"

V. TỐNG ANH TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 209: NĂM TRỊ BÌNH THỨ 4 (ĐINH MÙI, 1067)

Từ tháng giêng năm Trị Bình thứ 4 đời Vua Anh Tông đến hết tháng 3 nhuận cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Tuất (mùng 1), các quan dâng sách tôn hiệu lên ở điện Đại Khánh. Thái úy dâng sách trao cho các môn sứ, chuyển giao cho nội thường thị, rồi từ điện Thùy Củng tiến vào.

[2] Hôm đó, có gió lớn và bụi mù.

[3] Sứ Khiết Đan đến chúc mừng năm mới đang ở dịch quán. Theo lệ cũ, ban yến ở điện Tử Thần, nhưng lúc này Vua không khỏe, nên sai tể thần đến dịch quán ban yến. Sứ giả cho rằng không đúng lệ, không chịu vào tiệc. Tăng Công Lượng trách rằng: “Được ban yến mà không đến, là không kính mệnh Vua. Vua không tiện, phải đợi đến tận nơi, là không hợp lẽ quốc gia.” Sứ giả bèn vào tiệc.

[4] Ngày Đinh Tỵ, Vua băng hà ở điện Phúc Ninh. Thần Tông lên ngôi, lúc đó 20 tuổi. Các quan vào điện Phúc Ninh, phát tang, nghe di chiếu, ra mắt Vua ở gian đông, đều theo nghi thức năm Gia Hựu. Chỉ có việc vào cửa sau điện Thùy Củng rồi mới khóc là khác.

[5] Ngày Mậu Ngọ, đại xá, trừ những tội không được tha theo lệ thường. (Theo 《Tống sử》 chép: “Xá thiên hạ, trừ những tội không được tha theo lệ thường.”) Các quan được thăng một bậc, thưởng hậu cho các quân, đều theo lệ cũ năm Gia Hựu. Chỉ có việc các quan lạy tạ mà không múa là khác, vì múa là sai lầm của năm Gia Hựu.

[6] Ngày Kỷ Mùi, tôn hoàng thái hậu làm thái hoàng thái hậu, hoàng hậu làm hoàng thái hậu.

[7] Lấy tể thần Hàn Kỳ làm Sơn lăng sứ[1].

[8] Ngự sử Lưu Tường tâu: “Theo lễ, khi để tang không uống rượu ăn thịt. Khi tang lễ Nhân Tông, các quan và quân lính đều được cấp rượu thịt, khiến dê ở kinh thành cạn kiệt. Xin cấp cho các quan đồ chay.” Lễ quan cho là phải, nhưng chấp chính không nghe.

(Theo bia mộ Lưu Tường và nhật ký Tư Mã Quang.)

[9] Ngày Canh Thân, các quan dâng biểu xin Vua nghe chính sự. Không cho. Dâng biểu ba lần, mới chấp thuận.

[10] Xu mật viện triệu tập các quan Lễ bộ hỏi về cách xưng hô trong thư gửi mẹ của Khiết Đan, muốn tự xưng là cháu nội (trọng điệt) và gọi bà ấy là Thái mẫu. Phán Thái thường tự Lý Giản Chi và Đồng phán Thái thường tự Tống Mẫn Cầu cho rằng nên xưng là cháu (điệt tôn) và gọi bà ấy là Thúc tổ mẫu. Triều đình nghe theo.

[11] Tam ty sứ Hàn Giáng, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Trương Phương Bình dâng sớ tâu rằng: “Thiên hạ bất hạnh, Đại hành hoàng đế băng hà. Nhân Tông băng hà đến nay chưa đầy bốn năm, lại gặp đại họa, trong ngoài công tư, tài chính không đủ, lại ban thưởng hậu hĩnh, kho tàng trống rỗng. Suy nghĩ sâu xa, điều cấp bách hiện nay không gì bằng tài chính. Tài chính là mệnh sống của dân, là gốc rễ của quốc gia, tiêu phí dễ dàng, tích lũy thật khó. Tài chính không đủ, dân không thể sống, quốc gia không còn là quốc gia nữa. Tổ tiên bình định thiên hạ, thu gom vàng bạc, cất vào kho nội phủ, để lại cơ nghiệp cho hậu thế thật dồi dào. Từ niên hiệu Khang Định, Khánh Lịch đến nay, khai thác kho tàng tích trữ để phát triển, tích lũy trăm năm, chỉ còn sổ sách trống rỗng. Thần thấy trong chiếu thư ân xá, phần thưởng cho tướng hiệu các quân đã ban phát xong, còn đối với văn võ bá quan, đã thăng chức tăng tước, các phần ban thưởng nếu lại theo lệ gần đây thời Gia Hựu, e rằng tài lực quốc gia không đủ cung ứng. Kính xin xem xét lại việc thực hiện theo lệ cũ khi Chân Tông băng hà và Nhân Tông lên ngôi, đó là thể lệ của triều trước, không phải do nay mới cắt giảm.

Về chế độ xây dựng lăng tẩm, di chiếu đã dặn phải tiết kiệm. Thần nghe nói khi tu sửa Vĩnh Chiêu lăng, các quan không kính cẩn tuân theo ý chỉ trước, làm rầm rộ phiền nhiễu, hao tổn không ít, yêu cầu cung ứng nhiều, một nửa thành đồ bỏ đi. Xin hạ lệnh cho Tam ty và các châu huyện liên quan, phàm những nơi bị bắt đóng góp, các quan chức tại chức phải căn cứ vào số lượng chính xác, ấn định thời hạn rõ ràng, cốt sao tiết kiệm sức dân sức nước, nay thời gian còn dài, đủ để chuẩn bị. Đối với các khoản chi tiêu không cấp bách, không vì tiết kiệm nhỏ mà cho là vô ích mà không làm, không vì hao phí nhỏ mà cho là không hại gì mà không tiết kiệm, suy nghĩ sâu xa về kế sách lâu dài, để bảo toàn sinh mệnh của dân. Điều cấp bách hiện nay, không gì hơn việc này. Chúng thần được triều trước tin dùng, giữ chức vụ gần gũi, thân cùng vui buồn với quốc gia, mắt thấy lợi hại của dân, không dám im lặng, mong đóng góp chút ít.”

[12] Thái tử Hữu thứ tử Hàn Duy tâu: “Thần nghe nói theo lệ cũ, khi Đại Hành hoàng đế băng hà, thường có vật phẩm để lại ban tặng cho quần thần. Thần nghĩ rằng thời thái bình kéo dài, chi tiêu không có chừng mực, dẫn đến tài chính công tư đều thiếu thốn. Hơn nữa, quốc gia không may, trong vòng bốn năm, hai lần gặp đại tang, xây dựng lăng tẩm, lại thưởng hậu hĩnh cho binh sĩ, chi phí không thể kể xiết. Kho tàng hiện nay so với cuối đời Nhân Tông lại càng hao hụt. Nếu theo lệ năm Gia Hựu mà ban tặng hậu hĩnh, thần e rằng tổn thất sẽ không nhỏ. Nếu Bệ hạ cho rằng cần kế thừa chí nguyện của Tiên đế, ban ơn cho quần thần, không thể bãi bỏ, thì xin hãy xem xét các kho tàng, lấy những vật dụng, đồ chơi quý giá để ban tặng, vừa đủ để tỏ lòng là được, không cần quá xa xỉ. Còn những vàng bạc, lụa là có thể dùng để nuôi quân, cứu dân, xin hãy tiết kiệm để cứu vãn tình thế khó khăn hiện nay.” Lại tâu: “Bệ hạ lên ngôi vào lúc này, chính là lúc cần thân hành tiết kiệm, làm gương cho thiên hạ, lấy việc làm cho nước mạnh dân giàu làm mục tiêu. Nếu Bệ hạ cho lời thần là đúng, thì xin hãy bắt đầu từ việc này. Hơn nữa, lễ ban tặng vật phẩm để lại chỉ dành cho các quan Đài gián trở lên, những người này đều là cận thần của triều đình, nghĩa lý nên vì nước, dù ban tặng ít ỏi cũng không có lý nào là không đủ. Nếu việc này liên quan đến nhiều người khiến Bệ hạ bị oán trách, thần cũng không dám nói bừa.”

[13] Chiếu rằng lễ ban tặng vật phẩm để lại do Nội thị tỉnh lấy chỉ dụ mà giảm bớt, quy chế xây lăng tẩm do Tam ty phụng hành theo di chế. Khi bàn việc xây lăng tẩm, Vua ban chiếu tay cho các quan chấp chính ở Tư Thiện đường rằng: “Quốc gia nhiều nạn, trong bốn năm liên tiếp gặp đại tang, công tư đều kiệt quệ. Nên lệnh cho Vương Đào cắt giảm những chi tiêu không cần thiết.” Vua lại nói với các quan chấp chính: “Khi Nhân Tông băng hà, Tiên đế vì tránh hiềm nghi nên không dám cắt giảm, nhưng nay thì không cần lo ngại nữa.”

[14] Ngày Quý Hợi, ban vật phẩm để lại cho tông thất và cận thần theo thứ bậc. Vua nói với các quan chấp chính: “Nhân Tông trị vì thiên hạ hơn bốn mươi năm, trong cung giàu có, nên vật phẩm để lại rất hậu. Tiên đế trị vì chỉ bốn năm, đương nhiên không thể so với Nhân Tông, nhưng cũng không thể không có.” Vì vậy, số vật phẩm ban tặng đều giảm một phần ba so với năm Gia Hựu.

[15] Ngày Bính Dần, bắt đầu ngự tại điện Ác ở cửa Nghênh Dương để nghe chính sự, tiếp kiến bá quan. Tam ty xin 30 vạn quan tiền trong kho nội tạng để hỗ trợ chi phí xây dựng lăng tẩm. Được chấp thuận. Trước đây, khi Chân Tông lên ngôi, nghe chính sự ở điện Tiện, các tể thần được gia ân, tuyên chế ở ngoài cửa điện Sùng Chính. Đến đời Nhân Tông, Anh Tông, việc nghe chính sự và tuyên chế được thực hiện ở sân điện Văn Đức. Đến nay lại áp dụng theo lệ cũ thời Chí Đạo.

[16] Sơn lăng sứ tâu: “Năm Gia Hựu thứ 8, số binh lính huy động để xây dựng lăng tẩm là 46.400 người, nay chỉ xin điều động 35.000 người[2], các lộ chuyển vận ty thuê 4.000 thợ đá.” Được chấp thuận.

[17] Ngày Quý Dậu, quần thần dâng biểu xin Vua ngự ở chính điện, không được chấp thuận, ba lần dâng biểu, mới được đồng ý. Ban đầu, Vua định sai Vương Đào đến phủ Hà Nam, ban chiếu viết: “Trẫm suy nghĩ sâu xa rằng chi phí xây dựng lăng tẩm rất lớn, hiện nay kho tàng trống rỗng, sức dân suy kiệt, đúng lúc cần cứu nguy giúp đỡ, mà quốc gia trong bốn năm hai lần gặp đại họa, tuy ý muốn giản tỉnh, nhưng lại lo các cơ quan không tuân theo chỉ dụ tiết kiệm, nay sai khanh đến phủ Hà Nam lo liệu[3], mọi việc cần tiết kiệm, có việc gì cấp thiết trước mắt cũng nên tâu lên.” Lại ban chiếu rằng: “Trẫm trước định sai khanh đến phủ Hà Nam lo liệu việc tiết kiệm chi phí phù phiếm cho lăng tẩm, để tuân theo di chỉ. Suy nghĩ đi nghĩ lại, những thứ dùng cho lăng tẩm đều do Tam ty và Thiếu phủ giám quản lý, muốn cho họ cùng bàn với khanh để giảm bớt, đã dụ các phụ thần ban sắc. Nhưng Trẫm lại nghĩ khanh ở Đông cung, hết lòng phò tá Trẫm, nay vừa mới chấp chính, đang cần khanh cùng Trẫm gắng sức lo việc trị nước, nên chưa vội sai đi.”

[18] Ngày Mậu Dần, lấy Vương Đào làm Quần mục sứ.

[19] Tháng 2, ngày Ất Dậu, bắt đầu ngự ở điện Tử Thần tiếp kiến quần thần, lui về điện Diên Hòa xử lý chính sự.

[20] Long Đồ các trực học sĩ Hàn Duy dâng ba việc: Một là việc nghe chính sự theo quyền biến là việc bất đắc dĩ, chỉ nên quyết định những việc lớn gấp, còn lại nên khoan dung; Hai là các quan chấp chính đều là đại thần được hai triều ủy thác, nên đối xử chân thành và tôn kính, mỗi việc đều tham khảo ý kiến để họ hết lòng; Ba là các quan chức đều có nhiệm vụ riêng, chỉ nên giao trách nhiệm để họ phát huy tài năng, nếu nhà Vua thay họ làm việc thì rất mất thể thống. Cuối cùng ông còn nói: “Việc lớn trong thiên hạ không thể làm vội, việc thiết lập của nhà Vua phải có thứ tự trước sau, chỉ nên cẩn trọng.” Ông còn chú thích bài “Đằng Thế tử hỏi Mạnh Tử về lễ cư tang” và suy rộng ra lễ biến đổi của đời sau để khuyên răn. Vua khen ngợi và tiếp nhận. Việc của Hàn Duy căn cứ theo phụ truyền, nhân dịp bắt đầu ngự điện nên ghi lại, không rõ ngày[4].

[21] Lập An Quốc phu nhân họ Hướng làm Hoàng hậu, bà là chắt của Hướng Mẫn Trung.

[22] Ngày Bính Tuất, Vua ngự điện Thùy Củng.

[23] Ngày Nhâm Thìn, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm từng hầu bên cạnh Tiên đế, nghe lời dạy rằng: ‘Theo chế độ cũ của triều ta, con trai các sĩ đại phu lấy công chúa đều được thăng hàng để tránh tôn ti của cha mẹ chồng. Tập tục này đã lâu, nghĩa lý rất vô lý. Trẫm từng nghĩ đến việc này, trong lòng không yên, há có thể vì giàu sang mà làm sai lệch trật tự lớn nhỏ của luân thường? Nên ban chiếu cho các cơ quan bãi bỏ, để khuyến khích phong tục.’ Trẫm nghe lời dạy ấy, kính phục và khen ngợi nhiều lần. Không may Tiên đế sau đó lâm bệnh, việc bàn định bị bỏ dở. Trẫm kính cẩn thừa hành di chỉ, dám không thực hiện! Nên giao Trung thư môn hạ bàn nghị[5], ban chiếu cho các cơ quan để phát huy đức lớn của Tiên đế.” Do đó, lệnh Trần Quốc trưởng công chúa thực hiện lễ ra mắt cha mẹ chồng, Vương Sư Ước không cần thăng hàng. Lễ công chúa ra mắt cha mẹ chồng bắt đầu từ đây.

[24] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu tay cho Lý Đoan Nguyện rằng: “Khanh là người thân cận, trung thành phò tá triều đình trước, nhiều lần dâng sớ, đều trình bày những điều cốt yếu trong việc trị nước. Tiên đế chưa kịp thi hành thì đã bỏ mặc bốn biển. Khi Trẫm mới lên ngôi, là lúc vương giả cần phải hành động, chớ bỏ qua những lời nông cạn, đừng quên lời ủy thác, hãy trung thành với Trẫm, để sự nghiệp của tiên đế được phát huy. Những việc cần làm trước mắt, hãy sắp xếp trình bày cho Trẫm biết.” Sau đó, Đoan Nguyện dâng tấu sớ rất sơ sài, không đáp ứng được mong đợi của Vua.

[25] Tháng 3, Vương Đào, Xu mật trực học sĩ, Lễ bộ lang trung, được bổ nhiệm làm Hữu gián nghị đại phu, quyền Ngự sử trung thừa. Đào vào chầu ở điện Tiện, Vua dẫn sách 《Hàm Hữu Nhất Đức》 dạy Đào rằng: “Trẫm với khanh một lòng, không thể thay đổi.” Hỏi về việc thời sự, Đào xin Vua hãy cẩn thận nghe lời tâu, rõ ràng trong thưởng phạt, đuổi kẻ nịnh, dùng người ngay thẳng, khôi phục việc chuyển đối để thông hiểu tình hình dưới, giảm bớt sức dân để khuyến khích nông tang, lấy sự tiết kiệm làm gương cho thiên hạ, hạn chế tuổi tác và tài nghệ để loại bỏ binh lính thừa.

[26] Lệnh cho Trần Tiến, Thiên chương các đãi chế, cùng soạn sách 《Nhân Tông Thực Lục》.

[27] Giáng Công bộ Thị lang, Ngự sử Trung thừa Bành Tư Vĩnh làm Cấp sự trung, tri châu Hoàng Châu, Chủ khách Viên ngoại lang, Điện trung Thị ngự sử lý hành Tưởng Chi Kỳ làm Thái thường Bác sĩ, giám đạo châu Đạo Châu. Trước đó, Giám sát Ngự sử Lưu Tường hặc Tham tri Chính sự Âu Dương Tu vào lâm điện Phúc Ninh, mặc áo tang bên dưới lại mặc áo tía, Vua bỏ qua tờ tấu, sai sứ dụ Tu thay đổi. Trong triều bàn tán việc truy tôn Vua Bộc Vương, nhiều người ghét Tu, muốn hạ bệ ông nhưng không có cách. Có người tên Tiết Lương Nhụ, là em họ vợ Tu, vì tội cử quan bị hặc, gặp lúc ân xá được miễn, nhưng Tu lại nói không thể vì mình mà được may mắn, xin đặc biệt không tha, Lương Nhụ cuối cùng bị miễn chức, căm giận Tu đến tận xương. Con trai cả của Tu là Phát, cưới con gái Diêm thiết Phó sứ Ngô Sung, Lương Nhụ nhân đó vu cáo Tu có chuyện dâm loạn, việc liên quan đến họ Ngô. Tập hiền Hiệu lý Lưu Cẩn cũng là kẻ thù của Tu, vội lan truyền lời vu cáo, Tư Vĩnh nghe được, nhân đó nói với thuộc hạ là Chi Kỳ. Chi Kỳ trước đây nhờ bàn việc Bộc Vương hợp ý Tu, được Tu đặc biệt tiến cử làm Ngự sử, đang lo bị mọi người chỉ trích là gian tà, tìm cách tự giải thoát, khi nghe chuyện này, bèn một mình lên điện hặc Tu, xin trị tội nặng. Vua nghi ngờ việc không đúng, Chi Kỳ dẫn Tư Vĩnh làm chứng, quỳ xuống đất dập đầu, kiên quyết xin xử lý. Chi Kỳ ban đầu không bàn với đồng liêu, vài ngày sau mới đưa bản tấu cho Tư Vĩnh xem, Tư Vĩnh ủng hộ Chi Kỳ, nói tội Tu đáng bị biếm truất, và nói: “Dùng việc tư thông để trị tội đại thần thật khó, nhưng Tu là người đầu tiên bàn việc Bộc viên nên phạm phải sự phẫn nộ của mọi người.”

Vua bèn giao tờ tấu của Chi Kỳ, Tư Vĩnh cho Xu mật viện. Tu dâng chương tự biện rằng: “Chi Kỳ vu cáo thần, là chuyện xấu xa mà loài cầm thú không làm, tội ác lớn mà trời đất không dung. Nếu thần có tội, là phạm tội lớn nhất thiên hạ, nếu không có, là chịu oan khuất lớn nhất thiên hạ. Phạm tội lớn mà không bị trừng trị, chịu oan khuất mà không được minh oan, thì sẽ làm tổn hại đến chính sự của bậc thánh, việc này không nhỏ. Xin chọn bề tôi công chính, xét rõ việc này cho thần, trước hết hãy hỏi Chi Kỳ rằng lời nói về chuyện trong nhà thần là từ đâu mà có, vì sao lại bị tiết lộ? Căn cứ vào lời tố cáo, có thể suy xét, tìm hiểu tận gốc, ắt sẽ thấy hư thực.”

[28] Vua ban đầu muốn giết Âu Dương Tu.

(Xét sách 《Tống sử》 chép: Thần Tông mới lên ngôi, muốn bảo vệ Âu Dương Tu, sai tra hỏi Tưởng Chi Kỳ và Bành Tư Vĩnh, hỏi nguồn gốc lời tố cáo, hai người không trả lời được nên đều bị cách chức. Đoạn này nói Vua muốn giết Tu, e rằng chưa chắc đã như vậy. Hơn nữa, Thần Tông mới lên ngôi, sao có thể vì lời tố cáo mơ hồ mà muốn giết ngay một đại thần phụ chính cũ?)

Vua dùng chiếu chỉ bí mật hỏi Thiên Chương các đãi chế Tôn Tư Cung[6], Tư Cung hết sức giải cứu, Vua tỉnh ngộ, lại lấy tờ tấu của Chi Kỳ và Tư Vĩnh vào, cùng với chương sớ của Tu phê giao cho Trung thư, lệnh cho Tư Vĩnh và Chi Kỳ phân tích rõ nguồn gốc lời tố cáo, kê rõ tên người truyền đạt để tâu lên. Chi Kỳ nói là nghe từ Tư Vĩnh, còn Tư Vĩnh từ chối, nói rằng chỉ là nghe đồn, tuổi già đầu óc lú lẫn, không nhớ rõ tên người nói. Lại nói rằng pháp luật cho phép Ngự sử được nghe đồn mà tâu việc, là để mở rộng sự thông minh của triều đình, nếu nhất định phải hỏi rõ nguồn gốc, rồi trị tội[7], thì sau này sẽ không còn ai dám nói nữa, thà chịu bị trách phạt nặng, chứ không nỡ bịt miệng thiên tử. Rồi hết lời kể tội các đại thần kết bè kết đảng, chuyên quyền tự ý, không phải là phúc cho triều đình.

Tu lại tâu: “Chi Kỳ ban đầu dùng tội lớn vu cáo thần, vốn mong triều đình không truy cứu thêm, sẽ có hình phạt. Đến khi bị hỏi dồn dập, sợ phải nêu ra tên người nói, triều đình tra xét, ắt sẽ thấy là hư vọng, nên mới giấu giếm không nói. Thần đang ở trong triều đình, mọi việc đều liên quan đến quốc thể, không may bị vu cáo oan, chỉ mong triều đình xét rõ hư thực, để tội có chỗ quy về.” Tu dâng sớ ba lần, còn Phú Bật cũng dâng sớ xin triều đình ra sức biện minh rõ hư thực, công bố cho thiên hạ biết, để cửa nhà không bị oan uổng nhục nhã.

Vì thế, Vua lại phê giao cho Trung thư rằng: “Phàm triều đình có chút sai sót, nên cho phép bàn luận rộng rãi rồi tâu lên. Há lại có thể dùng lời đồn để vu cáo người ta tội lớn? Nên lệnh cho Tư Vĩnh và Chi Kỳ không được dẫn lời đồn nhảm, phải kê rõ tên người truyền đạt và nguồn gốc lời đồn[8], dựa vào bằng chứng rõ ràng để tâu lên.” Tư Vĩnh cùng Tiết Cẩn là người cùng quê, hết sức che giấu cho Cẩn, bèn nói: “Thần đang ở Hiến phủ, phàm nghe được điều gì, nên bàn bạc với đồng liêu, nên đã nói với Chi Kỳ về nguồn gốc lời đồn, nhưng thực ra mơ hồ không có bằng chứng, từng khuyên Chi Kỳ đừng nói, không thể trốn tội.” Còn Chi Kỳ cũng tâu: “Việc này thần chỉ nghe từ Tư Vĩnh, bèn tâu lên, nếu cho rằng thần không nên dùng lời đồn để tố cáo đại thần, thần xin cùng Tư Vĩnh chịu tội.” Vì thế, Tư Vĩnh và Chi Kỳ cùng bị giáng chức.

Vua ban chiếu chỉ cho Tu rằng: “Mấy ngày nay vì lời tố cáo vu bẩn khanh tội lớn, Trẫm ngày đêm lo lắng, chưa từng thư thái. Nên đã nhiều lần phê chỉ, hỏi rõ nguồn gốc, nhưng cuối cùng không có kết quả. Hôm trước thấy tờ tấu của khanh, hết sức muốn biện minh, bèn tự nhận lỗi. Hôm nay đã lệnh giáng chức, lại treo bảng ở triều đường, để trong ngoài đều biết là hư vọng. Việc đã rõ, nghi ngờ cũng tan, khanh nên trở lại làm việc như cũ, đừng để ý đến lời nói trước.”

Một hôm, Vua bảo Ngô Khuê rằng: “Tưởng Chi Kỳ dám nói, nhưng lời nói mơ hồ, đã trị tội vì vu cáo, lại muốn thưởng vì dám nói.” Khuê nói: “Thưởng phạt khó cùng làm.” Vua bèn thôi.

(《Mặc sử》 chép truyện Tôn Tư Cung rằng: Tư Cung tính không thích đối đầu, bị xúc phạm cũng không trả thù. Âu Dương Tu ban đầu không biết Tư Cung, cho là giả dối. Đến khi Tu bị người tố cáo, Vua muốn giết Tu, dùng chiếu chỉ bí mật hỏi Tư Cung, Tư Cung hết sức cứu Tu. 《Chu sử》 cho rằng người tố cáo Tu[9], Vua tra hỏi, đã biện minh rõ, ban chiếu chỉ triệu về, há có ý giết Tu, bèn xóa đi. Xét 《Nhật ký》 của Tư Mã Quang, tờ tấu của Chi Kỳ và Tư Vĩnh giao cho Xu mật viện, mấy ngày sau mới lấy lại, dùng chiếu chỉ bí mật hỏi Tư Cung, ắt không phải là 《Mặc sử》 sai, nay vẫn chép lại để tham khảo.)

[29] Quyền tri cống cử Tư Mã Quang đẳng tâu rằng, những người thi đỗ tiến sĩ hợp cách từ Hứa An Thế trở xuống gồm 305 người, chia làm bốn bậc; các khoa minh kinh gồm 211 người, chia làm ba bậc. Chiếu ban rằng tiến sĩ bậc nhất, nhì, ba được ban cập đệ, bậc tư được ban đồng xuất thân; các khoa minh kinh bậc nhất, nhì đều được ban cập đệ, bậc ba được ban đồng xuất thân. Sắc ban xuống Cống viện yết bảng, An Thế và ba người bậc ba[10] đều được bổ làm Phòng ngự, Đoàn luyện suy quan, những người còn lại bổ nhiệm chức vụ và chờ tuyển dụng theo lệ.

[30] Ngày Bính Thìn, Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, Từ bộ Lang trung Trần Nhữ Hi[11] làm Phán Tam ty đô ma khám ty[12], Tri Khai Phong huyện, Đô quan Viên ngoại lang La Khải làm Đề điểm phủ giới các huyện trấn sự. Khải vào yết kiến, Vua hỏi về việc Khai Phong, đều không biết, Vua không vui. Khi gặp Nhữ Hi, hỏi về việc phủ giới, đối đáp rõ ràng và nhanh nhẹn. Hôm sau, Vua bảo các quan chấp chính rằng: “Khải không có tài, nên dùng lại Nhữ Hi thay thế, và ban thêm chức quán.” Các quan chấp chính tâu: “Nhữ Hi thứ bậc đã cao, nếu lại làm Đề điểm thì là giáng chức, chỉ nên cho thử chức quán mà thôi.” Vua nghe theo. Tri chế cáo Thiệu Tất tâu: “Bệ hạ mới lên ngôi, dùng lời nói mà thăng Nhữ Hi, như Hán Văn Đế thưởng chức Thượng Lâm sắc phu, e rằng các bề tôi sẽ tranh nhau dùng lời lẽ khéo léo để cầu tiến, xin bãi bỏ.” Vua không nghe. Nhữ Hi là con của Trần Hỗ. Việc Nhữ Hi làm Trực sử quán vào tháng 5 ngày Quý Mùi, ghi chép chung.

[31] Xương vương Hạo và Lạc An quận vương Quần xin từ chức để chịu tang. Chiếu cho hai chế và Thái thường lễ viện bàn định điển lễ. Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Trương Phương Bình tâu rằng: “Xét theo di chế của Đại hành, tang phục tính theo ngày thay tháng, từ hoàng đế đến các quan văn võ, đều theo điển cố của tiên miếu, chỉ có tông thất khi ra ngoài thì mặc áo tang thảm, ở nhà thì mặc áo tang suốt thời gian chịu tang. Đó là để thống nhất pháp độ, tôn kính thiên tử. Hoàng đế kế thừa đại thống, phụng thờ tông miếu, Xương vương và Lạc An quận vương nên theo lệ của tông thất, không thể vì ân riêng mà khác biệt. Đó là để phân biệt điều đáng ngờ, làm rõ điều nhỏ nhặt, phân biệt danh phận, là nghĩa lý thông thường xưa nay.” Vua nghe theo.

[32] Ngày Bính Dần, Hàn lâm học sĩ kiêm Đoan minh điện học sĩ, Thượng thư tả thừa Tiền Minh Dật bị bãi chức Hàn lâm học sĩ, giữ chức Đoan minh điện học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ. Trước đó, Ngự sử Tưởng Chi Kỳ tâu: “Thần nhiều lần tấu đàn Minh Dật gian tà, cùng với Ngô Thân, Lưu Tường cũng từng luận tội, nhưng tiên đế lúc bệnh nặng, chưa kịp thi hành. Thần với Minh Dật vốn không có hiềm khích, chỉ vì hắn xảo quyệt, bạc bẽo, dưới triều Nhân Tông đã theo phe Giả Xương Triều, Hạ Tủng, Vương Củng Thần, Trương Phương Bình, hãm hại Đỗ Diễn, Phạm Trọng Yêm, Doãn Chu, Thạch Giới, khiến triều đình trống rỗng, thiên hạ đều oán hận. Huống chi văn từ sai lầm, chính thuật lệch lạc, tham nhũng nổi tiếng, chìm đắm trong rượu chè, sao có thể ở trong cấm uyển?” Đồng tri Gián viện Phó Biện cũng có lời tâu. Chấp chính triệu Minh Dật, cho xem các chương sớ của đài gián, bảo tự xin từ chức vì bệnh, nên đổi chức cho hắn. Vua một hôm hỏi Ngô Khuê: “Tiền Minh Dật không biết làm văn, sao lại đỗ đại khoa?” Khuê đáp: “Ứng cử cũng là may mắn của người ta, một ngày dài, chưa thấy được điều tốt. Nếu muốn cầu thực tài, phải thử việc, từ từ xem khí nghiệp.” Vua lại hỏi về con người Minh Dật, Khuê đáp: “Thần trước làm Gián quan, từng luận tội trạng của Minh Dật, con người ấy có thể biết được.”

[33] Ngày Đinh Mão, Tam ty tâu: “Gạo tẻ ở kinh đô dự tính đủ dùng trong hơn năm năm, lo lâu ngày sẽ hư hỏng, xin cho Phát vận ty tạm ngừng vận chuyển 50 vạn thạch trong số gạo phải nộp hàng năm, giảm số lượng mua gạo ở những nơi giá gạo đắt, đổi lấy vàng bạc lụa nộp vào Khoa hóa vụ để phong kho, chia cấp cho ba lộ để dùng vào việc quân.” Vua đồng ý.

[34] Ngày Nhâm Thân, Thượng thư Tả thừa, Tham tri chính sự Âu Dương Tu được bổ làm Quan văn điện học sĩ, Hình bộ lang trung (theo 《Tống sử》 là Hình bộ thượng thư), nhậm chức Tri Bạc Châu. Bành Tư Vĩnh và những người khác vì dâng tấu hạch tội Tu nên bị giáng chức, nhưng Tri tạp ngự sử Tô Thái, Ngự sử Ngô Thân vẫn không ngừng dâng tấu, Tu cũng ba lần dâng biểu xin từ chức, nên Vua ra lệnh cho ông ra ngoài giữ chức. Trước đây, Vua Anh Tông vì bệnh chưa thân chính, Thái hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính, Tu cùng hai ba đại thần chủ trì việc nước, mỗi khi tâu việc trước rèm, hoặc các quan chấp chính họp bàn, nếu việc có chỗ không đồng ý, Tu chưa từng không ra sức tranh luận. Các quan đài gián đến Chính sự đường bàn việc, dù việc không phải do mình đề xuất, các đồng liêu chưa kịp mở miệng, Tu đã thẳng thắn vạch rõ chỗ sai của họ. Các sĩ đại phu trình bày lợi hại và thỉnh cầu, trước đây các quan chấp chính phần nhiều a dua không rõ ràng phải trái, đến Tu thì nhất định sẽ phân tích rõ ràng rằng việc nào có thể làm, việc nào không thể làm. Vì thế kẻ oán giận càng nhiều. Vua Anh Tông từng khen Tu rằng: “Tính tình ngay thẳng, không tránh né sự oán giận của mọi người.” Tu cũng từng đọc lời của tể tướng cũ Vương Tăng rằng: “Ân muốn về mình, oán để ai gánh?” Sau khi ra ngoài giữ chức, Tu liên tục dâng sáu biểu xin nghỉ hưu, nhưng Vua không đồng ý. Tu lúc đó mới 60 tuổi.

[35] Ngày Quý Dậu, Xu mật sứ, Lễ bộ Thị lang Ngô Khuê được bổ nhiệm làm Tham tri chính sự. Ban đầu, Vua muốn dùng Khuê, tể tướng tâu: “Trần Thăng Chi có công phò tá bệ hạ lên ngôi.” Vua nói: “Khuê phò tá tiên đế, công lao càng lớn hơn.” Bèn vượt cấp mà dùng ông. Khi Khuê vào tạ ơn, dâng ba thiên 《Trị thuyết》. Vua từng nói với ông về việc truy tôn Bộc vương khác với Hán Tuyên Đế. Khuê đáp: “Đúng vậy. Tuyên Đế cùng Chiêu Đế là tổ tông, chiêu mục không tương đương, lại do đại thần lập lên, há giống như Nhân Tông có thể lấy nghĩa lập tiên đế làm con? Tiên đế vào nối ngôi, thiên hạ vui mừng suy tôn, dù tiên đế tích có tiếng tốt, nhưng chính nhờ Nhân Tông lập làm con, nên người đời không có lời dị nghị.” Rồi nói: “Bản ý của Nhân Tông chỉ ở tiên đế, không có lựa chọn nào khác. Thần từ Thọ châu được triệu về, đã thấy ý của Nhân Tông, nhưng vì giữa các đại thần có người bàn khác, nên việc dừng lại. Sau này mỗi lần gặp, đều biết được ý nhỏ của ngài, cuối cùng quyết tâm lập nên, đó là ân đức của trời đất, không thể quên được. Việc truy tôn thật ra là vướng vào ân riêng.” Vua rất tán đồng, lại nói: “Đây là do Âu Dương Tu làm sai.” Khuê đáp: “Hàn Kỳ trong việc này cũng mất lòng dân, thần nhiều lần được Kỳ tiến cử, nhưng trước công luận thiên hạ, không dám giấu giếm trước bệ hạ.”

Một hôm khác, Khuê tâu: “Bệ hạ nên suy lòng thành để ứng với trời, ý trời không gì khác, chỉ hợp lòng người mà thôi. Nếu chí thành cảm được vật, vật không gì là không dùng chí thành ứng với trên, tự nhiên cảm được khí hòa. Nay dân lực cùng cực, quốc dụng khốn đốn, cần phải thuận theo thành tựu, rồi sau mới có thể lo việc khác. Việc của đế vương, chỉ ở phân biệt trung tà, còn các việc khác, đều có cơ quan lo liệu, chỉ cần không để tiểu nhân hại quân tử, quân tử thường ở chỗ quan trọng gần gũi, thì tự nhiên trị được.” Vua bèn nói: “Thời Nghiêu, bốn kẻ hung ác vẫn ở triều.” Khuê đáp: “Bốn kẻ hung ác tuy ở triều, nhưng không thể làm mờ sáng suốt của Nghiêu. Bậc thánh nhân lấy thiên hạ làm mực thước, có gì không dung? Chưa có lỗi rõ ràng, vẫn nên bao dung, chỉ không để họ ở chỗ quan trọng gần gũi mà thôi.”

[36] Thái thường lễ viện tâu: “Theo chiếu thư năm Gia Hựu, định chế độ bảy đời tám gian trong Thái miếu. Nay Đại hành hoàng đế sắp hợp tế vào miếu, Hi Tổ ở ngoài bảy đời[13], theo lễ nên dời đi. Sau khi sơn lăng hoàn tất, xin đưa thần chủ của Đại hành hoàng đế vào gian thứ tám, thần chủ của Hi Tổ và Văn Ý hoàng hậu theo lệ cũ nhà Đường dời cất ở gian phía tây, để chờ đến lễ Đế Hiệp, từ Nhân Tông trở lên đến Thuận Tổ lần lượt dời lên. Xin ban xuống cho hai chế và các quan đãi chế trở lên bàn bạc.” Sau đó, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Trương Phương Bình và các quan tâu: “Tám gian cùng một nhà, chế độ miếu đã định, Hi Tổ nên dời đi, hợp với điển lễ, xin theo lời tâu của Lễ viện.” Chiếu ban theo.

[37] Lễ viện tâu: “Quần thần tấu xưng Hoàng thái hậu là Điện hạ, mệnh lệnh của Hoàng thái hậu gọi là Giáo chỉ.” Chiếu ban rằng Hoàng thái hậu nên xưng là Thánh chỉ, còn lại theo lời tâu. Trung thư tâu việc điển lễ quan trọng, xin ban xuống Lễ viện xem xét kỹ lại, lại theo lời tâu, nhưng cuối cùng không có gì thay đổi.

[38] Ngày Ất Hợi[14], Định vương Doãn Lương, được tặng chức Thái sư, Thượng thư lệnh kiêm Trung thư lệnh, qua đời. Triều đình ngừng thiết triều trong 5 ngày. Doãn Lương tính tình khoan dung, thích tu chỉnh uy nghi, chưa từng trách mắng người hầu cận. Con trai của em trai là Tông Tuý mồ côi từ nhỏ, Doãn Lương nuôi dưỡng như con đẻ. Khi ông qua đời, Tông Tuý xin để tang 3 năm. Tuy nhiên, hành vi của ông có phần hoang dâm và vượt quá phận, ban đầu được phong làm Tiết độ sứ Thái Ninh quân, nhưng ông không hài lòng vì ấn tín được ban quá nhỏ, bèn bí mật triệu quan chức Triện văn của Thiếu phủ giám là Trương Ban vào cung, cho tiền bạc, để đúc lại ấn lớn hơn. Sau một thời gian, việc của Trương Ban bị phát giác và bị bắt giam ở Khai Phong, sau khi xét xử, Vua không muốn xử phạt nặng, chỉ trách nhẹ Trương Ban và những người khác, còn lại đều không truy cứu. Ông thích ăn chơi, coi ngày như đêm, ban đêm thì dự yến tiệc, ban ngày thì ngủ nghỉ, những người hầu cận cũng theo thói quen đó. Ngự sử Lưu Tường từng tấu hặc Doãn Lương không tham gia tế lễ ở giao, lâu ngày không vào chầu, không có lễ nghĩa của bề tôi. Anh Tông bỏ qua không xét. Các quan cho rằng Doãn Lương sinh hoạt vô độ, đảo lộn ngày đêm, nên đặt thụy hiệu là Vinh Dịch.

[39] Trước đó, Tưởng Chi Kỳ hặc tấu Âu Dương Tu, Vua giận nói: “Khi Tiên đế lâm nguy, Thiệu Kháng dâng lời nghị về việc buông rèm, việc lớn như vậy không nói, mà lại bới móc chuyện riêng tư trong nhà người ta sao?” Chi Kỳ báo với Ngô Thân, Thân liền hặc tấu Kháng. Việc được giao xuống Trung thư, Vua dần biết là vu khống, Trung thư cũng bỏ qua lời tấu của Thân. Kháng lúc đó đang cùng chủ trì việc thi cử, khi ra ngoài, vào điện tự biện rằng: “Thần ở thời Tiên đế nếu có lời thỉnh cầu như vậy, ắt sẽ không được Tiên đế dung thứ. Hơn nữa, từ khi Tiên đế lâm bệnh, quần thần không được vào yết kiến, thần không có cách nào trình bày trực tiếp, nếu có tấu chương, xin bệ hạ tìm trong cung, nếu tìm được chương của thần, thần xin chịu tội chết. Nếu không tìm được, thì kẻ vu cáo thần há lại không bị tra xét, xin bệ hạ giao xuống ngục xét hỏi.” Vua nói: “Trẫm không nghi ngờ khanh, lời tấu của Ngô Thân đã không được thi hành.”

[40] Tháng 3 nhuận, ngày Giáp Thân, chúa nước Hạ là Lượng Tộ sai sứ đến dâng sản vật địa phương, tạ tội, xin răn dạ các tù trưởng giữ gìn biên giới, như chiếu chỉ ban ra mùa đông năm trước. Lại ban chiếu đáp rằng: “Nếu lời tâu trình bày trung tín không thay đổi, thì ơn lễ ban cho sẽ như cũ.” Vẫn ban tặng lụa và bạc, mỗi thứ 500 tấm và lượng.

[41] Ngày Kỷ Sửu, Kinh Tây chuyển vận sứ, Hình bộ lang trung Lưu Thuật kiêm Thị ngự sử tri tạp sự. Trước đó, Tô Thái được thăng làm Độ chi phó sứ, Trung thư tâu xin dùng Thuật thay thế, Trung thừa Vương Đào nói Thuật không có tài năng phù hợp, Vua bèn ban chiếu tay cho Đào rằng: “Trẫm vốn nghi ngờ Thuật không có danh tiếng trong triều, ít được sĩ đại phu khen ngợi, vừa muốn hỏi ý khanh, thì khanh đã có lời bàn luận, rất hợp ý Trẫm, há chẳng phải là quân thần đồng lòng? Xem chương tấu, Trẫm khen ngợi đến ba bốn lần. Phàm kẻ chấp chính chọn người nói việc, thường lợi dụng những kẻ im lặng tầm thường, ý này rõ ràng có thể thấy, đúng như lời khanh nói. Lã Hối, Phó Nghiêu Dũ, Trẫm vốn biết họ ngay thẳng có thể dùng, chỉ vì bị triều trước đuổi đi, chưa muốn dùng ngay, đợi thời gian lâu hơn, dùng họ cũng chưa muộn. Ai có thể đảm nhận chức Tri tạp ngự sử, khanh hãy bí mật báo tên cho Trẫm biết sớm.” Tuy nhiên, Vua cuối cùng vẫn dùng Thuật.

[42] Ngự sử Ngô Thân tâu: “Thần thấy trước đây triệu 10 người thi chức quán, mà Trần Nhữ Nghĩa cũng được dự, dần đến chỗ quá nhiều. Hơn nữa, kỳ thi chỉ có thơ phú, không phải việc cấp bách trị nước an dân, xin cho kiêm dùng lưỡng chế tiến cử, và bãi bỏ thơ phú. Thi sách ba đề, hỏi về kinh sử và thời vụ, mỗi đề hỏi 10 việc, dựa vào thông hiểu để quyết định cao thấp, bỏ hay giữ. Những người được triệu thi trước, cũng xin dùng phép thi mới, ban chiếu rõ cho lưỡng chế bàn định rồi tâu lên.” Sau đó, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Vương Khuê và các quan tâu xin bãi bỏ thơ phú như lời Ngô Thân. Do đó, ban chiếu từ nay thi chức quán phải làm một bài luận và một bài sách.

[43] Xu mật sứ, Vĩnh Hưng quân Tiết độ sứ Văn Ngạn Bác tâu rằng: “Thần được ban cấp một phần ba số tiền công sứ của bản trấn, trước đây nhân việc tấu sự đã sơ lược trình bày, vì rằng phủ Xu mật không có chi phí yến tiệc, tiền công sứ không có lý do nhận hư, kính mong bãi bỏ. Và xin từ nay Xu mật sứ kiêm Tiết độ sứ đều theo lệ này.” Vua nghe theo. Theo lệ cũ, tiền công sứ ở kinh thành, chỉ có tông thất được giảm một nửa, quản quân được cấp một phần ba[15], còn lại đều bãi bỏ. Sau này tăng thêm lệ cho Xu mật sứ, đến nay nhân Văn Ngạn Bác từ chối nên bãi bỏ.

[44] Tri gián viện Thiệu Kháng, Phó Biện, Ngự sử Lưu Tường, Lã Cảnh tâu rằng: “Thiên Chương các Đãi chế, Tri Vĩnh Hưng quân Vương Cử Nguyên có chút tài năng, nhưng vốn không có đức vọng, trong bốn năm đã tám lần thay đổi chức vụ, thăng quan cải chức, ân điển dồi dào. Mong chọn người khác là cận thần làm Tri Vĩnh Hưng quân, và xin rằng nếu bề tôi đến nhiệm chưa đủ hai năm mà thay đổi chức vụ thì không được ban ân.” Chiếu rằng từ nay các chức Đãi chế trở lên được ban ân do thay đổi chức vụ, phải trình bày rõ chức vụ, thời gian nhậm chức để xin chỉ dụ.

[45] Ngày Canh Tý, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm kém đức nối ngôi tôn quý, đứng trên các công khanh và muôn dân, chỉ lo việc trị nước là ở nơi mình, ngày đêm lo lắng, trên nghĩ cách phụng mệnh trời, dưới lo tu sửa chính sự, hổ thẹn vì không thông minh sáng suốt, chưa thấu hiểu đạo lý. Mở rộng đường ngôn luận, thông suốt ý chí trên dưới, là điều mà bậc Vua muốn trị nước đều hướng tới. Nay ban bố cáo cho các quan văn võ trong ngoài, nếu Trẫm có điều gì chưa biết, chưa nghĩ tới, hoặc có thiếu sót trong triều chính, việc quan trọng của quốc gia, được mất trong việc biên phòng, lợi hại của dân tình các quận huyện, đều cho phép dâng sớ thẳng thắn trình bày, không được giấu giếm. Lời nói nếu hợp lý, cũng sẽ được trọng dụng, xem xét tài năng, sẽ được đề bạt. Các khanh văn võ, hãy cùng hiểu rõ ý Trẫm trong chiếu lệnh này không phải là lời nói suông.”

[46] Ngự sử trung thừa Vương Đào tâu: “Thần vâng chiếu riêng cử quan đài, vì có người tài đức đáng cử, nhưng phần nhiều do tư cách còn non nên không hợp với sắc văn, xin cho phép cử người có thứ tự tư cách từ ba nhiệm trở lên làm tri huyện để giữ chức Ngự sử lý hành.” Vua nghe theo. Trước đó, Vương Đào xin dùng lại Lã Đại Phòng và Quách Nguyên Minh, các quan chấp chính cho rằng ông có ý muốn ép mình, nên không vui.

[47] Công bộ Lang trung, Tri chế cáo Vương An Thạch đã mãn tang, Vua xuống chiếu triệu An Thạch về kinh, nhưng An Thạch nhiều lần viện cớ bệnh xin được làm quan ở phân ty. Vua nói với các đại thần: “An Thạch trải qua một triều đại của tiên đế, triệu mà không đến, có lẽ là bất kính, nay triệu lại không đến, quả thật là bệnh hay có ý gì?” Tăng Công Lượng đáp: “An Thạch văn học tài năng, là bậc toàn đức của thời nay, nên được trọng dụng. Nhiều lần triệu mà không đến, ắt là vì bệnh tật, không dám lừa dối.” Ngô Khuê nói: “An Thạch trước đây nhậm chức Củ sát hình ngục, tranh luận về hình phạt không đúng, có chỉ tha tội, nhưng không chịu vào tạ ơn, ý cho rằng Hàn Kỳ ngăn cản mình, nên không chịu vào triều.” Công Lượng nói: “An Thạch thật là tài năng phụ tá, lời của Khuê làm mê hoặc thánh thính.” Khuê nói: “Thần từng cùng An Thạch cùng quản lý quần mục, thấy rõ việc ông ta xử lý công việc rườm rà, lại bảo vệ lỗi lầm trước đây, nếu dùng ông ta, ắt sẽ làm rối loạn kỷ cương. Công Lượng mê hoặc thánh thính, chứ không phải thần mê hoặc thánh thính.” Vua chưa quyết định, Khuê lại nhắc lại.

Ngày Quý Mão, Vua xuống chiếu cho An Thạch làm Tri phủ Giang Ninh, mọi người cho rằng An Thạch sẽ từ chối, nhưng khi chiếu đến, ông liền đến phủ nhậm chức. Có người nói: “Công Lượng hết lòng tiến cử An Thạch, là muốn hạ bệ Hàn Kỳ.” Long đồ các Trực học sĩ Hàn Duy tâu: “Thần hôm nay nghe nói bổ nhiệm Vương An Thạch làm Tri phủ Giang Ninh, nhưng chưa biết việc này có thật không. Nếu đúng vậy, thần cho rằng không phải là cách để chiêu mộ An Thạch. Tại sao? An Thạch hiểu đạo giữ chính, không vì lợi mà động lòng, việc xuất xử đại tiết, chắc đã định sẵn trong lòng, không thể tùy tiện. An Thạch lâu ngày bệnh không vào triều, nay nếu mới bổ nhiệm đại quận liền nhậm chức, thì là An Thạch coi thường mệnh lệnh của Vua để tự tiện, thần biết chắc An Thạch không làm thế. Hơn nữa, tinh thần ông ta có thể đảm đương một đại quận, mà lại không thể vào triều chầu, ở nơi thị tòng nhàn hạ, há hợp tình người? Thần biết chắc An Thạch không làm thế. Điều có thể chiêu mộ ông ta chỉ có một việc, đó là lời Vua từng tuyên dụ, thần từng trình bày trước đây. Nếu bậc quân chủ mới lên ngôi, khảng khái muốn gặp hiền tài, cùng bàn việc trị nước, ai chẳng muốn dốc lòng trung, thực hiện đạo mình? Nếu An Thạch bệnh nặng và ngu muội thì thôi, nếu không đến mức đó, ắt sẽ hối hận mà đến. Thần e rằng có người cho rằng An Thạch có thể dần dần chiêu mộ, mà không thể triệu gấp, nếu vậy, là dụ dỗ ông ta, là lời của kẻ không hiểu An Thạch. Chỉ có bậc hiền tài mới có thể dùng nghĩa mà động viên, không thể dùng mưu kế mà lôi kéo, bệ hạ nghiên cứu cổ đạo, ắt hiểu rõ đạo lý này, chỉ cần quyết đoán mà làm, đừng nghi ngờ vì lời bàn trước, thì thiên hạ may mắn lắm thay!”

Hàn Duy bàn về Vương An Thạch, căn cứ vào tấu nghị của Duy mà ghi chép đầy đủ, đủ thấy An Thạch tiến thoái lúng túng.

[48] Học sĩ viện tâu rằng Đồn điền viên ngoại lang Hạ Ỷ và Hùng Vũ tiết độ suy quan Chương Đôn đều đỗ trung đẳng trong kỳ thi thơ phú. Chiếu chỉ phong Hạ Ỷ làm Giang Nam Tây lộ chuyển vận phán quan, Chương Đôn làm Trứ tác tá lang. Hạ Ỷ và Chương Đôn đều là người được hai phủ tiến cử vào tháng 10 năm Trị Bình thứ 3, đến nay được triệu về thi, nhưng Ngự sử Lã Cảnh và Tưởng Chi Kỳ tâu rằng Hạ Ỷ vốn không có học thuật, từng làm phó ở Lân Châu nhưng thất bại. Chương Đôn thì nhẹ dạ, bê bối, trước đây vì không đỗ cao nên đã ném chiếu chỉ xuống sân[16]. Cả hai đều không đáng được khen thưởng. Vì thế không bổ nhiệm vào chức vụ trong quán. Chương Đôn là người Phố Thành, do Âu Dương Tu tiến cử. Chương Đôn là cháu họ của Chương Đắc Tượng, đã được nhắc đến vào tháng 10 năm Trị Bình thứ 3[17].

[49] Ngày Giáp Thìn, chiếu chỉ rằng các vị suý thần và phó tổng quản ở các lộ nếu có thay đổi, có thể theo lệ cũ thời Khánh Lịch, do Trung thư và Xu mật viện tham nghị. Thời Khánh Lịch, từng có chiếu chỉ cho Tể thần Giả Xương Triều rằng, những việc cơ mật quân quốc và binh mã vùng biên, các chức tri châu, kiềm hạt nên cùng Xu mật sứ Trần Chấp Trung tham nghị[18]. Từ đó về sau việc này bị bỏ phế, đến nay lại khôi phục.

[50] Long Đồ các Trực học sĩ, Tri Thái châu Lữ Công Trước, Long Đồ các Trực học sĩ kiêm Thị giảng Tư Mã Quang, đều được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Quang nhiều lần dâng sớ từ chối, nhưng không được chấp thuận. Vua gặp mặt và bảo Quang rằng: “Người quân tử xưa, có người học mà không giỏi văn, có người giỏi văn mà không học, chỉ có Đổng Trọng Thư và Dương Hùng là kiêm cả hai. Khanh có văn học, còn từ chối gì nữa!” Quang thưa: “Thần không thể làm văn tứ lục.” Vua nói: “Như chế cáo đời Hán cũng được.” Quang đáp: “Việc triều đình ta thì không thể.” Vua hỏi: “Khanh đỗ tiến sĩ cao đẳng, mà không làm được văn tứ lục, sao vậy?” Quang vội lui ra, Vua sai nội thị đến cửa cáp ép Quang nhận chiếu, Quang lạy mà không nhận, chiếu thúc Quang vào tạ ơn, Quang vào đến sân vẫn cố từ chối, chiếu đặt vào lòng Quang, Quang đành phải nhận. Một hôm, Vua hỏi Vương Đào: “Công Trước và Quang làm học sĩ, có hợp lý không?” Đào đáp: “Hai người ấy, thần từng tiến cử rồi, dùng người như thế, thiên hạ lo gì không trị!”

[51] Học sĩ viện tâu: “Vâng chiếu xét định việc hai châu Dĩnh, Hứa tiến sĩ và tăng đạo dâng bạc mừng lên ngôi. Theo chế độ triều ta, Thái Tông từ Khai Phong doãn, Tấn vương lên ngôi, Chân Tông từ Khai Phong doãn, Thọ vương, Nhân Tông từ Kiến Khang quân Tiết độ sứ, Thăng vương được lập làm Hoàng thái tử rồi lên ngôi, đều không có lệ ban ơn cho nơi từng nhận phong trấn. Đại Hành hoàng đế từ Tề châu Phòng ngự sứ lên ngôi, người địa phương cùng tăng đạo đến kinh dâng lễ, nên đặc cách ban ơn. Nay Hoàng đế từ Trung Vũ quân Tiết độ sứ, Dĩnh vương được lập làm Hoàng thái tử rồi lên ngôi, khác với các triều trước. Nay hai châu dâng lễ không có điển lệ để tra cứu.” Chiếu bác việc dâng lễ, ban trà và lụa rồi cho về.

[52] Ngày Bính Ngọ, Đồn điền viên ngoại lang Lưu Ban, Trứ tác tá lang Vương Tồn được bổ làm Hiệu khám ở Quán các; Thái thường thừa Trương Công Dụ, Điện trung thừa Lý Thường được bổ làm Hiệu khám ở Bí các; Trứ tác tá lang Hồ Tông Dũ được bổ làm Hiệu lý ở Tập hiền, đều do đỗ ưu trong kỳ thi thơ phú ở Viện Học sĩ. Lưu Ban thi đỗ ưu, theo lệ cũ nên được bổ làm Trực quán, nhưng viên ngoại lang thường không được làm Hiệu khám[19], mà Lưu Ban vốn có hiềm khích với Vương Đào, Đào cùng Thị ngự sử Tô Thái cùng bài xích, nên triều đình chỉ định bổ làm Hiệu khám.

[53] Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Trương Phương Bình lại dâng sớ bàn về việc nước rằng: “Trời sinh ra dân, lấy cơm áo làm mệnh, thánh nhân nhân đó mà điều tiết, đặt ra sự phân biệt quân thần quý tiện, uy quyền để ngăn chặn sự tranh giành và loạn lạc. Vì thế, lễ là để văn vẻ hóa điều đó, hình pháp là để ngăn cấm điều đó. Phàm những gì gọi là thưởng phạt, pháp lệnh, nhân nghĩa, liêm sỉ đều dựa vào đó mà được thiết lập. Cơm áo không đủ, thì lễ nghĩa, hình pháp có nghĩa gì? Vì thế, việc quản lý lương thực và tiền tệ là vấn đề thiết thực của con người, không phải là thứ có thể đạt được bằng lời nói suông.

Nay kinh đô là nơi bằng phẳng, trọng yếu, đặt liên doanh, thiết vệ để đối phó với hiểm trở núi sông, vì thế quốc gia dựa vào quân đội mà tồn tại, quân đội lại cần lương thực và tiền tệ mới có thể tập hợp được. Đó là thế lớn của thiên hạ hiện nay. Thần từng giữ chức Tam ty sứ vào niên hiệu Khánh Lịch đời Nhân Tông, đến đầu niên hiệu Gia Hựu lại nắm việc quản lý tài chính quốc gia, từng trình bày rõ ràng việc này với triều đình, nhiều lần dâng tấu, trình bày về lợi hại, an nguy, xét đến gốc rễ thì binh lính dư thừa là mối lo lớn nhất. Ước tính sơ bộ, một binh sĩ cấm quân trung bình mỗi năm cấp khoảng năm mươi quan, mười vạn người thì mỗi năm tốn năm trăm vạn quan.

Thần trước đây khi ở Tam ty đã tra xét số lượng cấm quân năm Khánh Lịch thứ năm, so với trước niên hiệu Cảnh Hựu thì tăng thêm hơn tám trăm sáu mươi chỉ huy, hơn bốn mươi vạn người, mỗi năm tăng thêm chi phí hai ngàn vạn quan. Thái Tổ hoàng đế chế định phép Chiết trượng, miễn tội đồ cho thiên hạ, ban đầu đặt ra Tráng thành, Lao thành để phục vụ các việc sai dịch, gọi là Sương quân, sau đó dần dần tăng thêm số lượng, đến nay gần bằng với số lượng cấm quân, mỗi năm tăng thêm bao nhiêu lương thực, quần áo, đều lấy từ sức dân, vậy thì thiên hạ sao không khốn đốn được? Thần vào năm Khánh Lịch thứ năm đã lấy số thuế muối, rượu, thương mại các lộ so sánh với sổ sách niên hiệu Cảnh Đức, đều tăng gấp ba lần trở lên.

Niên hiệu Cảnh Hựu, thu thuế thương mại hơn bốn trăm năm mươi vạn quan, đến niên hiệu Khánh Lịch thì hơn một ngàn chín trăm bảy mươi lăm vạn quan; niên hiệu Cảnh Đức, thu thuế rượu hơn bốn trăm hai mươi tám vạn quan, đến niên hiệu Khánh Lịch thì hơn một ngàn bảy trăm mười vạn quan; niên hiệu Cảnh Đức, thu thuế muối hơn ba trăm năm mươi lăm vạn quan, đến niên hiệu Khánh Lịch thì hơn bảy trăm mười lăm vạn quan, chỉ có thuế trà tăng không nhiều. Việc mua lụa là, vải lụa trong thiên hạ vốn là để làm lợi cho dân, ban đầu thực hiện ở Hà Bắc, chỉ để phục vụ quân phục của bản lộ, sau đó mở rộng ra Kinh Đông, Hoài Nam, Giang, Chiết. Niên hiệu Cảnh Hựu, các lộ mua chưa đầy hai trăm vạn tấm, đến niên hiệu Khánh Lịch thì lên đến ba trăm vạn tấm, từ đó đến nay đã hai mươi năm, chỉ nghe nói so sánh, đốc thúc, chưa từng nghe nói giảm bớt. Bóc lột như vậy, thiên hạ còn lợi lộc gì nữa?

Từ xưa đến nay, các nước thu về lợi nhuận chưa từng nhiều như vậy, chi phí cũng chưa từng rộng lớn như vậy. Xưa kia, nhà Đường từ sau loạn Thiên Bảo, đời Túc Tông, Đại Tông, quốc lực suy yếu nghiêm trọng, cấm vệ thiếu lương, dân chúng kinh thành phải nhặt lúa để cung cấp lương thực cho quân đội, leo lên cổng thành để trông chờ cống phẩm từ bốn phương, có thể nói là nguy ngập. Nhưng khi hoạn nạn qua đi, quân đội có lúc được giải ngũ, quân đội giải ngũ thì sức dân được nhẹ nhàng. Nay quân đội trong ngoài ngồi không ăn lương, không có ngày giải ngũ, thiên hạ đã khốn đốn như vậy mà vẫn thản nhiên không lo cứu vãn. Niên hiệu Bảo Nguyên, Khang Định, giặc Hạ ngang ngược, quân đội phương Tây ở ngoài đồng, đã tập hợp quân mã thì phải nhập lương thảo, ở kinh đô chi trả tiền, vật phẩm, mỗi năm chi hơn một ngàn vạn quan, Tam ty không có cách nào xoay xở, phải lấy từ kho nội phủ. Niên hiệu Khánh Lịch năm thứ hai, năm thứ ba, liên tiếp chi tiền, lụa là từ kho nội phủ, chỉ hai lần này đã sáu trăm vạn tấm, Tam ty dùng để bù đắp thiếu hụt, chẳng mấy chốc đã dùng hết. Việc phương Tây đã yên, hai kỷ đến nay, trong khoảng thời gian đó cũng không nghe nói có biện pháp xử lý nào. Quốc gia không may, biến cố lớn liên tiếp xảy ra, sau khi ban thưởng, kho tàng trống rỗng, của cải tích trữ từ xưa hầu như không còn gì[20]. Vạn nhất gặp phải nạn đói, lại thêm giặc cướp, thần e rằng người khôn ngoan cũng khó mà xoay xở được. Kẻ cẩu thả chỉ lo cho mình, người có tầm nhìn xa lo cho quốc gia của bệ hạ, việc này trọng đại, là điều bệ hạ nên lo lắng nhất. Trách nhiệm quản lý tài chính tuy là việc của Tam ty, nhưng công việc hàng ngày phiền phức, kế hoạch thường lệ, sổ sách, hạn kỳ thì thuộc về các cơ quan hữu trách.”

Đến như việc bàn bạc liên quan đến thể chế quân quốc, sự việc liên quan đến cơ hội an nguy, căn bản của nó nằm ở Trung thư, Xu mật viện, chứ không phải các cơ quan hữu ty có thể tham dự được. Ngày nay, việc thu thuế tất phải ban sắc, chi cấp tất phải ban tuyên, đó là quy định của tổ tông, hai phủ cùng quản lý việc thu chi của quốc gia. Nay muốn bảo vệ thái bình, làm giàu tài chính, an dân, củng cố gốc rễ, nên từ Trung thư, Xu mật viện đồng tâm hiệp lực, tu sửa và làm sáng tỏ các điển chương cũ từ thời tổ tông, trước hết giảm bớt binh tịch, sau đó xử lý những việc lớn gây tệ nạn, như chế độ tông thất, pháp luật về quan lại, những việc sinh sự không giản tiện, cắt bỏ và sửa đổi. Đến như những việc nhỏ nhặt, không đủ ảnh hưởng đến sự thịnh suy của quốc gia, giao cho các cơ quan hữu ty là được. Nắm được cương lĩnh thì mọi việc sẽ rõ ràng, làm trong sạch nguồn gốc thì dòng chảy phía dưới sẽ trong sạch. Kinh Dịch nói: “Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc lâu dài.” Lại nói: “Biến đổi và thông suốt để đạt được lợi ích tối đa.” Lời trong quẻ Tiết nói: “Tiết chế bằng chế độ, không làm tổn hại tài sản, không làm hại dân.” Vì vậy, những việc làm tổn hại tài sản và hại dân, nên đặt ra chế độ để tiết chế. Nếu chỉ tuân thủ thông lệ cũ, câu nệ vào những quy định nhỏ nhặt, tránh né sự nghi ngờ, để ý đến hình thức, lo lắng về những ý kiến gần mà bỏ qua kế hoạch xa, coi thường mưu lược của con người mà mong may mắn từ trời, “Ngày tháng trôi qua, năm tháng không chờ đợi chúng ta”, sau này dù có hối hận, cũng không kịp nữa! Thần may mắn được ở gần, nhận ân sủng của ba triều, thấy thời sự ngày càng cấp bách, không kìm được nỗi lo lắng và phẫn nộ, xin mạo muội trình bày, mong bệ hạ lưu tâm xem xét!

(ND: Văn bản gốc thiếu khoảng thời gian tiếp theo, khoảng 03 năm, từ tháng 4 năm Trị Bình thứ 4 đời Vua Anh Tông đến hết tháng 3 năm Hi Ninh thứ 3 đời Vua Thần Tông, như đã trình bày ở phần Đề yếu)


  1. Chữ 'dĩ' nguyên bản thiếu, theo bản Tống và bản các bổ sung.
  2. Chữ 'chỉ' trong câu 'nay chỉ xin điều động 35.000 người' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống bổ sung. 《Tống hội yếu》 Lễ 29-49 chép 'chỉ' là 'chỉ'.
  3. Chữ 'trí' trong câu 'nay sai khanh đến phủ Hà Nam lo liệu' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống và văn dưới bổ sung.
  4. 'Đắc' nguyên là 'truyền', theo Tống bản sửa
  5. 'Khả Trung thư môn hạ nghị' nguyên là 'Trung thư môn hạ khả nghị', theo Tống bản và Tống hội yếu đế hệ 8-26 sửa lại
  6. 'Dùng chiếu chỉ bí mật hỏi Thiên Chương các đãi chế Tôn Tư Cung': Chữ 'thủ' (手) nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 58 'Âu Dương Tu vu báng' bổ sung.
  7. 'Rồi trị tội': Chữ 'tội' (罪) nguyên bản là 'bãi' (罷), căn cứ theo bản Tống và sách đã dẫn sửa lại.
  8. 'Phải kê rõ tên người truyền đạt và nguồn gốc lời đồn': Chữ 'cụ' (具) nguyên bản là 'kỳ' (其), căn cứ theo bản Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Biên niên cương mục》 quyển 17 sửa lại.
  9. '《Chu sử》 cho rằng người tố cáo Tu': Chữ 'Chu' (朱) nguyên bản là 'Tống' (宋), căn cứ theo bản Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại; dưới chữ 'vi' (為) nguyên bản thừa một chữ 'vi' (為), căn cứ theo bản Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bỏ.
  10. An Thế và ba người bậc ba, 'bậc ba' nghi ngờ nên là 'bậc nhất'.
  11. Trần Nhữ Hi, chữ 'Hi' nguyên là 'Nghĩa', theo bản Tống và 《Tống hội yếu》 chức quan 18/3 sửa lại, các chỗ sau cũng vậy.
  12. Tam ty đô ma khám ty, chữ 'ty' dưới nguyên là 'đồng', theo ý văn sửa lại.
  13. Hi Tổ ở ngoài bảy đời, chữ 'Thế' nguyên là chữ 'Thất', căn cứ theo đoạn trên 'định chế độ bảy đời tám gian trong Thái miếu', từ đời Anh Tông ngược lên đến Hi Tổ là tám đời, theo lễ nên dời đi, chữ 'Thế' và 'Thất' âm gần nhau nên nhầm, vì vậy sửa lại.
  14. Nguyên bản ghi là 'Kỷ Sửu'. Theo lịch, tháng 3 bắt đầu từ ngày Kỷ Dậu, trong tháng này không có ngày Kỷ Sửu. Bản Tống và 《Tống sử》 quyển 14, phần Thần Tông kỷ ghi là 'Ất Hợi', tức ngày 27 của tháng, nên sửa lại.
  15. Quản quân được cấp một phần ba, chữ 'nhất' nguyên bản là 'chi', theo bản Tống sửa lại.
  16. 'Chiếu' nguyên bản viết là 'Hặc', theo bản Tống sửa lại
  17. Câu chú thích này nguyên bản bị thiếu, theo bản Tống bổ sung. Chữ 'Đắc' nguyên bản viết là 'Đức', theo 《Tống sử》 quyển 311, truyện Chương Đắc Tượng sửa lại
  18. 'Chấp' nguyên bản viết là 'Báo', dưới chữ 'Trung' nguyên bản thừa một chữ 'Thư', theo bản Tống và 《Tống sử toàn văn》 quyển 10 hạ sửa và bỏ. Câu này có lẽ có chỗ sai sót
  19. 'Hựu' nguyên là 'Nhập', theo bản Tống sửa lại.
  20. hầu như không còn gì 'hầu như' nguyên bản là 'hết', căn cứ theo bản Tống và 《Trương Phương Bình Lạc Toàn tập》 quyển 24, sự việc bàn về quốc kế sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.