VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 212: NĂM HI NINH THỨ 3 (CANH TUẤT, 1070)
Từ tháng 6 năm Hi Ninh thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 6, ngày Nhâm Tuất, Vua xuống chiếu cho Tư nông tự kiểm tra việc các lộ báo cáo về lượng mưa, nếu có châu quân nào bị hạn hán hoặc lũ lụt nghiêm trọng thì phải tâu lên.
[2] Tri châu Tần Châu là Lý Sư Trung tâu: “Thần vâng chiếu điều tra việc trước đây mở rộng thành Cam Cốc, chiếm đất đai ở khu vực Thang Cốc, xem có liên quan đến ba nhà Tâm Ba hay không[1], đồng thời lệnh cho Vương Thiều và Lưu Hi Thích cùng thủ lĩnh người Phiên chỉ dẫn và xác định ranh giới rồi tâu lên. Thần đã lệnh điều tra, thấy rằng có nhiều hộ người Phiên bị trưng thu đất đai vào quan, hiện nay không đủ đất canh tác, xin trả lại một phần ba số đất đã nộp trước đây, còn các xạ thủ cung tên cũng không được giữ nguyên số lượng cũ, chỉ căn cứ vào đất hợp lệ nhập quan để chiêu mộ người[2], như vậy sẽ không gây hại đến kế hoạch biên cương.” Vua xuống chiếu lệnh cho Vương Thiều và những người khác theo chỉ đạo trước đó, điều tra xem các bộ lạc Phiên đã nộp đất thực sự muốn nộp bao nhiêu, nếu không phải là đất đã nộp ban đầu thì trả lại hết. Lưu Hi Thích lúc đó giữ chức Tẩu mã thừa thụ, đã được nhắc đến vào ngày 28 tháng 2.
[3] Giá bộ lang trung Chu Thọ Xương, con của Tốn, mẹ là Lưu thị. Thọ Xương sinh được hai tuổi, Tốn giữ chức thủ Trường An, đuổi Lưu thị đi lấy chồng trong dân gian, mẹ con không biết nhau trong năm mươi năm. Thọ Xương đi khắp bốn phương, tìm kiếm không được, ăn uống ít dùng rượu thịt, nói chuyện với người khác thường khóc lóc. Dùng phép Phật đốt tay, đốt đầu, lấy máu viết kinh Phật, hy vọng đạt được ý nguyện. Lại bỏ chức quan vào đất Tần, từ biệt gia đình, thề không gặp được mẹ thì không trở về. Đi đến đất Đồng Châu, tìm được mẹ, Lưu thị lúc đó đã hơn bảy mươi tuổi. Quan tri phủ Vĩnh Hưng là Tiền Minh Dật dâng biểu khen ngợi lòng hiếu thảo của ông, và nói: “Thọ Xương xưng bệnh xin từ chức để tìm thầy thuốc, nhưng theo phép tìm thầy thuốc phải hai năm mới đến Ngự sử đài xem xét. Xin đừng đợi hạn tìm thầy thuốc hết, mà khôi phục chức vụ cho ông.” Ngày Quý Hợi, Vua xuống chiếu cho Thọ Xương vào triều yết kiến. Trước đó, các quan đều công kích Lý Định không chịu tang mẹ, Vương An Thạch hết lòng bảo vệ Định, vì ghen ghét Thọ Xương, nên khi Thọ Xương đến, chỉ giao cho Thẩm quan viện xử lý. Thọ Xương trước đây đã hai lần làm quan ở quận, bèn giáng chức làm thông phán Hà Trung phủ, đón em cùng mẹ về. Ở được vài năm, mẹ mất, khóc lóc đến mức gần mù mắt. Chim trắng đậu trên mộ[3]. Ông càng thương yêu em, mua ruộng cho em ở. Đối với họ hàng cũng hết lòng giúp đỡ, gả chồng cho hai cô cháu gái mồ côi, chôn cất hơn mười người trong họ không có tiền chôn. Tính tình ông vốn là như vậy. Người nói là Trần Tiến, việc này xem ngày mồng 8 tháng 5.
[4] Ngày Giáp Tý, Vua xuống chiếu bãi bỏ lệnh cho tri châu Toại Châu khi mãn nhiệm được thăng làm đề điểm hình ngục, vẫn theo lệ cũ do Trung thư tuyển chọn người. Theo chế độ cũ, tri châu Toại Châu nếu trị dân có phương pháp, biên giới yên ổn, khi mãn nhiệm được thăng làm đề điểm hình ngục, đến nay bãi bỏ.
[5] Ngày Bính Dần, Điện tiền đô ngu hầu, Ung Châu quan sát sứ, Tần Phượng lộ phó tổng quản Đậu Thuấn Khanh được bổ nhiệm làm Tri Tần Châu, Lý Sư Trung ở Vĩnh Hưng quân nghe chỉ. Ngày 12 tháng 7, hạ lệnh cho Tào ty xem xét lợi hại của việc thiết lập ty thị dịch, và hạ lệnh cho Vương Thiều phân tích việc ruộng đất. Ngày 8 tháng 6, Sư Trung tâu về việc thiết lập ty thị dịch và việc ruộng đất, ban đầu sai Vương Nghiêu Thần, Lý Nhược Ngu điều tra thực tế. Khi Vương Thiều đề xuất mở rộng biên giới, Sư Trung đã ủng hộ, đến khi Thiều được cải làm Đề cử Phiên bộ kiêm Doanh điền, Thị dịch (ngày 11 tháng 2), Sư Trung mới bắt đầu nói việc này không tiện.
Hướng Bảo nói: “Phiên bộ không thể dùng rượu thịt và lời ngon ngọt để kết thân, phải dùng ân uy song hành, và phiên bộ có thể hợp nhưng không thể dùng.” Ý kiến của ông khác với Thiều. Triều đình lại sai Bảo kiêm Đề cử, Vương An Thạch sợ làm hỏng việc của Thiều, vội bãi chức ông ta (ngày 18 tháng 4). Thiều và Cao Tuân Dụ cùng được làm Đề cử (ngày 23 tháng 4), hai người cùng bài xích Bảo, thường xuyên có lời trái ý. Lúc đó Bảo đang được Sư Trung tin dùng, An Thạch vốn không ưa Sư Trung, từng tâu với Vua rằng: “Sư Trung trước sau tấu chương đều có lời khinh mạn, nay trong việc của Thiều lại cố tình gây trở ngại. Bệ hạ nếu muốn bảo toàn, nên răn dạy, khiến ông ta biết kiêng dè. Nên nói: ‘Giao cho khanh một lộ, nên vì Trẫm điều chỉnh tướng tá, khiến họ biết uy phúc của triều đình. Nay dùng một Vương Thiều, có gì thiệt hại với Hướng Bảo, mà lại oán hận không chịu hết lòng? Nếu quả như vậy, triều đình há không có hình phạt để đối đãi? Khanh là chủ soái, há lại không bị trách?’ Những việc Thiều làm, khanh đều cùng bàn, việc thành bại, triều đình thưởng phạt, ắt lấy khanh làm đầu, không chỉ ở Thiều.'” Vua sai sứ dụ Sư Trung như lời An Thạch. Việc này theo《Nhật lục》ngày 26 tháng 4.
Sau đó Sư Trung cũng tâu: “Bảo ở biên giới không thể yên, xin bãi Bảo, giao việc cho Thiều và Tuân Dụ.” Gặp lúc hai tộc Thác Thạc và Long Bác thù địch nhau, Đổng Dụ[4]đem quân giúp Thác Thạc. Tuân Dụ bèn nói với Sư Trung, xin sai Bảo về đánh dẹp. Sư Trung lại tâu: “Phiên bộ không có Bảo thì không thể kiềm chế, thần đã lệnh đem quân đánh tộc Thác Thạc, xin vẫn để Bảo lại, và ra lệnh cho Thiều cùng đoàn kết.” Tăng Công Lượng định theo lời xin, Xu mật viện lại xin trách phạt Thiều về việc răn dạy. An Thạch nói: “Thiều há chỉ bị trách răn, nên xét rõ tình hình thực hư, đạo lý đúng sai để thi hành pháp luật.” Khi đưa lên, Vua thấy Sư Trung tâu việc trước sau trái ngược, muốn sai sứ điều tra như ý An Thạch.
Văn Ngạn Bác nói: “Thiều, Tuân Dụ được chuyên tấu việc, không qua chủ soái, chủ soái lại phải nghe theo Thiều.” Vua nói: “Những việc Thiều làm đều báo cáo chủ soái.” An Thạch nói: “Nếu việc Thiều làm có hại, Sư Trung tự phải tâu lên. Sư Trung vốn không kiêng dè, chuyên khinh mạn triều đình, sao lại phải nghe theo Thiều?” Bèn xin bãi chức Sư Trung, Vua muốn điều Quách Quỳ thay. Tăng Công Lượng nói: “Diên Châu không thể thiếu người.” Vua lại muốn điều Thái Đĩnh, mọi người cho là không được. An Thạch nói: “Nếu dùng Đĩnh, không bằng dùng Quỳ.” Văn Ngạn Bác nói: “Vương An Thạch không biết việc Thiểm Tây, Diên Châu quan trọng hơn Tần Châu, Quỳ không thể điều.” An Thạch nói: “Thần vốn không biết việc Thiểm Tây, nhưng nay phiên bộ Tần Châu chống đối, Hạ quốc thỉnh thoảng xâm phạm biên giới, nếu liên kết với nhau, thì việc Tần Châu há chẳng rất quan trọng? Vả lại các lộ Thiểm Tây đều giáp biên giới với Hạ quốc, nếu một nơi có sơ hở, Hạ quốc sẽ nhòm ngó, thì nơi bị nhòm ngó chính là nơi cần người tài giỏi. Nếu Quỳ không thể điều, sao không để Đậu Thuấn Khanh tạm quản?” Hàn Giáng cũng cho rằng Thuấn Khanh có thể dùng, Vua cho là phải, nên có lệnh này.
Ngày Đinh Mão mùng 8, cùng với cuối tháng, hợp lại để tham khảo. Bản truyện của Lý Sư Trung chép: Vương Thiều xin xây dựng hai thành Thượng và Hạ ở Vị Nguyên, đóng quân để uy hiếp Vũ Thắng quân, chiêu dụ các bộ lạc ở Đào, Hà. Triều đình giao cho Sư Trung bàn luận, Sư Trung tâu rằng: “Nay việc xây dựng tất phải huy động nhiều binh lính, tạo thanh thế lớn, lại bắt các bộ lạc phiên dâng đất, chiêu mộ cung thủ, e rằng các bộ lạc Tây Phiên cùng Đào Hà, Vũ Thắng quân sẽ sinh nghi ngờ, không thể chiêu dụ được. Như việc xây dựng Cổ Vị trại[5] vào năm Hoàng Hựu, chặn đường Quảng Ngô bảo từ Thượng Đinh đến Hạ Đinh, là do ân tín chưa thông, nhân tình chưa hòa hợp. Nay nếu trước tiên chiêu dụ các bộ lạc Thanh Đường, Vũ Thắng cùng Đào, Hà, thì các bộ lạc Tây Phiên tất sẽ xin xây dựng thành trại. Theo ý muốn của họ, huy động một lượng binh lính vừa phải để xây một thành hoặc hai ba bảo, nhằm thể hiện ý chặn đứng việc cướp bóc của giặc Hạ, các bộ lạc tất sẽ quy phục. Nhà Đường ở Tây Vực, mỗi khi chiếm được đất liền lập thành châu, nhưng sau đó đều bị mất, lấy sông Thanh Thủy làm giới hạn. Đại để kế sách căn bản chưa vững, mối họa ở trung tâm chưa trừ, mà vội bàn chuyện xa xôi, tham đất đai, thì chưa có ai không kết cục như vậy.” Triều đình hạ chiếu giao việc quân cho Phó Đô Tổng quản Đậu Thuấn Khanh, ở Vĩnh Hưng quân chờ chỉ dụ. Xét: Việc Sư Trung bị cách chức, 《Nhật lục》 của Vương An Thạch và 《Nhật ký》 của Tư Mã Quang chép khá chi tiết, không chỉ vì tờ tấu này, nay tham khảo 《Nhật lục》 và 《Nhật ký》 để chỉnh sửa, không lấy theo bản truyện. Lại xét: Vị Nguyên, 《Tống sử》 chép là “Vị Kinh”, là sai.
[6] Quang lộc khanh, Tri Thư Châu Dương Dư được điều về Nam Kinh làm việc, do chuyển vận ty cho rằng Dư nhu nhược, không đủ năng lực giữ chức vụ.
[7] Trứ tác tá lang Hoàng Hảo Khiêm vào chầu, Vua nói với Vương An Thạch: “Hảo Khiêm giữ được bổn phận.” An Thạch đáp: “Hai tờ tấu trình lên điện, lời lẽ cũng không trái lý.” Vua nói: “Đúng vậy.” Bèn sai Hảo Khiêm biên soạn điều lệ của Trung thư.
[8] Xuống chiếu cho các ty Kinh lược, An phủ, Kiềm hạt cấp ấn chỉ cho các chỉ sử, ghi chép công tội của họ. Điện thị, tán trực do Điện tiền ty cấp; sai sứ, điện thị trở lên do Tam ban viện cấp; quân đại tướng do Tam ty cấp.
[9] Ty Chế trí Tam ty điều lệ tâu: “Dân chúng Khai Phong phủ nộp cỏ, trước đây sai 5.000 binh sĩ tích trữ cỏ, nhưng số lượng thường không đủ, vì chỉ căn cứ vào số lượng cỏ thu hàng năm để điều động. Do việc nộp cỏ dồn dập, cần nhiều người vận chuyển và chất đống mới tránh được ùn tắc và không làm hư hỏng vật phẩm của quan. Xin điều thêm binh sĩ vận chuyển và nhân viên dư ở các kho cỏ, thường xuyên giữ số lượng 4.000 người, nếu không đủ thì cho phép điều động quân sương, cấm trong phủ và giới. Khi việc nộp cỏ đạt mức quy định, sẽ lần lượt giảm bớt.” Lại xin mỗi kho cỏ chính tăng thêm một triều thần và một sứ thần, cùng với số cũ thành tám người; ba kho cỏ Tả Hữu Kỳ Kỵ, Thiên Tứ giám, Thiên Cứu và các kho cỏ tiện lợi của phường, giám đều tăng thêm một kinh triều quan cùng tiếp nhận. Vua đồng ý.
[10] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu: “Từ nay về sau, hoàng thân ở ngoài đều được phép nộp biểu chương tại Cáp môn. Những người ở chỗ cũ, lệnh cho Tông chính ty xem xét, nếu cung viện nào có nhiều người mà nhà cửa ít thì dời đi, sắp xếp lại cho đều.”
[11] Lại có chiếu rằng: “Tam ty chia các kho tàng ở kinh thành làm bốn khoa, lệnh cho Tam ty cùng các quan câu đương công sự của ty đề cử, mỗi nửa năm một lần luân chuyển, mỗi người kiểm tra một khoa.” Do Tam ty tâu rằng các ty đề cử quản lý 72 nơi, sai quan câu đương công sự, chỉ mỗi quý kiểm tra xem vật phẩm có đầy đủ ngăn nắp không, còn những thứ tồn đọng hư hỏng, thuộc về việc Tam ty phải xử lý, xin lệnh cho khi kiểm tra ngoài việc báo lên bản ty, còn phải báo lên Tam ty. Vì thế có chiếu này, nhưng sau đó bãi bỏ. Việc bãi bỏ này căn cứ theo《Nhật ký》của Tư Mã Quang.
[12] Lý Sư Trung tâu: “Vương Thiều xin rằng, muốn ở Cam Cốc thành và các nơi khác có 1.500 khoảnh đất trống chưa chiêu mộ được cung tiễn thủ, xin sai quan từ 3-5 khoảnh đến hơn 10-20 khoảnh, từng đoạn đánh dấu ranh giới, xác nhận không xâm phạm đất đai của người Hán và người Phiên, sau đó muốn dựa vào việc ra bảng cáo, theo chỉ dụ triều đình chiêu mộ người đến canh tác. Vì bản ty trước đây nhận được trát tử của Trung thư, Vương Thiều chiêu mộ người canh tác, chỉ được cấp đất hoang, không được xâm phạm bộ lạc người Phiên. Nay Thiều lại muốn chiếm đất ở biên giới xa xôi đang chiêu mộ cung tiễn thủ, trái với chiếu chỉ; lại muốn dời ty thị dịch đến trại Cổ Vị, thần e rằng từ đây Tần châu sẽ càng thêm nhiều việc, được không bù mất. Vì Thiều lúc đầu dâng kế sách, triều đình liền theo lời tâu, chưa từng lệnh cho thần xem xét, xin được ủy thác lại cho một viên chuyển vận sứ xem xét lại.” Chiếu sai quyền phán quan phủ Khai Phong là Vương Khắc Thần và nội thị áp ban Lý Nhược Ngu[6]điều tra sự thật rồi tâu lên. Ngày mồng 7, Bính Dần, và cuối tháng nên tham khảo thêm.
[13] Ngày Mậu Thìn, ty biên tu cáp môn nghi tâu: “Nay bãi bỏ lễ nhập cáp, tức là thiếu lễ thị triều ở điện Văn Đức, xin hạ lệnh cho hai chế và Thái thường lễ viện, ước theo chế độ nhà Đường, xét định nghi lễ ngự điện Tuyên Chính vào ngày sóc vọng, để chuẩn bị cho chế độ thị triều ở chính nha.” Theo lời tâu.
[14] Châu Trịnh tâu: “Tu sửa điện đường ở lăng Tùng, việc vận chuyển gạch ngói gỗ đá tốn kém, xin lượng giảm bớt số gian nhà.” Không cho phép.
[15] Ngày Nhâm Thân, Vua phê: “Gần đây nghe nói các quan lại ở kho vật liệu xưởng làm, giấu đi số trúc làm cán tên trong sổ sách, xin với Tam ty mua bổ sung, Tam ty không kiểm tra xác thực có hay không liền thi hành, nên xét lại để xử lý.” Do đó, Tam ty sứ Ngô Sung tâu: “Số tên gỗ tổng cộng hai trăm lẻ tám nghìn bốn trăm cây, nhưng số có thể dùng được[7] chỉ có mười một nghìn hai trăm cây. Gần đây thương nhân chở đến kinh khoảng hơn hai triệu cây, nên sai quan đi chọn mua.” Vua nghi ngờ không phải là gỗ tốt, sai Bí thư thừa Chương Tiết đi kiểm tra, quả nhiên không phải gỗ tốt, các quan lại đều bị trị tội. Tiết là cháu của Tần.
[16] Đề cử Kinh Tây lộ Thường bình đẳng sự Trần Tri Kiệm tâu rằng phụng chiếu xét việc châu Đường những năm gần đây chiêu dụ dân khai hoang tăng thuế, trong nhiệm kỳ của Triệu Thượng Khoan trước đây, có hơn bốn trăm hộ anh em cha con dùng tên giả trùng lặp, cùng với việc Thiêm phán Trương Tuân làm giả tăng diện tích ruộng nước, và việc đào tu sửa hai đập Hoàng, Vương không đúng sự thật. Vua sai Chuyển vận phán quan Lý Nam Công xác minh việc Thượng Khoan, Tuân làm không đúng sự thật, và các quan bảo lãnh trước đây để tâu lên. Sau đó Nam Công tâu rằng Thượng Khoan cũng có việc không đúng sự thật, và liệt kê các quan bảo lãnh. Triều đình vì đã nhiều lần được ân xá, và đã thôi chức, nên đều tha cả.
[17] Ngày Quý Dậu, ban chiếu cho quần thần rằng những người được phong tước đến bậc đại quốc thì không thay đổi phong tước nữa, còn người được phong tước cho vợ thì theo quận, nước của chồng. Vua phê rằng: “Con gái tông thất được phong làm quận chúa, huyện chúa cũng trái với nghĩa lý.” Bèn ban chiếu cho quan biên tu điều lệ của Trung thư xem xét lại cố sự để xin chỉ dụ.
Sau đó, Ty Điều lệ tâu rằng: “Kính xét sách 《Hậu Hán Thư》 của Phạm Uất Tông chép: ‘Theo chế độ nhà Hán, con gái hoàng đế đều được phong làm huyện Công chúa, nghi phục giống như liệt hầu. Những người được tôn sùng thì thêm hiệu Trưởng Công chúa, nghi phục giống như phiên vương. Con gái các vương đều được phong làm hương Công chúa, đình Công chúa, nghi phục giống như hương hầu, đình hầu. Con gái hoàng đế được phong làm Công chúa thì con trai được tập phong mẹ làm liệt hầu, đều được truyền nước về sau. Còn tước phong hương, đình thì không được truyền tập[8]. Chức quan, phẩm trật đều có thứ bậc cao thấp.’ Còn thời Tiền Hán, con gái các vương cũng gọi là ‘Ông chúa’, chị của Tề Lệ vương vì là con của họ Kỷ nên gọi là Kỷ Ông chúa. Trong 《Vương Cát truyện》 cũng chép: ‘Nhà Hán, liệt hầu cưới Công chúa, chư hầu thì người trong nước cưới Ông chúa.’ Các bậc tiên nho cho rằng con gái Vua gả xuống cho chư hầu, do chư hầu cùng họ làm chủ hôn nên gọi là ‘Công chúa’. ‘Công’ là cách gọi chư hầu. Chư hầu gả con gái thì do cha làm chủ hôn[9], nên gọi là ‘Ông chúa’. ‘Ông’ là chỉ cha. Như vậy, Công chúa, Ông chúa đều là do người chủ hôn mà đặt tên. Nay chế độ nhà Hán lại phong trước làm huyện Công chúa, con trai của Công chúa được tập phong mẹ làm liệt hầu, truyền nước về sau. Như vậy không phù hợp với thuyết của tiên nho. Sau đó, con gái các vương nhà Tống được phong làm huyện chúa, nhà Tùy lại có quận chúa, đều không có chữ ‘công’. Đến chế độ nhà Đường thì con gái thái tử làm quận chúa, phong quận; con gái thân vương làm huyện chúa, phong huyện.
Ban đầu, có lẽ vì kiêng hiệu của con gái hoàng đế nên bỏ chữ ‘công’, lại vì ngại nên không gọi là Ông chúa. Như vậy, chữ ‘chúa’ không còn mang nghĩa chủ hôn nữa, mà chỉ là cách gọi chủ quân mà thôi. Sự sai lầm do truyền tụng đã lâu ngày. Tuy nhiên, thần cho rằng danh hiệu quan tước ngày nay, mất đi ý nghĩa gốc như quận chúa, huyện chúa, không thể kể hết. Nếu muốn sửa đổi, nên xem việc gấp hay chậm mà làm trước sau.” Bàn luận ấy bèn dừng lại.
[18] Đại Tông Chính ty tâu: “Xin hợp nhất và quản lý các việc của Mục Thân, Quảng Thân cùng với việc đề cử các trạch sở của quận huyện chủ, đều giao cho bản ty quản lý. Nay có tám điều ước thúc và bãi bỏ, xin được ghi thành lệnh.” Chiếu chỉ ngoại trừ những người thuộc các loại khác nhau và các tội trượng trở xuống của các di (nữ giám), xin được bản ty xét xử, không cho phép ngoại lệ, còn lại đều theo đó. Sách 《Tân Kỷ》 vào ngày Quý Dậu lại chép có mây ngũ sắc, đã thấy vào ngày Giáp Thân tháng 7 năm thứ hai, nay theo 《Cựu Kỷ》 bỏ đi. Án: Bản kỷ vào ngày Giáp Thân tháng 7 năm thứ hai và ngày Quý Dậu tháng 6 năm thứ ba, đều chép có mây ngũ sắc, có lẽ là lỗi của 《Tống Sử》.
[19] Ngày Giáp Tuất, Lưu Tường, Đô chuyển vận sứ Hà Bắc, tâu rằng việc tu sửa sông Ngự đã hoàn thành. Chiếu chỉ cho Trình Phưởng, người phụ trách việc đào sông, đến kinh đô. Năm ngoái, tháng 11 nhuận, ngày Canh Tý bắt đầu đào, tháng 8 ngày Giáp Tuất, Phưởng được thăng chức. Năm nay, tháng giêng ngày Bính Thìn, Hàn Kỳ dâng tấu, có thể tham khảo. 《Hà cừ chí》 chép: Sông Ngự bắt nguồn từ suối Bách Môn ở huyện Cộng Thành, châu Vệ, chảy qua Thông Lợi[10], Can Ninh vào sông Giới, ra đến biển. Năm Hi Ninh thứ 2, có người đề nghị đào từ huyện Vũ Thành, châu Ân vào lòng sông cũ của sông lớn, xuôi theo sông Ngũ Cổ. Chiếu cho Lưu Di, Thừa Đô thủy giám, cùng Trình Phưởng đi khảo sát. Thông phán[11] châu Ký là Vương Tường cho rằng, đào dẫn nước vào sông Hồ Lô thì tiện hơn. Lưu Di và các người khác cho rằng đất đó nông, lầy lội, tốn nhiều công sức, không bằng đào từ Ô Lan Đề[12] qua Đại, Tiểu Lưu Cảng, cắt ngang sông lớn, vào sông Ngũ Cổ để khôi phục lòng sông cũ. Bèn lệnh cho Bì Công Bật, Đề cử Tiện địch, và Vương Quảng Liêm, Đề cử Thường bình, đi khảo sát lại, và bàn bạc cùng Lưu Di, Trình Phưởng. Sau đó, điều động 6 vạn binh lính và dân phu từ 6 châu Hình, Minh, Từ, Tương, Triệu, Chân Định để nạo vét. Tháng 4 năm thứ 3, sông đào xong, ban thưởng tiền cho binh lính tham gia, tháng 8 thăng Trình Phưởng làm Cung uyển phó sứ, còn lại ban thưởng theo thứ bậc. Năm thứ 4, lệnh cho Trình Phưởng làm Đô đại đề cử sông Hoàng, Ngự[13], cùng Thiêm thư Ngoại đô thủy thừa sự, chuyên trách việc này.
[20] Ngày Ất Hợi, Hàn Chẩn tâu: “Nghiêm Huấn, Thần hổ phó chỉ huy sứ châu Tấn, thời Khang Định trấn giữ châu Phong, quân Hạ vây thành, Huấn dẫn quân sĩ cố thủ, chém giết nhiều giặc; đến khi thành bị hạ, bị bắt, gặp Nguyên Hạo mắng chửi không ngừng, rồi bị hại. Xin hạ lệnh cho châu Tấn tìm con cháu của ông ấy, ban thưởng và ghi nhận.” Theo lời tâu. Án: Việc của Nghiêm Huấn, 《Tống sử》 không chép.
[21] Ngày Bính Tý, Binh bộ lang trung, Đồng tri Thẩm quan Tây viện Hàn Chẩn kiêm chức Trực Xá nhân viện. Chẩn vì anh là Hàn Tương đang giữ chức chính sự, nên cố từ chối, được đổi làm Tập Hiền điện Tu soạn. Việc bổ nhiệm Tu soạn vào ngày 22 Tân Tỵ, nay theo 《Thực lục》 ghi chép lại.
[22] Giáng chức Đồn điền viên ngoại lang, Tri huyện Sơn Âm Trần Thuấn Dũ làm Giám Nam Khang quân Diêm tửu thuế, vì phạm tội vi phạm chiếu chỉ, không phân phát tiền Thường bình mà tự hặc tội. Trước đó, Thuấn Dũ đã có chiếu triệu thí ở Học sĩ viện, nhưng cũng bị chiếu bãi bỏ. Thuấn Dũ tính tình cương quyết, không hợp tình lý, làm quan thường gặp trắc trở, giữa chừng từng tức giận bỏ quan, về ở ẩn tại thôn Bạch Ngưu, huyện Gia Hòa, tự xưng là Bạch Ngưu cư sĩ. Sau đó không chịu nổi, lại ra làm quan. Khi bị giáng chức đến Nam Khang, sau đó lại dâng thư nói rằng phép Thanh miêu thực sự tiện lợi, ban đầu vì mê muội nên không biết. Lúc đó, Tham tri chính sự Phùng Kinh muốn nhân cơ hội này dùng lại ông, nhưng Tể tướng Vương An Thạch nói: “Người này tính tình phản phúc, sao có thể dùng được.” Lúc đó, ở kinh đô mới thiết lập phép Bảo giáp, đang xem xét tình hình, mà Tri châu Túc Châu Nguyên Tích Trung đã vội xin áp dụng rộng rãi, nên ở kinh đô có câu nói: “Nguyên Tích Trung ngược chiều theo Bảo giáp, Trần Thuấn Dũ hối hận về Thanh miêu.” Người nghe đều cho là chuyện đáng cười. Phùng Kinh nhậm chức Tham tri chính sự vào ngày 14 tháng 9, lập phép Bảo giáp vào ngày 9 tháng 12, Vương An Thạch nhậm chức Tể tướng vào ngày 11 tháng 12, việc Thuấn Dũ hối hận nên ghi vào cuối tháng 12, hoặc có thể bỏ đi.
[23] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu cho Ngự sử trung thừa Phùng Kinh, Hàn lâm học sĩ Phạm Trấn cùng Tam ty Đô lý khiếm ty xem xét việc miễn trừ các khoản nợ quan vật.
[24] Phong Cảm Đức quân Tiết độ sứ, Vinh quốc công Thừa Lượng làm Tần quốc công, con thứ ba của Đức Ung, đã ghi chép vào tháng 9 năm Gia Hựu thứ 6. Kiến châu Quan sát sứ Tông Túc làm Lỗ quốc công, con của Doãn Ninh, cháu của Nguyên Phần. Văn châu Phòng ngự sứ, Ân Bình quận công Tông Đạt làm Thái quốc công, con của Doãn Thăng, làm con thừa tự của Nguyên Xưng, đã ghi chép vào tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 4. Cát châu Đoàn luyện sứ Tông Huệ làm Ngụy quốc công, con của Doãn Thăng, đã ghi chép vào tháng 6 năm Trị Bình nguyên niên, sau đó lấy Tông Lập thay thế Tông Huệ. Đại châu Phòng ngự sứ Tông Bảo làm Yến quốc công, con của Doãn Thành, làm con thừa tự của Nguyên Hi, đã ghi chép vào tháng 7 năm Khánh Lịch thứ 4. Long Vệ Đại tướng quân[14], Quả châu Đoàn luyện sứ, Tề An quận công Trọng Cáp làm Trần quốc công, con của Tông Vọng, cháu của Nguyên Kiệt. Hữu Kiêu Vệ Tướng quân, Tần châu Thứ sử Thế Trình làm Việt quốc công, con của Tòng Đảng, cháu của Duy Chính, sau đó lấy Thế Thanh thay thế Thế Trình.
[25] Trước đó, Lễ viện tâu: “Theo chế độ gần đây của triều đình, con cháu các vương đều dùng người lớn tuổi nhất trong cung mình[15], phong tước công để kế thừa, triều đình cho rằng điều này không hợp với cổ lễ. Vì vậy, tháng 11 năm ngoái đã ban chiếu rằng, con cháu của tổ tông đều chọn một người làm tông chủ, đời đời phong tước công, bổ nhiệm làm quan trong hoàn vệ để phụng thờ tế tự, không vì hết hạn phục tang mà giảm lễ, điều này khác với chế độ cũ. Cẩn thận xét theo lệnh văn, các vương, công, hầu, bá, tử, nam đều do con cháu thừa kế chính thống truyền nối. Nếu không có con trai chính thống hoặc có tội tật, thì lập cháu trai chính thống; tiếp theo là lập em trai cùng mẹ của con trai chính thống; nếu không có em trai cùng mẹ, thì lập con trai thứ; nếu không có con trai thứ, thì lập em trai cùng mẹ của cháu trai chính thống; nếu không có em trai cùng mẹ, thì lập cháu trai thứ. Từ tằng tôn trở xuống đều theo quy tắc này. Nên tuân theo lễ lệnh, truyền nối chính thống.” Chiếu chuẩn.
Do đó, quan Lễ lại tâu: “Cẩn thận xét, Chiêu Thành Thái tử Nguyên Hi[16], Trần Vương Nguyên Kiệt, Thái Vương Nguyên Xưng không có con nối dõi, mà Tông Bảo, Tông Đạt, Trọng Cáp là người thân thích bên ngoài được lập kế thừa, hiện đang phong tước quận công, tự nhiên hợp lễ. Con của Thái Tổ là Việt Vương Đức Chiêu nên lập cháu trai thứ trưởng là Thế Trình; con của Thái Tông là Ngụy Vương Nguyên Tá nên lập cháu trai chính thống cùng mẹ là Tông Huệ; Lỗ Vương Nguyên Phần nên lập cháu trai chính thống là Tông Túc; Hàn Vương Nguyên Ốc nên lập cháu trai chính thống là Tông Hối (con của Doãn Bật); Ngô Vương Nguyên Nghiễm nên lập cháu trai trưởng là Tông Ráng (con của Doãn Lương).” Chỉ có con cháu của Tần Vương Đình Mỹ và Sở Vương Đức Phương, quan Lễ bàn việc lập người kế thừa có sự khác biệt.
[26] Phán Thái thường tự Trần Tiến cho rằng việc truyền tập lấy đích thống làm trọng, lệnh văn nói thứ đệ, thứ tôn là cách gọi con của thiếp, nhưng cũng không rời khỏi chính thống. Theo lễ truyền, người kế thừa có bốn trường hợp: có chính thể mà không truyền trọng, là đích tử có tội hoặc bệnh; có truyền trọng mà không phải chính thể, là thứ tôn kế thừa; có thể mà không chính, là thứ tử kế thừa; có chính mà không thể, là đích tôn kế thừa. Tuy nhiên, đều không dám bỏ bản thống mà chuyển sang bàng chi. Theo nghị luận của Phạm Tuyên đời Tấn, nếu đích tôn mất mà không có con cháu, thì con cháu của thứ tử mới được truyền trọng. Từ đó suy ra, phải đợi đích phòng tuyệt tự, mới cho phép con cháu thứ tử kế thừa, huống chi đích phòng vẫn còn có tằng tôn? Xét tình lý, nên lấy thứ tôn của bản phòng kế thừa tổ tiên. Nếu không có thứ tôn thì truyền xuống tằng tôn, không rời bản thống, như vậy là hợp lễ lệnh. Nay Tần vương và Sở vương, từ đích tôn cùng mẹ trở lên đều không còn ai, Tần vương nên lấy thứ tằng tôn Khắc kế tự; là con của Thừa Khánh, cháu của Đức Cung, tằng tôn của Đình Mỹ, đã ghi trong tháng 2 năm Hoàng Hựu thứ 4. Sở vương nên lấy thứ tằng tôn Thế Dật kế tự; là con của Tòng Hú, cháu của Duy Tự, tằng tôn của Đức Phương.
[27] Viện Tri lễ là Hàn Trung Ngạn và Trần Mục cho rằng quy chế trong lệnh văn có chút khác biệt so với cổ lễ. Nếu không có cháu đích tôn mà có cháu đích tằng tôn, thì bỏ qua cháu tằng tôn mà lập em cùng mẹ của con đích. Nếu không có em cùng mẹ, thì lại lập con thứ. Từ đó có thể thấy cũng cho phép suy xét đến các chi nhánh bên cạnh, thường ưu tiên người thân cận nhất. Theo lễ điển và sắc lệnh về ngũ phục, con của các con, trừ con trưởng đích ra, đều là cháu thứ. Đã nói là lập cháu thứ, thì nên chọn một người lớn tuổi nhất trong số các cháu thứ của các phòng để lập. Bởi vì vương đối xử với cháu thứ cũng như cháu đích, cháu thứ so với cháu tằng tôn thì dòng dõi cao hơn và thân cận hơn. Nếu chỉ coi con của thiếp trong phòng đích là cháu thứ, thì con cháu của các phòng khác nên gọi bằng quan hệ gì? Nay cháu thứ còn sống, chỉ vì anh em trong phòng cháu đích đều đã mất, bèn bỏ qua cháu thứ không lập, mà truyền xuống cho cháu tằng tôn. Nếu không may lại không có cháu tằng tôn, chỉ còn cháu thứ của phòng khác, lẽ nào lại coi là không có người kế thừa mà bãi bỏ quốc gia sao? Tần vương nên lấy cháu thứ trưởng là Thừa Lượng kế vị, Sở vương nên lấy cháu thứ trưởng là Tòng Thức kế vị.” Duy Hiến là con, Đức Cung là cháu, đã được nhắc đến vào tháng 7 năm Chí Hòa thứ hai. Chiếu chỉ rằng hậu duệ của Tần vương và Sở vương theo đề nghị của Trung Ngạn, còn lại theo quyết định của quan lễ. Vì vậy, Thừa Lượng trở xuống được lập, còn Tông Hối và Tông Ráng vì tang sự nên được phong sau, Tòng Thức được phong làm quận vương, không thay đổi phong hiệu, hậu duệ của họ theo quyết định hiện tại.
[28] Trước đó, Vua hỏi Trần Tiến nói thế nào, Vương An Thách đáp rằng: “Nay chiếu lập người kế vị cho Tần vương và Sở vương, hai vương không có con đích, không có cháu đích, lại không có con thứ, cũng không có em trai cùng mẹ của cháu đích, chỉ có cháu thứ, thì nên lập cháu thứ mà thôi. Cháu thứ là, ngoài cháu đích của hai vương này, con của các con đều là cháu thứ. Nay Tiến lại cho con của con đích là cháu thứ, con của các con là cháu khác phòng, và Tần vương nói cháu của Ung vương là cháu khác phòng, không được coi con của các con mình là con.” Ung vương Quang Tế là anh của Tần vương, được truy phong năm Kiến Long thứ ba. Vua cho là phải. Các vương được phong quốc hiệu nhiều lần thay đổi, lệnh phải ghi vương dưới quốc hiệu được phong, để dễ nhận biết. 《Tân kỷ》 chép phong tông thất Tần, Lỗ, Thái, Ngụy, Yến, Trần, Việt bảy vương sau làm công. 《Cựu kỷ》 vào tháng 7 ngày Nhâm Tý mới chép Ngụy, Việt.
[29] Tông Chính tự tâu: “Hàng năm vào ngày mùng một tháng giêng, sao chép một bản 《Tiên Nguyên Tích Khánh Đồ》 và 《Tông Phiên Khánh Tự Lục》, cung cấp cho Long Đồ, Thiên Chương, Bảo Văn các. Nay tổ tiên không phải là thân thích trong vòng năm đời thì không được ban tên và phong chức, đều theo pháp lệnh của quan ngoài, có nên hay không nên ghi vào sách đồ?” Chiếu giao cho Lễ viện xem xét quyết định.
Quan Lễ tâu: “Thánh vương đối với tông tộc, trên dưới đều giảm dần, đến sáu đời thì hết, để phân biệt rõ sự khác nhau về thân sơ. Dù hết đạo thân thích, vẫn ghi chép nguồn gốc, trăm đời không loạn, để ghi rõ sự giống nhau về thế hệ. Thân sơ khác nhau thì ân lễ cũng phải khác; thế hệ giống nhau thì sách đồ cũng phải giống. Hai điều này song hành mà không trái nhau, nghĩa thân thích được đầy đủ. Lễ nói: ‘Bốn đời mặc áo tang vải thưa[17], là hết tang vậy. Năm đời thì bỏ tang, giảm bớt cùng họ. Sáu đời thì hết thân thích. Họ khác ở trên, thân thích hết ở dưới, hôn nhân có thể thông hay không? Buộc theo họ mà không phân biệt, nối theo ăn uống mà không khác, trăm đời không thông hôn nhân, đạo nhà Chu là vậy.’ Trịnh Huyền chú: ‘Buộc mà không phân biệt, giống như tông thất thuộc tịch ngày nay.’ Điều này căn cứ theo việc Hán Tông Chính hàng năm dâng danh tịch, phù hợp với kinh Lễ.
Lại theo lệnh Hộ, tông miếu của hoàng tộc dù bị phá hủy, con cháu đều phải phụ tịch vào Tông Chính tự, còn lại đều theo dân thường, chỉ hàng năm gửi tổng số hộ khẩu đến Tông Chính tự. Điều này trong lệnh Hộ cũng phù hợp với cổ chế. Theo đó, ân huệ xa gần vốn nên có sự khác biệt, nhưng ghi chép gia phả không thể không lưu giữ. Huống chi triều đình đã sửa đổi chế độ phong quan cho hoàng tộc, mà thân thích ngoài năm đời vẫn được thừa tập tước vị, dự thi khoa cử, thăng quan cấp bổng, mọi việc đều ưu đãi, hoàn toàn không theo pháp lệnh của quan ngoài và dân thường, nên dù thân thích xa nhưng ân lễ không thiên lệch[18]. Nếu sách đồ bị thất lạc, thì không thể xét được nguồn gốc, và làm chứng cứ lâu dài. Vậy xin cho những người không phải thân thích trong vòng năm đời của tổ tiên, vẫn theo lệ cũ ghi vào 《Tiên Nguyên Tích Khánh Đồ》 và 《Tông Phiên Khánh Tự Lục》. Những người làm quan ngoài[19], giao cho Tông Chính tự hàng năm thu thập và phụ tịch.” Được chấp thuận.
[30] Thượng phê: “Tiết Hướng và những người khác phụ trách tài lợi các lộ phía đông nam, khi mới bắt đầu công việc, thực sự cần những quan lại am hiểu từ xa đến gần để ứng phó, mới có thể hoàn thành. Gần đây tuy đã có nhiều chỉ thị, nhưng nếu Tiết Hướng và những người khác tâu xin bổ nhiệm quan lại, đều nên được đáp ứng. Vẫn lo rằng có những người nên được bổ nhiệm vào chức vụ xa, nhưng triều đình lại không thực hiện theo điều lệ, từ nay có thể đặc cách bổ nhiệm, nếu hết nhiệm kỳ mà không có thành tích, thì lại bổ nhiệm vào chức vụ xa.” Ngày 17 tháng 7 năm thứ hai, thiết lập chế độ quân thâu, liền cho phép bổ nhiệm thuộc quan. Ngày 16 tháng 9, lại ban chiếu kiêm quản việc khai thác mỏ bạc, đồng.
[31] Chiếu rằng: Quan tường đoạn Đại Lý tự là Lý Đạt, Hồ Trạch được thay thế, Quyền Thiếu khanh Thái Quan Khanh bị giáng chức điều đi nơi khác, Quyền Phán sự Hứa Tuân, quan tường nghị Viện Thẩm hình là Chu Đại Giản, Hàn Tấn Khanh, Triệu Văn Xương, Phùng An Chi đều bị điều chuyển chức vụ, vì đã xử sai vụ án dân Tào Chính ở Tần Châu bị tội chết chưa quyết. Tăng Công Lượng dẫn án ngân sa xử sai được ân xá, Vương An Thạch nói: “Án ngân sa đã là xử sai, nên có chỉ đặc biệt.” Vì thế có chiếu này. Tấn Khanh là người An Khâu.
[32] Chiếu rằng: “Xu mật viện mỗi quý phải nộp một quyển sổ ghi tên họ, chức vụ từ chức Sứ tướng trở xuống đến các chức Các môn chi hậu trở lên, từ nay về sau làm theo như vậy. Các chức Chư ty sứ trở xuống đến Các môn chi hậu trở lên và Nội thường thị trở lên, các chức Chư ty sứ, tên họ, chức vụ mỗi quý phải nộp sổ ghi, lệnh cho Tây viện sao chép nộp; chức Sứ tướng và chính nhiệm hoành hành, nội thần Chiêu tuyên sứ trở lên và Xu mật viện các phòng phó thừa chỉ, tên họ, chức vụ mỗi quý phải nộp sổ ghi, lệnh cho Xu mật viện sao chép nộp. Các quan lại tâu cử Đại sứ thần, lệnh cho Thông tiến ngân đài ty theo từng hạng phát phóng; cử Lộ phân đô giám, Tri châu quân trở lên, gửi đến Xu mật viện, bản viện theo chỉ thị trước, trước giao cho Lại phòng ghi lý lịch xong, rồi phê giao cho Thẩm quan Tây viện; cử các chức thường trình sai khiển, đều gửi thẳng đến Thẩm quan Tây viện thi hành.” Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 ngày 18 tháng 6 năm thứ ba, nay phụ vào ngày này, có thể lược bớt.
[33] Ngày Mậu Dần, phủ Khai Phong tâu xin từ nay về sau cho phép các quan Tào quan được tâu cử, được chấp thuận.
[34] Thẩm hình viện tường nghị quan, Điện trung thừa Chu Ôn Kì được quyền phát khiển làm Đại Lý thiếu khanh, hợp lệ nhập tư tự. Khi đó, Ngự sử trung thừa Phùng Kinh tâu: “Ôn Kì từ chức Bắc Kinh pháp tào tham quân, được cử làm Hình bộ tường phúc quan năm năm, hợp lệ coi là hai nhiệm kỳ. Tháng 5 năm nay, mới được cử làm Thẩm hình viện sai khiển, tư tự còn non, liền cho quyền phát khiển làm thiếu khanh, vượt quá hàng ngũ. Xin hãy chọn trong số những người đang giữ chức tường nghị quan, tri châu có tư tự, hoặc chọn trong số quan viên ngoại nhiệm có người tinh thông luật pháp, giữ mực công bằng và có tư vọng sâu dày để đáp ứng minh chiếu, khiến trăm quan tiến thoái đều có trật tự, cũng là một cách để ngăn chặn sự tranh giành.” Vua dụ Phùng Kinh rằng: “Ôn Kì bác bỏ án kiện có hiệu quả thực tế, việc bổ nhiệm này không quá đáng.” Tri gián viện Hồ Tông Dũ cũng tâu: “Ôn Kì chỉ biết đọc tụng luật sớ, không hiểu nghĩa xưa, không biết thể chế trị nước của tiên vương, lại có tính cách sâu sắc, không có lòng thương xót, không đủ để đảm nhận chức vụ Đình úy. Mong chọn người hiền lương để đảm nhận chức Đại Lý.” Vua không nghe.
[35] Vua xuống chiếu tu sửa Vũ Thành Vương miếu.
[36] Hàn lâm học sĩ Tư Mã Quang xin cử Thí hiệu thư lang, nguyên Tri Long Thủy huyện Phạm Tổ Vũ cùng tu soạn 《Tư trị thông giám》, được chấp thuận. Tổ Vũ là cháu gọi Phạm Trấn bằng ông chú.
[37] Ngày Tân Tỵ, Tiết Hướng, người giữ chức Phát vận sứ các lộ Giang, Hoài, kiêm chức Tư huân Lang trung, được bổ nhiệm làm Thiên Chương các Đãi chế; La Chửng, người giữ chức Phó sứ, kiêm chức Thái thường Thiếu khanh, được bổ nhiệm làm Phát vận sứ. Khi ấy, Ngự sử Trung thừa Phùng Kinh tâu rằng: “Phong thái của Tiết Hướng, thiên hạ đều biết, không thể để ông ta làm thị tòng. Hãy đợi khi Tiết Hướng có thành tích rõ rệt, rồi ban thưởng cũng chưa muộn.” Nhưng không được trả lời.
Phùng Kinh lại dâng sớ nói: “Xét chức Đãi chế, là người bên cạnh thiên tử để tham vấn, đi theo hầu hạ trong các cuộc du ngoạn yến tiệc, là người thân cận nhất trong hàng pháp tòng, hàng ngày được nghe lời dạy bảo của thiên tử. Nếu không phải là người tài trí sáng suốt, thông hiểu cổ kim, thì khó mà được chọn. Nhưng những năm gần đây, từ chức Phó sứ Tam ty, đến những người từng có thứ tự như Phó sứ Tam ty, đều được bổ làm Tu soạn ở điện Tập Hiền; khi thiếu người soạn chế cáo, lại bổ mấy người làm Trực Xá nhân viện. Thiên hạ đều cho rằng bệ hạ coi trọng danh khí, để dành cho người tài giỏi, không ngờ nay lại bổ nhiệm như vậy. Như thế thì những gì thiên hạ trông đợi là sự coi trọng danh khí trước đây, nay không còn được coi trọng nữa. Tiết Hướng bị giáng chức bổ nhiệm làm quan ở quận nhưng chưa từng đến nhậm chức, làm Phát vận sứ một năm chưa có thành tích gì nổi bật, nắm quyền lợi của chín lộ, quận ấp nhiều việc nặng nề, dù có hiệu quả tăng thêm lợi nhuận từ việc bán muối, nhưng từ các việc khởi xướng thiết lập chưa thấy có công trạng gì. Nay vội bổ làm Đãi chế, dư luận chưa thỏa đáng.
Thời Hoàng Hựu, Phát vận sứ Hứa Nguyên được khen là làm việc có hiệu quả, nhưng Hứa Nguyên đã hối lộ các quyền thế, dùng trăm mưu kế xảo quyệt, ban đầu chỉ được đồng Tiến sĩ xuất thân, sau lại làm Thị ngự sử, tại chức nhiều năm, cuối cùng mới được bổ chức này. Dư luận trong thiên hạ cho rằng không thỏa đáng. Còn Tiết Hướng làm việc chưa được bao lâu, chưa lập được kỷ cương, lại có nhiều kẻ a dua, quá mức tâng bốc, khiến bệ hạ tin rằng ông ta có công lao, vội ban ân thưởng, thần ngu muội không thấy việc này là hợp lý.
Thần nghe rằng người trong thiên hạ không nghe theo lời nói của bề trên, mà nghe theo việc làm của bề trên. Thần e rằng từ nay các quan chức sẽ không còn để tâm đến đức giáo và chính trị, mà chỉ mong bắt chước, chỉ chú trọng lợi ích, từ một tấc vải, một đấu gạo, một chút lợi nhuận nhỏ, miễn là có lợi cho triều đình, đều sẽ tìm cách thu lấy, để mong được ban thưởng chức quan. Như thế thì dân chúng ngày càng lâm vào cảnh khốn cùng, mà không ai cứu được. Nguồn gốc của việc này rất nhỏ, nhưng tác hại lại rất lớn. Điều thần lo lắng chỉ là vậy mà thôi.”
[38] Tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn cũng tâu: “Việc tuyển chọn bổ nhiệm các chức vụ gần, nếu không phải là dựa vào đức độ, thì là dựa vào công lao. Trước đây ở Giang, Hoài, chưa có chút công lao nào, không thể nói là có công. Một kẻ bề tôi chỉ biết vơ vét, không thể nói là có đức. Thêm nữa, năm ngoái triều đình giao cho Hướng mười việc, hai phép về lụa và gạo, thì việc sắp xếp đã không thích hợp, việc thuê thuyền buôn, thì lợi ích công tư chưa rõ ràng. Còn lại mấy việc, mới sai thuộc lại tính toán, Trần Sai vào Phúc Kiến, Vệ Kỳ đến Lưỡng Chiết, Lưu Thầm đi Giang Tây, Thẩm Thúc Thông đi khắp Hoài Nam, đến Quảng Nam, Kinh Hồ, thần không biết tên họ, đều hẹn tháng bảy đến Tứ Châu bàn bạc lợi hại. Nay trong mười việc, chưa có hiệu quả đến bảy tám phần, mà Hướng đã được thưởng công, nếu Hướng làm xong mười việc đều có hiệu quả, bệ hạ lại lấy chức gì để thưởng nữa? Mong triều đình hạ lệnh cho Trung thư điều lệ ty và Tam ty lấy những việc đã thi hành, công bố trong ngoài, nếu Hướng thực sự có hiệu quả, thì thần xin chịu tội nói sai, nếu không có thành tích gì, thì xin thu hồi sắc cáo, để tỏ rõ sự công bằng.”
[39] Thượng xem tờ tâu của Tạ Cảnh Ôn, nói: “Có thật như vậy không?” Vương An Thạch trình bày rõ phương pháp sắp xếp của Tiết Hướng ở vùng Đông Nam, nhân đó nói: “Dùng Tô Thái, Trương Sô, Vinh Nhân làm Đãi chế, chắc chắn sẽ không có ý kiến khác.” Thượng lại nói: “Phùng Kinh không bị người khác mê hoặc, lúc đó cũng có thể dùng được. Tờ tâu này rất sai lầm, Trẫm đã từng chất vấn từng điều, Kinh liền nhận ra lỗi của mình, lạy tạ rồi đi.” Do đó, tất cả các tờ tâu đều bị bỏ qua. Bản mới có ghi chú khác biệt, nói rằng: “Lẽ nào có chuyện Phùng Kinh và Tạ Cảnh Ôn hai người nói về Tiết Hướng, mà Thượng lại chỉ nói tờ tâu của Phùng Kinh là sai lầm? Đây là do Vương An Thạch trong 《Nhật lục》 đã bỏ sách Chu, theo văn cũ. Nay đều theo sách Chu.” Cảnh Ôn nói rằng Tiết Hướng sắp xếp hai pháp lụa và gạo không hợp lý, cần xem xét lại. Thượng ban chiếu chỉ cho Hướng rằng: “Việc chính sự trước tiên, việc tài chính là cấp bách. Vì vậy, Trẫm giao cho khanh việc thu thuế ở Đông Nam, đều phải nắm rõ tình hình thăng trầm, thu nhập và chi tiêu. Mà khanh trung thành, kiên định, có thể đề xướng và thực hiện công việc, truyền đạt ý Trẫm, đạt được thành tích, Trẫm rất khen ngợi. Trước đây xem tờ tâu, Trẫm còn lo lắng vì lời đồn gây hoang mang, lòng Trẫm không phải đá, đâu dễ lay chuyển. Khanh hãy kiên cường, không mệt mỏi, để xứng với ý Trẫm.” Bản chí ghi chép việc Hướng và Chửng thăng chức vào tháng 9 năm thứ 3, nay theo 《Thực lục》, ghi vào ngày 27 tháng 6. Án: Sử chép rằng Hướng có tài năng xuất chúng, bàn về quân sự thông suốt, rõ ràng và quyết đoán. Thần Tông rất hiểu tài năng của ông, An Thạch từ trong triều ủng hộ, càng giúp ông phát huy tài năng. Theo đó, ông không chỉ nhờ vào việc a dua với An Thạch mà được trọng dụng. Việc sắp xếp lụa và gạo, bản truyện không có ghi chép.
[40] Tư huân viên ngoại lang, quyền Hà Bắc giám mục sứ Thôi Đài Phù được quyền phán Đại Lý tự. Ban đầu, Vương An Thạch định ra pháp án vấn dục cử, Đài Phù nghe thấy, giơ tay lên trán nói: “Mấy trăm năm nay dùng sai hình danh, nay mới được.” Vương An Thạch khen ngợi việc ông theo mình, nên có sự bổ nhiệm này.
[41] Chiếu rằng kho lương ở kinh sư đã đầy, gần đây nghe dân gian giá gạo hơi cao, có thể phát gạo mới cung cấp từ Hoài Nam, lệnh định giá vừa phải, cử quan đi khắp các chợ, đặt trường bán ra, để ổn định giá cả.
[42] Ngày Nhâm Ngọ, Vua phê: Lương Đoan, người mới được cử làm quyền phát khiển đề điểm hình ngục Hà Đông, chức Phương viên ngoại lang, lệnh cho Thẩm quan viện xem xét và bổ nhiệm vào chức vụ phù hợp. Đoan từng đề cử việc thường bình đẳng ở địa phương, bàn rằng tiền thanh miêu không cần thiết lập quan chức và cơ quan, các lộ Xuyên, Thiểm, Nhị Quảng nên bãi bỏ việc cấp phát, nhưng không được phúc đáp. Lại nói rằng bị đề điểm hình ngục Hàn Đạc ngăn cản mà không thể nói rõ việc Đạc ngăn cản mình, bèn dùng việc bàn luận về tân pháp để tự hặc, xin bãi chức, giao việc của ty đề cử cho đề điểm hình ngục. Chuyển vận sứ dâng tấu trạng của Đoan[20], Hàn Giáng nói: “Đoan thực sự công bằng, ngay thẳng, có tài năng, sợ rằng bệ hạ vì việc này mà bỏ qua ông ta, thật đáng tiếc.” Vua nói: “Như Bì Công Bật còn không bỏ.” Vương An Thạch nói: “Đoan ắt có tài năng, huống chi là người do Giáng tiến cử? Nay bàn việc dịch, vốn là ý kiến của Giáng, ắt là ông ta thấy như vậy, không phải vì tà ý. Nhưng nay triều đình cần phải làm như thế, bệ hạ ắt không vì việc này mà suốt đời bỏ qua tài năng có thể dùng của ông ta.” Vì thế có mệnh lệnh này. Đoan, người Chu Chất, từng được Lã Hối tiến cử, nhận chức Suy trực quan ở Ngự sử đài. Nhật ký của Tư Mã Quang chép rằng, Đoan không biết mình đã được bổ nhiệm làm đề hình, vì bàn việc thanh miêu không tiện nên bị bãi chức. Nay chỉ theo thực lục. Hàn Đạc đã được nhắc đến vào tháng 7 năm đầu.
[43] Ghi chép: Lý Tông Lượng, quan phiên chức Hữu ban điện trực ở Hoàn Khánh lộ, con trai là Duy Lập được bổ làm Tam ban phụng chức, sung chức Tuần kiểm ở bản lộ; An Nhi được làm Hạ ban điện thị, ban tên Duy Trung, vì Tông Lượng đã mất.
[44] Ngày Quý Mùi, Trần Tiến, Long đồ các trực học sĩ, được bổ làm Tri châu Thái Châu, nhưng sau đó không đi nhậm chức.
[45] Ty đề điểm hình ngục Thiểm Tây tâu, xin thúc giục Đại Lý Tử xử án công án của Diệp Lân, trưởng hành nghĩa dũng ở Diên Châu. Vua phê: “Hình ngục chậm trễ như vậy, há không tổn thương hòa khí? Gần đây Trung thư hình phòng đã lập sổ sách để kiểm tra, thúc giục, Xu mật viện nên xem xét và lập pháp kiểm điểm theo cách này.”
[46] Ngày Giáp Thân, xuống chiếu cho những người thân thuộc tông thất từ đản miễn trở xuống, trước khi có chiếu được phong chức Phó suất trở lên, sau khi có chiếu phải xin cấp các khoản: khăn bịt đầu, áo mặc khi làm việc, lương thực hàng ngày, tiền đi đưa tang, ngựa cấp cho ngày vào chầu[21], theo lệ cấp cho những người được phong chức Điện trực từ đản miễn.
[47] Xuống chiếu cho Đề hình ty Kinh Đông thu thập số liệu về số hộ bị thiên tai đã được kiểm tra trước đó và việc xử lý sau này của Chuyển vận ty, điều tra thực tế rồi tâu lên. Vì Ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu rằng ở Nam Kinh đã cử quan đi kiểm tra thiệt hại do thiên tai, nhưng Chuyển vận ty lại ép các hộ phải nhận lại mức thuế cũ.
[48] Lại xuống chiếu cho Thẩm quan Tây viện xét duyệt các sứ thần, theo lệ của Thẩm quan Đông viện dẫn vào yết kiến. 《Hội yếu》 chép: không cần tạ ơn.
[49] Ngày Ất Dậu, xuống chiếu cho các Đề điểm hình ngục ty ở các lộ, trình bày rõ các tội nhân bị đặc cách thích chữ và phối đày do các ty Kinh lược, An phủ, Kiềm hạt ở các châu quân xử lý, rồi tâu lên.
[50] Ngày Bính Tuất, giáng chức Bí thư thừa, Tập hiền hiệu lý, Tri gián viện Hồ Tông Dũ làm Thông phán Chân Châu, đồng thời bãi chức ở Quán các. Trước đó, Vua nói với các quan chấp chính: “Hồ Tông Dũ đến mức làm hỏng chính sự của triều đình, lại bàn rằng không nên đặt Tây thẩm quan để chia quyền Xu mật viện, như thế không phải là cách đối đãi tôn trọng đại thần; hơn nữa, lại để đại thần có cơ hội ban ân huệ, gây hại cho chính sự. Lời nói này nhằm lật đổ Trung thư, cho rằng làm suy yếu Xu mật viện. Vì Xu mật viện đã bàn luận như vậy. Lại nói về Trương Nhược Thủy, ý của ông ta là muốn hạ bệ Hàn Giáng mà thôi. Trẫm từng trách mặt rằng việc ở các phương trấn, giám ty có nhiều điều đáng nói, nhưng ông ta chẳng hề làm tai mắt cho Trẫm, chỉ chuyên phá hoại những việc triều đình muốn làm. Tông Dũ rất xấu hổ, nói rằng: ‘Bệ hạ cho phép thần, thần mới dám nói.’ Ngày hôm sau liền nói việc của Lý Phục Khuê.” Tăng Công Lượng nói: “Tông Dũ chỉ là người ngay thẳng thô lỗ, không hiểu việc triều đình mà thôi.” Vua nói: “Tông Dũ có vẻ ngay thẳng, nhưng xét việc rất tinh tường. Những lời nói đều có hàm ý, chuyên nhằm trúng thương người khác, không phải là ngay thẳng.” Công Lượng lại nói: “Việc nhiều lần đuổi các quan đài gián là không đúng.” Vua nói: “Đây không phải là can gián, mà là gièm pha thôi.” Hàn Giáng tâu xin Vua tạm thời bao dung. Vương An Thạch nói: “Đại thần nên lấy việc nước làm trọng, không thể vì hiềm khích cá nhân mà dung túng những kẻ này.” Hàn Giáng nói: “Làm quan gián, lại nhận chỉ dụ của bệ hạ để nói việc, điều này rất không hay.” An Thạch nói: “Thánh chỉ nếu đúng, quan gián thuận theo cũng không sai, không thể lấy đó làm tội của Tông Dũ; chỉ có việc mang ý xấu phá hoại chính sự mới không thể dung thứ.” Vua ra lệnh tra xét lại các chương sớ trước sau để xử lý.
An Thạch xin Vua phê chuẩn nêu rõ tội trạng gian trá của ông ta, do đó Vua phê chuẩn giao cho Trung thư rằng: “Tông Dũ khí thế gian trá, từ khi nhận chức gián quan, chưa từng một lòng giúp ích cho đạo trị nước của triều đình; mỗi khi vào chầu bàn việc, ắt ẩn giấu ý đồ xấu xa, che giấu sự thật, bên cạnh đưa ra những lời lẽ tà thuyết, lấy việc riêng thay việc công, chuyên phá hoại đạo lý chính đáng, trúng thương người lương thiện. Làm những việc như vậy mà lại để ở bên cạnh, há chẳng phải là tự che mắt mình sao? Vì thế phải giáng chức.” Vẫn hạn trong một tháng, lệnh cho hai chế cử mỗi người hai quan viên triều đình, bổ sung vào chức vụ gián quan còn khuyết.
Tông Dũ làm quan gián, gặp việc gì cũng nói, nhưng không chịu nêu tên, lời lẽ phần nhiều kín đáo, nên trong lời phê của Vua có câu “ẩn giấu ý đồ trúng thương”. Có người nói lời phê đó là do Lữ Huệ Khanh viết. Ban đầu định cho làm Tri huyện, Tăng Công Lượng không đồng ý, mới bổ làm Thông phán. “Tông Dũ nói việc không nêu tên”, “Lời phê là do Lữ Huệ Khanh viết”, điều này căn cứ theo nhật ký của Tư Mã Quang. Bốn chữ “khí thế gian trá” vốn ở trên câu “tự che mắt mình”, ngữ khí có vẻ không liền mạch. Bản Nguyên Hựu không có, bản mới giống bản Nguyên Hựu. Chỉ có bản Chu và Ngự tập có đoạn này, nay ghi chép đầy đủ, nhưng chuyển lên trên câu “từ khi nhận chức gián quan”. Nhật ký lại chép: Tông Dũ làm quan gián, nhiều lần nói việc. Lại nói Trương Nhược Thủy từng ở Khánh Châu, Hàn Giáng kết thân với ông ta. Tông Dũ thực ra chưa từng nói xấu Hàn Giáng, những kẻ ghét ông ta cho rằng đó là lời gièm pha mà thôi.
[51] Ngày Đinh Hợi, đặt hai chức Chủ bạ ở Viện Thẩm quan Tây, lấy quan đã thăng triều làm chức này, theo lời thỉnh cầu của Tri viện Hàn Chẩn.
[52] Thiên Chương các Đãi chế Tôn Vĩnh kiêm xem xét việc biên phối tội nhân theo tội nguyên phạm. Tôn Vĩnh vào tháng 4 năm thứ 3 bị giáng chức Đãi chế, làm Tri châu Hòa Châu, không lâu sau được triệu về, giữ chức Đề cử Tường định Biên sắc, kiêm Tri Viện Thẩm quan Đông. Chỉ nên ghi việc ông được triệu về, việc xem xét này không cần ghi lại.
[53] Phán Hình bộ Lưu Cấn tiến cử Quyền Quân sự Phán quan Liễu Châu Tống Ngạc thi về hình danh. Trung thư nói rằng Ngạc từng thi về luật, hối lộ lại nhân, ăn cắp án quyết, muốn không cho phép. Vua phê: “Dù thực sự thông thạo luật, cũng không tránh khỏi việc như vậy. Cho Ngạc thi không sao, nếu không đạt chuẩn, tự nhiên sẽ bị loại.”
[54] Sai Trung sứ, đưa bản đồ đất Nam Tác phường giao cho Tam ty, lệnh tính toán sửa chữa. Ban đầu, Vua thấy các chấp chính ở nhà thuê tản mác xa xôi, khi có văn thư khẩn cấp, lại nhân chạy tứ tán, không thể họp bàn được, nên muốn xây phủ để họ ở. Đến đây, sai Trung nhân đến Bắc Tác phường quy hoạch, và sáp nhập Bắc Tác phường vào phía nam. Sau đó lại đổi Nam, Bắc Tác phường thành Đông, Tây, danh ngạch của Sứ và Phó cũng như vậy. Ngày 26 tháng 9, xây Đông phủ và Tây phủ.
[55] Vua đã cách chức Lý Sư Trung, mười ngày sau, phê dụ giao cho Trung thư, Xu mật viện rằng: “Long Bác, Thác Thạc giết hại lẫn nhau, Vương Thiều, Cao Tuân Dụ đều không biết trước. Nay Hướng Bảo đã dẫn quân đánh phá, Cao Tuân Dụ cũng cùng đi, Vương Thiều lệnh ở Tần châu nghe chỉ dụ, đợi Vương Khắc Thần điều tra xong sẽ bàn riêng.” Việc Vương Khắc Thần điều tra xảy ra vào ngày Đinh Mão mùng 7 tháng này. Vua thấy lạ về việc Vương Thiều tâu báo trong một ngày có hai cách nói, ban đầu nói bộ lạc Thổ Phồn tan rã, sau lại nói Đổng Dụ hỗ trợ một vạn quân, cách nhau chỉ hai mươi dặm, mà lại không xét kỹ như vậy.
Văn Ngạn Bác nhân đó nói Vương Thiều không hiểu biết việc biên cương. Vương An Thạch hết sức giải thích, cho rằng: “Thiều chỉ dựa vào tin tức do người do thám báo cáo. Bộ lạc Thổ Phồn chống cự, thì trong hai mươi dặm tự nhiên không thông tin được, hoặc giả vờ rút lui rồi lại tiến, hoặc đã tan rã rồi lại tập hợp, làm sao biết được? Điều này chưa đủ để trị tội Thiều. Nhưng thần cũng nghi ngờ Thiều có chỗ thiếu sót về trí tuệ. Khi triều đình dùng Thiều làm Đề cử bộ lạc Thổ Phồn, Hướng Bảo, Cao Tuân Dụ vẫn làm Quản câu, Thiều nhận chức mà không từ chối, thần nghi ngờ Thiều có chỗ thiếu sót về trí tuệ, chỉ là việc này thôi.”
Lại nói: “Thiều đơn độc, vừa nhận chức, uy tín chưa đủ để khiến người khác nghe theo, không thể vội trách cứ việc không biết trước hành động của bộ lạc Thổ Phồn. Nếu vội lệnh cho ở Tần châu nghe chỉ dụ, e rằng làm nản chí của Thiều. Sau khi điều tra xong, nếu không có tội, lại lệnh cho làm việc, tâm trạng sẽ càng e dè.” Vua nói: “Cũng lo rằng Thiều vì việc này mà có kẻ thừa cơ gieo rắc hiềm khích, nhưng đang dựa vào Hướng Bảo dùng binh, Thiều ở Cổ Vị, dường như cản trở Hướng Bảo.” An Thạch nói: “Thiều đơn độc, bị Lý Sư Trung ghen ghét, bị các quan quân ghét bỏ, làm sao có thể cản trở Hướng Bảo? Triều đình chỉ lo Vương Thiều bị mọi người bài xích, không thể thực hiện chí hướng của mình, không lo Thiều cản trở việc của Hướng Bảo. Xin thúc giục Thiều phân tích, chưa cần lệnh cho đến Tần châu nghe chỉ dụ.” Vua nghe theo.
Mấy ngày sau, lại trình bản phân tích việc Tần châu của Lý Sư Trung, Sư Trung xin truy cứu việc xin cách chức Hướng Bảo, đặc biệt ban xử phạt. An Thạch trước đó đã đem bản phân tích của Sư Trung tâu lên Vua, nói: “Xu mật viện lúc đầu dùng Vương Thiều làm Đề cử bộ lạc Thổ Phồn, hầu như không có sắp xếp gì, Hướng Bảo tự cho mình là bộ hạ của Vương Thiều, không hòa hợp với Thiều. Đã không hòa hợp, lại lệnh cho Bảo cùng Thiều làm việc chung, Bảo chuyên muốn dùng binh, Thiều chuyên muốn chiêu phủ, tình thế ắt sẽ cản trở lẫn nhau. Vì vậy thần muốn cách chức Hướng Bảo, chỉ dùng Vương Thiều. Thiều muốn chiêu phủ, nên lệnh làm Đề cử bộ lạc Thổ Phồn; Bảo muốn dùng binh, nên lệnh vẫn làm Đô kiềm hạt như cũ. Nếu có thể hòa, thì giao cho Thiều hòa giải; nếu không thể hòa, thì lệnh cho Hướng Bảo đánh nhau. Đây là ý định ban đầu của triều đình khi giao cho Lý Sư Trung làm tướng. Hướng Bảo tuy bị cách chức Đề cử bộ lạc Thổ Phồn, nhưng vẫn mang chức Đái ngự khí giới, tức là triều đình không có gì phụ bạc Hướng Bảo. Bảo tuy không quản lý bộ lạc Thổ Phồn, nhưng vẫn ở Tần châu làm Kiềm hạt, vốn chưa từng đoạt mất người mà Sư Trung dựa vào, sao lại khiến bộ lạc Thổ Phồn gây loạn?
Lại nữa, Sư Trung cho rằng Thiều không biết trước việc Đổng Dụ gây loạn, liền coi đó là tội của Thiều. Thiều với Đổng Dụ không có mối quan hệ thân thiết, lại uy tín của ông ta chưa đủ để khiến người khác nghe theo, thế lực không bằng Sư Trung, Sư Trung đã không biết trước việc Đổng Dụ gây loạn, Vương Thiều làm sao có thể biết trước một mình?” Vua cho là phải. Đến lúc này, Vua nói với Tăng Công Lượng rằng: “Dùng Hướng Bảo là để đánh, dùng Vương Thiều là để hòa, dùng Sư Trung là để kiềm chế hai người này. Triều đình có gì thiệt hại với Hướng Bảo, mà Sư Trung lại nói như vậy?” Công Lượng lại giải thích hộ Sư Trung, Vua nói: “Hãy đợi điều tra xong sẽ bàn riêng.”
(Ngày mùng 7 Bính Dần, mùng 8 Đinh Mão nên tham khảo. Ngày 11 tháng 7 Kỷ Hợi điều tra xong, theo《Nhật lục》, ngày 17, lệnh cho Vương Thiều đến Tần châu nghe chỉ dụ, ngày 25, trình bản phân tích của Lý Sư Trung, nay ghi chép cả vào cuối tháng 6. Nếu không ghi chép việc này, thì không thể thấy Vương An Thạch hết lòng ủng hộ Vương Thiều, sự biện giải giả dối của ông ta là như vậy.)
Tư Mã Quang trong《Lục nguyệt nhật ký》ghi rằng: “Hướng Bảo hòa hai tộc, giết Đổng Dụ hơn hai trăm người.” Vương An Thạch trong《Nhật lục》ghi: “Vua phê vào tờ tấu của Thừa thụ Tần Châu rằng: Kinh lược ty đã sai Hướng Bảo và những người khác đi phá tan, chiêu an không được bộ tộc Phiên.” Đã nói là phá tan xong, thì chắc chắn là bộ tộc Phiên đã bình định. Việc Tư Mã Quang ghi chép về hai tộc hòa, giết Đổng Dụ hơn hai trăm người, có lẽ chính là sự việc này. Lại xét trong《Ngự tập》ngày mồng 8 tháng 6 năm thứ ba, Vua phê vào tờ tấu của Thừa thụ Lưu Hi Thích và những người khác rằng: Đô kiềm hạt Tần Phượng là Hướng Bảo dẫn theo Lộ phân đô giám Cao Tuân Dụ và Trương Thủ Ước cùng quân mã, binh Phiên, trại hộ, cung tiễn thủ dưới quyền các người đi phá tan, giết chết giặc Phiên. Vua phê: “Xem cách xử trí này, ân uy trước sau, thứ tự xuất binh, quả thật rất hợp lý.” Lời phê này của Vua chính là điều Vương An Thạch ghi chép vào ngày 17. Tuy nhiên,《Ngự tập》ghi là ngày mồng 8, còn An Thạch lại ghi là ngày 17, không rõ vì sao. Cũng đều không ghi chép, chỉ nói đã dẫn quân phá tan, cũng có thể thấy bộ tộc Phiên đã bình định.
[56] Tháng đó, bỏ huyện Bình Tấn thuộc phủ Thái Nguyên, đem đất ấy sáp nhập vào các huyện Du Thứ, Thanh Nguyên, Dương Khúc.
[57] Lư Sĩ Tông, Lễ bộ Thị lang đã về hưu, mất. Có thể bỏ.
- Ba nhà Tâm Ba nguyên văn là 'Ba nhà Bối Thực Lặc Tân Bá', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 8-23 sửa lại. ↵
- 'Căn cứ' nguyên văn là 'hiến', theo sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'ô' nguyên bản viết là 'điểu', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 456, truyện Chu Thọ Xương sửa lại. Lại trong truyện Chu Thọ Xương, phía trên có hai chữ 'kí táng', nghi là đúng. ↵
- Đổng Dụ, chữ 'Dụ' nguyên là 'Dục', theo các bản và văn dưới sửa lại. ↵
- Chữ 'trại' trong 'Cổ Vị trại' nguyên bản viết là 'tắc', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 87, 《Địa lý chí》 sửa lại. ↵
- Lý Nhược Ngu nguyên bản là 'Lý Nhược Ngộ', căn cứ theo《Tống sử》quyển 328, truyện Vương Thiều sửa lại. ↵
- Chữ 'khám' nghi là 'kham'. ↵
- Chữ 'tập' nguyên bản thiếu, theo 《Hậu Hán Thư》 quyển 10 hạ, phần Hoàng hậu kỷ bổ sung. ↵
- Nguyên bản thừa chữ 'quốc', theo 《Hán Thư》 quyển 72, 《Vương Cát truyện》 và phần chú thích của Nhan Sư Cổ trong 《Cao Đế kỷ》 mà bỏ. ↵
- Chữ 'Lợi' nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 95, 《Hà cừ chí》 bổ sung. ↵
- Nguyên bản là 'Vận phán', theo sách trên sửa lại. ↵
- Theo sách trên, câu này không có chữ 'Yên', có lẽ thừa; 'Lan Đề' có lẽ là 'Lan Đê'. ↵
- Chữ 'Ngự' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung. ↵
- Long Vệ Đại tướng quân, 《Tống hội yếu》 Đế hệ 4 chi 20 chép là 'Hữu Long Vũ Vệ Đại tướng quân'. ↵
- Bản cung nguyên tác là 'bản quan', căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 224, bảng tông thất thế hệ, 《Đông đô sự lược》 quyển 15, Ngụy Vương Đình Mỹ thế gia và 《Tống hội yếu》 đế hệ 4-19 sửa lại. ↵
- Nguyên Hi, chữ 'Hi' nguyên tác là 'Hi', căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 245, Chiêu Thành Thái tử Nguyên Hi truyện, 《Tống hội yếu》 đế hệ 2-3 sửa lại. ↵
- Bốn đời mặc áo tang vải thưa, 《Lễ Ký·Đại Truyện》 viết là 'Bốn đời thì mặc áo tang vải thưa'. ↵
- Ân lễ không thiên lệch, 《Tống Hội Yếu》 Đế hệ 4 chi 36 viết là 'Ân lễ không dứt'. ↵
- Những người làm quan ngoài, bản các các viết là 'Những người ở ngoài', cùng sách trên viết là 'Ở ngoài họ'. Nghi bản các là đúng. ↵
- Chữ 'cập' trong 'chuyển vận sứ cập tiến trình đoan trạng' nghi ngờ nên đặt ở đầu câu ↵
- Chữ 'phó' trong 'phó triều nhật chi mã' nguyên là 'khởi', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 đế hệ 4-23 mà sửa ↵