V. TỐNG ANH TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 203: NĂM TRỊ BÌNH THỨ NHẤT (GIÁP THÌN, 1064)
Từ tháng 10 năm Trị Bình thứ nhất đời Vua Anh Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Canh Tý: Duyệt xét võ nghệ của các tướng hiệu trong các quân, ban, trực, và thăng chức tùy theo năng lực. Vua dụ bảo Vương Tú, Đô chỉ huy sứ Thiên Vũ hữu đệ tam quân, Thứ sử châu Đậu rằng: “Võ nghệ của khanh tuy chưa đạt chuẩn nhưng từng có chiến công, nên cho khanh làm Chính thứ sử.” Lại dụ bảo Hồ Tòng, Tán trực đô ngu hậu rằng: “Võ nghệ của khanh tuy chưa đạt chuẩn nhưng quản lý quân đội nghiêm chỉnh, nên cho khanh làm Nội viên sứ.” Lệnh cho Hác Chất, Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, nhắc nhở các quân chăm chỉ luyện tập võ nghệ, và cấp tiền đặc biệt cho các quân, ban.
[2] Ngày Tân Sửu: Chu Mạnh Dương, Đồn điền viên ngoại lang, Trực bí các, Đồng tri Lễ viện, vào tạ ơn. Vua dụ cho dẫn vào yết kiến ở điện Diên Hòa lâu. Từ đó, Vua thường xuyên triệu kiến, hỏi han việc thời sự, lần cuối đến điện Long Nho, nằm trong vườn sau của các Nhĩ Anh, nơi quần thần chưa từng đến.
[3] Ngày Quý Mão: Lễ viện tấu: “Ngụy quốc công Tông Ý không có con nối dõi, Bộc vương không có cháu đích. Theo lệ cũ, trong tông thất, người lớn tuổi nhất trong dòng sẽ kế thừa. Tông Phác, Phòng ngự sứ châu Doanh, là con thứ hai của Bộc vương, hiện là người lớn tuổi nhất trong dòng.” Vua xuống chiếu phong Tông Phác kế thừa tước Kỳ quốc công.
[4] Ngày Nhâm Tý, Hàn lâm học sĩ Vương Khuê và các quan tâu rằng: “Điện trung thị ngự sử Triệu Đỉnh tấu: ‘Theo nghi lễ tế tự của triều đình, ngày đông chí tế Trời Hạo Thiên Thượng Đế, ngày hạ chí tế Đất Hoàng Địa Kỳ, đều lấy Thái Tổ làm thần phối tế. Ngày Thượng Tân tháng giêng cầu mùa, tháng tư tế Vu, tháng mười tế Thần Châu Địa Kỳ, đều lấy Thái Tông làm thần phối tế. Ngày Thượng Tân tháng giêng tế Cảm Sinh Đế, lấy Tuyên Tổ làm thần phối tế. Tháng chín tế Đại Hưởng Minh Đường, trước đây lấy Chân Tông làm thần phối tế, theo đạo nghiêm phụ của Chu Công, là hợp lễ nhất.
Đức hiếu thuần của Bệ hạ vốn đã cảm thông trời đất. Thần nghe rằng người hiếu là người biết kế thừa chí hướng và công việc của tiền nhân. Bệ hạ kế thừa đại thống, nối nghiệp lớn, ắt phải kế thừa chí hướng và công việc của tiên đế. Nhân Tông trị vì 42 năm, tế Chân Tông phối hưởng với Thượng Đế 41 lần, nay bỗng nhiên bỏ tế Chân Tông, không lấy làm thần phối tế, như vậy không phải là cách tôn kính tổ tiên và thần minh. Thần xin dẫn lời trong Kinh Dịch, quẻ Dự nói: “Tiên vương dùng nhạc để tôn đức, dâng lễ lớn lên Thượng Đế, để phối hưởng với tổ tiên.” Chữ “tổ” ở đây chỉ tổ gần, không phải chỉ tổ có công khai quốc.
Xét theo văn trong Kinh Dịch, thì việc tế Chân Tông phối hưởng với Trời cũng không thể thiếu. Thời Đường Vũ Đức đầu tiên, lấy Nguyên Hoàng Đế phối hưởng Minh Đường, kiêm phối Cảm Sinh Đế. Đến niên hiệu Trinh Quán, căn cứ tình hình mà cải cách lễ nghi, tế Cao Tổ phối Minh Đường, đổi Thế Tổ phối Cảm Sinh Đế. Đây là điển chế đổi thay từ thời Đường Thái Tông, là cách trị nước gần với cổ nhân nhất, đáng để tham khảo. Thần xin đổi Chân Tông phối tế Vu tháng tư, lấy Thái Tông chuyên phối tế cầu mùa ngày Thượng Tân và tế Thần Châu Địa Kỳ tháng mười, theo điển chế thời Đường. Như vậy thì các bậc thánh đế đều được phối hưởng, đối diện với Trời, ân đức dày dặn, lưu truyền mãi mãi.’
Thần Khuê và các quan xét: Theo điển chế tế tự, có bảy lễ tế lớn trời đất, đều theo điển chế các đời trước, lấy vị Vua đầu tiên được phong tước, nhận mệnh trời, khai sáng nghiệp lớn làm thần phối tế. Còn lễ tế Minh Đường, theo đạo nghiêm phụ của cổ nhân, lấy vị Vua gần nhất làm thần phối tế. Vì vậy, triều đình thời Chân Tông lấy Thái Tông làm thần phối tế, thời Nhân Tông lấy Chân Tông làm thần phối tế, nay lấy Nhân Tông làm thần phối tế. Khi Nhân Tông mới lấy Chân Tông phối tế Minh Đường, bỏ Thái Tông không phối tế nữa, nhưng Thái Tông trước đó đã phối tế cầu mùa, tế Vu và tế Thần Châu Địa Kỳ, vốn không phải là đổi thay. Nay Minh Đường đã theo đạo nghiêm phụ, thì lễ tế Chân Tông phối hưởng với Trời, theo lễ nên bỏ, khó bàn đến việc chia lại việc phối tế Vu.”
[5] Thiên Chương các Đãi chế kiêm Thị độc Lý Thụ, Thiên Chương các Thị giảng Phó Biện tâu rằng: “Từ cuối đời Đường loạn lạc, đến thời Ngũ đại suy vi, Trung Hạ chia cắt, cương thường đại loạn. Thái Tổ, Thái Tông của ta dùng thần vũ anh minh thống nhất thiên hạ, công nghiệp lớn lao cảm động đến trời, Chân Tông dùng đức lớn sáng ngôi nối nghiệp lớn, nên tiên đế có chiếu chỉ năm Cảnh Hữu sai quan Lễ bàn định, cho Chân Tông cùng Thái Tổ, Thái Tông đều là miếu thờ vạn đời không dời. Như vậy, đạo phối thờ nên cùng nước mãi mãi, há có thể đến bệ hạ mà lại thiếu lễ ấy sao! Người bàn nghị lại cho rằng theo nghĩa ‘nghiêm phụ phối thiên’, thần trộm nghĩ rằng ‘nghiêm phụ’ không chỉ là cha. Nên 《Hiếu Kinh》 nói: ‘Nghiêm phụ không gì lớn bằng phối thiên, Chu Công là người như vậy.’ Dưới lại nói: ‘Tế giao Hậu Tắc để phối thiên, tế tông Văn Vương ở minh đường để phối Thượng đế.’ Chữ ‘thiên’ là chỉ tế giao phối thiên; chữ ‘đế’ là chỉ thần của Ngũ đế. Nên trên nói ‘nghiêm phụ phối thiên’, dưới lại nói ‘tế giao Hậu Tắc để phối thiên’, thì ‘phụ’ là chỉ Hậu Tắc. Vả lại, tiên nho gọi tổ là vương phụ, cũng gọi là đại phụ, thì biết ‘phụ’ không chỉ là cha. Người bàn nghị lại dẫn chế độ nhà Đường, Đại Tông dùng lời bàn của Lễ nghi sứ Đỗ Hồng Tiệm, tháng 9 tế lớn ở minh đường, lấy cha là Túc Tông phối với Hạo Thiên Thượng đế, Đức Tông cũng lấy cha là Đại Tông phối; lại dẫn chú của Vương Kinh trong 《Giao Tự Lục》, nói là theo đạo ‘nghiêm phụ’ của Chu Công trong 《Hiếu Kinh》. Lời của Đỗ Hồng Tiệm, Vương Kinh chỉ là nhất thời, há có thể làm thành nghị luận vạn đời không đổi sao?
Thần trộm nghĩ lời bàn của Triệu Đỉnh cũng hợp lễ, nếu Thái Tông phối tế đã lâu, không muốn một sớm dời đổi, thì xin lấy Nhân Tông cùng Chân Tông đều phối tế ở minh đường, cũng là hợp lễ. Kính xét 《Hiếu Kinh》: ‘Tế giao Hậu Tắc để phối thiên, tế tông Văn Vương ở minh đường để phối Thượng đế.’ Lại xét 《Lễ Ký – Tế Pháp》: ‘Người Chu tế Đế Khốc mà giao Tắc, tổ Văn Vương mà tông Vũ Vương.’ Văn Vương, Vũ Vương chỉ nói tổ tông, thì biết tế minh đường phối thờ, đến cả Vũ Vương. Như vậy, Văn Vương, Vũ Vương đều phối tế ở minh đường. Nên Trịnh thị nói: ‘Tế Ngũ đế, Ngũ thần ở minh đường gọi là tổ tông, tổ tông là nói chung.’ Quốc gia tế tự đã theo nghĩa của Trịnh thị, thì cũng nên xét thuyết tổ tông của Trịnh thị. Lại 《Dịch》: ‘Tiên vương dùng nhạc để sùng đức, dâng lên Thượng đế, để phối tổ khảo.’ Như vậy cũng là lấy tổ khảo cùng phối Thượng đế. Tế Thượng đế, chính là tế tông ở minh đường. Xưa Lương Quốc tử Bác sĩ Thôi Linh Ân là người thông hiểu, giỏi về lễ, tổng hợp thuyết của các nho gia về Tam lễ mà bình luận thành 《Nghĩa Tông》, luận nghị rộng lớn, đời sau ít ai sánh được, cũng nói rõ nghĩa của Trịnh thị, cũng cho rằng tháng 9 tế lớn Thượng đế, lấy Văn Vương, Vũ Vương đều phối, gọi là tổ tông. Tổ là bắt đầu; tông là tôn kính. Gọi tế là bắt đầu tôn kính, để rõ trong một lễ tế có hai nghĩa ấy. Xét lời trong 《Hiếu Kinh》, 《Tế Pháp》, 《Chu Dịch》, 《Nghĩa Tông》, thì cha con cùng phối thờ, có thể nói là rõ ràng.
Có người nói cha con cùng ngồi, trái với lễ chế. Thần trộm nghĩ không phải vậy, chuyện cũ nhà Đường, đã có lễ cùng phối thờ[1], huống chi trước đây trong điển tế của triều ta, Thái Tông thân tế Hạo Thiên, lấy Thái Tổ phối; Chân Tông thân tế, lấy Thái Tổ, Thái Tông phối; Nhân Tông thân tế, lấy Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông cùng phối. Trải qua năm sáu mươi năm, các bậc thông nho trong triều không cho là sai[2], thì riêng việc này có gì đáng ngờ! Như vậy, Thái Tông vẫn không mất chỗ phối tế, Chân Tông cũng không dời chỗ cũ ở minh đường, hợp với nghĩa tổ tông nhà Chu, hợp với thuyết chín lễ tế của Trịnh thị, thần minh yên ổn, tổ khảo hưởng thụ, mà đạo hiếu được trọn vẹn.”
Chiếu theo lời bàn của Quý. 《Thực Lục》 và bản chí chép lời bàn của Triệu Đỉnh và Lý Thụ, Phó Biện rất sơ lược, nay theo 《Hội Yếu》 chép đầy đủ. Lời bàn của Biện, Thụ về ‘nghiêm phụ’ không chỉ là cha gần, đủ để làm sáng tỏ lời của Tiền Công Phụ, Tư Mã Quang, Lã Hối nói tháng giêng, không thể vì lời họ không được thi hành mà bỏ không chép.
[6] Ngày Canh Thân, Hàn lâm học sĩ Giả Ám tâu: “Gần đây có chiếu lệnh cho trong ngoài tiến cử các quan văn võ có tài năng để thăng chức và bổ nhiệm làm tướng lãnh. Thần thấy trước đây khi hạ chiếu tiến cử người tài, nếu người đó đã được tiến cử mà có người khác lại tiến cử nữa, thì thường bị bắt buộc phải tiến cử người khác. Thần nghĩ rằng nên không hạn chế việc tiến cử trùng lặp, có thể chọn những người được tiến cử nhiều lần để đặc cách thăng chức[3], như vậy mới có thể thu được người tài.” Vua nghe theo.
[7] Tháng 11, ngày Giáp Tý, ra chiếu cấm các văn bản trong ngoài không được dùng hai chữ “Thụ Ích”. Hàn lâm học sĩ Giả Ám tâu rằng đó là tên cũ của Nhân Tông nên phải kiêng húy.
[8] Ngày Ất Hợi, sai Đồn điền lang trung Từ Ức, Chức phương viên ngoại lang Lý Sư Tích[4], Đồn điền viên ngoại lang Tiền Công Kỷ tuyển chọn dân chúng các châu quân ở Thiểm Tây làm nghĩa dũng.
[9] Ban đầu, Tể tướng Hàn Kỳ tấu rằng: “Từ thời Tam đại, Hán, Đường trở lại đây, đều lấy dân làm lính, nên số lượng tuy nhiều nhưng chi phí nuôi dưỡng rất ít, nhờ đó mà kiểm soát được vạn phương và uy hiếp được tứ di, điều này không phải là lực lượng binh lính dư thừa của thời cận đại có thể so sánh được. Thời Đường thiết lập phủ binh[5], gần giống với thời cổ nhất, sau thời Thiên Bảo, bị bãi bỏ không thể khôi phục[6], kéo dài đến thời Ngũ đại, phải chiêu mộ binh lính đi xa, nên làm khốn đốn thiên hạ mà không đủ cung ứng.
Nay nghĩa dũng ở Hà Bắc có gần mười lăm vạn, Hà Đông có gần tám vạn, dũng cảm, cương nghị, thuần phác, bẩm sinh đã có, lại có tài sản, cha mẹ, vợ con ràng buộc, nếu được huấn luyện thêm, cũng giống như phủ binh thời Đường. Khi mới xảy ra việc phía Tây, Thiểm Tây cũng từng chọn một trong ba trai tráng làm cung thủ, sau đó tuyển làm bảo tiệp chính quân, đến khi Hạ quốc xin hòa, triều đình tuyển bỏ, nay còn lại không nhiều. Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây ba lộ, là nơi phòng thủ phía Tây Bắc, việc nên thống nhất. Nay nếu ở các châu Thiểm Tây cũng điểm nghĩa dũng, chỉ xăm trên mu bàn tay, biết rằng không xăm lên mặt, có thể tránh được sự hoảng sợ. Hoặc cho phủ Vĩnh Hưng, Hà Trung, Phượng Tường xăm trước, dân chúng thấy yên ổn, sau đó mới đến các quận, tuy có chút xáo trộn nhất thời, nhưng cuối cùng sẽ có lợi lâu dài.” Chiếu theo lời tấu.
Xu mật phó sứ Hồ Túc xin tạm xăm ở các châu quân biên giới. Vua nói: “Không bằng làm luôn một thể.”
Hàn Kỳ cũng muốn như vậy, bèn sai Ất (tức Vương Ất) đi, trừ hai châu Thương, Quắc không tuyển, còn lại đều tuyển nghĩa dũng. Phàm nhà chủ hộ có ba trai tráng thì chọn một, sáu trai tráng chọn hai, chín trai tráng chọn ba, tuổi từ hai mươi đến năm mươi, có tài năng và dũng cảm thì được tuyển, chỉ xăm trên mu bàn tay. Cứ năm trăm người làm một chỉ huy, đặt một chỉ huy sứ và hai phó, ba chính đô đầu, mười tướng, ngu hậu, thừa cục, áp quan mỗi chức năm người. Hàng năm vào tháng mười thay phiên lên, tập luyện một tháng rồi giải tán. Lại chiếu cho sáu huyện Thành Kỷ thuộc châu Tần, những người có mua ruộng bảo nghị để giữ danh ngạch[7], ba trai tráng xăm một, sáu trai tráng xăm hai, chín trai tráng xăm ba, đều làm nghĩa dũng, mỗi người được cấp hai nghìn tiền. Tổng cộng được mười lăm vạn sáu nghìn tám trăm bảy mươi ba người.
(Xét 《Anh Tông kỷ》 chép là mười ba vạn, có lẽ căn cứ vào số liệu trong 《Hội yếu》, nên khác với ở đây, còn 《Tư Mã Quang truyện》 chép là xăm nghĩa dũng hai mươi vạn, thì là do sau đó Hàn Kỳ tăng thêm hai mươi vạn quân mà nhầm. Sau đó lại chiếu cho mười hai châu Tần, Lũng, Nghi, Vị, Kinh, Nguyên, Bân, Ninh, Hoàn, Khánh, Phu, Diên, khi triệu tập phòng thủ[8], mỗi ngày cấp hai thăng gạo, mỗi tháng cấp ba trăm tiền mua tương rau. 《Thực lục》 chép là xăm nghĩa dũng mười ba vạn tám nghìn bốn trăm sáu mươi lăm người, 《Hội yếu》 cùng số liệu với 《Thực lục》, nay theo bản chí. Mười hai châu được cấp riêng gạo và tiền[9], 《Hội yếu》 chép là việc ngày mười tháng tám năm thứ ba, bản chí cho là năm nay, nay theo bản chí, và phụ chép ở đây.)
[10] Khi ấy, Tư Mã Quang, quan Tri gián viện, dâng tấu rằng: “Thần trộm thấy vào thời Khang Định, Khánh Lịch, Triệu Nguyên Hạo nổi loạn, quân triều đình nhiều lần thất bại, thiếu quân chính quy, bèn bắt dân Thiểm Tây, trong ba đinh chọn một đinh, lấy làm hương cung thủ, sau lại bắt sung vào quân Bảo Tiệp chỉ huy, để phòng thủ biên giới. Dân chúng trong làng xóm oán hận, không thể kể xiết. Dân làm ruộng trồng dâu, không quen chiến đấu, triều đình đã tốn kém quần áo lương thực, nhà dân lại phải cung cấp, thân nhân ly tán, ruộng vườn tiêu tan. Dân Thiểm Tây đến nay hơn hai mươi năm vẫn chưa khôi phục được như cũ là vì vậy. Lúc ấy, biên sự ở Hà Bắc, Hà Đông tạm yên, triều đình chỉ bắt dân sung vào nghĩa dũng, không bắt làm quân chính quy. Nay các quan nghị luận chỉ trách Thiểm Tây không có nghĩa dũng, không biết rằng dân Thiểm Tây ba đinh đã có một đinh sung vào quân Bảo Tiệp rồi. Từ khi có việc phương Tây, dân Thiểm Tây khốn khổ vì thuế má, so với trước niên hiệu Cảnh Hữu, sức dân đã hao tổn hai phần ba; lại thêm những năm gần đây liên tiếp mất mùa, mùa thu này mới được mùa nhỏ, đang mong được nghỉ ngơi, lại gặp biên giới có động, lòng dân đã dao động, nếu lại nghe chiếu chỉ này ban xuống, ắt sẽ gây ra náo loạn lớn. Huống chi hiện nay quân chính quy ở Thiểm Tây rất nhiều, không đến nỗi thiếu, sao lại vội làm việc có hại không ích này, để đi theo vết xe đổ?”
Lại tâu rằng: “Thần trước đây lên điện xin bệ hạ lưu ý việc phòng bị biên cương. Cái gọi là phòng bị, không chỉ là tăng thêm quân mã đồn trú, tích trữ lương thảo, mà còn ở việc chọn tướng soái và sửa sang quân chính. Hiện nay, những tướng soái bất tài chưa nghe nói có sự thay đổi, quân chính suy đồi chưa nghe nói có sự chấn chỉnh, mà lại vô cớ bắt dân làm ruộng trồng dâu phải cầm vũ khí, chỉ gây thêm kinh động mà thực sự không có tác dụng gì.
Trước đây, vào thời Khang Định, Khánh Lịch, đã từng bắt dân Thiểm Tây làm hương cung thủ[10], ban đầu ra lệnh rõ ràng rằng chỉ để họ bảo vệ làng xóm, nhất định không bắt họ làm chính quân đồn trú biên giới. Lệnh chưa thu hồi, mà triều đình đã bắt hết làm quân Bảo Tiệp chỉ huy, lệnh cho họ đồn trú ở các châu biên giới. Lúc đó, thần đang chịu tang ở Thiểm Tây, chứng kiến rõ sự việc. Dân chúng vốn sống trong thái bình, không biết đến chiến tranh, đột nhiên bị điều động làm lính, từ Thiểm Tây trở về tây, trong làng xóm như mỗi người đều có tang, mỗi nhà đều bị cướp, thường trốn tránh ra ngoài, quan lại bắt cha mẹ vợ con của họ, gấp rút truy bắt[11], bán ruộng vườn để nộp tiền thưởng. Sau khi bị xăm mặt, các viên chức và giáo đầu thấy họ giàu có, trăm phương nghìn kế bóc lột; quần áo lương thực không đủ tự nuôi thân, phải lấy từ nhà riêng; hoặc đồn trú ở biên giới, lại phải cung cấp từ xa ngàn dặm, tài sản của cha mẹ ngày càng hao mòn, đến mức không còn gì. Huống chi, họ vốn chỉ quen làm ruộng trồng dâu, còn áo giáp cung nỏ giáo mác, dù có tập luyện hàng ngày, vẫn không tránh khỏi lúng túng, khi đối mặt với kẻ địch, chỉ muốn bỏ chạy, không chỉ tự hại mình, mà còn kéo lùi cả đội hình. Sau đó, quan lại biết họ vô dụng, bèn đại quy mô loại bỏ, cấp giấy tờ, cho về tự do. Nhưng họ đã quen lười biếng, không muốn làm ruộng nữa; thêm vào đó, ruộng vườn đã hết, không còn hy vọng trở về, đều lưu lạc đói rét, không biết đi đâu. Người già đến nay nhắc lại, vẫn thở dài rơi lệ, việc đó là sai lầm[12], rõ ràng có thể thấy.
Nay triều đình tuy nói rằng chỉ xăm lưng bàn tay, lúc nông nhàn giao cho châu huyện tập hợp huấn luyện, chỉ ở làng xóm, không bắt đồn trú biên giới, nhưng dân chúng nhớ lại chuyện năm xưa, ắt sẽ đồn đại, kinh động lẫn nhau. Triều đình đã nhiều lần thất tín, dù quan lại châu huyện đến từng nhà giải thích, cũng không ai tin. Trốn tránh, tù tội ắt sẽ nhiều, tiếng oán than lan khắp một phương[13], đủ để làm lung lay lòng người, tổn thương khí hòa. Nếu có chút ích lợi cho nước, cũng không đáng kể; nhưng việc này có hại mà không có lợi, rõ ràng minh bạch. Kính mong bệ hạ thương xót dân chúng, sớm bãi bỏ.”
Lại tấu rằng: “Thần nghe rằng, Kinh Dịch nói: ‘Không xa mà trở lại, không hối hận. Đại cát.’ Thuyết Mệnh nói: ‘Không xấu hổ vì lỗi lầm mà làm điều sai trái.’ Nay tuy sắc lệnh đã ban xuống, nếu có thể đuổi theo mà ngăn lại, vẫn còn hơn là cứ thế làm mà không xem xét. Không thể vì tránh sự nghi ngờ về việc thay đổi mà rơi vào cái hung của sự mê muốn. Dân chúng một khi đã bị chích tay, thì suốt đời bị trói buộc, không thể tự do, lòng người sợ hãi, không cần nói cũng biết. Năm Khang Định, khi tuyển chọn hương cung thủ[14], vốn không chích tay, sau đến năm Khánh Lịch, chích tay sung vào quân Bảo Tiệp, nhà giàu có còn có thể dùng nhiều tiền của, thuê người khỏe mạnh thay thế. Nay tất cả đều chích tay, tức là hơn mười vạn người vô tội vĩnh viễn phải ghi tên vào quân ngũ, không thể trở lại làm dân thường, việc này hại dân còn hơn cả thời Khang Định. Mong rằng hạ lệnh cho Thiểm Tây lộ, chưa vội tuyển chọn và chích tay Nghĩa Dũng, đợi lệnh sau, rồi mời các khanh sĩ đại phu, thảo luận kỹ càng về việc này có nên làm hay không[15].”
Lại tấu rằng: “Thần những ngày qua đã suy nghĩ kỹ việc này[16], thực sự đối với dân có hại lâu dài, còn đối với nước thì chẳng có lợi lộc gì.
Tại sao nói đối với dân có hại lâu dài? Thần thấy rằng ở Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, trước niên hiệu Cảnh Hữu vốn không có nghĩa dũng, mọi việc sai dịch ở các châu huyện đều do những hộ giàu có đảm nhiệm. Còn những hộ nghèo ở thôn quê, ngoài việc nộp hai thứ thuế, không phải chịu thêm lao dịch nặng nề gì, nếu không phải năm đói kém lớn, thì đều được no cơm ấm áo, cha con anh em vui vẻ hòa thuận.
Từ niên hiệu Bảo Nguyên, Khánh Lịch về sau, đem toàn bộ cung thủ ở Thiểm Tây sung vào quân chính hiệu Bảo Tiệp, từ đó dân chúng khổ sở lo lắng. Dân ở Hà Bắc, Hà Đông so với Thiểm Tây tuy không phải rời nhà xa quê đi biên thùy chống giặc, nhưng một khi đã bị xăm lên tay, nếu gặp năm lụt lội hạn hán, muốn dắt díu nhau đi nơi khác kiếm ăn, hoặc muốn bán hết ruộng vườn đi làm thuê, đều sợ quan phủ bất ngờ điểm danh, không dám đi đâu. Lúc điểm danh, quan lại châu huyện há chẳng nhũng nhiễu? Lúc tập luyện, quân quan giáo đầu há chẳng vơ vét? Vì thế ngoài những việc sai dịch thường ngày, lại thêm một thứ lao dịch nữa.
Triều đình những năm gần đây sai các quan đi khắp các lộ giảm bớt lao dịch, ngay cả những việc như cung thủ, tráng đinh, giải tử, dịch tử mà châu huyện không thể thiếu, cũng đều giảm bớt, gọi là thương xót sức dân, nay lại vô cớ bắt hơn mười vạn dân một lộ xăm vào tay làm nghĩa dũng. Sao triều đình trước kia thương dân, nay lại nỡ lòng, thương xót việc nhỏ mà quên việc lớn? Hơn nữa, một khi đã ghi tên vào sổ, thì số nghĩa dũng ở châu huyện đều có định số, mỗi khi có người chết hoặc bỏ trốn, châu huyện tất phải bổ sung ngay, mà thân phận nghĩa dũng đã bị trói buộc đến già chết, nếu con cháu đến tuổi tráng đinh, lại không tránh khỏi bị xăm vào tay làm nghĩa dũng, khiến cho dân Thiểm Tây đời đời kiếp kiếp luôn có một phần ba làm lính. Vì thế thần nói đối với dân có hại lâu dài.
Tại sao nói đối với dân có hại lâu dài? Thần thấy rằng ở Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, trước niên hiệu Cảnh Hữu vốn không có nghĩa dũng, mọi việc sai dịch ở các châu huyện đều do những hộ giàu có đảm nhiệm. Còn những hộ nghèo ở thôn quê, ngoài việc nộp hai thứ thuế, không phải chịu thêm lao dịch nặng nề gì, nếu không phải năm đói kém lớn, thì đều được no cơm ấm áo, cha con anh em vui vẻ hòa thuận. Từ niên hiệu Bảo Nguyên, Khánh Lịch về sau, đem toàn bộ cung thủ ở Thiểm Tây sung vào quân chính hiệu Bảo Tiệp, từ đó dân chúng khổ sở lo lắng. Dân ở Hà Bắc, Hà Đông so với Thiểm Tây tuy không phải rời nhà xa quê đi biên thùy chống giặc, nhưng một khi đã bị xăm lên tay, nếu gặp năm lụt lội hạn hán, muốn dắt díu nhau đi nơi khác kiếm ăn, hoặc muốn bán hết ruộng vườn đi làm thuê, đều sợ quan phủ bất ngờ điểm danh, không dám đi đâu. Lúc điểm danh, quan lại châu huyện há chẳng nhũng nhiễu? Lúc tập luyện, quân quan giáo đầu há chẳng vơ vét? Vì thế ngoài những việc sai dịch thường ngày, lại thêm một thứ lao dịch nữa.
Triều đình những năm gần đây sai các quan đi khắp các lộ giảm bớt lao dịch, ngay cả những việc như cung thủ, tráng đinh, giải tử, dịch tử mà châu huyện không thể thiếu, cũng đều giảm bớt, gọi là thương xót sức dân, nay lại vô cớ bắt hơn mười vạn dân một lộ xăm vào tay làm nghĩa dũng. Sao triều đình trước kia thương dân, nay lại nỡ lòng, thương xót việc nhỏ mà quên việc lớn? Hơn nữa, một khi đã ghi tên vào sổ, thì số nghĩa dũng ở châu huyện đều có định số, mỗi khi có người chết hoặc bỏ trốn, châu huyện tất phải bổ sung ngay, mà thân phận nghĩa dũng đã bị trói buộc đến già chết, nếu con cháu đến tuổi tráng đinh, lại không tránh khỏi bị xăm vào tay làm nghĩa dũng, khiến cho dân Thiểm Tây đời đời kiếp kiếp luôn có một phần ba làm lính. Vì thế thần nói đối với dân có hại lâu dài. Tại sao nói đối với nước chẳng có lợi lộc gì? Thời Thái Tổ, Thái Tông chưa có nghĩa dũng, đến quân chính hiệu cũng không bằng một phần mười ngày nay, thế mà Thái Tổ lấy được Kinh Hồ, bình được Tây Xuyên, hạ được Quảng Nam, đánh được Giang Nam; Thái Tông lấy được Lưỡng Chiết, đánh được Hà Đông, thống nhất thiên hạ dễ như nhặt lá khô. Đó há phải là sức mạnh của nghĩa dũng? Ấy là do chính sự được tu chỉnh, quân lệnh nghiêm minh, tướng soái được người, quân sĩ tinh nhuệ.
Niên hiệu Khang Định, Khánh Lịch, Triệu Nguyên Hạo phụ ơn nhiều đời, vô cớ làm phản, ngạo mạn bất kính, xâm phạm biên giới. Triều đình dốc hết sức lực trong thiên hạ để phòng thủ biên cương, Lưu Bình, Nhâm Phúc, Cát Hoài Mẫn lần lượt tử trận, quân sĩ chết đến hàng vạn. Quân chính hiệu không đủ, lại thêm hương binh, kho ngoài không đủ, lại lấy kho trong, sức dân kiệt quệ, của cải cạn kiệt. Cuối cùng không thể đưa một cánh quân vượt qua vùng đất hiểm trở để trừng phạt tội ác, mà phải nhẫn nhục, ban cho danh hiệu cao quý, dùng hậu lễ dụ dỗ, mới tạm yên. Lúc đó, ba lộ mới đặt hương binh tổng cộng mấy chục vạn, có được sức một người nào không? Xem đó thì biết nghĩa dũng vô dụng. Giả Nghị nói: “Xe trước đổ, xe sau rút kinh nghiệm.” Chính sách phòng thủ biên giới thời Khang Định, Khánh Lịch, quốc gia nên lấy làm bài học mãi mãi, nay lại cứ theo đúng thể lệ lúc đó mà làm, thì xe sau lại sắp đổ.
Có người chất vấn thần rằng: “Quân thời xưa đều lấy từ dân, há dân binh dùng được thời xưa mà không dùng được thời nay sao?” Thần đáp: “Thời Tam Đại, dùng phép tỉnh điền để xuất quân sĩ xe ngựa, ở nhà thì theo tổ chức tỷ, lư, tộc, đảng, châu, hương, ra trận thì theo tổ chức ngũ, lưỡng, tốt, lữ, sư, quân, người đứng đầu đều là khanh sĩ đại phu. Đầu đời Đường, phủ binh đều có doanh phủ, có tướng quân, lang tướng, chiết xung, quả nghị để thống lĩnh, vì thế lệnh vừa ban, mấy vạn quân có thể tập hợp ngay, không ai dám trốn tránh. Vì kỷ cương đã có sẵn. Nay hương binh thì không như vậy, tuy có danh hiệu quân viên tiết cấp, nhưng đều là người thân thích trong họ tộc, lúc thường cùng nhau vỗ vai nắm tay, uống rượu đánh nhau, không như quân chính hiệu có trật tự trên dưới nghiêm ngặt. Nếu lúc yên ổn vô sự, châu huyện tập hợp tập luyện, thì cũng có hàng ngũ cờ trống, giương cung bắn nỏ, ngồi đứng hò hét, trông như có thể đánh giặc; nhưng nếu nghe tin giặc lớn tràn vào, quân biên giới đã thua, thành trì thất thủ, thì không ai là không nghe gió bỏ chạy, quân viên tiết cấp sẽ như chim sợ, chuột chạy[17], tự cứu mình còn không xong, há có một người nào vì triều đình dẫn quân chống giặc không? Theo thần thấy, đó chỉ là trò trẻ con mà thôi.” Há có vì quốc gia mà quấy nhiễu dân một lộ, khiến họ tan cửa nát nhà, để làm trò trẻ con sao? Vì thế thần nói đối với nước chẳng có lợi lộc gì.”
Lại tấu rằng: “Nay những người đề nghị cho rằng việc lập nghĩa dũng là tiện lợi, ắt sẽ nói rằng hiện nay Hà Bắc, Hà Đông không cần cung cấp lương thực mà có được hơn mười vạn quân tinh nhuệ, đều được huấn luyện tinh thông, có thể chiến đấu với địch; lại nữa, binh lính xuất thân từ dân gian, phù hợp với chế độ cổ xưa. Thần xin nói rằng điều đó không đúng. Số hơn mười vạn đó chỉ là con số hư ảo; việc huấn luyện tinh thông chỉ là vẻ bề ngoài; việc binh lính xuất thân từ dân gian, tuy danh nghĩa giống cổ xưa nhưng thực chất khác biệt. Xưa kia, binh lính xuất thân từ dân gian, những gì thu được từ cày cấy, trồng dâu đều dùng để nuôi sống gia đình, nên khi ở nhà thì giàu có, khi ra trận thì tinh nhuệ. Nay đã thu thuế lúa vải của nông dân để nuôi quân chính quy, lại bắt nông dân đi lính, tức là một nhà phải gánh vác việc của hai nhà. Như vậy, tài lực của dân sao không kiệt quệ? Theo ý kiến ngu muội của thần, dân đã bị bắt đi lính ở Hà Bắc, Hà Đông còn nên được tha về, huống chi là dân chưa bị bắt đi lính ở Thiểm Tây?
Bệ hạ muốn biết thực chất lợi hại, sao không thử triệu người đề nghị mà hỏi rằng: ‘Từ khi Hà Bắc, Hà Đông lập nghĩa dũng đến nay, giặc đã mấy lần xâm nhập sâu vào các châu quân trong nội địa, dùng nghĩa dũng chống cự mà giặc thua chạy? Nay đã có nghĩa dũng rồi, ba lộ quân chính quy có thể bỏ đi không dùng nữa không?’ Nếu quả thật giặc từng xâm nhập sâu, nhờ sức nghĩa dũng mà thua chạy, nay sau khi bắt nghĩa dũng, quân chính quy có thể bỏ đi, thì đây là kế sách lâu dài muôn đời, xin Bệ hạ thực hiện đừng nghi ngờ. Nếu từ khi lập nghĩa dũng đến nay, chưa từng dùng để đối phó với giặc, nay dù có nghĩa dũng, quân chính quy cũng chưa thể bỏ đi, thì sao nỡ lấy hơn mười vạn đứa trẻ vô tội, bắt hết làm lính vô dụng? Nếu cho rằng mệnh lệnh đã ban ra, không muốn thay đổi ngay, thì xin tạm miễn việc xăm lên mu bàn tay, đợi khi biên sự yên ổn, lại tha về như cũ, thì dân tuy có chịu phiền nhiễu một thời, nhưng vẫn tránh được nỗi khổ bị trói buộc suốt đời. Nếu cho rằng lời thần nói đều là vu khoát, không thể thi hành, thì kiến thức của thần ngu muội, lại không thể tiếp tục làm nhơ bẩn hàng ngũ gián quan, mong chọn người hiền tài khác thay thế.”
Lại tấu rằng: “Thần hôm qua lên điện xin bãi bỏ việc tuyển chọn dân nghĩa dũng, bệ hạ tuyên dụ rằng mệnh lệnh đã ban ra. Thần lui về suy nghĩ, không khỏi bức bối, suốt đêm không ngủ, rất lo lắng về lời nói sai lầm này của bệ hạ. Từ xưa đến nay, các bậc minh quân thánh chúa, nghe được lời hay lập tức thay đổi hiệu lệnh nhiều không kể xiết. Chỉ có những năm gần đây, các đại thần tự biết suy nghĩ chưa chín chắn, hiệu lệnh đã sai, không thể ngăn cản lời can gián của đài gián, bèn nói rằng mệnh lệnh đã ban ra, khó mà thay đổi, đó là lời từ chối can gián và che đậy lỗi lầm.
Bệ hạ mới lâm chính, đang là lúc cầu điều hay không chán, nghe lời can gián như nước chảy mà lại có lời nói như vậy, thiên hạ còn trông mong gì nữa! Vả lại, trước thời Đường, các chức Gián nghị đại phu, Thập di, Bổ khuyết đều là thuộc quan của Trung thư, Môn hạ tỉnh, ngày ngày cùng Trung thư lệnh, Thị trung hầu cận bên cạnh thiên tử[18], bàn luận việc lớn, nếu việc có sai sót, đều có thể tùy thời sửa chữa. Nay trong nước, hễ có việc lớn, chỉ có mấy vị đại thần của hai phủ bàn bạc với nhau, kín đáo nghiêm ngặt, các quan ngoài triều không ai biết, đến khi chiếu sắc đã ban ra, rồi các quan đài gián mới được biết. Nếu việc có chỗ chưa đúng, phải bàn luận, lại nói rằng mệnh lệnh đã ban ra, khó mà thay đổi, như vậy thì trong nước hễ có chính sự sai lầm, đều không thể cứu vãn được. Như thế, không chỉ riêng thần ngu muội này vô dụng trong thời buổi này, mà các chức quan can gián đều có thể bãi bỏ. Theo thần thấy, chỉ nên bàn việc đúng sai, lời phải trái, không nên nói rằng mệnh lệnh đã ban ra không thể thay đổi.
Nay dân chúng một lộ Thiểm Tây, lớn bé đều hoang mang, như đang ở trong nước sôi lửa bỏng, nếu bỗng được triều đình chỉ thị, rằng tất cả dân nghĩa dũng tạm ngừng tuyển chọn[19], những người đã được chích vào mu bàn tay, đều cấp cho giấy tờ công nhận và cho về, như vậy là được ra khỏi nước sôi lửa bỏng[20], chết đi sống lại. Ai mà không vui mừng hò reo, cảm kích ơn đức của bệ hạ, há có ai nói rằng mệnh lệnh đã ban ra không nên thay đổi nữa[21]! Bệ hạ là cha mẹ của muôn dân, muôn dân là con đỏ của bệ hạ, há có cha mẹ lỡ để con rơi xuống giếng mà nói ‘ta lỡ rồi’, rồi nỡ lòng không cứu sao?
Xưa Thuấn khen đức của Nghiêu rằng ‘xét ý dân, bỏ mình theo người’; Trọng Hôi khen đức của Thang rằng ‘dùng người như mình, sửa lỗi không tiếc’. Thần mong bệ hạ đừng lấy lời nói trước làm chủ, hãy lắng lòng bình tĩnh xem xét năm lần thần tâu trước đây quả là đúng hay sai. Nếu đúng, xin sớm ban chỉ thị, bãi bỏ việc tuyển chọn dân nghĩa dũng ở Thiểm Tây; nếu sai, xin như lời thần tâu trước, đặc cách giáng chức, chọn người hiền tài khác thay thế. Những lời ‘mệnh lệnh đã ban ra’, thần mong bệ hạ từ nay về sau lấy đó làm răn, không để thiên hạ nghe thấy, bịt kín con đường nghe lời hay.” Vua cuối cùng không nghe.
Quang lại dâng sớ sáu lần và trình lên Trung thư, tự hặc xin từ chức, cuối cùng cũng không được chấp thuận[22].
Quang thường đến Trung thư tranh luận với Hàn Kỳ, Kỳ nói với Tư Mã Quang: “Binh pháp quý ở tiếng tăm trước, thực lực sau. Nay Lượng Tộ đang kiêu ngạo, nghe tin Thiểm Tây đột nhiên tăng thêm hai mươi vạn quân, há chẳng kinh sợ sao?”
Quang đáp: “Dùng tiếng tăm trước trong binh pháp là vì không có thực lực[23], chỉ có thể lừa dối địch trong một ngày mà thôi, nếu chậm trễ thì địch biết rõ tình hình, không thể dùng lại được nữa. Nay ta tuy tăng thêm hai mươi vạn quân, nhưng thực chất không thể dùng được, qua mười ngày, người Tây Hạ biết rõ chi tiết, há còn sợ nữa sao?”
Kỳ không trả lời được, lại nói: “Ông chỉ thấy thời Khánh Lịch, dân làng Thiểm Tây ban đầu xăm lên mu bàn tay, sau đó đều xăm lên mặt sung làm chính quân, lo ngại nay lại như vậy. Nay đã ban sắc lệnh hứa với dân, sẽ không bao giờ bắt họ sung quân đi biên thùy nữa.”
Quang nói: “Dù là tôi cũng không khỏi nghi ngờ.”
Kỳ nói: “Ta ở đây, ông không phải lo lời này không đáng tin.”
Quang nói: “Tôi rốt cuộc không dám tin, không chỉ không dám, mà còn sợ rằng ngay cả tướng công cũng không thể tự tin được.”
Kỳ giận dữ nói: “Ông sao lại coi thường ta đến thế?”
Quang đáp: “Tướng công cứ ở đây thì được, nhưng nếu có người khác lên thay[24], dựa vào quân đội mà tướng công đã xây dựng, sai người vận lương đi biên thùy, chỉ là chuyện trong chớp mắt thôi[25]!” Kỳ im lặng, cuối cùng không dừng lại.
Mười năm sau, việc nghĩa dũng vận lương đi biên thùy trở thành chuyện thường lệ[26].
(Xét đoạn này bản gốc có nhiều sai sót, nay căn cứ vào 《Tống Sử》 và 《Tiết Thị Tục Cương Mục》 để sửa chữa.)
[11] Ngày Mậu Dần, ban chiếu cho nội thị gặp ngày Thánh tiết, Nam giao tiến con được hưởng bổng lộc như cũ[27]. Xét sách 《Tống sử》 chép rằng khôi phục lệnh cho nội thị nuôi con, chính là việc này. Ngày Canh Tý tháng 5 năm Gia Hựu thứ 4 ban chiếu bãi bỏ, theo lời tấu của Xu mật viện. 《Hội yếu》 chép lời tấu của Xu mật viện, việc này ắt có nguyên do, cần xét lại.
[12] Ngày Kỷ Mão, Tri Quế châu Lục Sân tấu việc sứ Giao Chỉ bàn nghị, Vua bèn hỏi: “Giao Chỉ cát cứ từ năm nào?” Các quan phụ tá đáp: “Từ năm Chí Đức đời Đường đổi làm An Nam đô hộ phủ, đến năm Trinh Minh đời Lương, thổ hào Khúc Thừa Mỹ chiếm cứ đất này.” Hàn Kỳ nói: “Trước đây từ khi Lê Hoàn[28] làm phản, Thái Tông sai tướng đi đánh không khuất phục, sau sai sứ chiêu dụ, mới chịu thuần phục. Đường núi hiểm trở, nhiều sương mù, khí độc, dù chiếm được đất cũng khó giữ, nên dùng chính sách khoan dung mà vỗ về.”
[13] Mùa đông năm đó, Lục Sân bắt đầu đi tuần biên đến châu Ung, triệu tập tướng lĩnh 45 động thuộc Tả Giang, Hữu Giang đến dưới trướng[29], duyệt binh dân được 5 vạn tinh binh, bổ nhiệm tướng hiệu, xin đúc lại ấn cấp cho họ, tấu xin miễn thuế vật tích nợ mấy vạn ở hai Giang. Giao Chỉ rất sợ, bèn sai sứ sang triều cống, lời lẽ cung kính hơn trước. Sau đó, Lục Sân lại tấu xin mỗi năm tập luyện dân binh một lần, được chấp thuận, và từ nay cứ ba năm lập sổ một lần tâu lên. Việc này chép kèm. Giao Chỉ sai sứ chắc có ngày tháng riêng, Lục Sân xin dân binh các động Khê châu Ung mỗi năm tập luyện một lần, ba năm lập sổ một lần tâu lên, là việc tháng 8 năm sau, nay chép kèm.
[14] Đồn điền viên ngoại lang, tri huyện Tương Ấp là Phạm Thuần Nhân được bổ làm Giang Đông chuyển vận phán quan. Ở Tương Ấp có đất chăn nuôi, bọn lính cận vệ thả ngựa phá hoại ruộng dân, Thuần Nhân bắt một người đánh trượng. Đất chăn nuôi vốn không thuộc quyền quản lý của huyện, có chiếu chỉ xét hỏi Thuần Nhân. Thuần Nhân tâu rằng binh lính cần nông dân nuôi dưỡng, thương binh thì nên thương nông dân trước, triều đình cho là phải, tha không xét hỏi, và cho phép đất chăn nuôi thuộc quyền quản lý của huyện, bắt đầu từ Thuần Nhân. Thuần Nhân là con của Phạm Trọng Yêm.
[15] Ngày Mậu Tý, Tướng tác giám trí sĩ, được tặng chức Thái tử Thiếu sư là Ngô Hoài Đức mất. Ông là cha của Xu mật phó sứ Ngô Khuê, được tặng chức Thái tử Thiếu sư. Hoài Đức lúc trẻ nghèo hèn, không chịu gò bó, đến khi Khuê làm quan to, vẫn thường uống rượu đánh bạc với bọn tiểu nhân ngoài chợ không chọn lựa, nhưng đối với Khuê rất nghiêm khắc, không vì con làm quan mà nới tay. Khuê chịu tang cha, gầy mòn, dựng lều ở bên mộ, suốt thời gian chịu tang không uống rượu ăn thịt, ngày lễ tết cúng tế nghiêm trang, không theo tục làm việc Phật giáo. Việc này có thể xem thêm trong sách 《Đông Trai Ký Sự》 của Phạm Trấn.
[16] Tháng 12, ngày Canh Tý, Tri chế cáo Tổ Vô Trạch dâng bài 《Hoàng Cực Châm》, được ban chiếu khen thưởng.
[17] Ngày Bính Ngọ, Hàn lâm học sĩ, Lễ bộ Thị lang Vương Trù được bổ làm Xu mật phó sứ. Vua từng nói với các đại thần: “Trù giỏi văn chương.” Âu Dương Tu nói: “Người ấy cũng cương trực, chỉ là không thích tiếng tăm lừng lẫy mà thôi.” Một buổi tối, Vua ngự ở tiểu điện, triệu Trù vào soạn chiếu, nhân đó trò chuyện thân mật về việc trong ngoài, nói chuyện rất lâu. Vua vui mừng nói: “Khanh thanh liêm, cương trực, hiếu học, Trẫm biết đã lâu, không phải hôm nay mới biết.” Chẳng bao lâu sau, bèn có lệnh này. Trù từ chối không dám nhận, Vua sai nội thị thúc giục Trù vào, ngự ở điện Diên Hòa đợi, mặt trời đã xế bóng, đợi Trù vào rồi mới về.
[18] Tri chế cáo Tiền Công Phụ phong hoàn từ đầu, nói rằng Trù vọng nhẹ, tư cách còn non, ở đài chỉ ăn lương không, không thể dùng vào việc lớn, lại tiến cử nhiều cận thần có thể làm phụ tá. Vua cho rằng mới lên ngôi mà bổ nhiệm hai phủ, mà Công Phụ ngăn trở mệnh lệnh không thi hành, ngày Đinh Mùi, giáng làm Phó sứ Đoàn luyện châu Trừ, không ký tên vào việc của châu. Tri chế cáo Tổ Vô Trạch xin giảm nhẹ tội cho Công Phụ, và không vội soạn chiếu. Vua muốn trị tội cả Vô Trạch, Trung thư can thiệp, ngày Mậu Thân, bị phạt 30 cân đồng.
[19] Tri gián viện sự Lã Hối tâu: “Trù từ khi đỗ khoa thi đã 35 năm, làm quan không ra khỏi kinh thành, tiến thân bằng con đường tắt, từ đó có thể biết. Công Phụ nói ông ta tư cách còn non, vọng nhẹ, là muốn triều đình chọn dùng người hiền tài, không phải là quá đáng. Giáng chức quá nặng, sĩ luận xôn xao[30], thần xin bệ hạ xét lại. Xin khôi phục chức cũ cho Công Phụ, chỉ tước bỏ chức vụ, điều đi làm tri châu quân nhỏ hẻo lánh, để ông ta suy nghĩ về lỗi lầm, nhằm làm dịu bớt dư luận xôn xao.” Thiên Chương các đãi chế kiêm thị giảng Lữ Công Trước cũng dâng sớ xin bãi bỏ lệnh giáng chức Công Phụ, nhưng không được trả lời. Mấy ngày sau, Long Đồ các trực học sĩ Lư Sĩ Tông nhân tâu việc Thẩm hình viện ở điện tiện, nhân tiện lại nói với Vua rằng dư luận bên ngoài đều cho rằng giáng chức Công Phụ quá nặng, nhưng Vua vẫn không nghe. Tháng 12 năm sau, mới cho làm Viên ngoại lang Bộ Hình, tri quân Quảng Đức.
[20] Ghi chép về con trai của Trương Thuật, nguyên là Đề điểm ngân duyên đồng tích khanh dã chú tiền sự[31], Chức phương viên ngoại lang, tên là Phủ Hầu, làm Thái miếu trai lang. Tư Mã Quang dẫn việc này để bàn về Trần Chu, cần xem xét.
[21] Điện tiền và Mã bộ quân ty tâu xin sắp xếp thứ bậc cho các quân trong và ngoài, nỏ từ bốn thạch năm đấu trở lên, hai đấu tương đương một đấu cung, dưới bốn thạch năm đấu, ba đấu mới tương đương một đấu cung; đối với thương và đao, lấy người có số lần tập luyện thuần thục làm tiêu chuẩn, nếu kỹ năng ngang nhau thì ưu tiên người dùng thương. Triều đình đồng ý. Trước đây, thứ bậc sắp xếp theo thứ tự cung, nỏ, thương, đao, nhưng nỏ bốn thạch vẫn xếp dưới cung tám đấu, người ta cho là không hợp lý, nên mới cải cách.
[22] Nội thị tỉnh áp ban, Văn tư phó sứ Vương Chiêu Minh được bổ làm Kiềm hạt binh mã trú bạc lộ Hoàn Khánh, chuyên quản lộ này kiêm quản công việc phiên bộ lộ Phu Diên, đóng quân ở Khánh châu; Cung bị khố phó sứ, Đái ngự khí giới Lý Nhược Ngu được bổ làm Quyền kiềm hạt binh mã trú bạc lộ Kinh Nguyên, chuyên quản lộ này kiêm quyền quản công việc phiên bộ lộ Tần Phượng, đóng quân ở Vị châu[32]. Lệnh cho họ thăm dò tình hình phiên, xử lý các vụ kiện tụng, nếu có thưởng phạt thì bàn bạc với tướng lĩnh, việc lớn thì tâu lên, mỗi năm được phép dùng ngựa trạm để tấu sự; tập hợp người mạnh, ngựa khỏe, chuẩn bị kế hoạch từ trước, khi giặc đến thì bố trí nơi an toàn cho người già yếu. Vài ngày sau, lại bổ Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Lương Thực quản lộ Tần Phượng, Nội điện thừa chế Hàn Tắc Thuận quản lộ Phu Diên, còn Vương Chiêu Minh và Lý Nhược Ngu thì chuyên quản lộ của mình. Thời trước, hoạn quan tham gia việc biên cương, tướng lĩnh không thể phát huy hết khả năng[33], khi có mệnh lệnh này, người ta không cho là tiện. Sách 《Thực lục》 chép rằng cuối cùng bãi bỏ, có lẽ là ghi chép sự việc tháng 6 năm Trị Bình thứ 4, không lấy.
[23] Gián quan Lã Hối tâu: “Từ đời Đường đến nay, việc cất quân không thành công, đều là do giám quân. Triều ta vẫn còn nhiều tệ nạn cũ, lâu nay chưa cải cách, sao lại còn thêm chức vụ này? Như chức Tẩu mã thừa thụ, phẩm hàm rất thấp, mà một lộ đã chịu không nổi sự hại của họ, huống chi nay chức Kiềm hạt là trọng trách, thực quyền đã ngang với An phủ sứ. Nguyên ý triều đình, ắt là do trước đây thục hộ phản bội, cung tiễn thủ đào tẩu, nên cho họ được khao thưởng thường xuyên, chỉ biết khoan dung, sao lại sơ suất đến thế!
Thần từng thấy thục hộ cày cấy ruộng công, không phải chịu thuế má và lao dịch, khi có chiến sự mới xuất một người một ngựa, ngoài ra không bị xâm phạm gì, yên ổn làm ăn. Giới ngoại sinh hộ không có lòng phản Hán là rõ ràng, chỉ vì Lượng Tộ dụ dỗ họ bằng lợi lớn, uy hiếp họ bằng binh lực hùng hậu, biên thần ngồi nhìn họ bị giết hại, không cứu giúp, họ phải chạy trốn cái chết[34], há phải là bất đắc dĩ sao? Nếu uy vũ được thi thố ở biên giới, người Hạ không dám xâm lấn, thục hộ tự nhiên yên ổn. Nếu không, dù có thết đãi bò rượu hậu hĩ, ngày ngày khao thưởng, cũng chỉ tốn kém vô ích, có ích gì cho việc đâu! Đến như quân sĩ lâu ngày không được huấn luyện, là do quan binh không chịu phối hợp, giả sử trong số vũ tướng có một viên là nội thần[35], thì không thích dạy bảo, chỉ biết khoan dung, sợ sinh chuyện. Trên dưới a dua qua loa, khiến quân đội không thể tinh nhuệ, đó là hiệu quả của sự khoan dung của trung quan vậy. Việc biên cương nếu chỉ xử trí như thế, chưa thấy cái lợi mà chỉ thấy cái hại, rào giậu chẳng mấy chốc sẽ đổ nát hết, rào giậu đổ nát thì biên thần nguy hiểm.
Thần trước đã tâu xin lúc yên ổn chỉnh đốn thục hộ, cung tiễn thủ, các đại thần bàn bạc, rốt cuộc không cho là phải. Thần xem cách xử trí hiện nay, thực không tiện, nếu im lặng không nói thì phụ trách nhiệm. Bốn viên Kiềm hạt kia, thần xin triều đình bãi bỏ, chọn kỹ suý thần, mọi việc đều giao phó, để quyền ngoài biên được chuyên chế, thì thể chế mới được trọng.”
Ngự sử Phó Nghiêu Dũ, Triệu Chiêm[36] đều có tâu bày, Chiêm lại nhân vào chầu, hết sức xin đòi Chiêu Minh về, bằng không thì xin bị đuổi đi nơi khác. Cuối cùng không được chấp thuận. Chiêm là người Chu Chất.
[24] Vương Chiêu Minh và những người khác đến, triệu tập các thủ lĩnh bộ tộc phiên[37], tuyên chiếu khao thưởng, ban thưởng bạc và lụa, kiểm tra binh mã các thành trại, căn cứ vào quy mô lớn nhỏ của các tộc, chia thành đội ngũ, cấp cờ hiệu, bảo họ tu sửa pháo đài, mỗi người trang bị khí giáp để sẵn sàng điều động; đồng thời quy định nếu có lệnh mà không tập hợp, thủ lĩnh đội ngũ sẽ bị xử theo quân pháp. Lộ Tần Phượng có 13 trại, 41.194 người mạnh mẽ, 7.991 ngựa khỏe; Lộ Phu Diên có 10 thành trại quân sự, 14.595 binh phiên, 2.382 ngựa quan, 6.548 người mạnh mẽ, 810 ngựa khỏe; Lộ Kinh Nguyên có 21 trấn trại thành, 12.466 người mạnh mẽ, 4.586 ngựa khỏe, chia thành 110 giáp, tổng cộng 505 đội; Lộ Hoàn Khánh có 28 trấn trại, 31.723 người mạnh mẽ, 3.495 ngựa khỏe, tổng cộng 1.182 đội. Đây là căn cứ theo bản chí, là sự việc năm Trị Bình thứ 2, nay ghi chép thêm.
[25] Tri châu Diên Châu Trình Kham tâu: “Bộ tộc phiên bỏ trốn là do khổ sở vì quan lại biên giới hà khắc, bị người Tây dụ dỗ. Nay Vương Chiêu Minh và những người khác chỉ có thể triệu tập thủ lĩnh, an ủi bằng lời nói, khao thưởng bằng rượu thịt, trà và lụa, nhưng chưa đủ để kết nối lòng người, mà lại gây xáo trộn nơi biên giới. Nên thay đổi, bổ nhiệm Vương Chiêu Minh và những người khác làm Lộ phân Kiềm hạt, Đô giám, mỗi người phụ trách một tướng quân mã, kiêm chức Tuần kiểm sứ dọc biên giới, không nên để họ chuyên trách việc bộ tộc phiên nữa.” Nhưng triều đình không nghe theo. Chính truyện của Trình Kham nói rằng triều đình nghe theo tấu chương của ông, nhưng điều này là sai.
[26] Thật lục viện Kiểm thảo quan, Tập hiền Hiệu lý Tống Mẫn Cầu, cùng Chư vương phủ Ký thất Tham quân, Trực tập hiền viện Hàn Duy đồng tu soạn 《Khởi cư chú》.
[27] Ban đầu, chức Tu khởi cư chú bị khuyết, Trung thư tiến cử Mẫn Cầu và Hiệu lý Tập hiền Dương Hội. Vua hỏi: “Chức Tu khởi cư chú tuyển người như thế nào?” Trung thư đáp: “Theo lệ gần đây, dùng những người đỗ cao trong khoa chế và tiến sĩ, cùng những người có tài năng và danh tiếng ở các chức vụ trong quán kiêm nhiệm. Hội là người đỗ tiến sĩ thứ hai năm Hoàng Hựu thứ 5, nay theo thứ tự nên được bổ nhiệm.” Vua nói: “Tu khởi cư chú tức là Tri chế cáo, sao lại theo thứ tự bổ nhiệm!” Bèn sai thay Hội. Hội là người Miên Trúc.
[28] Trước đó, Trương Phương Bình tâu: “Chức Tri chế cáo là để thay lời Vua làm chiếu lệnh, từ đó được triệu vào cấm cung, lệnh sung làm học sĩ[38], nếu không phải là người có tài năng và danh tiếng xứng đáng, sao có thể đảm nhận chức vụ này? Gần đây triều đình thường theo thứ tự bổ nhiệm, ngày càng gần với việc ban cáo mệnh, có khi lời lẽ thô thiển, trở thành trò cười. Thời xưa, khi quốc gia có việc, có khi chỉ bằng một tờ giấy, một lời nói mà có thể chế ngự kẻ địch từ ngàn dặm xa, khiến ba quân cảm kích, muôn dân vui vẻ nghe theo, kẻ phản nghịch thấy vậy mà đổi lòng, phương xa nghe tin mà hướng về giáo hóa. Vì vậy, biết rằng văn từ và thư mệnh có đủ sức giúp uy quốc gia, tuyên dương ân đức của Vua. Thời tổ tông, có người từ chức vụ ở châu huyện được đề bạt lên làm việc trong cấm cung, có người từ hai cấm cung bị giáng xuống làm quản khố, đều là dùng người có tài, chứ không phải vì người mà chọn chức. Chức Tu khởi cư chú, Sử quán tu soạn, tức là thứ tự để bổ nhiệm Tri chế cáo[39]. Nay các quan trong triều không tu dưỡng liêm sỉ, đến nỗi vi phạm hiến chương, trước pháp tòa tự tiện xin xỏ. Thần cho rằng việc bổ nhiệm như thế này nên xem xét kỹ lưỡng, phải chọn người có phẩm chất, tài năng, học vấn và khí chất để sau này có thể đảm nhận chức vụ đại thần, rồi mới đề bạt vào chức vụ đó. Văn vật thịnh vượng ở triều đình này, ánh sáng rực rỡ khắp thiên hạ, khiến danh khí được trọng vọng, uy nghi của triều đình được nâng cao.”
Lúc này Trương Phương Bình đã ra làm Tri châu Vận, có lẽ Phương Bình đã có lời tâu này trước, nên Anh Tông không theo lệ mà đặc cách bổ nhiệm người, nhân đó ghi chép lại, cần xem xét thêm.
[29] Ngày Quý Sửu, Triệu Biện, Lại bộ viên ngoại lang, Thiên Chương các đãi chế, Hà Bắc đô chuyển vận sứ, được bổ nhiệm làm Long Đồ các trực học sĩ, tri phủ Thành Đô. Trước đây, khi Biện đi sứ Thục, đã tâu rằng người Thục thích tà đạo, tụ tập đông người làm việc phi pháp, xin xử tử người cầm đầu, còn những người khác thì xăm mặt và lưu đày. Khi Biện đến, có người phạm tội bị bắt giam, người Thục rất sợ hãi. Biện nói với tù nhân: “Các ngươi nếu có thể quay lại làm ăn lương thiện, ta sẽ tha tội cho các ngươi.” Tất cả đều lạy đầu xin được tự cải tạo, chỉ xử tội người cầm đầu, còn những người khác được tha không hỏi tới, người Thục vui mừng và kính phục. Sau đó, Vua nói với chuyển vận sứ Vinh Nhân: “Triệu Biện trị Thành Đô, thực hiện chính sách trung hòa vậy.”
[30] Ngày Đinh Tị, Đô quan viên ngoại lang, Công sự Tu tạo án Tam ty là Trương Huy được quyền phái làm Phán quan Hộ bộ[40]. Đô quan viên ngoại lang, Tri huyện Đông Minh là Bì Công Bật được quyền phái làm Phán quan Độ chi[41]. Những năm gần đây, các quan Tam ty thăng chức theo thứ tự nhưng không giữ chức lâu, mọi việc về tài lợi trong thiên hạ, dù người có năng lực đảm nhiệm cũng chưa kịp tìm hiểu tường tận đã được thăng chức khác, nên dần hình thành thói quen coi việc giữ chức là để tích lũy kinh nghiệm và tạo bước đệm mà không thực sự chú tâm vào công việc.
Đến lúc này, Trung thư tâu xin chọn năm người giữ các chức vụ quan trọng và phức tạp nhất, dùng người ít kinh nghiệm nhưng giữ chức lâu dài, còn lại dành cho các chức Chuyển vận sứ và Đề điểm hình ngục các lộ làm bước thăng tiến. Do đó, đối với các án Diêm thiết, án Độ chi Tiền bạch, án Tu tạo Hộ bộ và ty Khai sách, chọn người mới nhậm chức Thông phán trên một năm để quyền phái làm việc, sau ba năm thì cho tái nhiệm, tính vào thứ tự như Tri châu; hai nhiệm Thông phán đủ sáu năm, tính vào thứ tự như Đề điểm hình ngục; ba nhiệm Thông phán đủ chín năm, tính vào thứ tự như Đề điểm hình ngục nhiệm thứ hai và cho ra ngoài; nếu chọn người đã nhậm chức Thông phán nhiệm thứ hai trên một năm để quyền phái làm việc, sau ba năm thì cho tái nhiệm, tính vào thứ tự như Đề điểm hình ngục nhiệm đầu; hai nhiệm Thông phán đủ sáu năm, tính vào thứ tự như Đề điểm hình ngục nhiệm thứ hai; ba nhiệm Thông phán đủ chín năm, thì cho làm Phán quan Tam ty, người muốn ra ngoài thì cho làm Chuyển vận phó sứ[42]. Nay lệnh cho Trương Huy và những người khác áp dụng chế độ mới này. Tháng 5 năm Gia Hựu thứ 7, Tư Mã Quang dâng sớ bàn về tài lợi, cần xem xét.
[31] Tư Mã Quang tâu: “Triều đình đặt lại chức Quyền phát khiển Tam ty phán quan sự, vừa để họ giữ chức lâu dài, lại đãi ngộ bằng chức vị không theo thứ tự, nên chọn người thanh liêm cô trực, khiến thiên hạ biết khuyến khích. Bì Công Bật làm quan, tham lam tích lũy giàu có, tính cách xảo quyệt, giỏi tiến thủ, ở kinh sư thì không ngừng xin xỏ, ở ngoài thì thư từ liên tục, chuyên dùng thủ đoạn này để được tiến cử hơn ba mươi người, một sớm được chọn đầu tiên, thực không xứng với ý cầu hiền của bệ hạ. Xin thu hồi mệnh lệnh trước, bắt về lại chức cũ.” Ông nhiều lần tâu như vậy, nhưng không được trả lời.
[32] Năm đó, số hộ là 1.248.941, số đinh là 2.882.252[43]; thuế hạ và thu là 15.949.869 thạch, do thiên tai miễn giảm 2.931.800 thạch; xử tử 2.493 người.
- Đã có lễ cùng phối thờ, chữ 'lễ' nguyên là 'nghi', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và 《Tống Hội Yếu》 Lễ 25-94 sửa. ↵
- Các bậc thông nho trong triều không cho là sai, chữ 'nho' nguyên thiếu, theo các bản trên và sách trên bổ. ↵
- có thể chọn những người được tiến cử nhiều lần để đặc cách thăng chức, hai chữ 'có thể' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống để bổ sung. ↵
- Chức phương viên ngoại lang Lý Sư Tích, chữ 'lang' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 phần 'Thích Thiểm Tây nghĩa dũng', cùng 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 phần thượng để bổ sung. ↵
- Thiết lập phủ binh thời Đường, chữ 'thiết' nguyên bản là 'chế', theo bản Tống toát yếu, các bản khác và 《Biên niên cương mục》 quyển 17 cùng 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 sửa lại. ↵
- Chữ 'bãi bỏ' nguyên bản thiếu, theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 bổ sung. ↵
- Chữ 'ruộng' nguyên bản là 'giáp', theo bản Tống, Tống toát yếu, các bản khác và 《Biên niên cương mục》 quyển 17, 《Tống sử》 quyển 190 Binh chí sửa lại. ↵
- Chữ 'khi' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56, 《Tống sử》 quyển 191 Binh chí bổ sung. ↵
- Chữ 'châu' nguyên bản là 'tháng', theo bản Tống toát yếu, các bản khác và đoạn trên sửa lại. ↵
- 'Bắt dân Thiểm Tây làm hương cung thủ', chữ 'bắt' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tư Mã Quang ôn quốc văn chính tư mã công văn tập》 quyển 31, 《Nghĩa dũng đệ nhị trát tử》 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56, 《Thích Thiểm Tây nghĩa dũng》 bổ sung. ↵
- 'Gấp rút truy bắt', chữ 'gấp' nguyên bản là 'như', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và trát tử trên sửa lại. ↵
- 'Việc đó là sai lầm', chữ 'lầm' nguyên bản là 'nghiệp', căn cứ theo trát tử trên sửa lại. ↵
- 'Tiếng oán than lan khắp một phương', tám chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo trát tử trên bổ sung. ↵
- Chữ 'trung' trong 'Khang Định niên trung' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tư Mã Ôn Công Văn Tập》 quyển 31, tờ thứ ba về Nghĩa Dũng bổ sung. ↵
- Chữ 'nghị' vốn là 'sát', căn cứ theo bản Tống Toát Yếu và sách trên sửa lại. ↵
- 'Suy nghĩ kỹ việc này' nguyên văn là 'cố', căn cứ theo bản Tống Toát Yếu và sách 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 56 cùng 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 32 sửa lại. ↵
- 'Chim sợ' nguyên văn là 'quạ sợ', căn cứ theo bản Tống Toát Yếu, các bản khác và hai sách trên sửa lại. ↵
- Ngày ngày cùng Trung thư lệnh, Thị trung hầu cận bên cạnh thiên tử, chữ 'Thị trung' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 việc tuyển chọn dân nghĩa dũng ở Thiểm Tây, 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công văn tập》 quyển 32 tờ sớ thứ 6 về việc nghĩa dũng mà bổ sung. ↵
- Rằng tất cả dân nghĩa dũng tạm ngừng tuyển chọn, chữ 'hưu' trong bản Tống, bản Tống toát yếu và tờ sớ nói trên đều chép là 'trú'. ↵
- Như vậy là được ra khỏi nước sôi lửa bỏng, chữ 'thị' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và tờ sớ nói trên mà bổ sung. ↵
- Há có ai nói rằng mệnh lệnh đã ban ra không nên thay đổi nữa, chữ 'nhất' nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và tờ sớ nói trên mà bổ sung. ↵
- Cuối cùng cũng không được chấp thuận, chữ 'diệc' nguyên bản thiếu, theo bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 việc tuyển chọn dân nghĩa dũng ở Thiểm Tây, 《Biên niên cương mục》 quyển 17, 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 thượng mà bổ sung. ↵
- vì không có thực lực, bản 《Tống Toát Yếu》 chép là 'vì không có thực lực', có lẽ đúng hơn; 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 56 chép là 'vì không có thực lực'. ↵
- nếu có người khác lên thay, bản Tống, bản 《Tống Toát Yếu》 và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 56, 《Tống Sử Toàn Văn》 quyển 10 đều chép là 'nếu có người khác lên thay'. ↵
- chỉ là chuyện trong chớp mắt thôi, theo hai bản trên và hai sách trên đều không có chữ 'sự'. ↵
- Kỳ im lặng, cuối cùng không dừng lại. Mười năm sau, việc nghĩa dũng vận lương đi biên thùy trở thành chuyện thường lệ, hai mươi hai chữ này vốn bị thiếu, nay căn cứ vào hai bản trên và hai sách trên để bổ sung. Lại 《Biên Niên Cương Mục》 quyển 17 chép là 'Kỳ không trả lời được, cuối cùng không sửa. Mười năm sau, việc nghĩa dũng vận lương đi biên thùy trở thành chuyện thường lệ, đúng như lời Quang nói'. ↵
- Chiếu nội thị gặp ngày Thánh tiết Nam giao tiến con được hưởng bổng lộc như cũ, hai chữ 'Nam giao' vốn thiếu, căn cứ theo hai bản trên và chú văn trong sách này quyển 189, ngày Canh Tý tháng 5 năm Gia Hựu thứ 4 bổ sung ↵
- Lê Hoàn, hai bản trên và 《Tống sử》 quyển 488 truyện Giao Chỉ, 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 4/21-22 đều chép là 'Hoàn' ↵
- Tướng lĩnh 45 động thuộc Hữu Giang đến dưới trướng, chữ 'nghệ' vốn chép là 'chỉ', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 332 truyện Lục Sân sửa lại ↵
- Sĩ luận xôn xao 'Sĩ' nguyên là 'thượng', theo bản Tống toát yếu và các bản khác sửa. ↵
- Đề điểm ngân duyên đồng tích khanh dã chú tiền sự 'Dã' chữ nguyên thiếu, theo bản Tống và Tống toát yếu bổ sung. ↵
- 'Trú tráp' ở Vị châu nguyên bản là 'trú bạc', căn cứ theo hai bản trên mà sửa lại. ↵
- 'Tướng súy' nguyên bản thiếu chữ 'suý', căn cứ theo bản Tống toát yếu mà bổ sung. ↵
- 'Bỉ' nguyên là 'Dịch', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa. ↵
- 'Vũ' theo hai bản trên và các bản đều là 'Ngũ'. ↵
- 'Chiêm' nguyên là 'Thiệm', theo Tống toát yếu bản, các bản và Biên niên cương mục quyển 17, Tống sử toàn văn quyển 10 thượng, Tống sử quyển 341 Triệu Chiêm truyền sửa. Dưới đây cũng vậy. ↵
- 'Thủ lĩnh' nguyên bản viết là 'trưởng', căn cứ theo hai bản trên sửa lại. ↵
- Từ đó triệu vào cấm lệnh sung làm học sĩ, chữ 'lệnh' trong bản Tống viết là 'Lâm'. ↵
- Tức là thứ tự để bổ nhiệm Tri chế cáo, trong bản Tống và bản Tống toát yếu đều có chữ 'Trừ' dưới chữ 'thứ'. ↵
- Chữ 'sự' trong 'Trương Huy quyền phát khiển Hộ bộ phán quan sự' nguyên là chữ 'sứ', căn cứ theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 phần trên và văn dưới sửa lại ↵
- Chữ 'sự' trong 'Bì Công Bật quyền phát khiển Độ chi phán quan sự' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên và văn dưới bổ sung ↵
- Chữ 'ngoại' trong 'nguyện xuất ngoại giả dữ chuyển vận phó sứ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống bổ sung ↵
- Bản Tống và bản Tống toát yếu ghi '2.881.252'. ↵