IV. TỐNG NHÂN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 195: NĂM GIA HỰU THỨ 6 (TÂN SỬU, 1061)
Từ tháng 8 nhuận năm Gia Hựu thứ 6 đời Nhân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 8 nhuận, ngày Ất Dậu, lại đặt Thành Đô phủ làm Tiết độ sứ Kiếm Nam Tây Xuyên.
[2] Ngày Kỷ Sửu, sai quan cầu tạnh mưa.
[3] Hộ bộ Lang trung, Tri chế cáo Trương Côi làm sứ sinh thần của mẹ Vua nước Khiết Đan, Như kinh sứ Chu Khắc Minh làm phó; Độ chi Phán quan, Hình bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lí Tống Mẫn Cầu làm sứ sinh thần của nước Khiết Đan, Tây nhiễm viện Phó sứ, Cáp môn Thông sự Xá nhân Trương Sơn Phủ làm phó; Ty phong Lang trung Dương Tá làm sứ chánh đán của mẹ Vua nước Khiết Đan, Cung bị khố Phó sứ Lý Tông làm phó; Diêm thiết Phán quan, Độ chi Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lí Vương Ích Nhu làm sứ chánh đán của nước Khiết Đan, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Vương Uyên làm phó.
[4] Ngày Tân Mão, xuống chiếu tu sửa miếu Bắc Nhạc ở Định châu.
[5] Ngày Nhâm Thìn, vì mưa lâu ngày, ban cho các quân đặc chi tiền củi.
[6] Ngày Giáp Ngọ, Hàn lâm Học sĩ Hồ Túc, Long đồ các Trực học sĩ Dương Điền, Ngự sử Trung thừa Vương Trù, Thị ngự sử Tri tạp sự Vương Xước cùng khảo xét thành tích của các Chuyển vận sứ, Phó sứ và Đề điểm hình ngục các lộ.
[7] Ngày Đinh Dậu, sai quan tạ ơn trời tạnh.
[8] Giáng Long đồ các Trực học sĩ, Hữu Gián nghị Đại phu, Tri Doanh châu Vương Chí xuống làm Lại bộ Lang trung, Tri Trì châu, vì tội bảo lãnh sai lầm.
[9] Đổi Tri Bạc châu, Hình bộ Lang trung, Trực sử quán Lý Huy Chi làm Chế trí Phát vận sứ Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ. Sau đó, các quan Đài viện nói rằng Huy Chi trước đây từng làm Chế trí Phát vận sứ, vì phạm tội bị cách chức, không nên bổ nhiệm lại, liền đổi mệnh cho Huy Chi làm Trực Long đồ các, Tri Hà Dương.
Hà Bắc Chuyển vận sứ, Ty huân Lang trung, Trực sử quán Lý Túc Chi[1] làm Chế trí Phát vận sứ.
[10] Ngày Canh Tý, Hàn Kỳ, Công bộ Thượng thư, Bình chương sự, Tập Hiền điện Đại học sĩ, được gia phong làm Chiêu Văn quán Đại học sĩ, Giám tu Quốc sử; Tăng Công Lượng, Xu mật sứ, Lễ bộ Thị lang, được bổ nhiệm làm Lại bộ Thị lang, Bình chương sự, Tập Hiền điện Đại học sĩ; Trương Côi, Hữu Gián nghị Đại phu, Tham tri Chính sự, được bổ nhiệm làm Công bộ Thị lang, gia phong Kiểm hiệu Thái phó, sung chức Xu mật sứ.
[11] Vua đã đồng ý cho Phú Bật để tang đủ ba năm, nên thăng Hàn Kỳ lên làm Thủ tướng. Có người nói với Hàn Kỳ: “Khi Phú công mãn tang, sẽ trở lại chức vị cũ, ngài sao không từ chối chức Chiêu Văn để đợi Phú công?” Hàn Kỳ đáp: “Chức vị này làm sao có thể giữ mãi! Đến khi Phú công mãn tang, ta đã ở đâu rồi? Nếu từ chối Chiêu Văn để đợi Phú công, tức là ta muốn giữ mãi chức vị này, khiến ta lấy lý do gì để tâu lên Vua?” Người nghe cũng cho lời Hàn Kỳ là phải. Đoạn này căn cứ theo 《Ký văn》, có thể chuyển đến khi Phú Bật nhận chức Xu mật sứ.
[12] Ngày Tân Sửu, Tham tri Chính sự Tôn Biện, Xu mật phó sứ Âu Dương Tu, Triệu Khái, Bao Chửng đều được thăng một bậc, đồng thời cải bổ Âu Dương Tu làm Tham tri Chính sự. Hồ Túc, Hàn lâm Học sĩ kiêm Đoan Minh điện Học sĩ, Hàn lâm Thị độc Học sĩ, Tả ty Lang trung, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn, được bổ nhiệm làm Tả Gián nghị Đại phu, Xu mật phó sứ.
[13] Hồ Túc vốn cẩn trọng, khi đảm nhận trọng trách, càng chú trọng giữ gìn đại thể. Các quan đang đề xuất cải cách, nhiều việc thay đổi để sửa chữa tệ nạn cũ, riêng Hồ Túc không thích, nói: “Biến pháp là điều khó đối với người xưa, không chú trọng giữ gìn phép tắc của tổ tông mà chỉ rối rít, chẳng có ích gì cho việc trị nước.”
[14] Ngày Giáp Thìn, Tham tri Chính sự Tôn Biện, Âu Dương Tu, Xu mật phó sứ Triệu Khái, Bao Chửng đều dâng biểu từ chối chức vụ mới, Vua đồng ý.
[15] Ngày Ất Tỵ, Vua ban chiếu cấp một nửa bổng lộc hàng tháng cho cựu Tể tướng Phú Bật, nhưng Phú Bật kiên quyết từ chối không nhận.
[16] Ngày Bính Ngọ, Hoàng nữ thứ mười ba qua đời, được truy tặng làm Sở quốc Công chúa, mới sinh được sáu mươi mốt ngày.
[17] Ngày Đinh Mùi, Tư Mã Quang tấu: “Thần trước đây làm thông phán ở Tịnh Châu, từng ba lần dâng chương xin bệ hạ sớm định người kế tự[2] để ngăn chặn mầm loạn. Lúc đó, thần ở xa ngoài biên cương, vẫn không dám giấu giếm lòng trung, liều chết nhiều lần trình bày kế sách quan trọng cho xã tắc, huống chi nay được hầu cận bên cạnh bệ hạ, giữ chức vụ lấy việc can gián làm trách nhiệm! Thần nghĩ, việc lớn và cấp bách nhất của quốc gia không gì quan trọng hơn việc này. Nếu bỏ qua mà không nói, chỉ chuyên lo những việc vụn vặt, làm phiền thánh thính, che lấp chức trách, thì thần là kẻ mang lòng gian phụng sự bệ hạ, tội đáng bị xử trảm. Thần mong bệ hạ xem xét lại ba chương thần từng dâng, nếu có chỗ nào đáng lấy, xin bệ hạ quyết đoán, sớm ban hành. Như vậy thì trời đất thần linh, tông miếu xã tắc, quần thần trăm họ đều được hưởng phúc, chỉ cần bệ hạ một lời mà thôi.”
[18] Tư Mã Quang soạn xong trát tử, lại xin được gặp mặt tâu trình. Bấy giờ, hoàng đế thường im lặng, dù các quan chấp chính tấu sự, cũng chỉ gật đầu đồng ý. Nghe lời Tư Mã Quang, hoàng đế trầm tư hồi lâu, rồi nói: “Có phải khanh muốn chọn người trong tông thất làm người kế tự không? Đây là lời của bề tôi trung thành, nhưng người ta không dám đề cập đến.” Tư Mã Quang đáp: “Thần nói điều này, tự nghĩ chắc sẽ chết, không ngờ bệ hạ lại chấp nhận.” Hoàng đế nói: “Việc này có hại gì! Xưa nay đều có cả.” Rồi sai Tư Mã Quang đem lời tâu giao cho Trung thư. Tư Mã Quang nói: “Không được, xin bệ hạ tự ý dụ bảo tể tướng.” Hôm đó, Tư Mã Quang lại tâu việc giặc cướp muối ở Giang Hoài, rồi đến Trung thư trình bày. Tể tướng Hàn Kỳ hỏi Tư Mã Quang: “Hôm nay ngài lại tâu việc gì?” Tư Mã Quang nghĩ thầm, đây là việc lớn, không thể không để Hàn Kỳ biết, muốn mở rộng ý của hoàng đế, liền nói: “Là việc lớn của tông miếu xã tắc.” Hàn Kỳ hiểu ý, không nói gì thêm.
[19] Chiếu cho các chuyển vận sứ phó và đề điểm hình ngục: “Mỗi năm cuối, định rõ một người trong bộ hạ làm tri châu quân có năng lực hoặc kém cỏi nổi bật để xếp loại ưu liệt. Nếu liên tiếp hai kỳ khảo sát đều ở loại ưu hoặc liệt, thì tâu lên, sẽ bàn việc thi hành thưởng phạt đặc biệt.” Việc này căn cứ theo lời tâu của Khảo khóa viện vào ngày 18 tháng 12 năm Trị Bình thứ 4, được ghi chép thêm vào cuối tháng 8 nhuận năm thứ 6.
[20] Tháng 9, ngày Quý Sửu, chiếu cho Tam ty: “Nghe nói vụ mùa thu ở Hà Bắc được mùa lớn, hãy xuất 1 triệu quan tiền từ kho Nội tàng để giúp mua lương thực dự trữ quân sự[3].”
[21] Ngày Giáp Dần, chiếu rằng chuyển vận phán quan có vị trí cao hơn thông phán và binh mã đô giám của bản lộ, còn tri châu thì xếp theo thứ tự quan chức.
[22] Ngày Bính Thìn, Từ châu phòng ngự sứ Thừa Lượng được làm Minh châu quan sát sứ, vẫn phong làm Xương quốc công. Theo lệ cũ, người lớn tuổi nhất trong hoàng tộc của mỗi cung được phong quốc công, nếu qua đời thì người kế tiếp được phong. Đến lúc này, Từ quốc công, tặng An Định Hòa Ý vương Thừa Giản qua đời, mà Thừa Lượng là người lớn tuổi nhất trong hàng con cháu của Tần Điệu Vương, nên được phong. Thừa Lượng là con của Đức Ung.
[23] Ngày Nhâm Tuất, tri gián viện Dương Điền, Tư Mã Quang tâu: “Theo lệ cũ, khi bề tôi lên điện tâu việc, đều phải đuổi hết tả hữu, nội thần không được đứng cách xa ngự tọa quá vài bước, lời đối đáp giữa Vua tôi đều có thể nghe được, e rằng việc cơ mật bị tiết lộ là không tiện.” Chiếu rằng từ nay chỉ cho ngự dược sứ thần và bốn người hầu đứng ở góc điện để phòng khi cần gọi, còn lại đều phải đuổi ra.
[24] Ngày Canh Ngọ, nước Chiêm Thành dâng voi thuần.
[25] Ngày Bính Tý, Cung uyển sứ, Thứ sử Trung Châu, Tri Hùng Châu Triệu Tư được bổ nhiệm làm Long, Thần Vệ tứ sương đô chỉ huy sứ. Trước đó, Tư bắt giết người vận chuyển muối trên sông Giới[4], Khiết Đan đưa ra lời phản đối, Tri Doanh Châu Bành Tư Vĩnh[5], cùng Hà Bắc chuyển vận sứ Yến Độ đều hặc tội Tư gây sự, xin bãi chức. Triều đình lại cho rằng ông có năng lực, liền thăng thêm chức vụ quân sự. “Chuyển vận sứ”, bản truyện đều ghi là Đường Giới. Xét thời điểm này Giới chưa ở Hà Bắc, nay bỏ đi. Sau đó lại thăng làm Thiên Vũ, Phủng Nhật tứ sương đô chỉ huy sứ.
[26] Tư Mã Quang tâu: “Trước đây thần từng bàn rằng Triệu Tư là người cương nghị, bướng bỉnh, không thể quản lý quân đội, nhưng triều đình không tin, thần sợ rằng việc nghe tin chưa xác thực nên không dám tâu thêm gì. Sau đó lại nghe nói Tư đối đãi với sứ giả Khiết Đan một cách kiêu ngạo, không tuân theo lễ nghi cũ. Gần đây lại nghe quan chức trấn thủ bản lộ tâu rằng Tư hành xử tùy tiện, e rằng sẽ gây ra hậu họa. Thần nghĩ rằng trước thời Cảnh Đức, khi Khiết Đan chưa hòa thân, chiến tranh xảy ra hàng năm, biên giới luôn bị uy hiếp, xa giá phải lộ diện ở Thiền Uyên, kỵ binh địch uy hiếp Tề, Vận, giữa hai con sông, xương trắng chất đầy. Tiên đế thấu hiểu đại cục an nguy, mưu kế được mất, đích thân hạ mình, kết nghĩa huynh đệ với họ, hàng năm cống nạp vàng lụa để hòa hoãn, sứ giả qua lại, đối đãi theo lễ nghi giữa hai nước. Bệ hạ kế vị, tuân thủ hiệp ước cũ, há chẳng phải vì không muốn nhục nhã sao? Chỉ vì muốn bảo vệ sinh mạng dân chúng mà thôi. Nhờ đó binh đao không dấy, trăm họ yên ổn, đã gần sáu mươi năm.
Nay Khiết Đan đối đãi với Trung Quốc vẫn giữ đủ lễ nghi. Làm quan biên giới, nên huấn luyện binh sĩ, sửa sang vũ khí để phòng bị bất trắc; tiếp đãi tử tế, giữ gìn uy nghi để đối đãi sứ giả, trong không mất phòng bị, ngoài không mất hòa hiếu, để phụng sự ý chỉ của triều đình mà thôi. Nay Tư nhiều lần tỏ ra kiêu ngạo với sứ giả, tranh giành thắng lợi nhỏ để khiêu khích kẻ địch mạnh. Chỉ vì khoe khoang trước mắt, cầu hư danh nhất thời mà không nghĩ đến họa lớn lâu dài cho quốc gia, thần e rằng một khi xảy ra xung đột, triều đình sẽ không thể yên ổn.
Xưa Tôn Khoái đập bình mà Tào, Vệ gây hấn, người Tăng ngâm cỏ mà nước Lỗ mất đất, Thiệp Đà đánh tay mà nước Tấn mất chư hầu, con gái tranh dâu mà quân Ngô vào Dĩnh. Vì vậy họa thường khởi từ việc nhỏ, mà sự việc thường sinh ra từ chỗ bị xem nhẹ, phàm là đạo giao hảo giữa hai nước, không thể không thận trọng. Hùng Châu là nơi trọng yếu đối địch, lúc bình thường là nơi sứ giả qua lại, lúc có biến là nơi quân mã ra vào, quan trấn thủ châu này không thể không chọn người tài giỏi. Tư tính tình ngang ngược, không thể để lâu ở đó. Xin cách chức quân vụ, điều về nội địa, để các tướng biên giới không bắt chước, gây họa cho quốc gia, thật là may mắn cho thiên hạ.”
Không được trả lời.
(Tháng 9 năm thứ 6, Tư được thăng làm Long, Thần Vệ sương chủ, tháng 12 thăng làm Thiên Vũ, Phủng Nhật sương chủ, tháng 5 năm thứ 8 lại thăng làm Bộ quân đô ngu hậu. Lời bàn của Quang có lẽ không đúng thời điểm, hoặc là sau khi Tư được thăng chức quân vụ lần nữa, nay tạm phụ vào lúc mới nhận chức quân vụ, đợi sau xem xét kỹ hơn.)
[27] Ngày Đinh Sửu, sai Phó bố trí sứ phủ Thái Nguyên, châu Đại là Hác Chất, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu, Đồng quản câu sự Ty An phủ duyên biên Hà Đông là Quách Ái tu sửa thành Phong Châu.
[28] Tháng đó, Tư Mã Quang lại dâng tấu: “Trước đây thần đã xin xét lại các chương tấu mà thần đã dâng lên khi ở Tịnh Châu, mong sớm định việc kế tự. Bệ hạ đã nghe theo, những lời tuyên dụ đều vượt quá sự hiểu biết của kẻ ngu thần, thật là nhờ trời đất thần linh bảo hộ hoàng gia, là phúc lớn vô cùng của muôn đời. Thần nghĩ rằng bệ hạ sẽ sớm ban bố đức âm, tuyên cáo đại thần thi hành việc ấy. Nay đã qua một tháng mà chưa nghe tin gì, có phải bệ hạ cho rằng việc này hệ trọng, cần chọn lựa kỹ trong tông thất mà chưa tìm được người xứng đáng; hay là có kẻ tả hữu ngăn trở, làm mê hoặc thánh thính? Thần đều không thể biết được[6]. Thần nghe rằng người được chọn làm người kế tục thì là con, điều này đã ghi rõ trong lễ luật. Hán Thành Đế lên ngôi 25 năm, 45 tuổi mà chưa có người kế tự, bèn lập cháu là Định Đào Vương Hân làm thái tử. Nay bệ hạ lên ngôi đã lâu, tuổi tác cũng đã cao, há chẳng nên vì tông miếu xã tắc mà suy nghĩ sâu xa sao! Thần ngu cũng không dám mong bệ hạ lập ngay danh vị Đông cung, chỉ mong bệ hạ tự chọn trong tông thất người nhân hiếu thông minh, nuôi làm con, ban cho quan tước chỗ ở hơi khác với mọi người, để thiên hạ đều biết ý bệ hạ đã có chỗ thuộc về, nhằm giữ lòng người xa gần. Ngày sau nếu hoàng thái tử sinh ra, lại cho người ấy lui về phủ đệ, có gì tổn hại đâu? Đây thật là gốc rễ của sự an nguy thiên hạ, mong bệ hạ quyết đoán mà làm ngay.”
[29] Lúc đầu, Hàn Kỳ đã ngầm hiểu ý của Tư Mã Quang, mười ngày sau, có chiếu lệnh cho ông cùng với Điện trung thị ngự sử lý hành Trần Chu cùng xem xét định đoạt lợi hại của việc hành hộ. Trần Chu nói riêng với Tư Mã Quang rằng: “Hôm trước, trong lễ tế lớn ở Minh Đường, Hàn công làm quyền Thái úy, tôi làm Giám tế[7], Hàn công nhân lúc rảnh rỗi nói với tôi rằng: ‘Nghe nói ông thân thiết với Tư Mã Quân Thực, Quân Thực gần đây có dâng lời về việc lập người kế tự, tiếc là không đưa lời ấy đến Trung thư[8]. Muốn khởi xướng việc này, nhưng không có người khởi xướng. Việc lợi hại của hành hộ không phải là việc để làm phiền ông.’ Muốn tôi gặp ông để truyền đạt ý này.” Do đó, Tư Mã Quang lại dâng tấu, và nói trực tiếp: “Thần trước đây đã trình bày, Bệ hạ vui vẻ không có ý khó khăn, nói rằng sẽ thực hiện ngay. Nhưng nay lại im lặng không nghe gì, ắt hẳn có kẻ tiểu nhân nói rằng Bệ hạ đang độ tuổi xuân xanh, con cháu sẽ đông đúc, sao lại vội làm việc không lành mạnh này. Kẻ tiểu nhân không có tầm nhìn xa, chỉ muốn trong lúc vội vàng, lập người thân cận của mình mà thôi. Từ thời Đường Văn Tông về sau, việc lập người kế tự đều do ý của những kẻ tả hữu, thậm chí có người được gọi là ‘Định sách quốc lão’, ‘Môn sinh thiên tử’, họa này sao có thể kể xiết được!”
Hoàng đế cảm động sâu sắc, liền nói: “Đưa đến Trung thư[9].” Tư Mã Quang đến Trung thư, gặp Hàn Kỳ và nói: “Các ông không bàn luận việc này ngay bây giờ, một ngày kia nửa đêm trong cung sẽ có một tờ giấy nhỏ lập ai đó làm người kế tự, thì thiên hạ không ai dám trái lệnh.” Hàn Kỳ và mọi người đều gật đầu nói: “Dám không hết sức!”
Trần Chu sau đó dâng tấu, xin chọn người hiền trong tông thất, lập làm người kế tự. Sau khi dâng tấu, ông nói với người nhà: “Hôm nay ta đã dâng một tờ tấu, nói về đại kế của xã tắc. Nếu phạm tội, nặng thì chết, nhẹ thì bị đày, các ngươi hãy chuẩn bị tinh thần.” Người đưa tấu chưa kịp trở về, Trần Chu đột ngột qua đời. Ngự sử trung thừa Vương Trù xin ban thêm tiền tuất và phong chức cho một người con, ban mười vạn tiền.
(Việc này theo tấu nghị của Tư Mã Quang và bài minh trên mộ Trần Chu do Trần Tương soạn. Trần Chu mất vào ngày 15 tháng 9[10], Ngự sử đài ký chép rằng Trần Chu uống thuốc độc tự tử, cần xem xét thêm.)
[30] Lúc đó, Tri châu Giang Châu là Lã Hối cũng dâng sớ nói:
[31] Thần nghe nói các quan trong ngoài nhiều lần dâng mật sớ, vì Thánh tự chưa lập, xin chọn người kế vị bên cạnh, chỉ trích tổ tông, phân biệt dòng dõi. Lòng làm bề tôi, há nên như vậy? Chỉ vì lo sợ suy vong, xuất phát từ lòng trung thành, mà không ngờ cơ hội đã mất. Tuy nhiên, tông thất có thân sơ, thiên tư có hiền ngu, giao phó cho người thân hiền, nên xuất phát từ ý chỉ của bệ hạ, bề tôi sao được bày tỏ việc cơ mật, để nảy sinh ý đồ không chính đáng. Chỉ mong bệ hạ suy nghĩ lời trung, quyết đoán một mình, ngăn chặn loạn lạc từ khi chưa xảy ra[11], không để lỡ thời cơ, đó là mối lo sâu xa để phòng ngừa từ nhỏ.
[32] Lại nghe nhật quan gần đây tấu rằng sao chổi đi qua sao Tâm, xin phòng bị phía tây bắc. Thần xét theo 《Thiên văn chí》, ba sao là chính vị của Thiên vương, sao giữa gọi là “Minh đường”, sao trước là “Thái tử”, sao sau là “Thứ tử”. Sao thẳng thì mất thế, sáng thì thấy điềm lành. Hỏi người biết về sao, họ cho rằng sao vừa thẳng vừa tối, mà sao yêu phạm vào, điềm báo biến động e rằng không ở phía tây bắc.
[33] Thần lại nghe từ hạ đến thu, kinh sư mưa dầm, các lộ nước lụt, mấy châu động đất, sông ngòi tràn bờ, dân chúng chìm đắm. Đó là điềm âm thịnh[12], vốn có sự ứng nghiệm. Đời Đường niên hiệu Thần Long đầu tiên, nước sông Lạc dâng cao, Tống Vụ Quang nói: “Từ khi lên ngôi, chưa lập Thái tử[13], không phải là cách giữ ngôi báu, kế thừa tông miếu, nuôi dưỡng đức độ, giúp rập nghiệp lớn. Trong họ hàng thân thích, lời bàn tán tập trung, nghi ngờ tích tụ thành tai họa.” Hình phạt đến đó, là điềm báo rõ ràng đã xảy ra. Có thể thấy Hoàng thiên yêu thương bệ hạ sâu sắc, nhiều lần dùng tai dị để cảnh tỉnh, nếu vẫn không tỉnh ngộ, e rằng không phải là mối lo sâu xa để kính trời bảo vệ đất nước.
[34] Thần lại nghe rằng, gần đây trong hoàng tộc có lời đồn đại bị lộ, lan truyền khắp nơi, khiến lòng người kinh nghi, đó là điềm ứng của âm khí, tâm địa dòm ngó, không thể không biết dần dần. Kính mong bệ hạ nghĩ đến sự quan trọng của gốc rễ, vì kế sách của tông miếu, xem xét lại các tấu nghị của quần thần trước sau, tiếp kiến đại thần, nghe lời trung trực, chọn lựa cẩn thận nơi ở trong cung, dựa trên thân thích và hiền đức, hợp với ý trời. Huống chi hoàng tộc đông đúc, há lại không có người hiền đức để đáp ứng ý nguyện của bệ hạ? Nếu như kế sách của bệ hạ đã định, nên để thiên hạ cùng biết, để yên lòng người lâu dài. Nếu chẳng may có kẻ gian thần ngầm mưu kết bè kết đảng[14], bề ngoài tỏ ra trung thực, để làm dịu lòng bệ hạ, đó là mối lo lớn nhất, không thể không xem xét kỹ. Hán Thành Đế bị lời tà thuyết của Vương Căn mê hoặc, bỏ Trung Sơn mà lập Định Đào. Đến thời Hiếu Xung[15], Lương Ký mưu gian, tham lợi Lạc An còn nhỏ mà sợ Thanh Hà nghiêm minh, cuối cùng dẫn đến loạn lạc. Nếu dùng người chính trực và lời nói thẳng, thì cơ nghiệp của hai kinh Đông Tây sao có thể đo lường được! Mong bệ hạ nghĩ đến sự gian nan của tổ tông dựng nên nhà Tống, xem xét việc Hán Thành Đế và Hiếu Xung làm suy yếu cơ nghiệp nhà Hán, ngăn chặn dần sự kết bè kết đảng của gian thần, dứt mối lo dòm ngó của hậu thế, sớm quyết đoán, yên lòng người, đó là điều may lớn của thiên hạ!
(Căn cứ vào 《Thần Tông》[16] Châu Mặc nhị lục, phụ truyền của Hối, đều nói Hối dâng sớ xin sớm lập người kế vị, Hàn Kỳ căn cứ vào sớ của Hối và Tư Mã Quang, bèn lập nghị, dùng Anh Tông làm Tri Tông chính tự[17], nhưng trong 《Tư Mã Quang mộ chí minh》 lại không chép việc này, tấu nghị của Hối cũng không còn, không biết vì sao. Cháu của Hối là Cẩn từng viết phụ truyền cho Hối, có tờ sớ này, cũng không biết từ đâu mà có, nay xin lấy, phụ vào cuối tháng chín.)
[35] Hữu Giám môn vệ Đại tướng quân, Văn Châu Thứ sử Thúc Thiều dâng sách vở của mình, được triệu đến Học sĩ viện khảo thí, đỗ đạt. Được thăng làm lĩnh chức Thần Châu Đoàn luyện sứ. Thúc Thiều, xem năm Hoàng Hựu thứ nhất, tháng sáu.
[36] Mùa đông, tháng 10, ngày Canh Thìn, mùng một, Phò mã Đô úy Lý Vĩ tâu: “Thần vâng chiếu cử quan làm tướng lĩnh, nhưng nhà thần có lệnh cấm tiếp khách, không thể gần gũi với sĩ nhân. Nghe nói Sài Tông Khánh trước đây được phép qua lại gần cấm cung, xin được chiếu theo lệ ấy.” Chiếu yêu cầu kê khai tất cả khách đã tiếp đãi để tâu lên.
[37] Ngày Tân Tỵ, truy tặng cố Khách tỉnh sứ, Mi Châu Phòng ngự sứ Trương Kháng làm Toại Châu Quan sát sứ, cố Binh bộ Lang trung Trương Hạ làm Thái thường Thiếu khanh. Trước đó, quyền Ngự sử Trung thừa Vương Trù tâu: “Triều đình mới ban hành pháp khảo khóa, sẽ xét năng lực của các thủ trưởng châu quận mà thăng giáng. Những quan lại tận lực, nếu có công lao trong chức vụ, dù đã mất nhưng công tích vẫn được thể hiện qua việc làm, cũng nên truy tặng ít nhiều. Trước đây, Trương Hạ giữ chức Thứ sử Tứ Châu, dùng đất đá xây đê thành để chống lũ lớn từ sông Hoài, lại xây đập ngăn nước sông Biện tràn vào. Những quy định sửa chữa hư hỏng, tăng cường cũ được ghi thành điều lệ và khắc vào đá, khiến người sau tuân theo không dám bỏ. Sau này, nước sông Hoài nhiều lần dâng cao, nhưng nhờ đó mà không lo ngại. Ông còn từng làm Lưỡng Chiết Chuyển vận sứ, xây đê đá ngăn dòng chảy sông Chiết Giang, người dân Hàng Châu nhớ ơn Trương Hạ, lập miếu thờ trên đê, đến nay vẫn nhớ. Lại nữa, Trương Kháng ở Hà Đông, thấy Lân Châu xa nguồn nước, trước đây giặc đến, dân gần như không thể tự tồn, bèn xây thành Nguyệt bao bọc lại. Thành Doanh Châu tuy kiên cố nhưng nhỏ, lúc nguy cấp không đủ để phòng thủ, Trương Kháng dựa trên nền cũ mà mở rộng quy mô. Nếu sau này có biến động, dân có thể vào ẩn náu trong thành, không nhờ đó thì còn nhờ gì? Trương Kháng tận tâm chức vụ, phòng ngừa họa hoạn, thực sự mang lại ơn huệ cho dân hai châu. Nay Trương Hạ và Trương Kháng đã mất, xin bệ hạ đặc biệt ban tặng, hoặc bổ nhiệm con cháu họ, để khuyến khích quan lại tận tâm, khiến họ biết triều đình xét công lao của bề tôi, dù chết vẫn không quên công trạng, cũng là cách dùng người vậy.” Vì thế được truy tặng.
[38] Ngày Nhâm Ngọ, Xu mật viện xin từ nay các nội thần nhập chức ở hai tỉnh Tiền và Hậu đều tính 30 năm khảo khóa; những người đã qua khảo khóa thì tính 20 năm; những người được giảm năm do có công lao thì không được quá 5 năm. Vua theo lời tâu.
[39] Từ thời tổ tông đến nay, nội thần chưa từng qua khảo khóa để thăng chuyển, chỉ có công mới được thăng. Đến tháng 9 năm Cảnh Hữu thứ 2, Vua ban chiếu rằng nội thần nhập chức 30 năm, có nhiều công lao, đã qua 10 năm chưa từng được thăng, thì tâu lên để nghe chỉ dụ[18]. Lúc đó vẫn chưa có quy định cụ thể về khảo khóa. Từ niên hiệu Khánh Lịch về sau, chế độ này dần bị hủy bỏ, hoạn quan có công được giảm đến 15 năm, mà nhập chức mới 5, 7 năm đã có người được thăng lên chức cao phẩm trở lên. Hai tỉnh bèn định ra chế độ khảo khóa 10 năm, mà việc giảm năm cũng nằm trong đó. Đến lúc này, lo ngại việc may mắn được thăng tiến không ngừng, nên cải cách lại. Tri gián viện Dương Điền một mình tâu rằng: “Văn thần thăng 7 lần mà nội thần mới được khảo khóa một lần, phép ấy không công bằng. Nên theo lệ của văn vũ quan, tăng thêm năm khảo xét.” Bèn ban chiếu rằng: “Nhập nội cao ban trở lên, vẫn theo lệ cũ tính 10 năm khảo khóa; những người không có công lao mà phạm tội tham nhũng, hoặc tội công phải đi đày trở lên, thì gấp đôi.” Điền là quan ngôn sự, lại đem sĩ nhân so sánh với hoạn quan, người bàn tán chê cười ông thất chức. Lệnh tháng 9 năm Cảnh Hữu thứ 2, Thực lục không chép, Hội yếu có lời của Điền, vào ngày Ất Sửu tháng 11, nay chép chung.
[40] Trước đây, Sa Uyển thiếu ngựa, Tần Châu đặt trường, dùng khoán để mua. Nội thị Lý Kế Hòa đảm nhiệm chức vụ này, chưa đầy vài tháng đã mua được hơn nghìn con ngựa, Lương Thích tiến cử ông, Vua ban chiếu giảm 3 năm khảo khóa. Theo chế độ cũ, nội thị nhập chức đến 20 năm mới được khảo khóa; từ đó những người được thăng quan do có công lao, đều lấy Kế Hòa làm ví dụ. Việc của Kế Hòa chép kèm, Lương Thích đến tháng 8 năm Chí Hòa thứ nhất làm Tri Tần Châu, tháng 8 năm Gia Hựu thứ 2 chuyển sang Vĩnh Hưng. Việc tiến cử Kế Hòa, hẳn là vào khoảng năm Chí Hòa và Gia Hựu.
[41] Chiếu cho Thái thường lễ viện tu sửa lại phép đặt thụy hiệu. Ban đầu, viện này tâu: “Phép đặt thụy hiệu hiện đang dùng là do năm Ung Hi định ra, trong đó số chữ so với sách của Hạ Sâm, Thẩm Ước, Vương Ngạn Uy chép lại có nhiều sai sót, xin biên soạn lại.” Vua nghe theo.
[42] Ngày Giáp Thân, tiến sĩ Nam Cung Lỗ ở phủ Hà Trung được bổ làm thí quan chức Chủ bạ Tướng tác giám, do Đô chuyển vận sứ Bành Tư Vĩnh tâu rằng văn chương và đạo đức của ông được khen ngợi trong làng.
[43] Ngày Bính Tuất, chiếu cho các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam, Giang, Chiết, Kinh Hồ Nam, Kinh Hồ Bắc: “Những năm gần đây lũ lụt, trộm cướp nổi lên, hãy lệnh cho các lộ An phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Kiềm hạt ty, ở những nơi xung yếu, xem xét tăng thêm chức Đô tuần kiểm rồi tâu lên.”
[44] Ngày Nhâm Thìn, khởi phục chức cho Tiền Hữu Vệ Đại tướng quân[19], Nhạc Châu đoàn luyện sứ Tông Thực làm Thái Châu phòng ngự sứ, tri tông chính tự. Xét theo 《Tống sử》, Tông Thực làm Thái Châu phòng ngự sứ, tri tông chính tự, được ghi vào ngày Tân Mùi tháng giêng năm thứ 7, khác với đoạn này. Ban đầu, Tư Mã Quang đã đem tờ tấu trình lên Trung thư, trong đó lại có tờ tấu của Tri Giang Châu Lã Hối. Tể tướng Hàn Kỳ cùng các đồng liêu tấu sự tại điện Thùy Củng, đọc hai tờ tấu của Quang và Hối, chưa kịp trình bày gì, Vua liền nói: “Trẫm đã có ý này từ lâu, nhưng chưa tìm được người thích hợp.” Rồi nhìn sang hai bên hỏi: “Trong tông thất, ai có thể đảm nhận?” Kỳ đáp: “Việc này không phải là thần dám bàn, xin để Thánh thượng lựa chọn.” Vua nói: “Trong cung từng nuôi hai người con, đứa nhỏ rất thuần hậu nhưng không thông minh; đứa lớn thì có thể.” Kỳ xin hỏi tên, Vua đáp: “Tông Thực, nay khoảng ba mươi tuổi.” Khi bàn định xong sắp lui, Kỳ lại tấu: “Việc này rất lớn, thần chưa dám thi hành. Xin Bệ hạ đêm nay suy nghĩ thêm, ngày mai sẽ xin chỉ dụ.” Hôm sau tấu sự tại điện Thùy Củng, lại trình bày, Vua nói: “Quyết không còn nghi ngờ gì nữa.” Kỳ nói: “Việc nên tiến hành từ từ, xin cho thần bàn bạc về chức vụ sẽ bổ nhiệm.” Lúc đó Tông Thực vẫn đang để tang cha, nên bàn định khởi phục làm Thái Châu phòng ngự sứ, tri tông chính tự. Vua vui mừng nói: “Như vậy rất tốt.” Kỳ lại nói: “Việc này nếu thực hiện thì không thể dừng lại. Xin Bệ hạ quyết đoán không do dự, xin ban chỉ dụ từ trong cung.” Vua nói: “Việc này đâu thể để phụ nữ biết được, chỉ cần Trung thư thi hành là được.” Rồi ban chiếu này.
[45] Đến cuối niên hiệu Chí Hòa, Vua bị bệnh, Văn Ngạn Bác, Phú Bật, Lưu Hãng và Vương Nghiêu Thần khuyên Vua nên sớm lập người kế vị, Vua đồng ý. Khi bệnh khỏi, Vua tạm gác lại tờ tấu. Sau đó, những người dâng lời tâu tiếp nối nhau, Phạm Trấn[20], Tư Mã Quang nói càng kịch liệt, còn những người khác không được bên ngoài biết đến thì không kể xiết. Bao Chửng làm Ngự sử trung thừa, lại hết sức tâu lên, Vua vẫn chưa đồng ý. Như thế năm sáu năm, những người tâu cũng dần lơ là. Riêng Hàn Kỳ từng xin xây trường học trong cung, chọn người trong tông thất cẩn trọng, hiền lành, ham học để vào học trong cung, hy vọng được gần gũi người hiền, có thể giao phó việc lớn, muốn dùng việc này lay động ý Vua, nhân cơ hội liền nói nên sớm lập người kế vị. Vua nói: “Hậu cung có một hai người sắp sinh, khanh hãy đợi đã.” Sau đó đều sinh công chúa.
Một hôm, Hàn Kỳ lấy truyện Khổng Quang trong 《Hán thư》 mang theo vào dâng lên, nói: “Hán Thành Đế lên ngôi 25 năm không có con nối dõi, lập con của em là Định Đào vương làm thái tử. Thành Đế là bậc trung tài, còn có thể làm được, huống chi bệ hạ thánh minh, có gì khó! Thái Tổ vì thiên hạ lo xa, phúc trạch lưu truyền đến nay, huống chi nếu tông tử vào kế vị, thì bệ hạ thực sự có con trai, đức lớn vui lớn, truyền đến muôn đời, ai có thể vượt qua bệ hạ! Mong bệ hạ lấy tâm Thái Tổ làm tâm mình, thì không gì không thể.” Do đó nhân lời của Tư Mã Quang, cuối cùng thực hiện ý ban đầu của Vua, nhưng Tông Thực vẫn cố từ chối.
(《Hàn Kỳ tân truyện, cựu truyện》 chép: Bao Chửng, Phạm Trấn dâng tấu chương luận bàn, mỗi lần đều bị giữ lại. Xét năm Gia Hựu thứ nhất, Phạm Trấn là người đầu tiên kiến nghị, Tư Mã Quang tiếp theo, Bao Chửng lúc này còn ở Giang Ninh[21], tháng 12 triệu về làm Khai Phong, bản truyện của Bao Chửng cũng không nói là cùng Phạm Trấn dâng tấu chương luận bàn. Đến khi Bao Chửng từ Khai Phong thăng làm Ngự sử trung thừa, mới xin dựng thái tử, đó là việc tháng 6 năm Gia Hựu thứ ba. Nay lược bớt và chỉnh sửa, để không sai sự thực. Lại 《Hàn Kỳ truyện》 chép: Tấu chương của Lữ Hối cùng với tấu chương của Tư Mã Quang đều từ trong cung đưa ra. Nhưng tấu chương của Tư Mã Quang thì Quang tự nộp ở Trung thư, nếu nói là cùng ngày tiến trình thì được. Nay cũng lược bớt và chỉnh sửa, đợi sau khảo cứu kỹ hơn.)
[46] Ngày Quý Tỵ, Vương Liệp, chức Chư vương cung thị giảng, Đồn điền viên ngoại lang, Biên hiệu thư tịch, được bổ làm Tông chính tự bạn độc. Liệp làm cung liêu tổng cộng 13 năm, có công phụ đạo đối với Tông Thực, nên được ưu tiên bổ nhiệm trước.
[47] Trước đây, Ngô Khuê ở Hàn lâm đã tiến cử Liệp có thể đảm nhiệm chức vụ ở Kinh diên văn quán. Tể tướng Hàn Kỳ chỉ vào tên Liệp nói với các quan chấp chính rằng: “Chỉ có người này và Mạnh Tuấn không thông qua tư yết, đủ thấy họ có phẩm cách giữ mình.” Liệp là người Trường Viên. Tuấn lúc đó làm Đô quan lang trung, nên cùng với Liệp được bổ làm Biên hiệu thư tịch. Quê quán của Mạnh Tuấn không rõ.
[48] Ngày Ất Mùi, Xu mật viện tâu: “Xét điều lệ khảo khóa các sứ thần ở hai tỉnh, xin trừ chiếu chỉ tháng 9 năm Cảnh Hữu thứ 2 về việc chuyển Hoàng môn lên Cao ban trong Nội tỉnh vẫn giữ như cũ, còn lại đều theo chỉ đạo ngày 3 tháng 10 năm nay, các điều lệ khác không thi hành nữa.” Chiếu rằng: “Những người thuộc diện cải chuyển lên Cao ban trở lên, nếu nguyên do có lao tích hoặc không có lao tích nhưng phạm tội công bị phạt trượng trở xuống, đều tính 10 năm khảo khóa; không có lao tích mà phạm tội tham nhũng hoặc tội công bị phạt đồ trở lên, đều tính 20 năm khảo khóa; những người phạm tội tư nhưng tình tiết nhẹ thì xin chỉ. Các điều khác đều theo đó.”
[49] Ngày Bính Thân, chiếu rằng quan Tri tông chính tự kiêm quản việc của bản ty, khi có tế lễ thì được gặp các quan thuộc.
[50] Mã quân ty tâu: “Ở huyện Chính Bình[22]có 4 chỉ huy Vũ kỵ đái giáp thặng viên ăn lương tại chỗ, quản tổng cộng 120 người, không thành đội ngũ, chiếm dụng doanh trại vô ích, xin hợp lại thành một chỉ huy.” Được chấp thuận.
[51] Ngày Đinh Dậu, chiếu rằng: “Những người được khảo khóa mà từng xử án sai dẫn đến tội chết chưa thi hành, đợi khi tái nhiệm có đủ người tiến cử hợp lệ thì được dẫn kiến; nếu đã thi hành án thì phải ba lần mới được; nếu xử sai dẫn đến chết hai người trở lên, dù được chỉ cải quan, vẫn chỉ được bổ làm kinh quan thứ đẳng.”
[52] Ngày Mậu Tuất, lấy phủ ty cũ phía nam Thái miếu làm nha môn của quan Tri tông chính tự.
[53] Tháng 11, ngày Đinh Tỵ, Khởi phục Hữu vệ Đại tướng quân, Thái châu Phòng ngự sứ, Tri Tông chính tự Tông Thực dâng biểu xin được để tang trọn vẹn. Hoàng đế hỏi ý Hàn Kỳ, Kỳ nói: “Bệ hạ đã biết người hiền mà chọn lựa, nay không dám vội nhận chức, đó là vì khí chất và kiến thức của ông ta rộng lớn, đây chính là điều khiến ông ta trở thành người hiền. Xin hãy kiên quyết khởi dụng ông ta.” Tông Thực dâng biểu bốn lần, cuối cùng Hoàng đế đồng ý theo lời thỉnh cầu.
[54] Ngày Mậu Ngọ, quan phiên ở Hoàn châu là Hữu thị cấm Tô Ân được tha tội chết, đưa đi quản thúc ở Hồ Nam, đồng thời chia bộ lạc mà ông ta quản lý thành tám tộc, mỗi tộc cử một thủ lĩnh đứng đầu.
[55] Tô Ân vốn là Tuần kiểm bộ lạc Ngũ Môn, quản lý các đạo trấn. Hai trại Định Biên và Bình Viễn, bộ lạc của ông ta là hùng mạnh nhất. Ban đầu, Vị châu phái Chỉ sử đi mua dê ở vùng biên giới, bị tộc Mật Giác chặn bắn, cướp mất yên ngựa bạc. Sau đó, Chỉ sử báo cáo với quan trại Bình Viễn, bắt giam hơn hai mươi người của tộc đó, dân phiên liền vây trại. Tô Ân nói rằng tộc của ông ta muốn được thả những người bị giam. Quan trại nghe theo và thả người, nhưng Kinh lược sứ Hàn Giáng lại ra lệnh cho Tô Ân đuổi theo bắt lại. Tô Ân chỉ bắt sáu người cầm đầu gây sự đưa về Khánh châu, Giáng không đồng ý, phái Bộ thự Mã Hoài Đức dẫn quân theo Tô Ân đi lùng bắt, cả tộc đó đều bỏ trốn. Không lâu sau, họ lại ra đầu hàng. Giáng bèn tâu rằng sợ sau này khó kiểm soát, nên tiêu diệt tộc Mật Giác. Tô Ân bị đày đi, và chức Tuần kiểm bộ lạc Ngũ Môn từ đó bị bãi bỏ. Việc tấn công trại Bình Viễn xảy ra vào tháng 7, ngày Mậu Tuất.
[56] Ngày Canh Thân, Tả Kỵ Kỵ sứ, Gia châu Phòng ngự sứ, Nhập nội đô tri Sử Chí Thông bị cách chức Đô tri, điều đi làm Đề điểm Tập Hi quán.
[57] Chí Thông mua gỗ khô ở vườn sau, bí mật sai người thân tòng làm việc riêng, cây gỗ đổ, người thân tòng bị gãy chân mà chết. Điện trung Thị ngự sử Hàn Chẩn nói: “Thân tòng bố trí canh gác, là để phụng sự bậc tôn quý, phòng ngừa bất trắc. Nếu để người chủ sai làm việc riêng, thì kỷ luật cấm vệ sẽ lỏng lẻo.” Việc này được giao cho Khai Phong phủ xử lý. Theo lệ cũ, phủ có việc án, Ty lục Tham quân phải báo cáo Tri phủ, mới dám xét xử, lúc này, nhiều người bênh vực Chí Thông. Duy chỉ có Ty lục Tham quân Lã Thục kiên quyết điều tra đến cùng, Chí Thông vì thế bị cách chức. Thục là người Nam An.
[58] Ngày Quý Hợi, lấy điện Thần Ngự của Chân Tông mới xây ở Quán Thọ Tinh làm điện Vĩnh Sùng. Trước đây, cung Thượng Thanh bị hỏa hoạn, chỉ còn điện Thọ Tinh, nên xây thành Quán Thọ Tinh. Có người nói tượng ở điện Thọ Tinh là chân dung của Chân Tông, do đó xây riêng điện Thần Ngự. Lữ Công Trước, Thị giảng Thiên Chương các, tâu: “Trong kinh thành đã có ba điện Thần Ngự của Chân Tông, việc xây dựng không ngừng, không phải là ý nghĩa của việc tế tự không nên quá xa xỉ, xin bãi bỏ việc này.” Không được chấp thuận. Sách tạp chí của Giang Hưu Phục chép: Tượng ở Quán Thọ Tinh, nội quan cho là giống thánh dung, sau sai Phán tỉnh là Phạm Khoan đến xem xét, xây riêng một điện, gọi là điện Thần Ngự Thọ Tinh, tháng 9 năm sau đổi tên thành điện Sùng Tiên.
[59] Ngày Kỷ Tỵ, Hạ quốc chủ Lượng Tộ nói: “Nước tôi ngưỡng mộ y phục Hán, nay người trong nước đều không dùng lễ phiên. Năm sau muốn dùng nghi thức Hán để đón tiếp sứ thần triều đình.” Được chấp thuận.
[60] Ngày Canh Ngọ, Hiệu thư lang Chương Hoành làm Thái thường thừa, Trực tập hiền viện; Đại Lý tự thừa La Khải quyền Tri Hoài Dương quân, đợi thêm một năm nữa sẽ được thăng chức. Khải đỗ thứ nhì, khi được triệu thí, xét bài phú thì bị lạc vận.
[61] Ngày Tân Mùi, Ấp lệnh huyện Ư Tiềm, Biên hiệu sách ở Bí các là Tôn Chu làm Hiệu khám ở Quán các, theo chế độ mới. Biên hiệu sách hai năm được bổ làm Hiệu khám bắt đầu từ Chu.
[62] Chiếu rằng: “Nghe nói các nơi có quân đào ngũ trốn tránh trong dân, hoặc ở núi rừng, chết vì đói rét rất nhiều. Hãy ra lệnh cho Khai Phong phủ và Chuyển vận ty ra bảng hiểu thị, hạn trong hai tháng phải ra trình diện, sẽ được miễn tội.”
[63] Ngày Ất Hợi, Xu mật viện dâng lên sách biên soạn về cơ yếu văn tự gồm 1.161 quyển, từ khi bắt đầu biên soạn đến khi hoàn thành, tổng cộng hơn bốn năm.
[64] Ngày Mậu Dần, Lý Xu, người mới được bổ nhiệm làm Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ, Văn Tư sứ, Thứ sử châu Khang, xin trả lại chức vụ mới để được phong tặng cho cha mẹ, triều đình đồng ý.
[65] Thiếu khanh Quang Lộc tự là Trương Thúc Chiêm xin nghỉ hưu. Trước đây, Thúc Chiêm làm Tri châu Thọ, gặp lúc lũ lụt, Giám ty tâu rằng Thúc Chiêm không có tài năng, triều đình ra chiếu chuyển ông sang làm Tri châu Thái. Tư Mã Quang tâu: “Dân chúng ở Thái châu và Thọ châu đều là con đỏ của bệ hạ. Nếu Thúc Chiêm làm chính sự không tốt, gây hại cho dân, thì việc chuyển ông từ nơi này sang nơi khác có gì khác biệt? Hơn nữa, địa bàn Thái châu rộng lớn, dân số đông đúc, đất đai màu mỡ, nhiều núi rừng, vốn có nhiều trộm cướp, địa vị quan trọng còn hơn cả Thọ châu, chức vụ Thứ sử càng phải chọn người tài giỏi. Lẽ nào vì không có tài mà bị khiển trách, lại được chuyển đến nơi tốt hơn! Nếu Thúc Chiêm thực sự có tài năng, làm lợi cho dân, thì nên trị tội Giám ty của bản lộ đã vu cáo hiền tài, để Thúc Chiêm tiếp tục giữ chức cũ, không cần chuyển đi. Nay việc khen chê không rõ ràng, thăng giáng không có căn cứ, dư luận xôn xao, đều cho là không hợp lý. Thần trước đây từng tâu rằng, yếu lĩnh của việc trị nước là chọn người tinh, thưởng phạt đúng. Đây cũng là một việc chọn người không tinh, thưởng phạt không đúng. Hơn nữa, Thúc Chiêm tính tình tầm thường, càng già càng hồ đồ, vốn không có chút tài năng nào, được giao chức vụ quá sức, việc ông ta giữ chức là điều ai cũng biết, để ông ta làm chính sự, đến đâu cũng gây hại. Thần khẩn thiết xin triều đình cho ông ta nghỉ hưu, hoặc bổ nhiệm một chức vụ nhàn tản, không để ông ta tiếp xúc với dân, như vậy việc thăng giáng sẽ rõ ràng, không làm tổn hại đến chính thể.” Triều đình ra chiếu đổi Thúc Chiêm làm Tri châu Vệ, Thúc Chiêm bèn xin nghỉ hưu, triều đình đồng ý.
[66] Tháng 12, ngày Bính Tuất, triều đình ra chiếu: “Châu Phong mới được khôi phục, hãy chọn một võ quan làm Tri châu, đặt hai chức Đô giám và Giám áp quân mã, tội từ đồ trở lên giao cho Phủ châu xét xử, tội từ trượng trở xuống cho phép tự quyết định.”
[67] Ngày Đinh Hợi, Quách Ái, Nội điện Sùng ban, Các môn Chi hậu, Đồng Quản câu Hà Đông Duyên biên An phủ ty sự, được bổ nhiệm làm Nội điện Thừa chế, Tri châu Phong.
[68] Tư Mã Quang và các quan tâu rằng: “Thần trộm thấy triều đình cho tu sửa lại thành cũ Phong Châu và cử người làm Tri châu. Đây thực là thành trì hiểm yếu ở phía tây sông Hoàng Hà, việc tu sửa rất thuận tiện. Tuy nhiên, địa thế nơi đây cô lập, bên ngoài giáp với địa phận giặc. Trước đây, khi họ Vương làm Tri châu, bộ tộc phiên thuộc rất đông, có ba trại là Vĩnh An, Lai Viễn, Bảo Ninh, đều do các bộ tộc phiên thuộc trấn giữ. Đầu niên hiệu Khánh Lịch, Nguyên Hạo đánh chiếm thành châu, dân châu và các bộ tộc phiên thuộc ở ba trại đều bị bắt[23], bị quét sạch không còn gì. Hiện nay trong thành châu chỉ còn gò đống, gạch vỡ, xung quanh thành mấy chục dặm đều là cỏ dại và rừng rậm. Nếu lập lại thành châu, thì phải đặt trại, bố trí quan lại, đóng nhiều binh mã, tích trữ lương thảo, đều phải điều động dân trong nội địa để phục vụ, hao tổn rất lớn. Đây chính là cái gọi là theo đuổi hư danh mà chịu thực hại. Mấy năm trước, triều đình muốn tu sửa thành Phong Châu, Kinh lược ty Hà Đông cho rằng nơi đây quá cô lập, bèn xây dựng trại Vĩnh Ninh cách phía nam mấy chục dặm, đất đai thấp trũng, nằm giữa hai ngọn núi, đất xấu khó giữ. Nay đã tu sửa Phong Châu, thì trại Vĩnh Ninh nằm sâu trong nội địa, không còn tác dụng gì. Thần cho rằng không bằng dời trại Vĩnh Ninh đến thành cũ Phong Châu, binh mã và lương thảo không cần tăng thêm, chỉ cần chọn sứ thần có tài lược để trấn giữ, không cần phong chức Tri châu, đồng thời chiêu mộ dân phiên và người Hán, cho họ khai khẩn ruộng đất gần thành. Đợi khi dân cư và của cải đông đúc như trước, rồi sau đó nâng lên thành châu cũng chưa muộn.”
[69] Ngày Canh Dần, xuống chiếu cho các Lộ Bộ thự ty: “Từ nay các quân đều lập sổ ghi công tội của quân sĩ, để làm căn cứ thăng bổ.”
[70] Thái thường lễ viện tâu: “Năm sau ngày chính đán, Đại Khánh điện sẽ nhận chầu mừng, ba ngày sau là ngày Thượng Tân, cầu cốc với Thượng đế, ba ngày trước không cử nhạc, xin theo lệ cũ năm Khánh Lịch nguyên niên, dùng ngày Thứ Tân.” Vua đồng ý. Năm Khánh Lịch nguyên niên, tháng giêng, ngày Tân Hợi mùng một, Vua ngự Đại Khánh điện nhận chầu, năm thứ hai, tháng giêng, ngày Bính Ngọ mùng một, không nhận chầu. Sách 《Hội yếu》 chép là năm Khánh Lịch thứ hai, sai, nên sửa lại là năm nguyên niên.
[71] Ngày Giáp Ngọ, Điện tiền đô chỉ huy sứ, Kiến Hùng tiết độ sứ Hứa Hoài Đức mất, được tặng chức Thị trung, thụy là Vinh Nghị. Hoài Đức năm 80 tuổi vẫn còn sinh con, sức lực hơn người, khi vào chầu lên xuống ngựa, nhất định phải xuống đất bằng phẳng, để tỏ ra mình còn khỏe mạnh. Ông giữ chức túc vệ 14 năm, nhiều lần xin nghỉ, nhưng Vua thấy tinh thần ông chưa suy, không cho phép. Hoài Đức nói: “Thần đã quá tuổi, nếu bị ngự sử đàn hặc, e rằng không được nghỉ ngơi tốt đẹp.” Vua liền hạ chiếu giảm tuổi cho ông. Hoài Đức không có tài năng gì đặc biệt, từ khi mới được thăng giữ biên cương, liên tiếp bị giáng chức vì hèn nhát, sau đó lại cùng các công thần được thăng lên nắm quân. Khi bị tội vì nhờ vả, ông bị cách chức rồi lại được phục chức. Gặp thời thái bình[24], giữ được ân sủng và hưởng lộc đến cuối đời, có lẽ là nhờ may mắn trời ban.
[72] Ngày Tân Sửu, Tam quán và Bí các dâng lên 6.496 quyển sách bản vàng đã chép, bổ sung 2.954 quyển sách bản trắng. Vua sai trung sứ chiếu cho Trung thư, Xu mật viện cùng các quan Tam quán, Bí các đến Sùng Văn viện dự yến[25], để khen ngợi sự chăm chỉ của họ. Lại hạ chiếu cho hai chế quan xem xét kỹ các sách cổ do thiên hạ dâng lên, chọn những quyển có giá trị, giao cho quan biên hiệu khảo đính lại, chép thành bản định. Quan biên hiệu thường cử một viên chuyên trách việc quản lý bản định.
[73] Ngày Giáp Thìn, Quốc mẫu nước Khiết Đan phái Lâm Nhã, Tả Trấn Quân Vệ Đại tướng quân Tiêu Truyền, Thái Châu Quan sát lưu hậu Lỗ Xương Duệ; chúa Khiết Đan phái Trưởng Ninh Tiết độ sứ Tiêu Liễn, Sùng Lộc khanh Vương Chính Từ đến chúc mừng ngày Chính đán.
[74] Ngày Ất Tỵ, người Man ở An Hóa Châu đến cống nộp sản vật địa phương.
[75] Năm đó, trong thiên hạ, số hộ chủ đăng ký với Hộ bộ là 7.209.581 hộ, với 15.875.580 nhân khẩu; số hộ khách là 3.881.531 hộ, với 6.807.532 nhân khẩu.
- Lý Túc Chi, chữ 'Túc' nguyên bản viết là 'Tú', theo 《Vĩnh Lạc đại điển》 quyển 12429 và 《Tống sử》 quyển 310 truyện Lý Túc Chi sửa lại. ↵
- từng ba lần dâng chương xin bệ hạ sớm định người kế tự, chữ 'thượng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống Toát Yếu và 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 9 hạ, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 51 phần 'Anh Tông Sách Lập Thủy Mạt', 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 20 phần 'Kiến Trữ Trát Tử' bổ sung. ↵
- chữ 'nội' nguyên bản viết là 'nạp', căn cứ theo 《Tống sử toàn văn》 và 《Vĩnh Lạc đại điển》 quyển 12429 sửa lại ↵
- 'Vận diêm' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo 《Vĩnh Lạc đại điển》 sửa lại. ↵
- 'Tư' chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Vĩnh Lạc đại điển》 và 《Tống sử》 quyển 334, truyện Triệu Tư bổ sung. ↵
- Thần đều không thể biết được: chữ 'đắc' nguyên là chữ 'năng', theo bản Tống toát yếu, các bản khác và dẫn theo 《Vĩnh Lạc đại điển》, 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 20, mục Kiến trữ mà sửa ↵
- Giám tế, chữ 'tế' nguyên bản là 'sát', theo bản Tống, Tống toát yếu và Vĩnh Lạc đại điển sửa lại. ↵
- Tiếc là không đưa lời ấy đến Trung thư, chữ 'sở' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, Tống toát yếu và Vĩnh Lạc đại điển, Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 51 bổ sung. ↵
- Liền nói đưa đến Trung thư, chữ 'viết' nguyên bản là 'nhật', theo các bản và Vĩnh Lạc đại điển, Trường biên kỷ sự bản mạt, Tống sử toàn văn quyển 9 hạ, Biên niên cương mục quyển 16 sửa lại. ↵
- Trần Chu mất vào ngày 15 tháng 9, chữ 'cửu' nguyên bản là 'thập', theo các bản và Trường biên kỷ sự bản mạt sửa lại. ↵
- Ngăn chặn loạn lạc từ khi chưa xảy ra: 'vị' nguyên là 'mạt', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách 《Vĩnh Lạc đại điển》 quyển 12429 sửa lại. ↵
- Điềm âm thịnh: hai bản Tống và 《Tống sử》 quyển 321 truyện Lã Hối đều chép là 'Tư âm thịnh chi lệ'. ↵
- Chưa lập Thái tử: 'lương' nguyên là 'niên', theo hai bản Tống sửa lại. ↵
- Nếu chẳng may có kẻ gian thần ngầm mưu kết bè kết đảng, 'thần' nguyên văn là 'dân', căn cứ vào hai bản trên và 《Tống sử》 quyển 321, 《Lã Hối truyền》 sửa lại. ↵
- Đến thời Hiếu Xung, 'Xung' nguyên văn là 'An'. Căn cứ vào 《Hậu Hán thư》 quyển 6 《Xung Đế kỷ》, quyển 34 《Lương Ký truyền》, quyển 63 《Lý Cố truyền》, Xung Đế chết, Lương Thái hậu và Lương Ký định kế, bỏ Thanh Hà vương Toán mà lập Lạc An vương tử Toản làm Vua. 'Hiếu An' chắc là sai của 'Hiếu Xung', căn cứ sửa lại. Văn dưới cũng vậy. ↵
- 'Thần Tông' nguyên văn là 'Nhân Tông', căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Vĩnh Lạc đại điển》 quyển 12429 sửa lại. ↵
- Dùng Anh Tông làm Tri Tông chính tự, chữ 'chính' nguyên văn thiếu, căn cứ vào bản các và sách trên, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51 《Anh Tông sách lập thủy mạt》 bổ sung. ↵
- Chữ 'tâu' trong câu 'tâu lên để nghe chỉ dụ' không có trong bản Tống và bản Tóm tắt của Tống ↵
- Hữu Vệ Đại tướng quân, chữ 'Hữu' nguyên bản là 'Tả', căn cứ theo bản trong các sách và đoạn văn dưới ngày Đinh Tỵ tháng 11, cùng với 《Tống sử》 quyển 12 phần Nhân Tông kỷ, quyển 13 phần Anh Tông kỷ sửa lại. ↵
- Phạm Trấn nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 51 'Anh Tông sách lập thủy mạt', 《Tống sử toàn văn》 quyển 9 hạ bổ sung. ↵
- Bao Chửng lúc này còn ở Giang Ninh, chữ 'do' nguyên bản là 'lưu', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại. ↵
- Các bản khác và 《Vĩnh Lạc đại điển》 quyển 12429 đều chép là huyện Hàm Bình. ↵
- Chữ 'châu' trong 'dân châu và các bộ tộc phiên thuộc ở ba trại đều bị bắt' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 21, bài 《Luận Phục Trí Phong Châu Trát Tử》 bổ sung. ↵
- 'Thừa' chữ nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 324 truyện Hứa Hoài Đức bổ sung. ↵
- 'Viện' nguyên bản chép là 'điện', theo bản Tống và 《Tống toát yếu》 sửa lại. Xét: Đầu đời Tống, Tam quán gọi chung là Sùng Văn viện, Bí các nằm trong Sùng Văn viện, xem 《Tống sử》 quyển 164 chí chức quan. ↵