V. TỐNG ANH TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 204: NĂM TRỊ BÌNH THỨ 2 (ẤT TỴ, 1065)
Từ tháng giêng năm Trị Bình thứ 2 đời Vua Anh Tông đến hết tháng 4 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Đinh Mão, ban chiếu cho Vua nước Hạ là Lượng Tộ, từ nay về sau không được xâm phạm khu vực của dân thuộc hộ và các xạ thủ cung tên ở hai lộ Kinh Nguyên, Tần Phượng. Ban đầu, triều đình cử Vương Vô Kị mang chiếu đến trách mắng Lượng Tộ, nhưng Lượng Tộ trì hoãn không nhận chiếu, lại nhân sứ giả đến chúc mừng năm mới là Lệ Mậu Tiên dâng biểu tự biện minh về nguyên nhân khởi binh, đổ lỗi cho quan lại biên giới của ta, lời lẽ phần nhiều không đúng sự thật, nên lại ban chiếu để răn dạy. Lượng Tộ cuối cùng vẫn không nghe theo.
[2] Biên bài Trung thư chư phòng văn tự, Đồn điền viên ngoại lang Vương Quảng Uyên được bổ nhiệm làm Trực Tập Hiền viện. Khi Hoàng thượng còn ở phủ đệ, Quảng Uyên nhờ người thân cận của Hoàng thượng là Thời Quân Khanh dâng lên các bài văn và thư từ do ông viết. Hoàng thượng yêu mến tài năng của ông nên đặc cách bổ nhiệm chức này.
Tri gián viện Tư Mã Quang tâu rằng: “Quảng Uyên tuy có chút văn nghệ, nhưng ngoài ra không có gì nổi bật. Trong giới sĩ đại phu, ông ta nổi tiếng là người ham tranh đua, khéo leo cao, được xem là bậc nhất. Trước đây, khi mới nhậm chức Thông phán, ông ta sắp xếp văn tự của Trung thư, chỉ trong hai năm đã được bổ nhiệm làm Tri châu Thư châu, khiến các quan lại đều chỉ trỏ xem là kẻ may mắn. Nay ông ta đã ở lại không đi nhậm chức, lại được thăng chức tốt đẹp, làm sao không khiến triều đình bên ngoài nghi ngờ?
Bệ hạ mới lên ngôi, muốn tuyển chọn hiền tài trong thiên hạ, đặt vào những vị trí quan trọng để làm gương cho quần thần, nhưng các quan chấp sự lại không đáp ứng được ý nguyện của Bệ hạ. Trước đây dùng Bì Công Bật làm Quyền phát khiển Tam ty phán quan, nay lại dùng Quảng Uyên làm Trực Tập Hiền viện, làm sao khiến thiên hạ coi trọng tiết tháo liêm sỉ, đề cao phong khí đôn hậu? Nếu như thời Bệ hạ còn ở ngôi Thái tử, Quảng Uyên quả thực đã dùng văn chương để tự tiến cử với người thân cận[1], điều này càng không thể chấp nhận.
Thời Hán, Vệ Oản không theo Thái tử uống rượu, khi Hán Cảnh Đế lên ngôi, đã sủng ái Oản hơn các đại thần khác. Thời Chu, Trương Mĩ dùng tiền lương riêng cho Thế Tông, nhưng Thế Tông cuối cùng vẫn coi thường nhân cách của ông ta. Nếu Quảng Uyên thời Nhân Tông đã dùng văn chương riêng tư dâng lên Bệ hạ, thì những bề tôi trung thành cẩn thận có làm như vậy không? Nay Bệ hạ nên trị tội ông ta, lại còn ban thưởng, làm sao răn dạy được tiết tháo của bề tôi?”
Quang nhiều lần dâng tấu, nhưng cuối cùng không được trả lời.
[3] Ngày Quý Dậu, Tham tri chính sự Âu Dương Tu tâu: “Lượng Tộ ngang ngược, dần dần vi phạm lời thề ước. Kế sách phòng bị của triều đình, trước hết là chọn người. Từ khi bãi binh năm Khánh Lịch đến nay, những người cũ từng được dùng, chỉ còn Hộ bộ Thị lang trí sĩ Tôn Miễn là còn sống. Miễn giữ chức ở Hoàn Khánh, nuôi dưỡng và luyện tập quân sĩ, chiêu dụ các tộc người thiểu số, ân tín nổi tiếng một phương. Nay tuy đã bảy mươi tuổi, nhưng nghe nói tinh thần và sức lực vẫn không suy, cưỡi ngựa bắn cung vẫn như ngày thường. Tuy trước đây từng bị cách chức vì tội, nhưng bỏ qua lỗi lầm để sử dụng, chính là thuật dùng người. Xin triều đình xem xét, đặc biệt khen thưởng và sử dụng, để trong thời điểm nhân tài khó kiếm, có thể giao phó trọng trách một phương.” Chiếu phong Miễn làm Tư chính điện học sĩ, tri phủ Hà Trung.
[4] Tu từng tâu về việc biên giới phía Tây rằng: “Thần thấy Lượng Tộ ngang ngược, mối hiềm khích đã nhiều, không quá một năm ắt sẽ gây họa biên giới. Thần vốn tầm thường, không thông hiểu thời cơ, nhưng dám dựa vào tình hình địch bên ngoài, xem xét tình thế bên trong, xem xét những sai lầm đã xảy ra trước đây, suy nghĩ về kế sách có thể dùng ngày nay. Tuy binh pháp không nói trước, đợi thấy tình hình mới ứng biến, nhưng dựa vào địch để giành thắng lợi, cũng là kế sách lớn có thể tính toán. Kính xin trình bày từng điều, mong có ích phần nào.”
[5] Thần cho rằng việc xét tình hình địch bên ngoài là: Lượng Tộ từ đời trước đã có Hạ Châu, từ thời Di Hưng, Khắc Duệ trở về trước, chỉ có một trấn và năm châu mà thôi. Đến thời Thái Tông hoàng đế, Kế Bổng và Kế Thiên mới bắt đầu gây họa ở biên giới[2], sau đó chiếm lĩnh Linh Châu, Diêm Châu, nắm trọn vùng đất Sóc Phương. Từ niên hiệu Thuần Hóa, Hàm Bình, dùng binh hơn mười năm, không thể tiêu diệt được, bèn chủ trương chiêu dụ. Đúng lúc Kế Thiên bị Phan La Chi giết, con là Đức Minh bèn bàn việc quy thuận. Triều đình ta chỉ dùng ân tín, phục hồi tước vương cho họ, bổng lộc ban cấp hàng năm cực kỳ hậu hĩnh. Đức Minh không còn lo lắng về phía nam, con là Nguyên Hạo cũng đã trưởng thành, bèn dồn lực đánh phía tây, chiếm đất của Hồi Hột hơn nghìn dặm. Đức Minh chết, đất rộng binh mạnh, Nguyên Hạo lại nổi loạn. Triều đình từ niên hiệu Bảo Nguyên, Khánh Lịch về sau, một phương dùng binh, thiên hạ rối ren, quốc khố trống rỗng, dân chúng khốn khổ. Mấy năm như vậy, Nguyên Hạo biết triều đình ta có ý chán ghét chiến tranh, bèn lại bàn hòa. Triều đình đối đãi với họ bằng ân lễ, lại khác hẳn trước kia. Xưng là quốc chủ, chỉ được họ xưng thần, vật phẩm ban cấp hàng năm gấp trăm lần thời Đức Minh, bằng một nửa số ban cấp cho Khiết Đan. Nay Lượng Tộ tuy là đứa trẻ ngông cuồng, nhưng quen thấy việc làm của gia tộc, Kế Thiên một lần nổi loạn rồi lại được phong vương, Nguyên Hạo hai lần nổi loạn rồi được làm quốc chủ, nay nếu lại nổi loạn, chí hướng của hắn có thể biết được, đó là muốn tự sánh với Khiết Đan, chống lại Trung Quốc, tạo thế chân vạc mà thôi. Đó là điều thần trộm xét về tình hình địch.
[6] Việc xem xét tình hình trong nước, tức là so sánh tình hình quân sự thời Khánh Lịch với hiện tại, xem xét sự hư thực, mạnh yếu của đôi bên để thấy rõ hình thế thắng bại. Từ năm Cảnh Đức thứ hai đời Chân Tông kết minh với giặc phương Bắc ở Thiền Uyên[3], năm sau mới nhận lời cầu hòa của Tây Hạ, từ đó chủ trương ngừng chiến, đến đầu năm Bảo Nguyên, Nguyên Hạo nổi loạn, đã hơn ba mươi năm. Trên dưới an nhàn không lo việc, võ bị bỏ bê không tu sửa, triều đình không có mưu thần, biên cương không có tướng dũng, tướng lĩnh ngu dốt không biết việc binh đao, quân lính kiêu ngạo không biết chiến trận, khí giới hư hỏng, thành quách đổ nát. Mà Nguyên Hạo thì dũng mãnh, xảo quyệt, âm mưu từ lâu muốn nhòm ngó Trung Quốc. Nhưng ta lại thản nhiên không lo lắng, đợi đến khi hắn chuẩn bị xong binh lực, một ngày kia dâng thư phản loạn, lúc đó mới hoang mang không biết làm sao, trong ngoài chấn động, hành động vội vàng. Đó là lý do khi mới dùng binh, chỉ có thua mà không thắng. Sau đó triều đình dùng Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, giao việc phương Tây, ra sức kinh doanh, các tướng dũng mãnh cũng dần xuất hiện qua các trận chiến[4], trong vài năm, mưu lược dần có, võ bị dần tu sửa, dường như có thể chống đỡ. Nhưng thiên hạ đã kiệt quệ, nên phải nhẫn nhục, lại giảng hòa. Đó là việc thời Khánh Lịch.
Nay thì không như vậy. Hiện nay binh lính tuy chưa tinh nhuệ, nhưng không đến nỗi hư hỏng như trước. Thành lũy cơ bản đã tu sửa[5], không đổ nát như trước. Quân địa phương và các bộ lạc được tăng cường huấn luyện, không yếu kém như quân kiêu ngạo trước kia. Các tướng lớn nhỏ từng trải chiến trận vẫn còn nhiều, không như bọn Ngụy Chiêu Bỉnh, Hạ Tùy trước kia là con em nhà giàu. Một hai vị đại thần chấp chính đều là người có công lao, am hiểu việc phương Tây, không như các đại thần trước kia hoang mang không biết làm sao. Trước kia dùng mưu thần không biết việc biên cương, điều khiển tướng lĩnh không biết việc binh đao, dùng quân kiêu ngạo cầm khí giới hư hỏng, đối phó với kẻ địch mới nổi xảo quyệt, đó là lý do thất bại. Hiện nay mưu thần, võ tướng, thành lũy, khí giới không như trước, mà Lượng Tộ là đứa trẻ ngông cuồng, không thể so với Nguyên Hạo.
Trước kia bỏ qua không nghĩ, nay may đã sớm nhận ra, có thể chuẩn bị trước. Nếu hắn không phản thì thôi, nếu quả thật phản, chưa chắc không có lợi cho Trung Quốc. Thần cho rằng có thể nhân cơ hội này, rửa nhục trước, lập công sau, chỉ cần xem mưu lược thế nào. Nếu nhờ uy thần và mưu lược của bệ hạ, bắt sống Lượng Tộ và quần thần dâng lên tông miếu, đó là thượng sách. Thứ đến, đuổi giặc cuồng ngông về phía bắc Hoàng Hà, khôi phục đất cũ Sóc Phương. Kém nhất, chiếm hết vùng núi, đoạt lấy chỗ hiểm mà ta giữ, để vĩnh viễn dứt nạn biên cương. Đó là thần xem xét tình hình trong nước, cho rằng có thể như vậy.
[7] Thần nói về việc xem xét những sai lầm đã được kiểm chứng trong quá khứ, những sai lầm nhỏ không phải là ít, không thể kể hết, xin được nói về những sai lầm lớn. Tình hình địch biến hóa xảo trá, khi giao chiến, chúng giả vờ thua để dụ ta, ta tham lợi mà đuổi theo, hoặc không ngờ chúng đột ngột xuất hiện và bị chúng phục kích, hoặc tiến vào chỗ hiểm mà bị khốn đốn. Đây là bài học từ những lần thất bại trước đây, ngày nay những người am hiểu binh pháp cũng biết điều này. Tuy là việc nhỏ nhưng cũng không thể coi thường. Những sai lầm lớn về chiến lược là cả hai phương diện tấn công và phòng thủ đều sai lầm. Thần xem xét việc phòng thủ biên giới thời Khánh Lịch, từ phía đông là Lân Châu, Phủ Châu, kéo dài đến phía tây là Tần Châu, Lũng Châu, dài hơn hai nghìn dặm, chia làm năm lộ, và hai mươi bốn châu, quân, lại chia thành gần hai trăm trại, bảo, thành, đều phải bố trí quân phòng thủ. Vì vậy quân ta tuy đông nhưng không thể không phân tán, phân tán nhiều thì quân số ắt ít đi. Khi giặc xuất quân, thường tập hợp toàn bộ lực lượng thành một khối mà tiến đánh, khiến quân ta tuy đông nhưng phân tán thành ít, quân địch tuy ít nhưng tập hợp lại thành nhiều, dùng số đông đánh số ít của ta, nên không thể không thất bại. Phương pháp phòng thủ bằng thành trại này đã không đủ để tự vệ. Còn năm lộ đại tướng, tức quân chiến đấu, phân bố ở hai mươi bốn châu, quân, muốn tập hợp lại để xuất quân thì sợ phía sau bị bỏ trống không phòng bị, muốn để lại một phần phòng thủ và tập hợp phần còn lại thì quân số quá ít không đủ để tấn công. Đó là lý do tại sao khi đó dùng binh nhiều năm mà cuối cùng không thể xuất quân một lần. Tiến không thể tấn công, lui không thể phòng thủ, đó là cả tấn công lẫn phòng thủ đều không có kế sách, là sai lầm đã được kiểm chứng trong quá khứ.
[8] Thần cho rằng kế sách có thể dùng ngày nay là ở chỗ định ra kế hoạch tấn công, ắt phải dùng mưu chế ngự địch trước, mới có thể giành được thắng lợi. Bởi vì bố trí quân chia nhau giữ đất, địch có thể tùy thời xuất kích quấy nhiễu ở giữa, khiến ta phải phòng bị khắp nơi, luôn như địch sắp đến, quân mệt lương cạn, ta mệt nhọc địch nhàn rỗi. Xưa kia, Chu Thế Tông dùng kế này vây khốn Lý Cảnh ở Hoài Nam, trước đây Nguyên Hạo cũng dùng kế này để vây khốn biên giới phía tây của ta. Việc chia quân phòng bị mỏng là điều đại hại của nhà binh, mà cái hại thường ở về ta. Lấy nhàn rỗi đối phó mệt nhọc là điều đại lợi của nhà binh, mà cái lợi thường ở về địch. Vì thế những năm trước giặc thường đắc chí. Nay nếu thực sự có thể làm ngược lại, chuyển cái hại của ta cho địch, đoạt lấy cái lợi của địch về ta, thì ta nên chủ động định ra kế hoạch tấn công, khiến địch mệt mỏi vì phòng thủ, thì ta cũng sẽ đắc chí. Phàm quân đi tấn công không nên dùng đại binh, mỗi lần ta xuất kích, địch ắt tập hợp lại để chống cự, địch tập trung ở phía đông thì ta đánh sang phía tây, ta rút lui địch tan rã, thì ta lại xuất kích và địch lại tập hợp[6]. Ta dùng quân năm đường thay phiên nhau nghỉ ngơi và xuất kích, khiến toàn bộ quân địch phải tập hợp rồi tan rã, chạy ngược chạy xuôi, không lúc nào ngừng nghỉ, thì địch không thể không bị vây khốn[7]. Đó là kế sách mà thần cho rằng có thể dùng được trong lúc này.
[9] Sai lầm của những năm trước là ở chỗ phòng thủ, lợi ích hiện nay là ở chủ trương tấn công. Trước đây vào niên hiệu Chí Đạo, từng có năm đường tiến quân ra đánh, nhưng lúc đó tướng tướng bàn mưu không kỹ, muốn đánh nước cường thịnh ngang ngược, không dùng mưu kế làm cho chúng khốn đốn trước, mà lại lập kế hoạch nhất chiến tất thắng, đại quân tiến sâu, nên không thể thành công. Dùng binh là việc rất khó, nên mưu kế đã tính toán kỹ thì khi ra quân phải quyết đoán, như vậy mới có thể hành động và thành công. Hình thế dùng binh, có điều có thể biết trước, có điều không thể nói trước[8]. Thần mong bệ hạ phái một đại thần ra ngoài tuần phủ, gặp gỡ các tướng, cùng bàn bạc kỹ lưỡng, để định ra kế sách lớn. Những điều như địa hình núi sông, đường sá, bộ binh và kỵ binh của người Hán và người Phiên xuất nhập thích hợp, có thể biết trước đều vẽ thành đồ và dâng lên phương lược, còn những điều không thể nói trước, giao cho tướng soái[9], để họ tùy cơ ứng biến, nhân địch mà chế thắng. Còn những việc làm của Lượng Tộ, nên tạm nhún nhường bao dung mà khéo léo thuận theo, vừa để kiêu ngạo lòng chúng, cũng làm chậm lại sự việc của chúng, để chờ ta chuẩn bị.
Đồng thời nghiêm khắc răn dạy năm đường, huấn luyện quân sĩ, chọn tướng, sửa sang vũ khí giáp trụ, tích trữ lương thực, thường xuyên chuẩn bị kế hoạch hành quân, đợi khi thư phản nghịch của chúng dâng lên triều đình, thì quân vương xuất kích ngay tối hôm đó, làm chúng kinh hãi mà mất khí thế, khiến chúng không kịp trở tay, thì thế thắng đã về tay ta. Những năm trước, các nghị giả cũng muốn chiêu tập các bộ lạc Phiên ở Hoành Sơn, mưu lấy đất vùng núi, nhưng thần cho rằng nếu muốn chiêu dụ họ, cũng phải dựa vào uy thế của chiến thắng trước[10], để họ biết sự hùng mạnh của Trung Quốc, thì mới chịu quy phụ. Do đó mà nói, cũng nên lấy chủ trương tấn công làm lợi.
[10] Những điều thần trình bày, đại khái là như vậy. Tuy nhiên, thần chưa từng đặt chân đến biên cương, chưa từng tận mắt chứng kiến chiến trận, chỉ dựa vào lời nói thiên kiến của một kẻ nho sinh, thật sự biết rằng chưa chắc đã được dùng đến. Nhưng vì đúng lúc bệ hạ đang lo lắng việc phương Tây, rộng hỏi ý kiến mọi người, nên thần muốn dốc hết tâm trí ngu muội, trình bày một lời nói thô thiển mà thôi. Lại nói:
[11] Thần gần đây từng dâng lời rằng Lượng Tộ gây họa ở biên giới, triều đình nên sớm lo liệu phòng bị, và xin cử một đại thần đến cùng các tướng biên cương bàn định kế hoạch lớn về công thủ[11]. Đến nay đã nhiều ngày, vẫn chưa thấy ban ra thi hành. Thần trộm thấy vào niên hiệu Khánh Lịch, Nguyên Hạo gây loạn, lúc đó triều đình khinh địch, coi thường giặc, không có kế sách định sẵn, mỗi khi có tin cấp báo từ biên giới, thì trên dưới đều hoảng hốt, vội vàng chỉ huy, phần nhiều không trúng thời cơ, nên đã để lọt cơ hội cho giặc, khiến quân bại tướng chết, thật đau lòng. Nay Lượng Tộ mang 20 vạn quân[12] xâm phạm hai lộ Tần, Vệ, cướp bóc đốt phá, trong phạm vi mấy trăm dặm đều bị quét sạch, nhưng hai lộ tướng súy không dám đưa ra một người một ngựa, thì uy thế quốc gia đã bị tổn thương rồi. Lượng Tộ phụ ơn trái đức như vậy, bệ hạ chưa thể phát binh trừng phạt, chỉ sai sứ giả mang chiếu thư ban cho, lại bị cự tuyệt không nhận, sứ giả xấu hổ, cúi đầu ôm chiếu mà về, thì nước lớn không khỏi nhục nhã. Khi bệ hạ mới lên ngôi, gặp phải đứa trẻ ngỗ ngược này, uy thế bị tổn thương, quốc thể bị nhục nhã, đó là tội của bọn thần vậy.
[12] Thần cho rằng Bệ hạ nên phẫn nộ lên, lấy việc biên cương mà nghiêm trách các đại thần. Đến như địa thế núi sông, chỗ nào có lợi, chỗ nào bất lợi, quân sĩ dũng cảm hay nhút nhát, ai có thể dùng, ai không thể dùng, nơi nào nên đánh, nơi nào nên giữ, quân nào nên đóng ở đâu, tướng nào nên giao quân nào, những việc như thế rất nhiều, đều là những điều Bệ hạ nên suy nghĩ. Thần cho rằng Bệ hạ nên nhân lúc rảnh rỗi ngự ở điện tiện, triệu tập các quan đương chức, bảo họ dựa vào bản đồ chỉ vẽ, mỗi người trình bày ý kiến của mình, Bệ hạ có thể không cần rời chỗ mà nắm rõ mọi việc trước mắt, sau đó dùng mưu lược thần cơ, giao trách nhiệm cho tướng tướng phải thành công. Nhưng Bệ hạ vì bận rộn với muôn việc, chưa kịp làm điều này, các quan ở hai phủ như thần hằng ngày dâng trình, cũng chỉ là những việc công thường lệ, cũng chưa từng tụ họp bàn bạc, định ra kế sách lớn. Bên ngoài thì các quan biên cương bốn lộ, từ sau khi giặc ngựa qua đi, cũng không nghe có kế hoạch gì khác. Thần sợ rằng trên dưới cứ theo thói cũ, lại như lúc đầu niên hiệu Khánh Lịch vậy.
[13] Gần đây, Hàn Kỳ đã từng đem văn bản bàn về việc biên giới núi trong niên hiệu Khánh Lịch trình lên, đây chỉ là một trong trăm việc biên cương. Bởi vì Kỳ cũng lo lắng việc chưa được bàn bạc kỹ, nên mượn văn bản này làm đề tài để lôi kéo ý kiến của mọi người. Từ khi trình lên, văn bản được gửi đến Viện Mật, đến nay đã nhiều ngày, nhưng vẫn chưa được bàn bạc[13]. Thần vốn không có tài cán gì, nhưng bệ hạ giao cho tham gia chính sự, tức là bề tôi mưu lược của quốc gia. Nếu như mưu lược của thần nông cạn, lời nói cuồng vọng, xin hãy cách chức thần mà không cần nghi ngại. Thần trước đây vì bệnh mắt, đã khẩn thiết xin từ chức, được bệ hạ thương tình ban ân[14], chưa cho phép thần rời đi. Đã để thần ở vị trí này, lại bỏ qua lời nói của thần mà không xét đến, khiến thần nhận bổng lộc mà hổ thẹn[15], làm sao thần có thể tự xử? Tất cả những tấu chương thần đã trình trước đây, mong được giao xuống Trung thư, Viện Mật, cùng với văn bản về biên giới núi của Hàn Kỳ để cùng bàn bạc. Nếu lời thần quả thật không đáng nghe, bỏ đi cũng chưa muộn.
[14] Lễ viện tấu: Xin từ nay về sau, khi văn võ bề tôi qua đời, nếu cần ngừng triều, thì ngừng vào ngày hôm sau khi nghe tin. Được chấp thuận.
[15] Ngày Đinh Sửu[16], bản gốc viết là Tân Sửu, sai. Ban cho Hứa, Sái châu 10 vạn quan tiền mặt, lệnh mua lương thực để cứu đói, lại sai Giá bộ viên ngoại lang Lý Hi Dật đảm nhiệm việc này.
[16] Ngày Nhâm Ngọ, sai Cung bị khố phó sứ Mạnh Uyên cùng 19 người khác đến khu vực phủ Khai Phong và các vùng phía đông, tây kinh đô, cùng lộ Hoài Nam để chiêu mộ binh lính. Tháng 9 năm ngoái, ngày Kỷ Mão, bắt đầu chiêu mộ những người trẻ khỏe trong khu vực phủ Khai Phong và các vùng phía đông, tây kinh đô, cùng lộ Hoài Nam làm quân Sương và quân Cấm.
[17] Tư Mã Quang tâu:
[18] Gần đây nghe triều đình ở kinh thành và các lộ rộng rãi chiêu mộ cấm quân, những nơi bị thiên tai lại chiêu mộ dân đói để sung vào sương quân, thần nghĩ rằng quốc gia từ trước đến nay lo lắng vì binh lính không tinh nhuệ, chứ không lo vì binh lính không đông. Binh ít mà tinh nhuệ, quân phục và lương thực dễ cung cấp, công tư đều sung túc, một người có thể địch được mười người, gặp địch tất sẽ thắng. Binh đông mà không tinh nhuệ, thì quân phục và lương thực khó đủ, công tư đều khốn khó, mười người không địch nổi một người, gặp địch tất sẽ thất bại. Lợi hại rõ ràng như thế, rõ ràng như chỉ bàn tay[17], không khó để biết. Vì thế, thời Thái Tổ hoàng đế, số quân trong thiên hạ không bằng một phần mười hiện nay, mà vẫn ngày ngày tuyển luyện, loại bỏ những kẻ yếu đuối già cả, chuyên chú vào tinh nhuệ[18], nên có thể chinh phạt bốn phương, thống nhất Trung Hạ. Từ niên hiệu Cảnh Đức đến nay, Trung Quốc đã dùng vàng lụa để vỗ về ngoại bang, không dùng đến chinh phạt, đến nay đã hơn sáu mươi năm, lẽ ra quan phủ phải có của dư, dân phải có của thừa, mà kho tàng trống rỗng, kho lẫm trống không, gặp chút hạn hán lụt lội, xác chết đói đầy đồng, nguyên nhân là gì? Há chẳng phải vì biên cương tuy yên ổn, mà binh lính thừa thãi ngày càng nhiều hay sao? Điều này là điều thiên hạ đều biết, không phải là lời riêng của thần.
[19] Trong niên hiệu Khánh Lịch, Triệu Nguyên Hạo làm phản, phía tây dùng binh, triều đình mở rộng chiêu mộ. Các châu đô giám, giám áp nào chiêu mộ được hơn nghìn người đều được đặc cách thăng một chức. Vì thế, binh lính dư thừa trong thiên hạ càng nhiều, sức nước càng suy. Những năm gần đây lại nhiều lần tuyển chọn lớn quân sương để bổ sung vào số quân cấm. Hiện nay số binh lính đã đăng ký không ít, sao lại còn khổ sở mở rộng chiêu mộ quân cấm[19], và chiêu mộ dân đói để sung vào quân sương? Thần không biết các quan đề xuất đã từng tính toán hay chưa rằng kho lẫm ngày nay có đủ để nuôi số binh lính cũ hiện có hay không? Đây là do các quan biên giới ngu muội, nhút nhát, không có tài cán gì khác, chỉ biết xin thêm quân; các quan trong triều lại sợ số quân cấp không đủ yêu cầu, ngày sau việc biên giới có thiếu sót thất bại sẽ quy tội cho mình. Vì thế không nghĩ đến sự thiếu thốn của quốc gia, chỉ biết chiêu mộ, lấy số lượng hư, không kể đến sự mệt mỏi vô dụng. Đây là cách các quan bảo vệ thân mình, giữ chức vụ, chỉ lo trước mắt, không phải là kế sách lâu dài vì triều đình[20].
[20] Tục ngữ nói: “Cầu nhiều không bằng tiết kiệm.” Lời này tuy nhỏ nhưng có thể ví lớn. Nay một nhà mười miệng, cơm áo vừa đủ, đột nhiên thêm năm miệng, ắt không thể đủ. Nếu không nghĩ đến thóc trong kho, lụa trong rương còn lại bao nhiêu, mà chỉ tham số miệng dư, há không nghèo khó sao? Tình thế quốc gia cũng như vậy. Các quan đã không thể vì bệ hạ mưu tính trung thành, bệ hạ lại không tự lo, thì ai sẽ lo? Thần sợ các quan biên giới xin quân vô hạn, triều đình chiêu mộ binh lính không ngừng, kho lẫm thóc lụa có hạn, máu mỡ dân chúng có ngày cạn, không biết quốc gia lâm vào cảnh bệnh tật này, đến bao giờ mới khỏi!
[21] Thần lại nghe rằng hiện nay ở những nơi bị thiên tai, quân đội không có lương thực, phải nấu cháo loãng để cứu đói dân chúng, nhưng vẫn không đủ, huống chi lại bắt họ đi lính, thì lấy gì để nuôi họ suốt đời? Hơn nữa, nông dân chỉ vì một thời gian đói kém nên phải lưu lạc kiếm ăn, nếu sau này mùa màng tốt, họ sẽ muốn trở về làm ruộng. Nay đã bắt họ đi lính, tức là khiến họ mất nghiệp suốt đời, đối với quan lại và dân chúng đều bất tiện, sai lầm trong chính sách không gì lớn hơn thế. Thần mong Bệ hạ quyết đoán, nhanh chóng ban chỉ dụ, tất cả các nơi trong kinh và các lộ nên ngừng tuyển mộ cấm quân, chỉ cần chọn lựa tướng soái, huấn luyện quân đội hiện có để phòng thủ bốn phương, không lo không đủ. Ở những nơi bị thiên tai, châu huyện không được tùy tiện tuyển mộ dân đói để sung vào sương quân, chỉ nên căn cứ vào số lương thực hiện có để cứu giúp nông dân, đợi đến khi mùa màng khá hơn, để họ trở về làm ruộng, thì thiên hạ sẽ may mắn lắm thay!
[22] Từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, thần không tự biết mình ngu muội, thấy chính lệnh của triều đình có chỗ chưa tiện, bổ nhiệm có chỗ chưa đúng, đã nhiều lần dâng lời ngu muội, làm phiền thánh thính. Bệ hạ chưa từng vì thế mà thay đổi một chính lệnh, sửa đổi một bổ nhiệm, nếu là thần thì cũng có thể không nói nữa, nhưng vẫn cố gắng dâng lời không ngừng, thực sự là thẹn vì ở ngôi mà không nói, không thẹn vì nói nhiều mà bị chán ghét.
[23] Ngày Giáp Thân, ban chiếu cho quan lại tìm thầy thuốc chăm sóc, cho phép sai người đưa về theo lệ.
[24] Độ chi phán quan, Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Thiệu Kháng được bổ nhiệm làm Trực sử quán, Dĩnh vương phủ Dực thiện, Đồng phán Tư nông tự, lệnh cho làm việc ở hai vị hoàng tử[21]. Hoàng đế từng triệu đối ở điện Quần Ngọc, hỏi về việc đời, nói: “Học sĩ thật là bậc quốc khí.” Nên mới bổ nhiệm làm quan trong vương phủ.
[25] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu cho Cống viện theo lệ cũ của Nam tỉnh, những người đỗ sẽ được báo tên lên, đợi chiếu chỉ ban xuống mới niêm yết bảng vàng.
[26] Ngày Mậu Tý, Vương Tĩnh, Đề điểm hình ngục Hà Bắc, tấu rằng: “Theo chỉ thị của Trung thư, năm nay các châu Ân, Ký, Thâm, Doanh, Thương và quân Vĩnh Tĩnh, Can Ninh phải huy động dân phu mùa xuân, lệnh cho họ bắt đầu làm việc sau tiết Hàn thực. Tuy ngày dài dễ hoàn thành công việc, nhưng sẽ ảnh hưởng đến việc gieo trồng mùa xuân của nông dân. Hơn nữa, dân phu các châu Hình, Minh, Đức phải đến các châu Ân, Ký, Thâm, Doanh làm việc, nếu bắt đầu sau tiết Hàn thực thì phải đến đầu tháng tư mới về được. Xin cho họ làm việc theo lệ cũ, bắt đầu nửa tháng trước tiết Hàn thực.” Triều đình đồng ý. Ban đầu, theo tấu của Đô thủy giám, lệnh cho dân phu bắt đầu làm việc sau tiết Hàn thực. Ngự sử Phó Nghiêu Dũ, khi đi tiễn sứ giả nước địch, tấu rằng dân chúng đều cho là bất tiện, nhưng không được chấp thuận. Đến nay, Vương Tĩnh lại tấu, mới được chấp thuận.
[27] Tháng đó, dân Lã Thăng ở châu Lai, vì cha là Quyền bị mù, đã mổ bụng lấy gan, cắt ra cho Quyền ăn, Quyền lại nhìn được, còn Thăng thì không chết. Sau đó, nhiều người bắt chước Thăng, không thể kể hết.
[28] Tháng hai, ngày Tân Sửu (sửa lại từ bản gốc thiếu chữ “tháng hai”), Lữ Công Trước, Quyền Phát khiển Hộ bộ phó sứ, tấu rằng: “Xưa dân chăm làm ruộng thì ít phải đi phu, dân chăm kiếm ăn thì trăm việc đều bỏ. Nay các huyện ở kinh đô và các châu quân ở phía đông, tây kinh đô cùng Hoài Nam đều bị đói kém, dân chết đói nhiều. Bệ hạ đang phát thóc cứu đói, sai sứ đi an ủi, người gần xa nghe tin đều biết Bệ hạ có lòng thương dân. Nhưng thần nghĩ rằng những việc phải dùng sức dân, nếu không cấp bách thì nên tạm ngừng. Huống chi việc xây cất cung Khánh Ninh không phải là việc gấp, dù tốn ít công sức, nhưng làm trong cung cấm, e rằng thiên hạ nghe tin sẽ chê cười. Thần xin đợi đến sau khi làm lễ giao, mùa màng khá hơn, sẽ bàn việc xây cất sau.” Triều đình đồng ý.
[29] Trước đó, Tư Mã Quang cũng tấu rằng:…
[30] Thần thấy gần đây việc tu sửa xây dựng hơi nhiều, chỉ riêng trong cung đã gần chín trăm gian, đến các cửa hoàng thành cùng hành lang bốn phía và cửa Nam Huân đều không phải là việc cấp bách, thế mà không chỗ nào là không tu sửa lại. Số người phục dịch rất đông, hao tốn tiền của không ít. Đó là vì lúc bệ hạ mới lên ngôi, trong cung đình quả có những chỗ hư hỏng dột nát không thể ở được, nên sai sửa sang chút ít, lý cũng nên như vậy. Nhưng các quan tả hữu liền cho rằng bệ hạ thích xây dựng, bèn mở rộng quy mô, dù chỗ nào chưa đến nỗi hư hỏng cũng đều phá đi xây lại, cốt sao cho nguy nga tráng lệ để khoe khoang với nhau. Bề ngoài thì xu phụ cầu lợi, bên trong thì mưu cầu tư lợi. Nếu bệ hạ lại nhân đó mà ban thưởng cho họ, thì việc xây dựng sẽ không bao giờ dứt, của cải trong nước tất sẽ cạn kiệt, sức dân tất sẽ hao mòn. Thần nghĩ bệ hạ mới lên ngôi, ân huệ chưa thấm nhuần đến dân, mà đã để tiếng thích xây cất cung thất truyền đi khắp nơi, đó không phải là điều làm rạng rỡ thêm đức lớn của bệ hạ.
[31] Việc tu sửa tốn nhiều công sức và tiền của, không thể kể xiết. Thần xin tạm nói về việc mua gỗ ở các châu, việc này gây nhiều phiền nhiễu cho dân. Những người ở Nha tiền đều là những người có tài sản lớn, mỗi khi phải chịu trách nhiệm vận chuyển gỗ tre, nếu bị thất thoát thì phải bồi thường, không ai không bị phá sản. Tiên đế từng thân hành tiết kiệm, cung điện vườn tược không hề được tô điểm thêm, nên các kho gỗ đều có dư thừa, nhiều lần nhân ân xá mà miễn việc mua gỗ để giảm bớt gánh nặng cho dân. Gần đây, việc tu sửa tăng gấp bội, gỗ ở các kho dần cạn kiệt, các cơ quan hữu trách phải mua gỗ từ các châu khác[22], trăm phương nghìn kế lo liệu mà vẫn sợ không đủ, nhưng thợ sử dụng gỗ lại coi rẻ như đất bùn. Xưa Hán Văn Đế tiếc tài sản của mười nhà, bỏ ý định xây đài lộ thiên. Nay số gỗ tre tích trữ ở các kho, há chỉ bằng tài sản của mười nhà? Bệ hạ nhân từ, nếu xét xem nguồn gốc của chúng, há chẳng nên tiếc sao? Huống chi hiện nay kho lương ở kinh thành hư hỏng nhiều, đều do việc thi công ở mấy nơi kia chiếm dụng thợ và vật liệu, chưa kịp sửa chữa, khiến số lượng lương thực và vải vóc bị tổn thất lớn[23]. Xưa khi xây dựng cung điện, tông miếu được ưu tiên trước, chuồng ngựa và kho tàng thứ hai, nhà ở xếp sau. Nay việc tu sửa, thứ tự ưu tiên trước sau có lẽ chưa hợp lý!
[32] Lại nói, hoàng tử sinh ra đã giàu sang, tuổi chưa đến lúc đội mũ, nên dạy cho sự giản dị, cẩn thận trong việc học tập. Nay nghe nói việc tu sửa ba vị trí, quy mô quá lớn, lại còn vượt quá nơi ở của hoàng tử thời tổ tông. Hán Minh Đế nói: “Con ta sao có thể so với con của tiên đế?” E rằng không phải là cách dạy con theo đạo nghĩa. Kẻ bề tôi ngu muội kính mong bệ hạ đặc biệt ban thánh chỉ, những nơi trong ngoài cung điện không bị hư hỏng nghiêm trọng, và những chỗ không cần thiết như cửa Nam Huân, đều ngừng xây dựng. Chỗ ở của hoàng tử chỉ nên sửa chữa lại từ nhà cũ, sớm hoàn thành công việc, không được quá hoành tráng. Hãy giảm bớt vật liệu và thợ, sửa chữa những kho tàng bị hư hỏng. Các quan giám tu ở các nơi, vốn là chức trách của họ, không nên giảm năm khảo hạch hay thăng chức để thưởng công, nhằm ngăn chặn nguồn gốc của sự xa xỉ. Khiến thiên hạ đều biết bệ hạ bỏ xa xỉ theo tiết kiệm, thương dân yêu vật, chẳng phải là tốt đẹp sao!
[33] Tam ty sứ, Cấp sự trung Thái Tương được bổ nhiệm làm Đoan Minh điện học sĩ, Lễ bộ Thị lang, Tri Hàng Châu.
[34] Ban đầu, Vua từ phủ Bộc được lập làm hoàng tử, trong ngoài đều không có lời dị nghị. Sau khi lên ngôi, vì lý do dùng thuốc, Hoàng thái hậu buông rèm nghe chính sự, thường nói với Trung thư rằng: “Nhân Tông sau khi lập hoàng tử, nhân đó nhớ lại các vương như Ngạc vương, buồn thương khóc lóc. Bọn hoạn quan, cung nữ tranh nhau mê hoặc, mà trong số cận thần cũng có người bàn khác, đáng lạ là một hai người nổi tiếng. Văn tự của cận thần chỉ ở trên giường ngủ của Tiên đế, gần đây đã đốt trong lò thiêu tiền rồi.” Trung thư không dám hỏi tên họ, chỉ vâng dạ rồi lui ra. Sau đó, người ngoài cũng dần dần đồn rằng Tương thường có ý kiến khác, nhưng không biết hư thực thế nào. Khi Vua khỏi bệnh, nhiều lần hỏi Tương là người thế nào. Một hôm, nhân Tương xin nghỉ triều, Vua đổi sắc mặt nói với Trung thư: “Tam ty quản lý tiền lương trong thiên hạ, công việc nhiều, mà Tương trong mười ngày nghỉ bốn năm ngày, sao không dùng người khác?” Hàn Kỳ cùng các quan tâu: “Việc Tam ty không có sai sót, bãi chức không có lý do, nay tìm người tài năng danh tiếng hơn Tương cũng chưa có.” Âu Dương Tu lại tâu: “Mẹ Tương đã hơn tám mươi tuổi, nhiều bệnh, Tương chỉ xin nghỉ triều, không dự khởi cư, mặt trời lên cao thì vào sảnh, cũng không bỏ việc.” Nhưng mỗi khi tâu việc nhắc đến Tam ty, Vua không lần nào không đổi sắc mặt. Đến khi Lượng Tộc đánh cướp Kinh Nguyên, Vua bèn thúc giục Trung thư, vì việc biên giới sắp xảy ra, quân nhu chưa chuẩn bị, Tam ty nên sớm chọn người. Hàn Kỳ lúc đầu còn gỡ tội, nhưng ý Vua không đổi, bèn tâu đợi Tương xin từ chức, có thể bãi chức.
[35] Lúc đầu, có nhiều lời đồn đại khác nhau, có người nói rằng sau khi hoàng thượng vào cung, đã tự mình xem các tấu chương, đến lúc này, vì Tương xin từ chức, Kỳ bèn chất vấn hoàng thượng. Hoàng thượng nói: “Trong cung không thấy văn tự nào, nhưng ở Khánh Ninh đã nghe nói đến chuyện này.” Kỳ nói: “Việc này xuất phát từ sự mơ hồ, nếu chưa rõ thực hư, xin hãy xem xét lại. Nếu để Tương vì lời đồn mà bị tội, thì sau này kẻ tiểu nhân có thể hãm hại người lương thiện, người tốt khó lòng đứng vững.” Tăng Công Lượng nói: “Kinh sư vốn thích tạo ra lời báng bổ, một người bịa đặt, nhiều người truyền đi, liền cho là thật. Đời trước, những lời nghi ngờ đã hại người trung lương, không chỉ bề tôi bị họa, mà còn gây nguy hại cho quốc gia.” Tu hỏi: “Bệ hạ cho rằng việc này thực sự có hay không?” Hoàng thượng nói: “Tuy không thấy văn tự, nhưng làm sao chắc chắn rằng không có?” Tu nói: “Lời báng bổ nghi ngờ, không chỉ không có dấu vết, dù có dấu vết rõ ràng, vẫn cần phân biệt thật giả. Đời trước, Hạ Tủng muốn hại Phú Bật, sai tỳ nữ học chữ của Thạch Giới, lâu ngày học thành, bèn giả mạo chữ của Giới viết chiếu thư phế lập, may nhờ Nhân Tông thánh minh, Bật mới được bảo toàn. Thần đến năm Chí Hòa, vừa mãn tang về kinh, có kẻ tiểu nhân ghen ghét thần, giả mạo tấu chương của thần xin loại bỏ nội quan, truyền khắp trong ngoài, các nội thần đều căm giận. Thần mới nhậm chức phán thuyên được sáu ngày, bị Dương Vĩnh Đức gièm pha, vì việc sai thuyền mà bị cách chức tri châu Đồng, cũng nhờ Nhân Tông bảo toàn, sau biết thần vô tội, liền cho lưu lại đến nay. Từ đó mà nói, dù có văn tự, vẫn cần phân biệt thật giả, huống chi không có dấu vết, xin bệ hạ đừng nghi ngờ.”
Kỳ và Công Lượng lại lần lượt trình bày. Hoàng thượng nói: “Kẻ tạo ra lời báng sao không nhắm vào người khác?” Bèn sai Tương ra ngoài giữ chức, Long Đồ các trực học sĩ[24], Công bộ thị lang Lữ Công Bật quyền Tam ty sứ.
[36] Đến đầu niên hiệu Chí Hòa, Lữ Công Bật làm Tam ty sứ. Khi Hoàng đế còn ở phủ đệ, thường được ban ngựa để sai khiến. Viên lại vì ngựa không tốt, xin đổi, Công Bật nói: “Đây là người thân cận của triều đình, lại có tiếng tốt, nên tránh hiềm nghi, không thể đồng ý.” Đến lúc này, Công Bật tâu việc xong, Hoàng đế nói: “Trẫm ngày trước ở trong cung, khanh không muốn đổi ngựa với Trẫm, lúc ấy Trẫm đã biết khanh rồi.” Công Bật cúi đầu tạ. Hoàng đế lại nói: “Khanh kế tục Thái Tương làm sứ, Tương xử lý kiện tụng không kịp thời, để lại nhiều việc tồn đọng, khanh xử lý thế nào?” Công Bật biết Hoàng đế không hài lòng với Thái Tương, đáp: “Tương chăm chỉ làm việc, chưa từng có sai sót, e rằng người nói là sai thôi.” Hoàng đế càng cho Công Bật là người đức độ. Công Bật đã làm Tam ty sứ, xin trong số binh lính được cấp khi làm Quần mục sứ trước đây tạm giữ lại mười người, chiếu cho Công Bật ba lần làm Quần mục sứ, đặc cách cấp bảy binh sĩ huấn luyện ngựa, không được lấy làm lệ. Xét lúc này Công Bật lấy chức Đồng Quần mục sứ quyền Tam ty sứ, sách này chép là Long đồ các học sĩ, Công bộ thị lang, lại chép đầu niên hiệu Chí Hòa đã làm Tam ty sứ, đều không khớp với 《Tống sử》.
[37] Ngày Quý Mão, Khu mật phó sứ, Lễ bộ Thị lang Vương Trù qua đời. Khi Vương Trù mới bị bệnh, Vua nói với Hồ Túc: “Khanh có thể sai con em đến thăm ông ấy.” Đến khi bệnh trở nặng, Vua lại sai nội thị đưa thái y đến khám. Khi trở về, thái y báo rằng ông không qua khỏi. Vua thương tiếc mãi, định đến viếng, nhưng vì các quan đang cầu mưa nên phải kiêng kỵ, nên hôm sau mới đi. Vua ban cho ba nghìn lạng bạc[25], truy tặng chức Binh bộ Thượng thư, thụy là Trung Xác. Vợ Vương Trù là Mai thị đang mang thai, Vua dặn nhà ông: “Nếu sinh con trai hay con gái đều phải báo cho Trẫm biết.” Khi sinh ra là con gái, Vua lại dặn khi nào cô ấy lấy chồng thì phải báo tên chồng. Một hôm, Vua nói với các quan phụ chính: “Vương Trù thật đáng tiếc! Trẫm vừa có được người này ở Tây phủ, mà ông ấy đã qua đời, há chẳng phải là điều bất hạnh của quốc gia sao!” Vương Trù thích ăn mặc chỉnh tề, ngồi đứng nghiêm trang, nói năng đều dùng văn chương, chưa từng đùa cợt. Ông xử lý công việc kỹ lưỡng, văn từ nghiêm chỉnh, đáng khen[26]. Ông giữ pháp luật khi bàn việc, nhưng đôi khi cũng có chỗ do dự. Ông giữ chức phụ chính chỉ được năm mươi ngày thì qua đời, tuổi thọ cũng giống như cha ông là Vương Tông. Xét cha Vương Trù tên là Vương Bác Văn, làm quan đến chức Đồng tri Khu mật viện sự, Vương Tông có truyện riêng, đây là nhầm.
[38] Ngày Bính Ngọ, giáng chức Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, Quang lộc khanh Trần Thuật Cổ làm Thiếu phủ Giám, tri châu Hãn, vì khi tạm quyền tri châu Vị, ông tự ý điều động Kinh Nguyên phó Tổng quản Lưu Kỷ[27] tạm quyền tri châu Phượng Tường, và hặc tội Lưu Kỷ, nhưng việc tra xét phần nhiều không đúng sự thật.
[39] Tư Mã Quang tâu rằng: “Thần nghe nói Thiểm Tây đô chuyển vận sứ Trần Thuật Cổ trước đây nhân việc tuần biên, đã dối tấu lên triều đình, nói rằng biên giới yên ổn, không đáng lo ngại. Sau đó, nhân quyền Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty sự, nghe Phó tổng quản Lưu Kỷ báo rằng người Tây đang tập hợp binh mã, có ý định xâm phạm, xin xuất binh phòng thủ[28], Thuật Cổ sợ việc này trái với lời tấu trước, nên nổi giận với Lưu Kỷ, tấu rằng ông ta không hiểu tình hình quân sự, gây rối loạn, tự ý điều Lưu Kỷ đến làm Tri phủ Phượng Tường. Chỉ trong vài ngày, quân Tây quả nhiên đại quân xâm phạm biên giới, giết hại nhiều cung tiễn thủ và dân tộc thiểu số, Thuật Cổ cũng không kịp thời phát binh cứu viện, khiến hàng ngàn hộ dân bị hãm hại. Gần đây, tuy triều đình đã cử quan đài điều tra tội trạng của Thuật Cổ, nhưng thần nghe nói tội của ông ta chỉ là tự ý điều động Lưu Kỷ và tấu trình không đúng sự thật, nếu xét theo luật văn quan, tội không nặng, nhưng nếu xét về quốc kế, tác hại thực sự rất lớn.
Tại sao vậy? Quốc gia đã trải qua thời bình lâu dài, người dân không quen chiến đấu, dù là quân đồn trú cũng khó ứng phó khi đối mặt với kẻ thù, chỉ có cung tiễn thủ và các dân tộc thiểu số sống ở biên giới, quen thuộc địa hình, hiểu rõ tình hình người Tây, dũng cảm, không sợ chiến đấu, từ trước đến nay quốc gia đều dựa vào họ để bảo vệ biên cương. Nay Thuật Cổ biết Tây Hạ muốn xâm lược, nhưng vì sợ bị liên lụy, đã thuận theo mưu đồ lừa dối, ngăn cản tướng quân không cho cứu viện, khiến hàng ngàn hộ dân[29] rơi vào miệng hổ, cha con ly tán, xương thịt tan nát. Không chỉ những người đã bị hãm hại đáng thương, thần e rằng từ nay về sau, các cung tiễn thủ ở các lộ sẽ không dám sống ở vùng biên giới xa xôi, các dân tộc thiểu số sẽ có ý phản quốc theo giặc. Xem xét như vậy, tác hại đâu phải nhỏ!
Huống chi Thuật Cổ xuất thân từ ơn huệ của gia đình, tài năng tầm thường, khí chất thấp kém, từ khi làm quan đến nay, đến đâu cũng tùy tiện hành động, hại dân hại quan, không coi pháp luật ra gì, khinh nhờn mệnh Vua, kiêu ngạo hung bạo, cả thiên hạ đều biết. Ông ta đã nhiều lần bị cách chức, nhưng rồi lại được dùng, chiếm đoạt danh vị, đến mức này, thực sự đã vượt quá khả năng của mình. Vì thế, trời đoạt mất tinh thần, hành động sai lầm, khiến người ta kinh hãi. Làm hại dân chúng, làm nhục quốc uy, trong ngoài không ai là không phẫn nộ. Thần nghe nói Vua Thuấn giết bốn kẻ ác mà thiên hạ phục, như những việc Thuật Cổ làm trong đời, cũng có thể gọi là kẻ ác rồi. Bệ hạ dù không muốn công khai trừng trị để tạ lỗi với dân biên giới[30], cũng nên đày ông ta đến nơi hoang vu để đối phó với yêu quỷ, khiến các quan biên giới thêm phần cảnh giác.”
[40] Ban cho Cống viện[31] tâu lên danh sách những người đỗ tiến sĩ, minh kinh, các khoa khác gồm Bành Nhữ Lệ người Bà Dương cùng 361 người khác đỗ đệ và xuất thân. Bành Nhữ Lệ cùng hai người khác được bổ nhiệm làm quan chức mạc phủ sơ cấp, theo lệ năm Hàm Bình thứ nhất, còn lại được bổ nhiệm làm phán, ty, bạ, úy, những người xuất thân thì giữ chức tuyển.
[41] Ngày Đinh Tỵ, Hàn lâm học sĩ Vương Khuê tâu: “Theo chiếu chỉ, xin xem xét ý kiến khác nhau của Lễ viện và Đồng tri Lễ viện Lữ Hạ Khanh về việc tế đế và hợp tế, xin theo ý kiến của Lễ viện, năm nay tháng 10 làm lễ hợp tế, năm sau tháng 4 làm lễ tế đế; theo ý kiến của Hạ Khanh, xin bãi bỏ lễ tế cuối năm nay.” Vua đồng ý.
[42] Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân Giả Ám được thăng làm Cấp sự trung, quyền Ngự sử trung thừa. Lúc đó, Chu Mạnh Dương và Vương Quảng Uyên vốn là người cũ của phủ đệ, thường được triệu vào đối đáp. Giả Ám tâu: “Bậc tuấn kiệt đầy triều[32], chưa từng có ai được triệu, chỉ triệu một hai người thân cũ, khiến thiên hạ thấy không rộng rãi. Xin theo lệ của Thái Tông, thỉnh thoảng triệu các quan thị tòng, quán các để hỏi ý kiến.” Vua thường nhàn nhã bảo Giả Ám: “Trẫm muốn dùng người, nhưng ít người có thể đảm đương.” Giả Ám đáp: “Thiên hạ chưa từng thiếu người, chỉ xem cách dùng như thế nào mà thôi.” Sau đó, ông dâng lên năm việc: Một là biết rõ người; hai là nuôi dưỡng dần dần; ba là không yêu cầu tài năng hoàn hảo; bốn là tiến cử theo loại; năm là chọn người thay thế mình.
[43] Lễ bộ Lang trung, kiêm Ngự sử tri tạp sự Cung Đỉnh Thần được bổ làm Tập Hiền điện Tu soạn, Tri Ứng Thiên phủ. Ban đầu, Đỉnh Thần được Tể tướng Hàn Kỳ quý mến, Hàn lâm học sĩ Ngô Khuê muốn tiến cử, nhưng Ngự sử Giả Ám không đồng ý, Khuê tranh luận không được nên thôi. Sau đó, Đỉnh Thần từ chức Đô quan viên ngoại lang được đổi làm Khởi cư xá nhân, Tri gián viện, rồi giữ chức Tri tạp sự. Khi giữ chức ngôn quan, ông ít có kiến nghị, đến nay bị điều đi ngoài. Sau đó, Vua muốn dùng Vương Quảng Uyên làm Gián quan, nói: “Những năm gần đây, Gián quan và Ngự sử phần nhiều không xứng chức, như Cung Đỉnh Thần chẳng hạn, chưa từng dâng lời tâu việc gì.” Đỉnh Thần nhậm chức Tri gián viện vào tháng 5 năm Gia Hựu thứ 6[33], đến tháng giêng năm thứ 8 thì làm Tri tạp Ngự sử, thời gian ở Gián viện khoảng hơn một năm rưỡi.
《Thực lục》 chép rằng không lâu sau ông liền giữ chức Tri tạp sự. E rằng sai, nay bỏ chữ “vị kỷ”. Theo bản truyện của Đỉnh Thần, ông cũng tâu việc không ít, Vua Anh Tông nói “chưa từng tâu việc”, có lẽ bản truyện có phần tô vẽ. 《Thực lục》 chép: “Vua từ khi lên ngôi, giao việc chính sự cho đại thần, các Gián quan và Ngự sử tâu việc có Tư Mã Quang, Lã Hối, Phó Nghiêu Dũ, Triệu Đỉnh, Phạm Thuần Nhân, Lã Đại Phòng, trong đó Tư Mã Quang và Lã Hối tâu việc nhiều nhất. Quang thường nói Vương Quảng Uyên gian tà, không thể giữ chức Trực Tập Hiền viện. Hối thường tâu luận Tể tướng Hàn Kỳ năm tội, cho rằng nên bãi chức, nhưng đều không được nghe theo.” Xét rằng Phạm Thuần Nhân và Lã Đại Phòng lúc này chưa được bổ làm ngôn quan, lời Tư Mã Quang nói Vương Quảng Uyên gian tà đã thấy khi ông được bổ làm Trực Tập Hiền viện vào tháng giêng, còn việc Lã Hối tâu năm tội của Hàn Kỳ hẳn là sau vụ nghị luận về Bộc vương, lúc này chưa xảy ra.
[44] Ngày Kỷ Mùi, khởi phục chức cũ cho Ngô Khuê, nguyên là Thị lang Lại bộ, Xu mật phó sứ. Khuê cố từ chối, nhưng không được chấp thuận. Khuê sai con trai là Cảnh, chức Đại Lý bình sự, dâng biểu khẩn khoản từ chối. Vua nhất định muốn khởi dụng ông. Hàn Kỳ nói: “Những năm gần đây, các đại thần trong hai phủ như Văn Ngạn Bác, Giả Xương Triều, Phú Bật đều xin được để tang trọn vẹn, Khuê chắc chắn không chịu nhận chức.” Âu Dương Tu nói: “Nếu biên giới có việc khẩn cấp, phải theo việc quân, thì không thể tránh được.” Vua nói: “Hiện nay biên giới phía Tây chưa yên, sao Khuê có thể toại nguyện riêng mình?” Bèn hạ chiếu cho Cảnh vào điện Diên Hòa, ban chiếu dụ trao cho Khuê. Khuê vẫn từ chối, Vua đành chấp thuận. Việc triệu Cảnh vào điện Diên Hòa diễn ra vào ngày Tân Dậu tháng 5, nay ghi chung vào đây. Chiếu lệnh cấp một nửa bổng lộc hàng tháng, nhưng Khuê cố từ chối không nhận. Việc từ chối nhận nửa bổng lộc, theo 《Hội yếu》 là vào tháng 6, nay ghi chung vào đây.
[45] Tháng 3, ngày Bính Dần, lệnh xây dựng điện thờ ba vị tướng quân Đường, Cát, Chu tại đạo quán Lễ Tuyền. Tri chế cáo Tổ Vô Trạch dâng sớ xin bãi bỏ việc này, nhưng không được trả lời.
[46] Ngày Đinh Mão, hạ chiếu cho Viện Cống: Những người đã qua kỳ thi điện tiến sĩ 5 lần, các khoa 6 lần, qua kỳ thi tỉnh tiến sĩ 6 lần, các khoa 7 lần, nay không đỗ[34] mà tuổi từ 50 trở lên, xếp loại bài thi của họ thành ba bậc rồi tâu lên. Bèn lấy Tiến sĩ Tôn Kinh cùng 7 người khác làm chức Thí Tướng tác giám chủ bạ, còn 38 người khác làm chức Châu trưởng sử, Tư mã, Văn học.
[47] Khi Vua mới lên ngôi, đã sai Điện trung thừa, Phán Tư thiên giám Chu Tông cùng Tư thiên Đông quan chính Vương Bỉnh, Thừa Vương Đống, Chủ bạ Chu Ứng Tường, Chu An Thế, Mã Kiệt, Linh đài lang Dương Đắc Ngôn soạn lịch mới, ba năm thì hoàn thành. Chu Tông tâu rằng lịch Sùng Thiên có khí tiết và giờ khắc chậm hơn nửa ngày, đường đi của năm sao sai lệch nửa bậc, thời điểm nhật thực sai lệch mười khắc. Sau đó, Trung quan chính Thư Dị Giản cùng Giám sinh Thạch Đạo, Lý Cấu lại trình bày học thuyết của mình. Vua bèn hạ chiếu cho Hàn lâm học sĩ Phạm Trấn, Chư vương phủ Thị giảng Tôn Tư Cung, Quốc tử giám Trực giảng Lưu Ban khảo định đúng sai. Xét theo sách Thượng thư câu “Thần không tụ ở Phòng” và nhật thực trong sách Xuân Thu, tham khảo thời điểm nhật thực theo lịch hiện tại, thấy rằng học thuyết của Thư Dị Giản, Thạch Đạo, Lý Cấu quá sơ sài, không thể dùng được, còn lịch mới thì chính xác. Vua bèn ban tên là Minh Thiên lịch, hạ chiếu cho Hàn lâm học sĩ Vương Khuê viết lời tựa. Chu Tông và những người khác đều được thăng hai chức, ban thưởng vật phẩm khác nhau. Về sau, Minh Thiên lịch cũng không dùng được, Chu Tông và những người khác đều bị tước chức vụ đã thăng. Ngày Ất Mão tháng 7 năm Gia Hựu thứ 6, lần đầu sai Phạm Trấn và hai người kia giám tu lịch, Chu Tông bị tước chức vào tháng 8 năm Hi Ninh nguyên niên, lại tháng 11.
[48] Ngày Tân Mùi, Thị ngự sử tri tạp sự Lã Hối mới được bổ nhiệm, vì từng nói về lỗi lầm của Trung thừa Giả Ám, nên xin từ chức. Giả Ám tâu rằng: “Gián quan, Ngự sử vốn là tai mắt của nhà Vua, nói lời công bằng, không có hiềm khích. Hơn nữa, Lã Hối mới được làm Ngự sử là do thần cùng Tôn Biện và ba người khác tiến cử, chúng thần biết ông ấy là người ngay thẳng, cẩn trọng, nay được thăng chức rất hợp lòng người, thần được cùng ông ấy làm việc chắc chắn sẽ phối hợp tốt, mong bệ hạ sai ông ấy nhận chức.” Vua hạ chiếu dụ Lã Hối, Hối bèn nhận mệnh. Nhân đó tâu rằng:
[49] Thần trước đây đã từng tâu trình, vì sức mình không thể đảm đương, xin từ chức gián quan, không ngờ lại được bổ nhiệm chức này, lòng mong báo đáp, biết phải làm sao đây! Thần nghĩ rằng các triều đại trước đặt ra chức quan giám sát, là để giúp Vua bù đắp những điều chưa thấy. Nếu không, ngoài chốn cung đình sẽ không còn nghe thấy gì, muôn việc đều bị che lấp. Xét như vậy, lời can gián không thể một ngày nào thiếu được. Phàm việc gì cũng nên bàn luận phải trái, nếu có chút gì lừa dối, nên trách phạt nặng, không nên bỏ qua lời nói mà không dùng, khiến họ bị nhục nhã. Với người hiền thì đến chết mới thôi, còn kẻ không hiền thì sẽ nghĩ lại, chỉ lo tính toán cho bản thân, đều như vậy cả. Ví như việc triều đình, quan đài gián không được biết trước, đến khi chính lệnh ban xuống mới biết, lúc sửa chữa sai lầm thì lại nói “mệnh lệnh đã ban, khó mà đổi lại.” Như thế thì bề tôi cầm quyền luôn tự cho mình thắng, chức quan giám sát cũng như không đặt vậy.
[50] Lại nghe gần đây có bề tôi dâng lời, cho rằng tiên đế trị vì, tin dùng lời tâu của quan đài gián, nhiều việc đã làm bị thu hồi, muốn bệ hạ sửa đổi cách làm của tiên đế, mọi việc phải kiên quyết không thay đổi. Ban hành một mệnh lệnh sai trái, tiến cử một kẻ bất tài, rồi tuyên bố bên ngoài rằng “xuất phát từ lòng thành.” Người ta chắc chắn không dám lay chuyển. Nếu quả thật như vậy, đó là muốn bịt tai Vua, ngăn cản lời can gián để làm việc, há phải là người trung thành yêu Vua sao! E rằng không phải là phúc của xã tắc. Hơn nữa, việc can gián không phải là chỉ ra lỗi của Vua hay sai lầm của chính sự, không nên có gì kích động, trên thì trái ý Vua, dưới thì nghịch lại phụ thần, khiến những người bị hặc tội đều trở thành kẻ thù. Há chẳng biết hại cho nhà mình sao? Điều có lợi là cho quốc gia, điều giữ là chức phận mà thôi. Lại thêm những năm gần đây, triều đình không có ý khuyên răn, kẻ nịnh thần a dua quyền thế, kẻ sợ hãi im lặng để tự bảo toàn, ngồi chờ năm tháng, rồi cũng được thăng chức, nói hay không nói, cái nào có lợi? Thần từng được nghe lời dạy của bệ hạ, chỉ ra rất nhiều kẻ im lặng, nhưng cuối cùng không thấy có gì răn dạy, đó là điều vô ích lớn vậy.
[51] Thần trộm nghĩ rằng bệ hạ có lòng ham hỏi hơn cả Vua Thuấn, nhưng chưa từng xét kỹ lời nói của họ; lòng mong cầu trị an cũng như Vua Hán Tuyên, nhưng chưa từng đòi hỏi thực chất. Thần đã không thể từ chức, dám không tự nhận trách nhiệm khuyên can. Kính xin bệ hạ sau khi hỏi thì nên xét kỹ lời nói của họ, sau khi dùng thì nên đòi hỏi thực chất, đừng để tả hữu che lấp làm mờ mịt trí tuệ. Quan chức lo việc tâu trình nên thường xuyên được khuyến khích và răn đe, như vậy thì người ta sẽ không cẩu thả, chức vụ đều được thực hiện, có ích cho triều chính, nền tảng thái bình không khó thành vậy. Việc sửa đổi hành động của tiên đế, càng nên suy nghĩ kỹ, những việc đã làm nếu thực sự bất tiện, đừng ngại thay đổi, nếu không thần không biết chức vụ của mình phải giữ thế nào, cuối cùng sẽ không yên phận.
[52] Ngày Tân Tỵ, Hàn lâm học sĩ Vương Khuê tâu: “Quyền Ngự sử trung thừa Giả Ám trước đây với tư cách là học sĩ cùng biên soạn 《Nhân Tông thực lục》, từ khi nhận chức ở đài hiến, không còn vào viện nữa, mong được lệnh cho vẫn tiếp tục làm việc.” Được chấp thuận. Ám xin được mang bản thảo 《Thực lục》 đến đài để biên soạn, nếu có việc cần bàn thì cứ ba đến năm ngày vào viện một lần, chiếu chỉ lệnh cho ba đến năm ngày vào viện một lần để biên soạn.
[53] Ngày Nhâm Ngọ, Lễ viện tâu: “Gần đây theo quy chế cũ của triều đình, xét định chế độ tang phục đại tường của Nhân Tông, lấy ngày 29 tháng 3 làm lễ đạm trừ, đến ngày 1 tháng 7 thì theo lễ cát, đã được ban chiếu. Thần xét theo lễ học, Vương Túc cho rằng 25 tháng là hết tang, còn Trịnh Khang Thành thì cho là 27 tháng, 《Thông điển》 dùng thuyết của Khang Thành, lại thêm đến hết tháng 27, tức là tháng 28 mới hết tang, còn tháng 29 mới theo lễ cát. Đó là sai lầm. Thời tổ tông lấy 《Thông điển》 làm chuẩn, nhưng chưa xét kỹ quy chế cũ, năm Thiên Thánh sửa đổi chiếu về thời hạn năm tháng của ngũ phục, quyết định là 27 tháng, nay sĩ thứ đều cùng tuân theo. Tang ba năm, từ thiên tử đến thứ nhân, không nên có khác biệt, xin lấy ngày 29 tháng 3 làm đại tường, tháng 5 chọn ngày làm lễ đạm, ngày 1 tháng 6 theo lễ cát.” Được chấp thuận.
[54] Ngày Kỷ Sửu, ban cho nhà cô gái họ Chu tên Hồi ở huyện Thượng Ngu, châu Việt 30 tấm lụa và 20 hộc gạo. Mẹ cô Chu mất sớm, cô được bà nội nuôi dưỡng. Khi cô mới 10 tuổi, trong làng có người tên Chu Nhan tranh chấp với bà nội, cầm dao định giết bà. Cả nhà hoảng loạn, chỉ có cô Chu hét lớn xông lên, che chở cho bà nội[35], tay nắm lấy áo Chu Nhan, lấy thân mình đỡ lưỡi dao của Nhan, nói: “Hãy giết tôi, đừng giết bà nội.” Nhờ cô Chu, bà nội thoát được. Cô Chu bị đâm hàng chục nhát dao, nhưng vẫn không buông áo Chu Nhan. Chu Nhan tức giận, chặt cổ cô đến chết. Việc này được tâu lên, nên có lệnh ban thưởng. Sau đó, lệnh huyện Hội Kê là Đổng Giai dựng tượng cô Chu trong miếu Tào Nga, hàng năm thờ phụng cùng.
[55] Tư Mã Quang nói:
[56] Thần gần đây được ơn cho phép nghỉ đến Thiểm Châu để làm lễ phần hoàng, thấy rằng dọc đường các châu, kho tàng tiền lương đều thiếu thốn, lương bổng của quan lại và quân nhân đều phải thu gom dần dần mới có thể chi trả được. Thần nghĩ rằng các châu khác mà thần chưa đến, cũng phần nhiều như vậy. Thần nghe nói rằng nước không có dự trữ đủ ba năm, thì gọi là nước không phải nước. Nay tình trạng khốn cùng như thế, mà triều đình chưa từng lo lắng, nếu không may gặp phải hạn hán, châu chấu trên diện rộng hàng ngàn dặm, như thời Minh Đạo, Khang Định, lại thêm biên cương có việc khẩn cấp, phải động binh khởi sự, không biết triều đình sẽ đối phó thế nào? Thần thấy rằng các châu Trần, Hứa, Dĩnh, Bạc, chỉ vì một trận lụt mùa thu năm ngoái, đã dẫn đến cảnh người thân ăn thịt lẫn nhau, xác chết chất đầy đồng. Đây không phải là lỗi của quan lại hiện nay, mà là lỗi của quan lại trước kia. Tại sao vậy?[36] Bởi vì những năm được mùa trước kia, quan lại chỉ lo hưởng an nhàn, không nghĩ xa, lúa mạch rẻ mạt, không biết tích trữ, đến khi gặp năm đói kém, cả quan lẫn dân đều kiệt quệ, trên dưới lúng túng, làm sao cứu được? Dù có Tang Hoằng Dương, Lưu Yến sống lại, cũng không thể làm gì được. Nay mùa xuân may mắn có mưa, ruộng mạch có hy vọng, triều đình đã coi việc đói kém là chuyện ngoài tầm tay, không còn để ý đến việc tích trữ nữa, nếu chẳng may các châu huyện trong thiên hạ lại gặp thiên tai, thì dân chúng sẽ khác gì dân các châu Trần, Hứa, Dĩnh, Bạc? Nếu đói kém liên tiếp xảy ra, trộm cướp ắt sẽ nổi lên, đây há chẳng phải là điều cần phải lo lắng sớm sao?
[57] Thần ngu muội kính mong bệ hạ đối với tiền lương trong thiên hạ luôn lưu tâm, đặc biệt ban chiếu thư, rõ ràng dụ bảo trong ngoài, các quan văn võ nếu có người nào thông hiểu lợi hại về tiền lương trong thiên hạ, có thể làm cho kho tàng đầy đủ, lại không làm hại dân chúng và vật chất, đều cho phép dâng sớ tự trình bày. Bệ hạ đừng vì người đó chức vụ thấp kém, văn từ thô thiển mà bỏ qua, hãy lược xem qua, chọn những người có đạo lý khá dài, đều ban cho triệu kiến, thong thả hỏi han về việc hiện nay lương thực và tiền tệ đều thiếu thốn, công tư đều khó khăn, nguyên nhân tại sao? Làm thế nào để có thể khiến trên dưới đều sung túc? Nếu lời nói của họ không có gì đáng lấy, thì bãi bỏ mà thôi, nếu có điều đáng lấy, liền thi hành ngay. Lại ghi chép tên họ của họ, đặt bên cạnh, sau đó chọn những người có tài năng xuất chúng trong số đó để làm Chuyển vận sứ, Phó[37], Phán quan và Tam ty sứ, Phó, Phán quan.
[58] Hàng năm đến cuối năm, sai Tam ty tổng kết số tiền, lụa, lương thảo hiện có trong kinh, phủ giới và mười tám lộ, tâu lên, so sánh với số liệu cuối năm trước, nếu tăng nhiều, liền cho điều tra, nếu không có gian lận, lừa dối hay thuế má vô lý mà dẫn đến tăng thêm[38], người đương chức nên được khen thưởng tùy mức, nếu đã nhiều lần được khen thưởng, thì đặc biệt thăng chức. Nếu giảm nhiều, liền cho chất vấn, nếu không có tai họa lớn hay thêm quân mã mà dẫn đến giảm sút, người đương chức nên bị trách phạt tùy mức, nếu đã nhiều lần bị trách phạt, thì vĩnh viễn cách chức. Nếu thực sự có thể kiên trì như vậy[39], vài năm sau, có thể khiến kho lương trong thiên hạ đều có thừa, kho tiền đều có dư, dù có thiên tai lũ lụt, côn trùng phá hoại hay biên giới có việc gấp, cũng không đáng lo. Sớ này không rõ thời điểm, phụ lục vào cuối mùa xuân, cần xem xét kỹ hơn.
[59] Vua từng hỏi các đại thần: “Trong thiên hạ, vàng và thóc có bao nhiêu?” Hàn Kỳ và các quan đều trả lời đầy đủ, nhân đó hỏi: “Chi phí cho binh lính dư thừa gấp đôi so với trước kia, là vì sao?” Âu Dương Tu nói: “Từ khi có việc phương Tây, các thành biên giới đều tăng cường phòng bị, đã tăng thêm quân số, nên chi phí hàng năm càng nhiều.” Vua lại hỏi: “Tổ tiên đã khoan dung như vậy, mà vẫn còn kẻ cứng đầu sao?” Hàn Kỳ nói: “Quốc gia lo việc yên dân, nên tỏ ra khoan dung. Binh lính biên giới lâu không đánh trận, bọn chúng cũng tự kiêu căng lười biếng, tuy có lúc cứng đầu, nhưng đó là bản tính của rợ Khuyển Nhung.” Việc này căn cứ theo 《Bảo Huấn》 ghi chép thêm, không rõ thời gian nào.
[60] Ban đầu, khi lăng tẩm của Vua được xây xong, Hàn Kỳ dẫn chuyện cũ xin từ chức tể tướng để về giữ phiên trấn, nhưng Vua không cho phép. Mùa đông năm ngoái, ông lại lấy cớ bệnh tật tiếp tục xin từ chức, Vua trách ông phải chờ mãn tang, sau đó ông ba lần dâng sớ, Vua hạ chiếu bảo phải đợi xong lễ giao.
Lúc này, Lã Hối tâu: “Thần nghĩ rằng sự hợp tan của Vua tôi liên quan đến sự thịnh suy của đất nước, những việc đã xảy ra từ xưa có thể làm gương gần. Bệ hạ mới thân chính được một năm, các đại thần trong hai phủ liên tiếp xin từ chức, chỉ có những người già yếu bệnh tật không đảm đương được việc mới có thể tiến thoái theo lễ. Nếu như sớ dâng lên buổi sáng, chiếu chỉ ban xuống buổi chiều, được ân sủng liền đứng dậy, chẳng phải là ép Vua sao? Không chỉ coi thường lễ triều đình, mà còn đủ để thiên hạ chê cười. Nguyên soái Hàn Kỳ, phò tá thánh thượng, thực có công lao, từ mùa đông năm ngoái liên tục trả lại ấn tín, qua mấy tháng lại dâng sớ chống đối, trong sớ trước có nói: ‘Tự cho là lòng trung cô độc có thể đứng vững, nào biết đạo thẳng khó thi hành.’ Đó là do bất bình mà nói, bệ hạ nên thấu hiểu ý ông ấy. Nghĩa Vua tôi không nên để lộ ra sự cách biệt, trong ngoài nghe thấy, đều không cho là phải.
Hiện nay xu phủ thiếu người, phòng bị binh lính lâu ngày lơi lỏng, nước Hạ không thuận, dân biên giới lầm than, phép trà thay đổi, thương nhân không đi lại, kinh phí ngày càng tăng, tài chính ngày càng hao hụt. Trong lúc nhiều việc, Kỳ không nghĩ cách kinh lược để giúp việc lớn, bỏ mặc mà đi, có thể gọi là trung sao? Vì mình thì chu toàn, nhưng lòng yêu Vua thì chưa đến nơi.
Thần xin đặc biệt hạ chiếu chỉ, khuyên nhủ hai phủ, khiến họ cố gắng đồng lòng, mỗi người an vị, hết lòng vì nước, cùng đạt đến đạo. Chỉ có những người già yếu bệnh tật, đừng ép họ làm việc, cho họ từ chức về nghỉ ngơi, đó mới là ân huệ nhân từ yêu thương từ đầu đến cuối. Nếu không, đại thần coi nhẹ việc ở hay đi, kẻ dưới sẽ nhìn vào đâu? Kỷ cương triều đình sẽ từ đó đổ nát. Tin đồn đến tứ di, họ cũng có lòng khinh nhờn nhà Hán, việc này thực sự hệ trọng. Việc ở hay đi của mấy người này không nên kéo dài, chỉ mong thánh thượng quyết đoán không nghi ngờ, thiên hạ may mắn lắm thay.”
(“Tự cho là lòng trung cô độc có thể đứng vững, nào biết đạo thẳng khó thi hành.” là câu trong sớ xin từ chức tể tướng đầu tiên của Hàn Kỳ vào mùa đông năm Giáp Thìn. Bản tấu này của Lã Hối có lẽ được viết sau khi Hàn Kỳ xin từ chức vào mùa hè năm nay, nay tạm ghi trước ở đây.)
[61] Tri chế cáo Tổ Vô Trạch tâu: “Trung thư tỉnh không nên ở phía đông, xin đổi chỗ với Môn hạ tỉnh. Hơn nữa, Môn hạ, Trung thư và Thượng thư gọi là tam tỉnh, các chức trưởng quan đều là nhiệm vụ của tể tướng, không có ai cao hơn. Nay Tả tỉnh ở phía tây, Hữu tỉnh ở phía đông, điều này không thể không thay đổi. Vào niên hiệu Long Sóc đời Đường, từng đổi Tả Hữu tỉnh thành Đông Tây đài, điều này càng chứng tỏ không thể không thay đổi.” Vua nghe theo[40]. Sách “Hội yếu” cho rằng đây là việc ngày 14 tháng 3, nay phụ vào cuối tháng.
[62] Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Tuất, Vua hạ chiếu cho các quan Lễ bộ và các quan đãi chế trở lên bàn bạc việc tôn phụng lễ nghi của Bộc An Ý Vương rồi tâu lên. Đây là do tể thần Hàn Kỳ và các quan đã tấu trình từ tháng 5 năm Nguyên Niên.
[63] Ngày Tân Sửu, ban chiếu rằng: “Trước đây ra lệnh cho các Giám ty, Tri châu tiến cử lại viên thuộc bộ mình, mỗi năm hạn định số lượng, vốn để ngăn sự lạm dụng; không hỏi năng lực, cứ đủ số lượng, không phải ý của chiếu. Từ nay việc tiến cử phải chú trọng chọn được người tài, không cần phải đủ số lượng quy định.”
Trước đó, Ngự sử Trung thừa Giả Ám tâu: “Hiện nay quan lại kinh triều đến chức Khanh, Giám, tổng cộng hơn hai nghìn tám trăm người, có thể nói là nhiều, mà Lại bộ tâu cử những người đã qua khảo hạch nhưng chưa được dẫn kiến lên đến hơn hai trăm năm mươi người. Thần không dám viện dẫn xa xưa, chỉ xin lấy việc triều trước để so sánh.
Vào thời Thiên Thánh, pháp lệnh còn khoan hòa, người được tuyển qua bốn kỳ khảo hạch thì được cải quan, mà các sứ giả ở các lộ tiến cử lại viên thuộc bộ không hạn định số lượng, lại các quan tại kinh đài các và thường tham quan từng giữ chức Tri châu, Thông phán, dù không phải lại viên thuộc bộ cũng được tiến cử, lúc đó mỗi năm chỉ có vài chục người được cải quan qua khảo hạch. Sau này, tiêu chuẩn khảo hạch tăng lên, Tri châu tiến cử lại viên thì căn cứ vào số lượng huyện thuộc quyền mà quyết định số người được tiến cử, lại cấm thường tham quan tiến cử sĩ tử, điều lệ so với thời Thiên Thánh dần phức tạp hơn, mà số người được cải quan đã nhiều. Tuy nhiên, những người đủ tiêu chuẩn khảo hạch vẫn được dẫn kiến trong vòng mười ngày, chưa có ai phải chờ đợi. Đến thời Hoàng Hựu, bắt đầu hạn chế số lượng tiến cử của Giám ty, pháp lệnh càng chặt chẽ, mà số người chờ đợi khảo hạch đã không dưới sáu bảy mươi người. Từ Hoàng Hựu đến nay mới mười năm, mà số lượng đã tăng gấp ba.
Trước kia pháp lệnh đơn giản mà số lượng ít, nay pháp lệnh chặt chẽ mà số lượng tăng, nguyên nhân là gì? Chính là do việc tiến cử lại viên mỗi năm hạn định số lượng, chỉ cốt đủ số mà thôi. Ví như một vị Thái thú mỗi năm được tiến cử năm người, mà cuối năm không đủ số, thì ai cũng cho rằng mình bị bỏ sót, người đáng được tiến cử thì sợ bị gièm pha, muốn dừng lại cũng không dám. Đó là lý do tiến cử nhiều, mà người thực tài, liêm chính lại bị lẫn lộn với kẻ bất tài. Thần cho rằng nên ban chiếu rõ ràng cho thiên hạ, có người tài thì tiến cử, không cần phải đủ số lượng quy định.” Vua nghe theo lời tâu, nên ban chiếu này.
[64] Ngày Bính Ngọ, đưa tượng Vua Nhân Tông vào thờ tại điện Hiếu Nghiêm ở cung Cảnh Linh.
- Quảng Uyên quả thực đã dùng văn chương để tự tiến cử với người thân cận, chữ 'tằng' nguyên bản thiếu, theo bản Tống toát yếu và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 32, tờ 'Vương Quảng Uyên trát tử' bổ sung. ↵
- Chữ 'thủy' trong 'Kế Thiên thủy vi biên hoạn' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào hai bản sách trên và sách trên để bổ sung. ↵
- Từ năm Cảnh Đức thứ hai đời Chân Tông kết minh với giặc phương Bắc ở Thiền Uyên, hai chữ 'Bắc lỗ' vốn thiếu, theo hai bản trên và sách trên bổ sung. ↵
- Các tướng dũng mãnh cũng dần xuất hiện qua các trận chiến, 'dần dần' nguyên là 'dần quen', chữ 'xuất' vốn thiếu, theo hai bản trên và sách trên sửa bổ sung. ↵
- Tu sửa, chữ 'tu' nguyên là 'quản', theo hai bản trên và sách trên sửa. ↵
- 'Thì ta lại xuất kích và địch lại tập hợp' chữ 'địch' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung. ↵
- 'Thì địch không thể không bị vây khốn' hai bản trên và sách trên đều viết là 'thì không có kẻ địch nào không bị vây khốn'. ↵
- Có điều không thể nói trước, chữ 'ngôn' nguyên bản là 'tri', căn cứ theo bản Tống Toát Yếu, bản Các và sách trên sửa lại ↵
- Giao cho tướng soái, chữ 'suất' nguyên bản là 'tốt', căn cứ theo sách trên sửa lại ↵
- Cũng phải dựa vào uy thế của chiến thắng trước, chữ 'tiệp' nguyên bản là 'kiện', căn cứ theo sách trên sửa lại ↵
- Và xin cử một đại thần đến cùng các tướng biên cương bàn định kế hoạch lớn về công thủ, chữ 'khất' vốn thiếu, căn cứ theo bản Tống Toát Yếu và 《Âu Dương Văn Trung Công Văn Tập》 quyển 114, tờ 'Ngôn Tây Biên Sự Nghi Đệ Nhị Trát Tử' bổ sung ↵
- 20 vạn quân, sách trên ghi là 'vạn kỵ' ↵
- Chữ 'nghị' trong 'cũng chưa từng bàn bạc' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo sách trên để bổ sung. ↵
- Chữ 'ân' trong 'được bệ hạ thương tình ban ân' ban đầu viết là 'ý', căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách trên để sửa. ↵
- Chữ 'chi' trong 'nhận bổng lộc mà hổ thẹn' ban đầu thừa, căn cứ theo sách trên để xóa. ↵
- Ngày Đinh Sửu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 phần trên đều ghi là 'Tân Tỵ'. ↵
- Rõ ràng như chỉ bàn tay, theo hai bản trên và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 33, tờ chiêu quân đều viết 'rõ như trắng đen'. Lại có bản viết 'rõ ràng như trắng đen'. ↵
- Chuyên chú vào tinh nhuệ, 'chú' theo sách trên viết là 'lấy'. ↵
- Sao lại còn khổ sở mở rộng chiêu mộ quân cấm 'mở rộng', bản Tống, bản Tống toát yếu và sách trên đều viết là 'trực', có lẽ tốt hơn. ↵
- Không phải là kế sách lâu dài vì triều đình 'kế' chữ nguyên thiếu, theo sách trên bổ sung. ↵
- chữ 'lệnh' nguyên bản thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 bổ sung. ↵
- 'Mua' nguyên là 'Đặt', theo bản Tống toát yếu và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 33, bài 《Luận Tu Tạo Trát Tử》 sửa lại. ↵
- 'Số' trong bản Tống, Tống toát yếu và sách trên đều chép là 'Loại'. ↵
- Chữ 'trực' vốn thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 56 nghi là Thái Tương, 《Tống sử》 quyển 311 Lữ Công Bật truyền bổ. ↵
- Ban ba nghìn lạng bạc, chữ 'ba' nguyên bản là 'hai', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Tống tể phụ biên niên lục》 quyển 6, 《Tống sử》 quyển 291 truyện Vương Trù sửa lại. ↵
- Văn từ nghiêm chỉnh, chữ 'chỉnh' trong bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và 《Tống tể phụ biên niên lục》 quyển 6, 《Tống sử》 quyển 291 truyện Vương Trù đều là chữ 'lệ'. ↵
- Lưu Kỷ, chữ 'Kỷ' nguyên bản là 'kỷ', theo ba bản trên và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công văn tập》 quyển 32 tờ Trần Thuật Cổ, 《Tống sử》 quyển 262 truyện Lưu Kỷ sửa lại. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Xin xuất binh phòng thủ, chữ 'thủ' trong bản Tống, bản Tống toát yếu và tờ tấu đều chép là 'thác'. ↵
- Hộ dân, chữ 'sinh' trong bản Tống toát yếu và tờ tấu đều chép là 'vương'. ↵
- Bệ hạ dù không muốn công khai trừng trị để tạ lỗi với dân biên giới, chữ 'minh' vốn thiếu, theo bản trên và tờ tấu bổ sung. ↵
- Cống viện, chữ 'Cống' nguyên là 'Trực', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 sửa lại. ↵
- Tuấn kiệt đầy triều, chữ 'kiệt' nguyên là 'nhân', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 《Tống sử》 quyển 302, truyện Giả Ám sửa lại. ↵
- Năm Gia Hựu thứ 6, chữ 'Lục' nguyên bản viết 'Nguyên', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và ý văn sửa lại. ↵
- 'Nay' nguyên bản là 'lệnh', theo bản 《Tống toát yếu》 và 《Tống hội yếu》 tuyển cử 3-38 sửa lại. ↵
- 'bà nội' nguyên bản là 'bà già', theo bản Tống và bản tóm tắt Tống cùng văn cảnh sửa lại. ↵
- Lỗi của quan lại trước kia, tại sao vậy? Chín chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 33, tờ tiền lương bổ sung. ↵
- Chữ 'sứ' trong 'Chuyển vận sứ phó' vốn thiếu, căn cứ theo sách trên mà bổ sung. ↵
- Nếu không có gian lận, lừa dối hay thuế má vô lý mà dẫn đến tăng thêm, chữ 'trí' vốn viết là 'trí', căn cứ theo sách trên mà sửa. ↵
- Nếu thực sự có thể kiên trì như vậy, chữ 'trì' trong bản Tống toát yếu và sách trên đều viết là 'hành'. ↵
- 'Vua nghe theo' hai chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách 'Tống hội yếu' chức quan 3 phần 2 bổ sung ↵