn có tài năng và dũng cảm. Cha ông trước đây tử trận khi giao chiến với giặc phương Tây, em họ là Tang Trạm cùng ông đưa tang về chôn cất, Tang Thục cảm kích điều đó. Năm Hoàng Hựu thứ 5 nhân dịp đại lễ Giao, ông từng xin được ấm bổ cho Tang Trạm, nhưng triều đình cho rằng không có tiền lệ nên không chấp thuận. Sau đó nhân dịp lễ Cung tạ hợp hưởng, Tang Thục dù có con nhưng chưa từng tâu xin, vì nghĩa không thể đi trước Tang Trạm. Hơn nữa, Tang Thục đã đổi chức quan suốt mười năm mà chưa từng được khảo xét. Tang Thục là võ thần mà có chí hướng và tiết tháo như vậy, xin được ưu đãi và khen thưởng, đặc cách bổ nhiệm Tang Trạm một chức quan.” Chiếu chỉ cho Tang Thục đặc cách thăng chức, Tang Trạm đặc cách bổ làm tá chức.

[73] Chiếu chỉ cho Quảng Nam Tây lộ: “Từ nay, các châu Khâm, Liêm, Dung phải do An phủ, Kinh lược, Chuyển vận ty của bản lộ tiến cử người có chức vụ từ Nội điện sùng ban trở lên làm Tri châu, đồng thời kiêm chức Duyên biên khê động đô tuần kiểm sứ.”

[74] Tháng 12, ngày Đinh Tỵ, An tố xử sĩ Cao Dịch được bổ làm Quang lộc tự thừa rồi cho về hưu, nhưng Cao Dịch kiên quyết từ chối.

[75] Ngày Kỷ Mùi, Xu mật phó sứ Trần Húc tâu: “Thần cùng Triệu Khái cùng lúc được bổ nhiệm, Triệu Khái từ Hàn lâm thị độc học sĩ được làm Ngự sử trung thừa, thứ bậc vốn cao hơn, xin cho Triệu Khái đứng trên thần.” Triều đình đồng ý.

[76] Ngày Tân Dậu, ty Chuyển vận Quảng Tây tâu rằng giặc Man ở Giáp Động cướp phá châu Ung, chiếu cho An phủ sứ Dư Tĩnh đem quân đi đánh dẹp.

[77] Ngày Canh Ngọ, Ninh Quốc tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Đồng phán Đại Tông Chính sự, Bắc Hải quận vương Doãn Bật được bổ làm Vũ Ninh tiết độ sứ kiêm Thị trung; Phán Đại Tông Chính sự, Phụng Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Hoa Nguyên quận vương Doãn Lương được bổ làm Chương Tín tiết độ sứ kiêm Thị trung. Những người trong tông thất đổi chức quan đã được 10 năm đều được thăng chức theo thứ tự.

[78] Ngày Nhâm Thân, Hữu Vệ đại tướng quân, Kỳ Châu phòng ngự sứ, An Quốc công Tòng Cổ được quyền Đồng phán Đại Tông Chính sự. Vua khen Tòng Cổ có đức hạnh hiền lành nên dùng ông. 《Anh Lục》 năm Trị Bình thứ nhất, tháng 12, truyện Tòng Cổ chép: Nhà Mục Thân bị cháy, chỉ có Tòng Cổ bảo vệ được thần vị của tổ tiên, có chiếu khen ngợi. Nhân Tông thường khen ngợi đức hạnh của ông, nên cho quyền Đồng phán Đại Tông Chính sự. Vụ cháy nhà Mục Thân cần tra cứu lại năm tháng.

[79] Trước đây, Triệu Biện làm Chuyển vận sứ Thành Đô, từng tâu rằng: “Các châu trong bộ hạ, hàng năm có những kẻ lười biếng, bất hảo, lấy cớ cúng tế quỷ thần để vơ vét tiền của. Mỗi phường hẻm có đến 200, 300 người tụ tập, xưng hiệu tướng quân, tào lại, nha trực, cầm giáo đao, cờ xí, đội ngũ, lại có kẻ mặc áo đàn ông cho đàn bà, hoặc mặc áo đàn bà cho đàn ông, dẫn đầu bằng âm nhạc, trò chơi, đi lại suốt ba bốn đêm không dứt. Tuy đã có lệnh cấm, nhưng phong tục ở nơi xa đã lâu, sợ khó ngăn chặn ngay, xin đặt thành điều lệ.” Chiếu rằng thủ lĩnh phạm tội bị xử theo tội vi chế, lại phải đưa ra khỏi địa giới Xuyên[24], các ty Giám ti trong lộ này mỗi nửa năm phải thi hành một lần.

[80] Ngày Quý Dậu, Thái thường Lễ viện tâu: “Từ nay, các quan văn võ qua đời, theo phép được truy tặng thụy hiệu, thì Khảo công ty trước khi chôn cất phải lấy hành trạng, chuyển cho quan Lễ khảo định. Nếu nhà đó chôn cất nhanh, họp bàn không kịp, thì cho phép truy tặng. Những người có công đức, đã chôn cất mà chưa xin thụy hiệu, cũng cho phép xin chỉ.” Chiếu chuẩn.

[81] Ngày Mậu Dần, Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Lữ Công Bật được bổ nhiệm làm Long đồ các học sĩ, tri phủ Thành Đô. Khi Công Bật mới đến, mọi người nghi ngờ ông thiếu uy quyền và quyết đoán. Gặp lúc một binh sĩ phạm tội đáng bị đánh trượng, nhưng không chịu nhận, nói: “Thà xin chém đầu, chứ không chịu đánh trượng.” Công Bật nhiều lần khuyên bảo, nhưng binh sĩ vẫn không nghe, ông liền nói: “Đánh trượng là quốc pháp, không thể không chịu; còn chém đầu là điều ngươi xin, ta cũng không trái ý ngươi.” Rồi ra lệnh đánh trượng xong lại chém đầu. Quân đội từ đó nghiêm chỉnh.

[82] Ngày Kỷ Mão, Ty An phủ Quảng Tây tâu rằng người Man ở châu Tô Mậu cướp phá châu Ung.

[83] Ngày Canh Thìn, Quốc mẫu nước Khiết Đan sai Lâm nha, Hữu vệ Thượng tướng quân Gia Luật Đạo, Thái thường Thiếu khanh, Chiêu văn quán Trực học sĩ Sài Đức Tư; Khiết Đan sai Hoài Hóa quân Tiết độ sứ Gia Luật Hỗ, Khởi cư Xá nhân, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn Vương Đường đến chúc mừng ngày Chính đán.

[84] Các châu dâng biểu tâu có 11 người đàn ông trên 100 tuổi (theo 《Tống sử》 là 12 người, được bổ làm Trợ giáo ở châu). Ngày Tân Tỵ, tất cả đều được bổ làm Trợ giáo ở châu mình, theo lệnh ân xá trong lễ Hiệp hưởng.

[85] Trước đó, khi Lưu Xưởng, tri phủ Vĩnh Hưng, từ biệt triều đình, ông tâu rằng vùng Quan Trung năm nay mất mùa, dân chúng phần nhiều lưu lạc, xin mở kho phát chẩn. Ông cũng tâu rằng việc quân điền làm nhiễu loạn dân chúng. Vua ra lệnh cho ông từ từ tìm hiểu lợi hại rồi tâu lên.

[86] Khi Xưởng đến Vĩnh Hưng (Xưởng được bổ làm Thị độc, tri phủ Vĩnh Hưng vào ngày Đinh Hợi tháng 9, đến đầu tháng 12 mới nhậm chức, nay ghi chép sự việc này), ông dâng tấu: “Tôn Lâm ở phủ Hà Trung dùng phép phương điền để đo đạc và quân thuế, khiến dân chúng kinh hãi, ai nấy đều sợ thuế tăng, vì thế chặt phá cây dâu và cây chạ. May nhờ Chuyển vận sứ Tiết Hướng khắp nơi treo bảng cáo dụ, mới tạm yên. Nghe nói chỉ đo đạc huyện Vạn Tuyền đã gần một năm mới xong. Những người được giảm thuế thì vui mừng, còn những người bị tăng thuế tất nhiên oán hận, kiện tụng e rằng sẽ bắt đầu từ đây. Xin hãy triệu hồi Tôn Lâm, đợi đến năm được mùa, để sau khi bị thiên tai, dân chúng không bị kinh động.”

[87] Xưởng cho rằng Lâm dùng phép phương điền để đo đất, lấy một ngàn bước làm một phương, quy định phương hướng để đo, nếu thực sự kiểm tra kỹ lưỡng không sai sót, thì chỉ có thể biết được cao thấp của ruộng đất mà thôi. Còn về phép đánh thuế đều, dựa vào độ màu mỡ hay cằn cỗi của đất, những người chăm chỉ làm ruộng, tu sửa ruộng đất thì thuế nặng vẫn như cũ; còn những kẻ lười biếng không chịu làm ruộng khiến ruộng đất hoang hóa, cằn cỗi thì lại được giảm thuế. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào độ màu mỡ hay cằn cỗi của đất. Quan lại không liêm chính, sáng suốt, tâm ý không nhất quán, hoặc không thể hiểu hết việc ruộng đất, hoặc vì tư lợi mà thiên vị, trên không thể xem xét được. Vì vậy, tác hại của việc đánh thuế đều, ai cũng biết, chỉ có người chủ trì việc này thích cái danh mà thôi. Xưởng muốn đợi đến năm được mùa, vì ghét phải nói thẳng ra. Xưởng lại cho rằng việc đo đạc ruộng đất của Lâm bắt đầu từ Vạn Tuyền, Long Môn, hai huyện này đều là ruộng núi, gập ghềnh trong phạm vi hai ba trăm dặm. Nếu làm đúng như phép của Lâm, thì không thể hoàn thành trong một năm, nhưng Lâm đều hoàn thành và tâu lên trong vòng chưa đầy một tháng. Khi tờ tấu của Xưởng đến, Trung thư tin lời Lâm, liền báo lại cho Xưởng, chỉ ban sắc lệnh cấm dân không được phá hoại cây dâu và cây chạ mà thôi. Sau đó, dân Hà Trung quả nhiên kiện cáo việc giảm thuế ruộng không công bằng, tổng cộng mấy vạn hộ. Việc của Xưởng được ghi đầy đủ trong hành trạng và tấu nghị của ông.

[88] Âu Dương Tu cũng nói: “Khi thần làm quan gián, từng đầu tiên nói về việc đều thuế, xin cử Quách Tư, Tôn Lâm, được triều đình nghe theo lời thần, bắt đầu từ một huyện ở Thái Châu, dùng phép phương điền để đều thuế. Việc vừa thi hành, mà nhiều người bàn bạc cho là không tiện, liền bãi bỏ ngay. Gần đây thần thấy triều đình đặc biệt lập ra một ty đều thuế, sai quan đi khắp Hà Bắc, Thiểm Tây để đều thuế. Ban đầu nghe tin đồn ở Hà Bắc, dân chúng hoang mang, chặt phá cây dâu, cây táo, thần còn không tin. Sau đó thấy các châu quận Thiểm Tây có người dâng lời nói năm mất mùa, dân đói khổ, xin bãi bỏ việc đều thuế, thần mới hơi nghi ngờ việc này quả thật khó thực hiện. Nhưng ý triều đình quả quyết phải làm, những người bàn bạc không thể can ngăn được. Gần đây lại thấy dân chúng Hà Bắc, hàng nghìn người tụ tập kêu kiện ở Tam Ty. Như vậy, tin đồn trên đường và lời tâu của châu quận tuy không đáng tin, nhưng việc hàng nghìn người tụ tập ở kinh đô thì không thể che giấu được, tình hình dân chúng có thể biết rồi. Việc đều thuế vốn không phải để mưu lợi, mà là để tiện lợi cho dân, nhưng như thế này dân có thật sự được tiện lợi không?”

[89] Trộm biết triều đình vốn chỉ lấy số thuế hiện tại để định mức nhẹ nặng cho đều, ban đầu không bắt họ phải sinh thêm số ngoài định mức. Gần đây nghe nói Vệ châu, Thông Lợi quân khám xét ra ruộng đất dân lấn chiếm, không nằm trong số quản lý hiện tại[25], giảm bớt mức nặng chia đều cho hộ lấn chiếm, lại đặt ra số thuế mới để phân bổ, đây không phải là ý của triều đình, mà là lý do dân chúng kêu ca. Lại nghe nói các huyện ở Thiền châu ngoài số quản lý thực tế hiện nay, lấy số thuế từ xưa đến nay trong sổ sách, bao gồm số thuế có tên nhưng không nộp và số thuế bị bỏ sót không khai báo, đều là số ảo từ thời Tường Phù, Cảnh Đức trở về trước, cho đến thời Ngũ đại Trường Hưng, đều chia đều cho các hộ hiện nay. Lại nghe nói lấy độ màu mỡ của đất chia làm bốn bậc, ruộng hạng dưới có đất mặn trắng[26], cùng đất mặn cát mỏng có thể canh tác, đất cát chết không thể canh tác, đều chia đều thuế, cho rằng tuy không thể trồng trọt nhưng vẫn có thể nấu muối. Vả lại, dân Hà Bắc từ thời tổ tông đến nay được ban ơn, bỏ lệnh cấm muối, chỉ bắt nộp thuế theo cân lượng muối[27]. Nay người nấu muối đã nộp thuế muối, lại bắt nộp thêm thuế ruộng, há phải là ý của tổ tông ban ơn cho dân Hà Bắc sao! Lại nghe nói đất không thể canh tác ở Hà Nam thuộc khu vực cấm muối[28], cũng chia đều thuế, lại không biết dân lấy gì để nộp? Thiền châu, Vệ châu gần kinh sư, tình cờ nghe được như vậy, còn những nơi xa xôi, nói rằng việc chia đều thuế đều thuận lợi cho dân, há có được không! Từ đó thấy việc triều đình làm thật khó. Kẻ tiểu nhân nịnh bợ, chỉ nói lợi mà không nói hại; quan lại tầm thường tham công cầu thưởng, thấy lợi nhỏ quên hại lớn, vì nước mà tích oán với dân. Triều đình không biết thì thôi, nếu đã biết, há không cứu chữa sai lầm đó sao?

[90] Muốn xin Thánh từ đặc biệt ban chỉ huy, lệnh cho cơ quan đều thuế chỉ theo nghị định ban đầu của triều đình, lấy số thuế thực tế hiện có, cân nhắc mức độ nặng nhẹ để phân bổ đều, còn những số thuế mới đặt ra và số thuế hư từ nhiều năm trước thì miễn bỏ, và những nơi chưa phân bổ đều thuế thì tạm ngừng việc phân bổ. Việc phân bổ đều thuế này vốn là do thần trước đây đề xuất, nay nghe thấy việc có chỗ bất tiện, thần không dám im lặng. Âu Dương Tu nói không đúng thời điểm, nay ghi sau Lưu Xưởng, chắc là trước tháng 11 khi chưa nhậm chức Xu mật phó sứ. Hoặc có thể do Lưu Xưởng đối diện bàn luận việc này, Tu cũng dâng tấu, lúc đó đang làm Hàn lâm học sĩ, khoảng tháng 9, tháng 10.

[91] Năm đó, đặt chức Tam ty suy khám công sự một người, do quan kinh triều đảm nhiệm, phụ trách xét hỏi các công việc của các bộ. Việc này căn cứ theo sử chí hai triều, không rõ tháng nào, nay ghi vào cuối năm. Đến tháng 1 năm Trị Bình thứ 2 thì bãi bỏ. Tháng 11 năm Khai Bảo thứ 8 cần xem xét lại.

[92] Ty Ngưu Dương trước đây có Ty Tể Sát, năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 tách ra, đổi tên thành Ty Cung Bào. Năm đó, sáp nhập vào Ty Ngưu Dương, Ty Cung Bào bị bãi bỏ.


  1. Thân Chiếu Thái, chữ 'Thân' nguyên bản là 'Giáp', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 332, truyện Lý Sư Trung sửa lại.
  2. 'Ngày hôm sau', chữ 'nhật' nguyên bản là 'niên', căn cứ theo bản trên sửa lại.
  3. 'Châu' chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 65-1 bổ sung.
  4. Chữ 'viện' trong 'Sùng Văn viện kiểm thảo' nguyên bản là 'điện', căn cứ theo 《Đông Đô Sự Lược》 quyển 65 và 《Tống Sử》 quyển 432, truyện Lưu Hi Tẩu sửa lại.
  5. Bệnh tim này chỉ câu trong chính văn 'bệ hạ sẽ mắc bệnh ở tim và bụng', theo sách này quyển 183, ngày Ất Hợi tháng 8 năm Gia Hựu thứ nhất, viết là 'bệ hạ sẽ mắc bệnh huyễn hoặc', khác với chú thích này.
  6. Chữ 'Mão' trong 'sao khách xuất hiện ở sao Mão' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống và bản các bổ sung.
  7. chữ 'tương' trong 'chuyển tương tẩm quán' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 hạ, 《Tống sử》 quyển 426 truyện Triệu Thượng Khoan để bổ sung
  8. Nên ban chiếu sâu sắc cho các quan chấp sự: 'Chiếu', các bản khác chép là 'Giới'.
  9. Chữ 'Mã' trong 'Đốc Mã Hà' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Hán Thư》 quyển 29 《Câu Dật Chí》 và 《Tống Sử》 quyển 91 《Hà Cừ Chí》 bổ sung.
  10. Nguyên bản chép 'Đại Minh', căn cứ vào 《Tống Sử》 quyển 86 《Địa Lý Chí》, 'Đại Danh phủ, Ngụy quận'. 《Tống Sử》 quyển 331 truyện Hàn Chí chép: 'Chi bằng mở đê Kim Đê ở Ngụy để chia dòng chảy vào sông cũ'. Vậy 'Đại Minh' là do âm giống với 'Đại Danh' nên viết nhầm, nên sửa lại.
  11. Chữ 'phó' trong 'Tiết Hướng quyền Thiểm Tây Chuyển vận Phó sứ' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào 《Tống hội yếu》 binh 22-4, 《Đông đô sự lược》 quyển 82, truyện Tiết Hướng và 《Tống sử》 quyển 181, Thực hóa chí để bổ sung.
  12. Chữ 'Châu' trong 'Vị Châu' nguyên bản là 'Xuyên', căn cứ theo bản Tống và 《Biên niên cương mục》 quyển 16, 《Tống hội yếu》 dẫn trên, cùng 《Tống sử》 quyển 198, phần Binh chí sửa lại.
  13. Chữ 'tỷ' trong câu 'Nhiên hậu dĩ tỷ nhật thần liêu tấu thỉnh' nguyên bản là 'thử', căn cứ theo bản Tống và các bản khác sửa lại.
  14. Bân 'Bân' nguyên là 'U', theo bản Tống và 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 112 《Luận Giám Mục Trát Tử》, 《Tống Sử》 quyển 198 《Binh Chí》 sửa lại.
  15. Nguyên Trì 'Trì' nguyên là 'Địa', theo 《Tân Đường Thư》 quyển 5 《Binh Chí》, 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 112 《Luận Giám Mục Trát Tử》, 《Mã Đoan Lâm Văn Hiến Thông Khảo》 quyển 151 《Binh Khảo》 và 《Tống Sử》 quyển 198 《Binh Chí》 sửa lại.
  16. Thì các giám ở Hà Bắc có đất không hợp với ngựa 'Đất' dưới nguyên có chữ 'có', theo bản Tống và 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 dẫn trên, 《Biên Niên Cương Mục》 quyển 16, 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 9 hạ bỏ.
  17. Cử một quan chức đi kiểm tra 'một', bản các làm 'hai'.
  18. Tính cả giá trị và chi phí vận chuyển 'giá trị' nguyên bản là 'trí', căn cứ vào bản Tống và Tống hội yếu binh 22.5, Tống sử quyển 198 binh chí sửa.
  19. 30 cân, bản Tống chép là '20 cân'.
  20. Hữu chánh ngôn Vương Đào, chữ 'chính' nguyên bản chép là 'vương', theo bản Tống, các bản khác sửa lại.
  21. chữ 'kí' nguyên là 'kế', theo Tống bản, các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 19-13, 《Biên niên cương mục》 quyển 16, 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 hạ sửa lại
  22. Lạc Uyển sứ, chữ 'Lạc' nguyên bản là 'Cung', căn cứ theo hai bản trên và 《Tống sử》 quyển 466, 《Tần Hàn truyện》 sửa lại.
  23. Trước ngày Ất Mão tháng 5 năm Gia Hựu thứ 8: Xem quyển 198 sách này, tháng 5 năm Gia Hựu thứ 8 không có ngày Ất Mão, ngày Quý Mão có chép việc Thạch Toàn Dục lĩnh chức Nguyên Châu đoàn luyện sứ sung chức Nhập nội phó đô tri, nghi ngờ 'Ất Mão' là nhầm với 'Quý Mão'.
  24. 'Xuyên' nguyên là 'Châu', theo Tống bản, Các bản sửa.
  25. 'quản lý' nguyên là 'quyền', theo hai bản trên sửa lại. Dưới đây cũng vậy.
  26. 'mặn trắng' nguyên là 'giảm', theo 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 113 《Luận Quân Thuế Tráp Tử》 sửa lại.
  27. 'bắt' nguyên là 'nay', theo sách trên sửa lại.
  28. 'cấm' nguyên là 'gần', theo bản các và sách trên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.